Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Thiết Lập Tịnh Độ
Kinh A Di Đà Thiền Giải
Chương 1. Vài Chi Tiết Về Kinh A Di Đà
Kinh A Di Đà là một
kinh Đại thừa, thuộc về nền Phật giáo phát triển. Đạo Bụt giống như một cây đại
thọ và cũng là một thực tại sinh động. Bất kỳ một cái gì đang sống cũng phải lớn
lên. Một cây đang sống thì ngày nào cũng cho thêm cành, lá; cành dài ra thêm,
lá mọc nhiều thêm. Có cành mới, lá mới, hoa mới và trái mới thì cây đạo Bụt mới
là một thực tại linh động, một cái gì đang sống. Vì vậy, mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi
năm, đạo Bụt phải phát triển thêm. Đạo Bụt Đại Thừa là những hoa trái phát triển
từ cội nguồn Phật giáo nguyên thỉ.
Mình không muốn Đạo Bụt
là một cái xác khô nằm trong Bảo tàng viện mà là một thực tại sống động, mỗi
ngày đều có thêm sức sống. Và vì vậy, mình phải chấp nhận rằng cây Phật giáo mỗi
ngày, mỗi tháng, mỗi năm phải có thêm cành mới, lá mới. Đạo Bụt phát triển không
ngừng nhưng vẫn là Đạo Bụt như thường.
Kinh A Di Đà hiện giờ
đang được đọc tụng ở khắp các chùa, dầu là chùa Thiền tông, vì kinh A Di Đà
trình bày một giáo lý rất dễ thực tập. Những người không có căn trí lớn, những
người không đủ Niệm, Định, Tuệ cũng có thể thực tập được kinh A Di Đà. Nói như
vậy, không có nghĩa là những người có căn trí lớn thì không thực tập được. Tại
vì kinh A Di Đà có thể được hiểu rất sâu, cũng có thể được hiểu rất cạn. Người
hiểu sâu cũng có thể thực tập, người hiểu cạn cũng có thể thực tập. Vì vậy
chúng ta cũng phải học kinh A Di Đà bằng một nhận thức hết sức cởi mở, bởi vì
kinh A Di Đà là một giáo pháp có tính cách phổ biến. Người đại căn thực tập
cũng được mà người căn trí nhỏ hẹp thực tập cũng được. Khi người có đại căn niệm
"Nam mô A Di Đà Phật" hay là "Nam mô Bụt A Di Đà" thì sở kiến
và sở đắc rất lớn lao. Khi người có căn trí nhỏ hẹp niệm câu "Nam mô A Di
Đà Phật" thì tuy người ấy cũng có sở kiến và sở đắc nhưng có thể sở kiến
và sở đắc ấy nhỏ bé hơn. Niệm Bụt, ta có thể đạt tới Niệm, Định và Tuệ rất cao.
Ta cũng có thể niệm Bụt mặc dù năng lượng Niệm, Định và Tuệ chưa hùng hậu. Hiệu
quả của câu niệm Bụt có thể lớn hay nhỏ. Đó là do cách hành trì của chúng ta.
Hiệu quả lớn hay nhỏ là do Niệm và Định vững chãi nhiều hay ít.
Vài Chi Tiết - Kinh A Di Đà
Trước khi đi vào kinh
A Di Đà, chúng ta phải biết một vài chi tiết. Thứ nhất, trong Đạo Bụt nguyên thỉ,
phương pháp Niệm Bụt đã là một phương pháp rất quan trọng. Niệm Bụt, niệm Pháp,
niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm Thiên đều là những phương pháp thực tập
có ngay trong thời Bụt tại thế. Phương pháp này được gọi là Tùy niệm, và ngay
trong thời Bụt tại thế đã có nhiều người Phật tử thực tập Niệm Bụt. Đức Thế Tôn
có vững chãi, có thảnh thơi, có từ bi, có hỷ xả, và mỗi khi nhớ tới đức Thế Tôn
thì tự nhiên mình thấy trong người khỏe, có được tính vững chãi, tính thảnh
thơi của đức Thế Tôn.
Cho nên thời bấy giờ
có nhiều người niệm Bụt. Người ta thường chắp tay và đọc: "Namo tassa
bhagavato arahato sammā sambuddhassa" (Kính lạy đức Thế Tôn, bậc ứng cúng,
bậc Chánh biến tri). Bhagavato: Thế Tôn, Arahat: ứng cúng, và Chánh biến tri là
Sammà Sambuddhassa. Và sau đó, người ta tụng mười danh hiệu của đức Thế Tôn:
‘‘Đức Như Lai là bậc ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Bụt, Thế Tôn.
Trong trang 203 của quyển "Thiền Môn Nhật Tụng năm 2.000", quý vị sẽ
thấy có bài "Xưng Tán Tam Bảo", bên trái là tiếng Hán Việt và bên phải
là tiếng Pali.)
Họ đọc mười danh hiệu của đức Như Lai và họ hiểu được mười danh hiệu đó. Mỗi danh hiệu tượng trưng cho một đức tính, một năng lượng của Như Lai. Khi đọc lên các danh hiệu đó thì ta đã thấm được một ít năng lượng và thấy trong người có thêm vững chãi và thảnh thơi.
Tiếng Pali: "Iti
pi so Bhagavā: Araham, Sammā-sambuddho, Vijjā-carana-sampanno, Sugato,
Lokavidu, Anuttaro purisā-dammasārathi, Satthadeva manussānam, Buddho,
Bhagāvati. "Ngày xưa, người ta niệm Bụt như vậy, và niệm Bụt là để có sự vững
chãi, thảnh thơi, an lạc. Người ta còn niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới... Vì thế,
niệm Bụt là một pháp môn chính thống ở trong truyền thống Phật giáo ngay từ ban
đầu. Theo nguyên tắc của pháp môn niệm Bụt thì trước hết hành giả phải nghĩ rằng
Bụt là một thực tại ngoài mình.
Ngài đang cư trú ở tu
viện Kỳ Viên hay trên núi Thứu. Khi niệm Bụt như vậy, tự nhiên mình tiếp xúc được
với sự thảnh thơi và vững chãi, với chất liệu Từ, Bi, Hỷ và Xả trong con người
của mình. Khi ta bắt đầu thực tập Niệm Bụt, thì Bụt là một thực tại ở ngoài,
nhưng từ từ Bụt trở thành một thực tại vừa ở trong, vừa ở ngoài. Tại vì trong
tâm thức của ta cũng có những hạt giống của vững chãi và thảnh thơi, của Từ,
Bi, Hỷ, Xả, của ứng cúng, của Chánh biến tri, của Minh hạnh túc... như Bụt. Khi
ta niệm Bụt như vậy, ta tiếp xúc được vừa với thực tại của Bụt ở ngoài và vừa với
thực tại của Bụt ở trong tâm. Nếu ta giỏi thì ta nhận thức ra rất sớm rằng Bụt
luôn luôn có mặt trong tâm ta. Nhờ đó nên khi Đức Thế Tôn qua đời, ta không còn
than khóc nữa. Ta biết rằng Bụt luôn luôn ở trong ta. Ngài không bao giờ mất.
Nguyên tắc chỉ đơn giản như vậy thôi.
Đối với người vừa mới
thực tập niệm Bụt thì Bụt là một thực tại ở ngoài. Nếu người ấy thực tập cho
sâu sắc thì Bụt trở nên một thực tại ở trong tâm. Và vì vậy, dù Bụt ở Tịnh Độ
hay Bụt ở ngoài Tịnh Độ thì Ngài vẫn có mặt trong tâm ta và trong tâm của ta vẫn
thường có Tịnh Độ. Các thầy sau này đã nói rằng Bụt A Di Đà có mặt trong tâm
mình và Tịnh Độ cũng có mặt ngay ở trong tâm mình. Đó gọi là "Duy tâm Tịnh
Độ". Ý niệm - Tịnh Độ là một thực tại ở ngoài, nằm về phương Tây - đó chẳng
qua chỉ là ý niệm ban đầu. Nếu thực tập giỏi thì ta sẽ thấy sâu hơn rằng Bụt A
Di Đà và cõi Tịnh Độ không phải chỉ nằm ở phương Tây mà còn nằm ở trong tâm
mình và ở cả mọi phương. Như vậy, cả người thực tập giỏi lẫn người thực tập
chưa giỏi đều đạt tới kết quả, nhưng đối với người tu tập giỏi thì kết quả rất
lớn, còn người tu tập chưa giỏi thì kết quả chỉ vừa vừa.
Xem Tiếp Chương 2 –
Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá