Chương 7. Không hôm qua, không ngày mai, không hôm nay

Chương 7. Không hôm qua, không ngày mai, không hôm nay

Price:

Read more

Dhammapada - Con đường của Phật (Tập 12)
Chương 7. Không hôm qua, không ngày mai, không hôm nay

Người đó bình thản.
Trong người đó hạt mầm của cuộc sống lắp lại đã bị tiêu đi.
Người đó đã chinh phục mọi thế giới bên trong.
Với con mắt thản nhiên
Người đó thấy mọi nơi
Cái rơi xuống và cái vươn lên.
Và với vui vẻ lớn lao
Người đó biết rằng mình đã kết thúc.
Người đó đã thức dậy từ giấc ngủ của mình.
Và con đường người đó đã lấy bị giấu kín với mọi người,
ngay cả với các linh và các thần,
bởi đức hạnh của sự thuần khiết của người đó.
Trong người đó không có hôm qua, không ngày mai, không hôm nay.
Thầy bình thản, nhưng có khác biệt. Nhiều người bình thản, nhưng họ không phải là thầy. Bình thản có thể được trau dồi rất dễ dàng từ bên ngoài; nó sẽ lừa người khác, nhưng nó không thể lừa được sự tồn tại. Sâu bên trông bạn sẽ vẫn còn trong rối loạn.
Do đó, điều đầu tiên cần được hiểu là ở chỗ Phật chưa bao giờ thiên về bất kì cái gì được trau dồi. Những nhà thuyết giảng đạo đức, các nhà đạo đức, liên tục nói với mọi người, "Là cái này đi, là cái nọ đi. Cố bình thản vào, thực hành bình thản đi." Và trong hàng nghìn năm những điều này đã từng được nói cho bạn; những phẩm chất này đã từng được ca ngợi, đánh giá cao, tôn thờ. Một cách tự nhiên bạn cố gắng bình thản và yên tĩnh và tự chủ, nhưng khi bạn thực hành cái gì đó, nó đơn giản nghĩa là bạn đang tạo ra mẽ ngoài, bạn chỉ tạo ra khuôn mặt. Nó không thể biến đổi bản thể bạn được - nó là luyện tập. Vâng, nó sẽ giúp bạn danh giá hơn, được kính trọng hơn; mọi người sẽ nhìn lên bạn như người linh thiêng. Nhưng thực tế bạn đã trở nên tâm thần phân liệt, bạn đã trở thành nhân cách chia chẻ, bạn bị phân chia. Bề mặt của bạn nói điều này, thực tại bên trong của bạn là cái đối lập toàn bộ. Bạn sẽ sống trong cuộc nội chiến liên tục, bạn sẽ liên tục giận dữ bản thân mình.
Đó là địa ngục để là thánh nhân theo cách này. Tội nhân có thể xuống địa ngục sau khi họ chết; cái gọi là thánh nhân của bạn sống trong địa ngục ở đây và bây giờ. Không có gì chắc chắn về địa ngục tương lai, nhưng địa ngục của thánh nhân chính là thực tại.
Đừng bao giờ cố trau dồi bất kì phẩm chất nào.
Thế thì cái gì phải được làm? Người ta có phải vẫn còn bạo hành, rối loạn, không lành mạnh không? Không, Phật nói có cách khác, cách đúng. Cách đúng là ở chỗ những điều này phải tới như hệ quả - hệ quả của nhận biết bên trong. Phép thần của nhận biết là ở chỗ bạn càng trở nên tỉnh táo, một cách tự nhiên, bình thản càng bao quanh bạn. Bạn không cần trau dồi nó, nó theo bạn như cái bóng, nó đơn giản là rung động của bạn. Bạn được bao quanh bởi hào quang tinh tế của an bình, thanh thản. Khi bạn nhận biết bên trong, có duyên dáng toả ra từ bản thể bạn. Duyên dáng đó là tự phát, không được trau dồi. Và khi cái gì đó tự phát nó có cái đẹp vô cùng. Nó không phải là hoa nhân tạo, nó không phải là hoa nhựa; nó là cái gì đó đã phát triển trong bạn, cái gì đó đã nở hoa trong bạn. Nó là việc nở hoa riêng của bạn. Nó có hương thơm bởi vì nó có gốc rễ trong bản thể bạn.
Chừng nào bình thản còn chưa tới như cái bóng của nhận biết, cẩn thận với nó. Nó là giả, nó hoàn toàn vô tích sự. Toàn thể nỗ lực mà bạn đã đưa vào trong trau dồi nó đã là phí hoài vô cùng. Cùng nỗ lực đó có thể đã được đưa vào trở thành nhận biết.
Đó là khác biệt giữa đạo đức và tôn giáo. Đạo đức là hiện tượng xã hội; xã hội cần nó bởi vì xã hội bao gồm hàng triệu người. Nó phải giữ trật tự nào đó, kỉ luật nào đó; bằng không sẽ có hỗn độn. Đạo đức giữ cho trật tự đó. Đạo đức tạo ra lương tâm trong bạn. Lương tâm vận hành như cảnh sát bên trong, người không cho phép bạn làm gì chống lại luật pháp và hay chống lại đạo lí hay chống lại truyền thống. Xã hội đã ghi dấu vào tim bạn những ý tưởng nào đó và bây giờ bạn bị những ý tưởng đó chi phối. Nếu như bạn đi ngược lại những ý tưởng đó họ sẽ hành hạ bạn, họ sẽ trở thành ác mộng cho bạn. Nếu bạn theo họ bạn sẽ cảm thấy bạn không bị hành hạ nhiều thế.
Cho nên người phi đạo đức thấy bản thân mình trong hai khó khăn. Một khó khăn tới từ bên ngoài bởi vì người đó bắt đầu mất sự kính trọng của mọi người; và trong thế giới này kính trọng là điều có giá trị nhất trong con mắt của mọi người bởi vì nó là chất nuôi dưỡng cho bản ngã. Khoảnh khắc bạn đánh mất kính trọng, bản ngã của bạn bắt đầu chết, bản ngã của bạn bị tổn thương, bản ngã của bạn bị thương. Thứ hai, cái gì đó bên trong bạn bắt đầu tạo ra sự hành hạ bên trong cho bạn - lương tâm bạn. Lương tâm đó cũng được cùng xã hội tạo ra.
Do đó, xã hội gây sức ép lên bạn từ cả hai phía, bên ngoài và bên trong. Bạn bị nghiền giữa hai tảng đá. Cho nên kẻ hèn nhát không thể là người phi đạo đức được; kẻ hèn nhát bao giờ cũng là người đạo đức. Thực tế họ không đạo đức nhưng chỉ hèn nhát; bởi vì họ hèn nhát họ không thể nào phi đạo đức được - điều đó là quá nguy hiểm, quá mạo hiểm. Và người đạo đức, cái gọi là người đạo đức, sống cuộc sống hời hợt. Họ nhất định sống cuộc sống hời hợt bởi vì lương tâm của họ không phải là của riêng họ - cái gì khác có thể là của riêng họ được? Họ không sở hữu ngay cả lương tâm riêng của mình, còn cái gì khác họ có thể sở hữu được? Họ là người nghèo nhất trên thế giới.
Và họ không phải là người đạo đức bởi vì họ hiểu cái đẹp của việc là đạo đức; họ là đạo đức đơn giản bởi vì họ không có đủ bạo dạn để phi đạo đức. Họ theo mệnh lệnh của xã hội và lương tâm chỉ từ sợ hãi. Có sợ hãi về luật pháp và có sợ địa ngục; có sợ cảnh sát và có sợ Thượng đế. Họ thường xuyên run rẩy, cuộc sống của họ không là gì ngoài run rẩy thường xuyên. Lời cầu nguyện của họ nảy sinh từ run rẩy đó - một cách tự nhiên những lời cầu nguyện đó đều giả; chúng hướng theo sợ. Ngay cả khái niệm của họ về Thượng đế cũng không là gì ngoài phóng chiếu của nỗi sợ của họ.
Đó là lí do tại sao những người này đều được gọi đúng là những người sợ Thượng đế. Họ không phải là người yêu Thượng đế. Và nhớ lấy, người sợ Thượng đế không bao giờ có thể yêu Thượng đế được, và người yêu Thượng đế cần không bao giờ sợ. Sợ và yêu không thể cùng tồn tại với nhau, điều đó là không thể được. Việc cùng tồn tại của chúng là không thể được theo bản chất của mọi sự.
Nhưng xã hội trả đủ cho bạn để có đạo đức, cho bạn nhiều bản ngã như nó có thể cho - không chỉ ở đây mà ở cả thế giới sau nữa. Cũng có chỗ, những chỗ đặc biệt được dành riêng cho bạn trên cõi trời. Tội nhân chịu khổ ở đây và tội nhân sẽ chịu khổ ở địa ngục nữa, và cái gọi là thánh nhân được kính trọng ở đây và ông ta sẽ được kính trọng ở thế giới khác nữa.
Đây là chiến lược, chiến lược tâm lí rất tinh vi của xã hội - để khai thác bạn. Nhưng bởi vì chiến lược này bạn đã hoàn toàn đánh mất dấu vết của đạo đức thực: đạo đức không bị sợ hãi ra lệnh, đạo đức không nảy sinh từ tính hèn nhát, đạo đức không hướng theo sợ hãi.
Một tầm nhìn hoàn toàn khác đã được cho bởi chư phật, bởi những người đã thức tỉnh của mọi thời đại. Tầm nhìn của họ là ở chỗ đạo đức thực không tới từ lương tâm mà tới từ tâm thức. Trở nên ý thức hơn, thoát ra nhiều năng lượng ý thức hơn trong bản thể bạn, bùng nổ trong tâm thức! - và thế thì bạn sẽ thấy bạn đang sống cuộc sống trong hoà điệu tuyệt đối với sự tồn tại. Đôi khi nó có thể trong hài hoà với xã hội và đôi khi nó có thể không trong hài hoà với xã hội, bởi vì bản thân xã hội không phải bao giờ cũng hài hoà với sự tồn tại. Bất kì khi nào xã hội trong hài hoà với sự tồn tại bạn sẽ trong hài hoà với xã hội; bất kì khi nào xã hội không hài hoà với sự tồn tại bạn sẽ không hài hoà với xã hội.
Nhưng người đạo đức thực chưa bao giờ chăm nom, người đó thậm chí còn sẵn sàng mạo hiểm cuộc sống của mình. Socrates đã làm điều đó, Jesus đã làm điều đó. Phật thường xuyên sống trong nguy hiểm. Điều này bao giờ cũng là hoàn cảnh, bởi lẽ đơn giản là họ đã sống theo ánh sáng riêng của mình. Nếu nó khớp với xã hội, tốt; nếu nó không khớp với xã hội, nó là xấu cho xã hội nhưng điều đó không liên quan gì tới bạn. Xã hội phải thay đổi bản thân xã hội. Socrates không định thay đổi bản thân mình, Jesus không định thay đổi bản thân mình theo xã hội, Phật không sống theo đám đông. Đám đông bao gồm những người mù, những người hoàn toàn vô ý thức, người ngủ say, người không biết gì về bản thân mình. Theo họ là điều ngu xuẩn nhất trên thế giới mà con người có thể làm. Người ta nên đủ thông minh để đánh thức tâm thức riêng của mình.
Tôn giáo bao gồm không phải lương tâm mà tâm thức. Do đó, ngay cả kẻ vô thần cũng có thể tin vào đạo đức. Tất nhiên, ở nước Nga Xô viết hay Trung Quốc cộng sản họ phải theo luật đạo đức nào đó. Họ có thể không tin vào Thượng đế, nhưng họ phải ép buộc đạo đức lên mọi người. Thực tế, họ phải ép buộc nó thậm chí còn nhiều hơn bởi vì nỗi sợ Thượng đế bị mất rồi. Bây giờ quốc gia phải thực sự rất nguy hiểm, bởi vì đó là nỗi sợ duy nhất giữ cho mọi người bị giới hạn trong biên giới của đạo đức.
Không phải ngẫu nhiên mà chính phủ Nga và chính phủ Trung Quốc không cho phép bất kì tự do nào; họ không thể cho phép được điều đó. Các nước tư bản có thể cho phép một chút ít tự do bởi vì Thượng đế có đó để giúp đỡ. Bạn cho phép chút ít tự do, Thượng đế sẽ không cho phép tự do đó - điều đó bù lại. Nhưng trong một nước cộng sản không có Thượng đế cho nên không có đấng tối cao, điều tối thượng, và không có cuộc sống khác cho nên không có sợ địa ngục.
Các nước cộng sản phải tạo ra địa ngục ở đây, ngay bây giờ, cho nên họ tạo ra các trại tập trung; họ dùng Siberia là cái thay thế cho địa ngục. Và họ đã tạo ra đủ mọi loại tra tấn rất phức tạp, mọi loại hành hạ vô nhân đạo. Ngay cả bản thân quỉ cũng có thể học được nhiều từ họ! Bây giờ ở Nga nếu bạn không đồng ý với xã hội bạn lập tức bị tuyên bố là một ca tâm thần - không phải bạn có ý kiến khác biệt gì về chính trị, không, điều đó là không thể được. Không thể có bất kì khả năng nào của ai đó khác biệt về chính trị với chính sách của chính phủ, với các nguyên tắc của nhà cầm quyền, với các ý thức hệ đã được thừa nhận. Chỉ người không lành mạnh mới có thể nghĩ rằng mình là khác. Làm sao bạn có thể chống lại Marx, Engels và Lenin? Không thể được! Ba ngôi không linh thiêng này cai trị tuyệt đối. Chính phủ Nga là chuyên chính; nó phải thế bởi vì nó phải vận hành theo cách mà nỗi sợ Thượng đế phải bị thay thế bằng cái gì đó; bằng không mọi người sẽ trở thành không thể quản lí được.
Các nước cộng sản nhất định trở thành chuyên chính. Họ không thể dân chủ được, điều đó là không thể được, bởi vì ai sẽ làm việc ở giữa để cho mọi người sợ và run rẩy? Chừng nào họ còn chưa chấp nhận Thượng đế và địa ngục... Thượng đế và địa ngục là rất có ích bởi vì họ làm gần hết mọi việc rồi. Với người tôn giáo - cái gọi là người tôn giáo - nỗi sợ đó là đủ để kìm người đó lại, và phần còn lại có thể được chính phủ thực hiện, nhưng đó là phần ít hơn, không nhiều hơn hai mươi hay hai mươi nhăm phần trăm. Bẩy mươi nhăm phần trăm của sợ hãi tới từ bịa đặt tâm lí của lương tâm. Trong một nước cộng sản không có vấn đề lương tâm, và tất nhiên vấn đề tâm thức không nảy sinh chút nào bởi vì không có những thứ như thiền được chấp nhận.
Vài người ở nước Nga Xô viết đã trở nên quan tâm tới cách tư duy của tôi. Họ đã bắt đầu thiền, nhưng họ phải thiền ẩn kín trong tầng hầm nhà họ. Họ không thể nói cho ai đó khác rằng họ đang thiền bởi vì thiền nghĩa là bạn đã đi không lành mạnh! "Không cần thiền chút nào. Tại sao người ta phải thiền? Không có linh hồn để kinh nghiệm, không có Thượng đế để kinh nghiệm. Con người không là gì ngoài sản phẩm phụ của vật chất. Khi cái chết tới từ mọi đầu, không cái gì còn lại bên ngoài cái chết, không cái gì tồn tại mãi." Cho nên tâm thức không thể được phép bởi vì thiền không được phép: thiền là khoa học của việc toả ra tâm thức. Và lương tâm không thể được tạo ra bởi vì cách thức cũ của việc tạo ra sợ hãi không còn được chấp nhận nữa. Toàn thể công việc phải được chính phủ thực hiện. Tất nhiên chính phủ trở nên xấu, chính phủ trở thành con quỉ.
Nhưng cùng điều đó đang xảy ra ở các nước khác nữa - theo cách tinh vi hơn. Nước cộng sản là thô; các nước tư bản, cái gọi là các nước dân chủ, không thô đến thế, họ tinh vi, nhưng họ làm cùng điều cả. Họ giữ cho bạn khô héo theo đám đông, nhưng theo cách gián tiếp mà cần thông minh lớn để trở nên nhận biết về sự kiện là bạn bị xiềng. Những xiềng xích đó là vô hình.
Tôn giáo thực sự bao gồm trong việc tạo ra một loại đạo đức khác, không phải là cái gọi là đạo đức thường, mà là đạo đức chính là tự phát, đạo đức nảy sinh bởi tự nó và không bị áp đặt, đạo đức là hậu quả của thông minh riêng của bạn.
Phật đang nói về điều đó khi ông ấy nói: Thầy là bình thản. Ông ấy ngụ ý rằng thầy đã đi sâu vào trong trung tâm của mình, thầy đã thấm vào bản thể mình tới chính cốt lõi, và thầy đã lắng đọng ở đó; bây giờ thầy nghỉ ngơi. Tất cả xô đẩy và hối hả đã rơi rụng, mọi chạy vạy đây đó đã biến mất. Bây giờ thầy biết không có đâu mà đi. Thầy đã về tới nhà, thầy đã tìm ra chỗ trú ngụ tối thượng, nơi cư trú tối thượng. Bây giờ thầy biết, "Đây là điện thờ của ta." Ngồi trong điện thờ đó thầy tuyệt đối bình thản. Bạn không thể thấy được nơi thầy hiện hữu, nhưng bạn có thể cảm thấy bình thản của thầy. Bạn có thể cảm thấy thầy như làn gió mát, bạn có thể cảm thấy thầy như cơn mưa rào của im lặng. Nếu bạn tới gần thầy, đột nhiên bạn sẽ được chạm bởi cái gì đó vô hình. Trái tim bạn sẽ bắt đầu nhảy múa. Không phải là thầy đã làm cái gì cho bạn, nhưng tâm trí bạn có thể lừa dối bạn, tâm trí bạn có thể bắt đầu hợp lí hoá.
Mới hôm nọ tôi đã đọc một bản thảo. Một người đàn bà đã tới từ vài tháng trước, một người bạn của Pankaja và Savita. Cô ấy tới đây chỉ để xem điều gì đã xảy ra cho Pankaja và Savita. Pankaja là tiểu thuyết gia nổi tiếng và đã xuất bản những cuốn tiểu thuyết hay. Bỗng nhiên cô ấy trở thành sannyasin và bỏ nghề nghiệp hay của mình. Đã có những khả năng lớn: cô ấy có thể đã trở nên nổi tiếng thế giới. Cô ấy đang trên đường này - cô ấy đã trở nên càng ngày càng được biết tới hơn. Cô ấy không chỉ đã trở thành sannyasin, cô ấy chưa bao giờ quay về Anh nữa. Mà không chỉ điều đó - tin đồn phải đã về tới Anh rằng bây giờ cô ấy làm việc trong đạo tràng như người dọn vệ sinh. Bạn trai của cô ấy phải đã phân vân - điều gì đã xảy ra cho cô ấy?
Thế rồi Savita cũng biến mất. Cô ất cũng làm tốt nghề của mình. Cô ấy là nhà trị liệu, kiếm được nhiều tiền và đi lên trước. Và cô ấy cũng chưa bao giờ trở về Anh.
Bạn của họ tới đây chỉ để xem điều gì đã xảy ra cho những người này - "Họ phải đã bị thôi miên." Còn cái gì khác mà tâm trí có thể nghĩ được? Giải thích đơn giản tới cho tâm trí: "Những người này đã bị thôi miên." Bằng không tại sao người ta phải bỏ nghề nghiệp phát đạt của mình, kế sinh nhai tốt - một nghề với đầy khả năng? Sao người ta bỗng nhiên bỏ đi? Hoặc người ta đã điên rồ hoặc người ta đã trở nên bị thôi miên.
Cô ấy đã tới đây chỉ để quan sát điều đang xảy ra. Thế rồi cô ấy cũng trở thành sannyasin. Nhưng cô ấy lập tức trốn ngay - tôi đã cho cô ấy cái tên Kanan. Cô ấy đã trốn đi. Bây giờ cô ấy viết cuốn sách về toàn thể kinh nghiệm này và cô ấy nói, "Tôi không biết điều gì đã xảy ra, tại sao tôi trở thành sannyasin. Có cái gì đó kéo bạn. Có cái gì đó không thể sờ thấy được - người ta không thể hình dung ra được nó, nó đích xác là gì - nhưng cái gì đó giống như thôi miên." Cô ấy suy diễn, "Có thể trong mắt của người này hay trong âm thanh tiếng nói của người này mà người ta cảm thấy trở thành sannyasin. Ngay cả tôi đã trở thành một sannyasin, nhưng thế rồi tôi trở nên sợ lắm: bây giờ tôi bị kéo bằng cùng cách vào xoáy lốc da cam này mà trong đó Pankaja đã biến mất, Savita đã biến mất. Tốt hơn cả là ra đi trước khi tôi bị vào trong nó quá nhiều và việc trốn thoát trở thành không thể được. Tôi đã trốn đi. Tôi vứt bỏ tính chất sannyas ngay lập tức bởi vì tôi sợ - đeo vòng mala của người này và bức ảnh người này quanh cổ tôi là nguy hiểm. Ai biết cái gì ẩn giấu trong nó?"
Bây giờ, người đàn bà này nghĩ cô ấy rất láu cá, cô ấy nghĩ cô ấy rất hợp lí, cô ấy nghĩ cô ấy đã làm điều đúng. Mọi điều cô ấy đã làm là cô ấy đã bỏ lỡ một cơ hội chỉ thỉnh thoảng mới tới; có thể trong nhiều kiếp cô ấy sẽ không bắt gặp một người như vậy nữa đâu.
Không có thôi miên. Không ai cố kéo bạn cả, không ai cố ảnh hưởng lên bạn. Nhưng chắc chắn có hương thơm ảnh hưởng tới bạn, điều ảnh hưởng sâu sắc tới bạn. Có bình thản đi vào trong tim và khuấy động trái tim ngủ say trong một loại thức tỉnh nào đó. Nhưng nếu bạn quá nhiều trong mơ của mình, và bạn đã đầu tư quá nhiều ngay cả vào ác mộng của mình, bạn có thể trở nên sợ - bạn có thể trở nên sợ việc được thức tỉnh. Bạn có thể bỏ lỡ cơ hội này, bạn có thể trốn khỏi cơ hội này. Nhưng thế rồi bạn cố hợp lí hoá. Bạn phải hợp lí hoá, bằng không làm sao bạn sẽ an ủi bản thân mình được?
Bây giờ, bằng việc viết cuốn sách này cô ấy đang cố thuyết phục bản thân mình rằng cô ấy đã làm điều đúng. Cô ấy đã làm điều ngu xuẩn nhất trong đời cô ấy.
Và cơ hội này vẫn không bị mất đâu, Kanan. Bất kì chỗ nào bạn ở trong thế giới này, mắt tôi đều đạt tới chỗ đó nữa. Và bất kì điều gì tôi đang nói ở đây, âm thanh của tiếng nói của tôi cứ vang vọng quanh trái đất này. Nếu bạn cho dù có chút ít thông minh thôi bạn sẽ bị kéo lại vào trong cơn lốc da cam này!
Người đó bình thản.
Trong người đó hạt mầm của cuộc sống lắp lại
đã bị tiêu đi.
Người đó đã chinh phục mọi thế giới bên trong.
Điều gì đã xảy ra trong thầy? Điều gì đã thực sự xảy ra trong thế giới bên trong của thầy? Phật nói: Điều đầu tiên, điều nền tảng nhất là ở chỗ hạt mầm của cuộc sống lắp lại đã bị thiêu cháy, hoàn toàn cháy, bị tiêu đi trong ngọn lửa của nhận biết. Vâng, nhận biết là lửa. Nó thiêu cháy tất cả những cái là rác rưởi, nhưng nó cũng tinh luyện tất cả những cái là vàng. Nó làm hai điều: thiêu cháy rác rưởi và tinh luyện vàng. Nó là giả kim thuật.
"Hạt mầm của cuộc sống lắp lại" là ham muốn. Phật thường gọi nó là tanha. Tanha nghĩa là người ta muốn được sinh ra lặp đi lặp lại, người ta muốn nữa và nữa, nhưng cái nữa đó không bao giờ được hoàn thành. Khi bạn chết, mọi ham muốn đều đứng đó không được hoàn thành cho nên bạn bắt đầu ham muốn cuộc sống khác, một cơ hội nữa.
Có một câu chuyện hay, một chuyện ngụ ngôn lớn trong Upanishad:
Một trong những vị vua lớn, Yayati, sắp chết. Ông ấy đã một trăm tuổi, đủ chín để chết - người ta phải sẵn sàng trước lúc đó - nhưng lại không đủ trưởng thành; hạt mầm của cuộc sống lặp lại còn chưa bị thiêu cháy. Cho nên khi cái chết tới, Yayati cảm thấy gót chân của Thần Chết - một vị vua lớn, một kẻ chinh phục lớn! - và ông ta nói với Thần Chết, "Xin miễn cho tôi một trăm năm nữa đi. Tôi không đòi hỏi nhiều, chỉ một trăm năm nữa thôi. Và điều đó chẳng là gì cho ngài cả, ngài có thể làm điều đó. Mọi ham muốn của tôi vẫn không được hoàn thành bởi vì tôi chưa bao giờ nghĩ về ngài. Tôi đơn giản chuẩn bị và chuẩn bị. Tôi đã không tận hưởng cuộc sống của mình. Bây giờ mọi thứ đều sẵn sàng - tôi đã chinh phục toàn thế giới, tôi có mọi giầu có, những người đàn bà đẹp nhất, những đứa con thông minh và dũng cảm nhất, quân đội mạnh nhất thế giới, mọi thứ đều được giải quyết, mọi kẻ thù đều bị giết - tôi mới nghĩ tới thảnh thơi và tận hưởng. Đây là lúc tới rồi sao? Cả một trăm năm này đã được dùng đơn giản trong chuẩn bị cho những khoảnh khắc này. Xin miễn cho tôi thêm một trăm năm nữa để cho tôi có thể sống tới sự hài lòng của trái tim tôi."
Thần Chết cười và nói, "Ta sẵn sàng miễn cho ông thêm một trăm năm nữa, nhưng ta sẽ phải đem đi một trong những đứa con của ông bởi vì ta phải đi với ai đó giống ông; nếu không phải ông, ít nhất một trong các con ông. Ta không thể đi với bàn tay trắng được, ta phải trao báo cáo cho đích thân ông chủ. Ông ấy sẽ hỏi, 'Yayati đâu rồi?' Ta sẽ nói gì đây? Một điều như vậy chưa bao giờ được thực hiện trước đây, nhưng ta cảm thấy tiếc cho ông. Hãy hỏi một trong các con ông đi."
Yayati có một trăm con trai; ông ấy phải đã có một trăm vợ nữa. Ông ấy hỏi các con mình. Con cả đã tám mươi, nhưng ông ta bắt đầu nhìn xuống, không sẵn sàng nói có. Sao ông ấy lại phải thay? Ông ấy mới chỉ sống tám mươi năm; nếu bố ông ấy còn chưa hài lòng với một trăm năm, làm sao ông ấy có thể hài lòng với chỉ tám mươi năm? Ít nhất phải thêm hai mươi năm nữa ông ấy được quyền sống chứ. Vào thời đó, câu chuyện này nói, mọi người thường sống tới một trăm tuổi. Tại sao ông ấy phải chết cái chết chưa chín muồi, cái chết chưa đúng lúc? Và ông già này đã sống đủ rồi! Ông ấy không muốn làm tổn thương tới ông già cho nên ông ấy không nói gì cả, ông ấy giữ im lặng.
Người cha rất bị choáng; ông ta thường nghĩ rằng con mình đã sẵn sàng hi sinh bản thân mình. Nhưng trong thế giới này không ai sẵn sàng hi sinh bản thân mình cho bất kì ai khác. Ông ta nhìn quanh. Các con ông ta cũng bắt đầu nhìn nhau, ngụ ý "Sao anh không làm đi?"
Người em út, mới hai mươi tuổi, đứng lên và anh ta nó, "Tôi sẵn sàng. Đưa tôi đi cùng ông đi, tôi đi với ông."
Ngay cả Thần Chết cũng thấy tiếc cho cậu thanh niên. Thần Chết tới gần anh thanh niên và nói, "Anh có ngu hay cái gì không đấy? Các anh khác của anh - người tám mươi, người bẩy mươi, sáu mươi, sáu nhăm, năm mươi - những người này đều không sẵn sàng đi còn anh là người trẻ nhất, anh còn chưa sống chút nào. Sao anh sẵn sàng đi?"
Anh thanh niên nói, "Nếu bố tôi không thể sống trong một trăm năm, nếu anh cả tôi không thể sống trong tám mươi năm, nếu các anh khác của tôi... không ai có khả năng sống, thế thì toàn thể dự án này là vô nghĩa. Tôi không muốn phí thời gian. Nếu tôi phải chết tốt hơn cả là chết bây giờ. Sao phải đợi tới tám mươi năm? Nếu những người này đã không có khả năng xoay xở, điều tuyệt đối chắc chắn nó là không thể xoay xở được. Và để cho bố tôi thử thêm một trăm năm nữa xem sao."
Thần Chết cố thuyết phục anh ta, nhưng anh ta không nghe. Thần Chết phải đem anh ta đi.
Sau một trăm năm, Thần Chết quay lại và tình huống vẫn như thế. Yayati lại sụp xuống dưới chân Thần Chết và bắt đầu khóc và ông ấy nó, "Tôi biết rằng bây giờ tôi phải sẵn sàng, nhưng chẳng cái gì được hoàn thành cả; mọi ham muốn vẫn như vậy. Tôi đã sống tất cả các ham muốn này, tôi không thể nói rằng tôi đã không sống chúng, nhưng chẳng cái gì được hoàn thành. Tôi muốn nữa! Bởi vì tôi đã sống một trăm năm một ham muốn mới đã nảy sinh – Tôi muốn nữa! Tôi muốn sống ít nhất một lần nữa, một trăm năm nữa, chỉ một lần nữa thôi."
Và điều này cứ xảy ra lặp đi lặp lại. Khi Yayati trở nên một nghìn tuổi và Thần Chết tới, ông ta lạo sụp xuống dưới chân Thần Chết. Thần Chết nói, "Đợi đã - thế là đủ rồi! Ông không thể thấy ra vấn đề sao, Yayati? Ông sao mù thế? Ông đã sống một nghìn năm, và ông đã làm cùng những điều lặp đi lặp lại. Ông đã không làm điều gì mới trong cả nghìn năm này, và dầu vậy ông vẫn muốn nữa sao? Ông không thể thấy vấn đề đơn giản là tâm trí sống trong cái nữa, nó cứ đòi hỏi nữa đó sao? Không có tận cùng cho nó. Bây giờ ông đi cùng ta đi - ta sẽ không nghe thêm nữa đâu. Bây giờ ngay cả ông chủ của ta cũng cảm thấy bực mình với ta. Ông ấy nói, 'Điều này là quá thể! Con người này đã được cho quá nhiều thời gian.' Nhưng ta cũng muốn thử - chúng ta xem ông có thể làm ra cái gì từ một nghìn năm. Ông đã không làm tiến bộ nào cả, ông đích xác ở cùng chỗ, đi trong vòng tròn."
Phật gọi điều này là tanha - đi trong vòng tròn - ham muốn thường xuyên này về cái nữa. Người ta trở thành thầy khi ham muốn này về nữa biến mất, khi hạt mầm bị cháy thiêu trong lửa của nhận biết. Người đó bình thản. Thế thì tất nhiên người đó bình thản.
Khi không có ham muốn, khi gió của ham muốn không còn thổi nữa, không có sóng trong đại dương bên trong, thế thì đại dương trở nên tuyệt đối bình thản. Thực tế, đại dương không phải là nguyên nhân của sóng - nguyên nhân là sóng vô hình. Bạn thấy sóng trong đại dương cho nên bạn nghĩ sóng do đại dương gây ra; chúng không phải vậy. Sóng được gây ra bởi gió vô hình trên đại dương thổi qua đại dương. Nếu gió dừng đại dương sẽ tuyệt đối bình thản.
Sao bạn trong rối loạn? Sao thường xuyên có nhiều sóng thế bên trong bạn, nhiều ý nghĩ thế và nhiều kí ức, tưởng tượng thế? Tại sao toàn thể trò xiếc này cứ tiếp diễn? Bởi lẽ đơn giản là có gió vô hình của ham muốn thổi trên bạn.
Người có tính quan sát, người thông minh, trở nên nhận biết về nguyên nhân gốc rễ: đó là gió, gió của ham muốn. Người đó dừng ham muốn. Thấy cái vô tích sự của ham muốn người đó bỏ việc ham muốn. Hạt mầm bị thiêu cháy và thế thì có bình thản. Bình thản này không phải là bình thản của cái gọi là người lịch sự, có văn hoá. Bình thản này là khác toàn bộ, phẩm chất của nó khác, cội nguồn của nó khác - nó tới từ cốt lõi bên trong nhất. Phật bình thản bởi vì gió không thổi thêm nữa. Và chúng không thể thổi được bởi vì chính hạt mầm đã bị thiêu cháy. Người đó đã chinh phục mọi thế giới bên trong. Có các thế giới chồng lên thế giới bên trong bạn nữa, cũng như bên ngoài có các thế giới chồng lên thế giới. Các nhà khoa học cứ phát hiện ra các hệ mặt trời mới, sao mới, các thiên hà mới, các ngân hà mới. Họ cứ phát hiện ra, dường nhưng không có tận cùng. Dường như có các vũ trụ và vũ trụ không chấm dứt. Sự việc cũng như vậy trong thế giới bên trong: cũng có nhiều bình diện và nhiều vũ trụ, nhưng tất cả đều được bắt rễ trong một hạt mầm.
Từ một hạt mầm cái cây lớn có thể mọc lên. Bạn có thể không thấy được nó trong hạt mầm, nhưng nếu bạn để nó vào đất chẳng mấy chốc cây bắt đầu mọc ra. Hạt mầm nhỏ đem tới cái cây lớn thế với tán lá dầy thế mà cả nghìn người có thể ngồi dưới nó, hàng nghìn chim chóc có thể làm tổ trong nó. Và hàng triệu hạt mầm sẽ mọc ra trong cây này và từng hạt mầm lại chứa hàng triệu cây, và cứ như thế mãi. Các nhà khoa học nói chỉ một hạt mầm cũng có thể làm cho toàn thể trái đất xanh tươi; không chỉ trái đất này mà mọi trái đất trong vũ trụ có thể được làm thành xanh tươi bởi một hạt mầm. Tiềm năng làm sao!
Các bạn tất cả đều đang mang những hạt mầm đông cứng bên trong mình, chỉ đợi tới đúng cơ hội của chúng. Có thể bạn đã quên mất hoàn toàn về ham muốn nào đó bởi vì đã không có cơ hội để khêu gợi nó. Đó là lí do tại sao các sư và ni và các sannyasin truyền thống thường trốn khỏi thế giới, đơn giản để tự lừa dối mình - bởi vì khi họ đi lên các hang động trong núi non họ đã đi xa khỏi các cơ hội nơi họ sẽ trở nên nhận biết về hạt mầm này, nơi hạt mầm đã có cơ hội phát triển.
Nhưng nhớ lấy, hạt mầm có đó dù bạn cho nó cơ hội để trưởng thành hay không, và hạt mầm có thể vẫn còn đó trong nhiều năm; trong nhiều kiếp nó sẽ đợi. Cho nó cơ hội, cơ hội ngẫu nhiên, và lập tức hạt mầm trở nên sống động. Hạt mầm có thể vẫn còn đông cứng, gần chết trong hàng triệu kiếp.
Đó là lí do tại sao tôi tuyệt đối chống lại khuynh hướng thoát li thực tế - bởi lí do đơn giản là nếu bạn muốn đốt cháy hạt mầm, chỗ tốt nhất là trong thế giới này là ở bãi chợ, bởi vì ở đó có mọi loại cơ hội. Bạn không thể tránh việc nhìn hạt mầm và thấy nó nghĩa là bạn phải làm cái gì đó về nó. Nếu bạn dừng nhìn nó, nếu bạn đặt hạt mầm lên đá, bạn sẽ quên hạt mầm này bởi vì nó không thể mọc được trên đá.
Đó là lí do tại sao các sư và ni thường vào các tu viện, nữ tu viện; đó là những nơi đầy đá. Và họ đã chọn ở núi non. Bạn có quan sát điều đó không? - rằng mọi tu viện của thế giới đều được làm ra ở vùng núi đá, không phải núi đẹp, nơi có những cây lớn và con vật và chim chóc - bởi vì có nguy hiểm: ngay cả hai con chim làm tình cũng đủ là cơ hội cho bạn ý tưởng! Chỉ hai con vật đang vuốt ve nhau, và sư và ni sẽ có ham muốn lớn nảy sinh trong họ. Bỗng nhiên hạt mầm sẽ bắt đầu mọc ra. Cho nên họ chọn chỗ đá cứng, toàn đá nơi không cây nào mọc được. Hay các tu viện được xây ở đâu đó trong sa mạc. Mọi tu viện Ki tô giáo đều được làm nơi sa mạc. Người Ki tô giáo cổ đại sống trong sa mạc, bởi lẽ đơn giản là, trong sa mạc, cuộc sống thiếu vắng, hoàn toàn thiếu vắng tới mức bạn có thể quên hết về nó.
Sư Jaina chọn núi non, nhưng núi xấu, toàn đá và không gì khác, bởi vì bất kì cái gì đẹp cũng có thể tạo ra rắc rối. Tiếng hót xa xa của con chim cúc cu có thể đưa bạn tới cúc cu! - bởi vì nó có dục tính của riêng nó, nó có thú nhục dục của riêng nó, đó là lời gọi nhục dục. Bạn có biết không? - đó là con chim cúc cu đực đang gọi đấy; con cái đơn giản chờ đợi. Nó đơn giản chờ đợi con đực tới gần hơn. Vâng, nó cho hướng dẫn rằng "Em sẵn có đây," và vậy mà nó vẫn giữ bản thân nó rất xa cách, rất tự hào - sẵn có, nhưng không dễ sẵn có thế đâu!
Bạn có thấy trong con vật một hiện tượng lạ không? - rằng bao giờ cũng là con đực lấy thế chủ động. Con công với bộ lông đẹp là con đực; người ta đáng phải nghĩ ngược lại, nhưng đó là con đực chứ không phải con cái. Con cái không có lông; con cái bình thường, trông không đẹp. Con đực trông rất đẹp và con đực nhảy múa để trưng bày tất cả bộ lông của nó - chúng thực sự là bộ lông đẹp - và nó nhảy múa điệu vũ lớn lao. Nó cố quyến rũ.
Cái gì đó kì lạ đã xảy ra chỉ trong con người; điều đó dường như không tự nhiên. Thực tế, đồ trang sức nên được đàn ông dùng, không phải đàn bà. Đàn ông nên dùng quần áo nhiều mầu sắc hơn đàn bà. Không có nhu cầu cho đàn bà về bất kì cái gì khác, chỉ là phụ nữ là đủ! Đó là toàn thể câu chuyện của tự nhiên nếu bạn nhìn quanh: mọi chiến lược đều được con đực dùng.
Các sư và ni phải được bảo vệ, nhưng loại bảo vệ này sẽ không giúp ích gì cả. Cho dù hạt mầm có thể vẫn còn được bảo lệ trong nhiều kiếp nó vẫn có đó, nó không bị thiêu cháy.
Một bà phục vụ già thường tới ngồi trong công viên hết ngày nọ tới ngày kia trong nhiều năm. Khi bà ấy cho chim bồ câu ăn, chúng bao giờ cũng đậu và vẫy cánh quanh bức tượng đồng Apollo trẻ trung, mắt bà ấy lượn lờ quanh hình dạng trần trụi của anh ta và bà ấy sẽ nhớ tới việc ôm lấy anh ta sống động trong vòng tay mình.
Một hôm khi bà ấy ngồi đó, một nàng tiên tốt bụng thấy thương hại bà ấy.
Xuất hiện bên cạnh bà ấy, nàng tiên cho bà ấy ba điều ước. Không chậm trễ bà hầu già bắt đầu, "Thứ nhất tôi muốn trẻ và rất khêu gợi."
Ngay khi được nói xong điều này được thực hiện.
"Thứ hai, tôi ước rằng bức tượng Apollo sẽ đi vào cuộc sống."
Một cú vẫy đũa thần của nàng tiên và lập tức anh ta nhảy xuống từ bệ, sống động mạnh mẽ. Cô hầu mới đầy khêu gợi đâm ra ấp a ấp úng và bắt đầu đỏ mặt. Xao xuyên trong hàng mi một cách bẽn lẽn cô ấy thì thầm, "Tôi muốn trao lời ước thứ ba cho Apollo."
Quay sang anh thanh niên trần trụi, nàng tiên nói, "Điều ước của anh là gì?"
"Tôi muốn ỉa lên con chim bồ câu," anh ta trả lời.
Bây giờ bức tượng đá hoa đã mang hạt mầm này trong hàng trăm năm rồi. Những con chim bồ câu đó vẫn tiếp tục làm điều này cho anh ta. Chờ đợi, chờ đợi, chờ đợi... một ngày nào đó thời điểm tới - tất cả những điều anh ta muốn làm là điều này.
Phật nói: Người đó bình thản. Trong người đó hạt mầm của cuộc sống lắp lại đã bị tiêu đi. Người đó đã chinh phục mọi thế giới bên trong.
Có ba thế giới, và trong ba thế giới đó có nhiều thế giới trong thế giới. Thứ nhất là thế giới của thân thể, điều bí ẩn của thân thể. Thứ hai là thế giới của tâm trí, điều bí ẩn của tâm trí. Và thứ ba là thế giới của trái tim, điều bí ẩn của trái tim. Và từng thế giới đều chứa nhiều thế giới. Bởi vì từ ba tầng này đã nảy sinh ba yogas, ba khoa học. Một là hatha yoga. Hatha yoga nghĩa là đi vào trong bí ẩn của thân thể. Và thân thể có nhiều bí ẩn; nếu bạn đi vào trong các bí ẩn của thân thể chúng là không kết thúc. Bạn có thể cứ đi mãi mãi, nó là vô hạn trong bản thân nó.
Nhưng đó không phải là cách tới tự do và đó không phải là cách tới niết bàn: bạn bị mắc trong cái lưới mới. Bạn không còn quan tâm tới tiền và bạn không còn quan tâm tới việc là tổng thống, bạn không còn quan tâm tới tên tuổi hay danh vọng thế gian, nhưng bây giờ toàn thể mối quan tâm của bạn là làm sao trở thành siêu nhân, cách đạt tới quyền năng mà thân thể bạn chứa. Trong hàng nghìn năm nhiều nhà yoga thế đã từng phí thời gian vào điều đó.
Phật không quan tâm tới kiểu truy tìm đó chút nào. Ông ấy muốn bạn đi xuyên qua nó. Ông ấy muốn bạn nhớ rằng, nếu bạn đi vào trong các bí ẩn của thân thể, bạn có thể có khả năng bước trên nước, bạn có thể có khả năng bước trong lửa, nhưng bước trên nước hay trong lửa phỏng có ích gì? Nó đơn giản là ngu xuẩn! Cho dù bạn có thể bước trong lửa, vậy thì sao? Thu được cái gì? Bạn có thể bay trong không trung như chim, vậy thì sao? Chim đã làm điều đó rồi - chẳng có gì đặc biệt.
Ba nhà yoga đang ăn trưa trên xà nhà tầng mười bẩy của một ngôi nhà chọc trời mới. Họ đang làm việc trên thân thể mình, liên tục nói về nó, khám phá những bí ẩn mới.
"Úi chao," người thứ hai nói, người mới làm việc này. "Tôi thấy tại sao các anh thích ăn bữa trưa ở đây rồi. Cảnh thành phố thật đẹp!"
"Vâng, cảnh thật hay," người thứ nhất nói. "Nhưng anh có muốn biết tại sao chúng ta thực sự thích ăn trưa ở đây không?"
"Có chứ," nhà yoga mới nói.
"Thế này," người thứ nhất giải thích, "có luồng khí bốc lên không thể nào tin nổi ở tầng thứ tư, và khi chúng ta kết thúc bữa trưa chúng ta muốn nhảy ra và cưỡi lên luồng khí đó. Nó đưa anh trở lại chính chỗ anh đã nhảy ra."
"Chuyện nhảm nhí!" người thứ hai nói. "Tôi không tin anh."
"Không tin à?" người thứ nhất nói, để ấm cà phê của mình xuống. "Thế thì tôi sẽ chỉ cho anh xem."
Ông ta nhảy ra. Ông ta đi xuống dưới, và chắc chắn, ngay ở tầng bốn - hoan hô! Ông ta quay lại và hạ xuống thanh dầm tầng mười bẩy ở đích xác chỗ ông ta đã nhảy ra.
"Úi giời!" người thứ hai nói trong quá đỗi ngạc nhiên. "Điều đó đánh bại việc bay lượn bằng diều hay bất kì cái gì! Để tôi làm điều đó tiếp!"
Ông ta đứng lên và nhẩy. Ông ta nhẩy xuống dưới - rồi tầng bốn, tầng ba, tầng hai... bẹt! Trên cả vỉa hè! Xong đời!
Quay trở lại tầng mười bẩy, người thứ ba, người đã im lặng từ nãy tới giờ, quay sang người thứ nhất và nói, "Ông biết đấy, Siêu nhân, đôi khi ông là chim thực!"
Phỏng có ích gì tất cả những điều đó?
Phật không quan tâm tới yoga của thân thể, ông ấy cũng không quan tâm tới yoga của tâm trí - mantra yoga và các phương pháp khác có tác dụng lên tâm trí và tạo ra những quyền năng tinh thần, siddhis. Vâng, bạn có thể làm phép màu... bạn có thể đọc ý nghĩ của người khác, nhưng ý nghĩ của riêng người ta là không đủ sao? Bạn có thể tiên đoán tương lai của người khác, nhưng cái gì có đó để tiên đoán? Nó sẽ gần như cùng điều trong quá khứ.
Mới hôm nọ một sannyasin đã hỏi... anh ta đã tới một nhà chiêm tinh Hindu nào đó, rất nổi tiếng. Và nhà chiêm tinh nói với anh ta, sau khi cân nhắc sâu xa, nghiền ngẫm, suy tư về sơ đồ và thiền về tương lai của anh ta, rằng trong thời nay anh ta không thể trở nên chứng ngộ được. Bây giờ, đến mức này thì bất kì kẻ ngu nào cũng có thể nói được về bạn, vì người đi tới nhà chiêm tinh để hỏi về tương lai của mình thì nhất định vẫn còn không thông minh thôi! Đó là đủ bằng chứng. Và nhà chiêm tinh ngu xuẩn kia biết gì về chứng ngộ? Ông ta có chứng ngộ không? Bạn đáng phải hỏi ông ấy, "Về ông thì sao? Ông có chứng ngộ không, và dầu vậy vẫn làm chiêm tinh à?"
Bởi vì những kẻ ngu này tôi phải hẹn Kabir ở đây! Sao phải đi sang chỗ khác? Ai đó ngay ở chỗ này đang có sẵn ở đây. Kabir làm ra những sơ đồ đẹp, rất mầu sắc! Anh ấy đang làm việc tốt. Kẻ ngu cần... làm cái gì? Và nếu họ định đi đâu đó, tốt hơn cả là kết thúc họ ở đây.
Chỉ kẻ ngu mới quan tâm tới tương lai. Người thông minh chỉ quan tâm tới hiện tại. Và chứng ngộ không thể tiên đoán được, chứng ngộ là tuyệt đối không thể tiên đoán được. Nó là hiện tượng bí ẩn tới mức không có khả năng nào để tiên đoán nó.
Nhưng bây giờ ý tưởng này đã được đưa vào đầu anh ta. Bây giờ anh ta sẽ cảm thấy thoải mái: "Lần này nó sẽ không xảy ra, cho nên sao phải bận tâm?" Cho nên người này sẽ chấm dứt thiền, người này thậm chí còn bỏ cả tính chất sannyas. Phỏng có ích gì khi bạn không định trở nên chứng ngộ trong kiếp này? "Vậy chúng ta sẽ xem kiếp tiếp khi nào thời điểm tới, chúng ta sẽ lại thiền và trở nên chứng ngộ."
Nhưng tôi nói với bạn một điều: kiếp sau bạn sẽ lại tới nhà chiêm tinh thôi - tôi có thể tiên đoán được điều đó ngay bây giờ! Và lần trước bạn cũng đã làm điều này rồi! Bạn có thực sự quan tâm tới việc trở nên chứng ngộ hay không? Tại sao cứ tìm cớ? Và mọi người có thể tìm ra bất kì loại cớ nào - mọi người đều là những nhà hợp lí hoá lớn lao. Bây giờ bạn có lí do để không thiền - bởi vì quanh lần này điều đó sẽ không xảy ra, cho nên sao phí thời gian? Nhưng thế thì làm sao nó sẽ xảy ra được? Và tại sao bạn phải tới nhà chiêm tinh ngay chỗ đầu tiên? Ngay cả sao cũng không chứng ngộ! Ít nhất một điều là tuyệt đối chắc chắn: rằng chứng ngộ không được xác định bởi bất kì nguyên nhân nào, nó là hiện tượng bất thần. Cái chết của bạn có thể là dự đoán được, ốm bệnh của bạn có thể dự đoán được, ngu xuẩn của bạn có thể dự đoán được, nhưng không dự đoán được chứng ngộ. Bạn thấy không? (Vào lúc này đèn video đột nhiên bật lên...!) làm sao điều đó xảy ra? - chẳng có lí do nào hết cả!
Ai đó hỏi Picasso, "Ông dường như quan tâm nhiều thế tới nghiên cứu nghệ thuật trong khoả thân. Sao vậy?"
"Thế này," Picasso nói, "Tôi đoán nó là vì tôi được sinh ra theo cách đó."
Người ta bao giờ cũng có thể tìm ra lí do nào đó.
Julie: "Và nếu em từ chối anh, Edward, anh sẽ tự giết anh chứ?"
Edward: "Đó đã từng là tục lệ thông thường của anh."
Thế giới thứ ba là của bí ẩn của trái tim, bhakti yoga. Thứ nhất là hatha yoga, thứ hai là mantra yoga, thứ ba là bhakti yoga. Phật nói: Cứ cắt ngang qua chúng; đừng đi đường bên, bằng không bạn sẽ đánh mất thế giới bên trong. Do đó Phật không quan tâm tới yoga, không quan tâm tới mantra, không quan tâm tới bhakti, sự sùng kính, lời cầu nguyện - không cái gì. Mối quan tâm đơn giản của ông ấy, mối quan tâm một điểm, là nhận biết.
Và tôi tuyệt đối đồng ý với ông ấy bởi vì đó là khả năng duy nhất cho bạn gạt bỏ tất cả những cái vô nghĩa này mà bạn đã từng sống trong hàng triệu kiếp. Và bạn sẽ cứ lặp lại nó, bởi vì chỉ bằng việc sống qua nó lặp đi lặp lại bạn không trở nên thông minh. Bạn thay đổi một chút ít, nhưng tính ngu xuẩn cơ bản vẫn còn như cũ.
Một bức điện tín gửi tới trại quân đội nói rằng bố của binh nhì Smith mới chết. Viên trung sĩ được viên đại tá nói hãy truyền tin này cho binh nhì Smith một cách từ tốn. Với sự giám sát của đại tá, viên trung sĩ đi tới binh nhì và nói, "Smith, bố anh chết rồi."
Viên đại tá gọi viên trung sĩ lên và nói, "Nếu điều đó lại xảy ra ông phải từ tốn hơn - truyền đạt tin đó một cách thoải mái hơn!"
Hai tuần sau một bức điện tín khác tới nói rằng mẹ binh nhì Smith đã chết.
Viên trung sĩ cho trung đội sắp hàng và nói, "Bất kì ai có mẹ bước lên hai bước... Đừng nhanh thế, binh nhì Smith!"
Bây giờ, chỉ chiến lược đã thay đổi, nhưng nó vẫn thế! Và đó là điều đã từng xảy ra trong đời bạn, kiếp nọ tới kiếp kia. Tất nhiên bạn thay đổi chút ít trong chi tiết, nhưng cái ngu nền tảng vẫn còn dai dẳng.
Với con mắt thản nhiên
Người đó thấy mọi nơi
Cái rơi xuống và cái vươn lên.
Người đã trở nên nhận biết, người đó thấy mọi nơi chỉ một điều: rằng mọi thứ được sinh ra và chết đi, mọi thứ bắt đầu và kết thúc, rằng mọi thứ đều là một luồng. Không cái gì đáng níu bám lấy, không cái gì đáng giữ, không cái gì đáng sở hữu, bởi vì nó nhất định biến mất chẳng chóng thì chầy. Do đó người đó vẫn còn không sở hữu. Người đó đi qua thế giới một cách xa cách, bình thản, bình tĩnh, nhìn mọi nơi cái rơi xuống và cái vươn lên. Người đó biết mọi sự tới và đi; người đó quan sát. Khi cái gì đó nảy sinh người đó quan sát và biết hoàn toàn rõ nó sẽ đi. Khổ tới - người đó không lo nghĩ bởi vì người đó biết nó sẽ đi. Sướng tới - người đó không bị kích động bởi vì người đó biết nó tới, nó sẽ đi.
Với con mắt thản nhiên... Nhận biết cho người đó một loại mắt mới, một tầm nhìn mới - thản nhiên. Người đó đơn giản nhìn không có ham muốn nào; đó là một tầm nhìn hoàn toàn khác. Khi bạn nhìn không có ham muốn nào, thế giới xuất hiện hoàn toàn khác; khi bạn nhìn có ham muốn bạn bị giới hạn trong ham muốn của mình và bạn tô mầu mọi thứ tương ứng với ham muốn của bạn.
"Anh nghĩ gì thế, John?" "Cùng điều như em, Jane."
"Ồ, nếu anh nghĩ thế, em sẽ la lên!"
Thậm chí không một lời nào bạn có thể nghe mà không bị tô mầu bởi các quá trình ý nghĩ bên trong của bạn.
Một nông dân thuyết phục một trong những người chăn bò của mình mua hai vé xổ số mà cuộc mở số sẽ được tổ chức vào đêm đó trong buổi liên hoan khiêu vũ. Ngày hôm sau người chăn bò hỏi người nông dân ai đã trúng sổ cuộc mở số.
"Ồ, tôi trúng giải nhất," người nông dân nói. "Tôi không may mắn sao?"
"Thế ai trúng giải nhì, thưa bác?" người chăn bò hỏi.
"Vợ tôi được giải đó. Bà ấy không may mắn sao?" "A, bà ấy quả là may mắn. Thế giải ba thì sao?" "Ồ, con gái tôi được giải đó. Nó không may mắn sao? Nhân tiện, ông chưa trả tôi hai cái vé của ông phải không?"
"Không," người chăn bò đáp. "Tôi không may mắn sao?"
Mọi người đều nhìn bằng thế giới ham muốn riêng của mình, những mong đợi, đam mê, thèm khát, tham lam, giận dữ. Có cả nghìn lẻ một thứ đứng giữa bạn và thế giới của bạn; đó là lí do tại sao bạn chẳng bao giờ thấy nó như nó vậy.
Một khi mắt bạn hoàn toàn sạch sẽ, sạch tất cả bụi, một khi nó trở thành tấm gương thuần khiết, nó phản xạ cái đang đó. Và đó là chân lí và chân lí giải thoát, nhưng nó phải là của riêng bạn. Chân lí của tôi không thể giải thoát được bạn, chân lí của Phật không thể giải thoát được bạn. Chỉ có một khả năng của giải thoát, đó là chân lí của riêng bạn. Và tất cả mọi điều bạn phải làm là tạo ra con mắt thản nhiên.
Và với vui vẻ lớn lao
Người đó biết rằng mình đã kết thúc.
Người đó đã thức dậy từ giấc ngủ của mình.
Thầy vui mừng là thầy được kết thúc với mọi cái vô nghĩa, với mọi cái ngu xuẩn, với mọi trò chơi của cuộc sống. Người đó vui mừng là người đó được kết thúc, người đó ở ngoài nó, người đó đã siêu việt lên. Người đó đã thức dậy từ giấc ngủ của mình.
Willie D. rời Harlem đi thăm bạn bè ở Mobile. Đêm thứ hai của anh ta ở đó anh ta gặp Laura Mae, một quí bà đẹp mà anh ta chẳng mấy chốc rủ vào trong rừng. Khi họ chuẩn bị làm tình, Willie cởi quần ra và treo chúng gọn gàng trên cây.
"Anh phải là từ miền Bắc," Laura Mae nói.
"Đúng đấy, nhỏ," Willie nói, "nhưng làm sao em có thể biết được?"
"Con trai miền Nam không treo quần áo vì khi chúng ta chấm dứt chúng ta đã đi ba dặm khỏi đây!"
Và những trò chơi này có đấy... và quần của bạn ở đâu và bạn ở đâu? Các xa ba dặm! Giác quan của bạn ở đâu? Thông minh của bạn ở đâu? Bạn phải treo nó lên đâu đó và bạn phải hoàn toàn quên mất chỗ rồi.
Cô y tá đưa một quí ông đứng bên giường người của đàn bà vào khu bên cạnh nhà hộ sinh và hỏi, "Anh có muốn xem đứa bé không?"
Quí ông gật đầu. "Trông hệt như anh!" cô ấy tán tụng khi họ cuối cùng đi ra khỏi phòng trẻ sơ sinh.
Lúc sau cô y tá nói với người đàn bà về niềm vui sướng của anh chồng cô ấy khi thấy đứa bé. Người đàn bà kinh tởm. "Chồng nào? Chồng tôi đang làm nghĩa vụ ở thành phố kế bên và còn chưa tới thăm đứa bé! Người đó ở đây để thu tiền lắp tủ lạnh quá hạn của tôi!"
Mọi người đều ngủ. Điều đang xảy ra cho họ là gần như ngẫu nhiên. Tại sao bạn đã rơi vào tình yêu với ai đó là điều ngẫu nhiên. Việc sinh của bạn là ngẫu nhiên, chết của bạn sẽ là ngẫu nhiên.
Phật nói: Thầy nhìn vào mọi thứ rơi xuống và vươn lên, vươn lên và rơi xuống. Tất cả đều ngẫu nhiên. Chỉ có một điều không ngẫu nhiên, điều là cố hữu, và đó là nhận biết của ông về tất cả nó. Nhận biết đó làm cho ông tỉnh thức.
Một đôi làm ra một kế hoạch hoàn hảo để dùng thời gian của họ. Hàng tuần vào một đêm anh ta đi chơi với tụi con trai, sáu đêm kia cô ấy quản lí.
Đây là tin ngắn từ Detroit: Họ đã tới được bằng một xe nhanh có phanh nhanh tương đương - bạn có thể dừng lại ngay trong phạm vi chiều dài của xe từ tốc độ một trăm dặm một giờ. Nó được trang bị bằng một thiết bị tự động chùi sạch phần còn lại của bạn khỏi kính chắn gió.
Altie và Bertha Lớn đứng trước điện thờ. Bertha Lớn nặng hai trăm pounds, chú rể của cô ta chỉ có một trăm.
"Anh có lấy người đàn bà này làm vợ kết hôn chính thức theo luật pháp không?" mục sư hỏi.
"À không lấy gì đâu'," Altie đáp. "À chỉ bị lấy thôi!"
Quan sát cuộc đời bạn, điều đang xảy ra.
Sau buổi lễ chán ngắt, dài dòng, mục sư hỏi Sandy, "Thế nào, con thấy bài giảng của ta thế nào, Sandy?"
Sandy đáp, "Ồ, chút ít như không gian bên ngoài, thưa mục sư."
"Con ngụ ý gì, 'chút ít như không gian bên ngoài'?"
"Thế này," Sandy nói, "nhiều thứ về nó những không nhiều trong nó!"
Và đó đích xác cuộc sống của bạn là gì đấy: đầy nó, nhưng chẳng có gì nhiều bên trong nó. Chỉ toàn ngẫu nhiên và không gì khác. Bạn còn chưa biết tới cái bản chất. Đó là điều Phật gọi là giấc ngủ.
Thầy đã làm việc từ giấc ngủ của mình. Thầy đã đi tới thấy cái vĩnh hằng trong mình. Thầy đã đi tới thấy tâm thức riêng của mình, thầy đã trở nên nhận biết về nhận biết riêng của mình. Và đó là chân lí tối thượng, thức tỉnh tối thượng.
Và cách thức người đó đã lấy bị giấu kín với mọi người,
ngay cả với các linh và các thần,
bởi đức hạnh của sự thuần khiết của người đó.
Và cách thức người đó đã lấy là vô hình. Nó không phải là cách thức của nhịn ăn; mọi người có thể thấy rằng bạn nhịn ăn, chết đói, giết thân thể bạn. Đó không phải là cách thức của hành hạ thân thể bạn, đó không phải là vặn xoắn thân thể bạn qua cái gọi là các tư thế yoga. Cách thức của phật là tinh tế thế; không ai có thể thấy được nó ngoại trừ bản thân bạn - chừng nào bạn còn chưa bắt gặp vị phật khác. Chỉ vị phật khác mới có thể thấy được nó bởi vì nó đơn giản là con đường của tính quan sát. Làm sao bất kì ai có thể thấy được nó? Nó không có nghi lễ.
Tôn giáo của Phật là cực kì hay - không nghi lễ, không cái gọi là cử hành tôn giáo thông thường - đơn giản, bạn vẫn còn tính quan sát. Nhưng điều đó là cái gì đó ở bên trong bạn, không ai khác bao giờ có thể phát hiện được ra điều bạn đang làm. Bạn có thể lái xe hơi, bạn có thể ngồi trong văn phòng của mình và bạn có thể làm nó. Nó thậm chí không phải là thở sâu - điều người khác có thể cảm thấy, rằng bạn đang làm việc thở sâu nào đó. Nó đơn giản là Vipassana, nó đơn giản là quan sát, quan sát mọi thứ - bên ngoài, bên trong.
Phật đã cho cách thức thuần khiết nhất và đơn giản nhất và tinh tế nhất - nhưng nền tảng nhất. Ông ấy đã cho chìa khoá vàng, chìa khoá chủ có thể mở được mọi bí ẩn của cuộc sống và sự tồn tại.
Trong người đó không có hôm qua, không ngày mai, không hôm nay.
Thời gian đã biến mất, bởi vì khi bạn trở thành nhận biết tuyệt đối thì không thời gian nào còn lại. Không chỉ hôm qua biến mất... chúng biến mất trước tiên. Theo thứ tự đó chúng biến mất.
Trong người đó không có hôm qua... Đầu tiên hôm qua biến mất; bạn trở nên ngày một không quan tâm tới quá khứ. Điều gì đã qua rồi là qua rồi, chỉ kẻ ngu mới chăm nom tới nó. Và có những kẻ ngu cứ lo lắng thế về quá khứ của họ - họ thậm chí còn viết thư cho tôi...
Một người từ Thuỵ Sĩ đã viết một bức thư mới hôm nọ nói rằng, "Nhìn ảnh của thầy và đọc vài cuốn sách của thầy tôi đã nhận ra thầy, rằng chúng ta đã gặp nhau trong các kiếp sống quá khứ của mình. Tôi nhận ra thầy tuyệt đối, Tôi đang gửi bức ảnh của tôi - thầy có nhận ra tôi không? Nếu thầy nhận ra tôi, thế thì tôi sẽ tới."
Tôi đã bảo Laxmi, "Thông báo với anh chàng này rằng tôi không nhận ra ai từ kiếp sống quá khứ. Quá khứ chấm dứt rồi! Bạn đã không đọc sách của tôi và bạn còn chưa gặp tôi đâu. Và tại sao bạn phải quan tâm về việc được nhận ra - rằng tôi đã gặp bạn trong quá khứ? Nó sẽ hoàn thành mục đích gì?" Sự đáp ứng bản ngã nào đó có dính vào đây: "Thế thì tôi sẽ tới " - nếu tôi nhận ra anh ta, rằng tôi đã gặp anh ta trong quá khứ.
Bây giờ, kiểu người ngu này bị bắt bởi những người như Muktananda. Họ sẽ lập tức nói, "Vâng, chúng ta đã từng cùng nhau trong quá khứ. Ông đã từng là đệ tử của tôi trong quá khứ nữa và ông đã làm việc hay thế và ông đã trưởng thành cao thế. Chỉ chút ít còn lại mà có thể được làm bây giờ, cho nên được điểm đạo vào siddha yoga đi."
Quá khứ không tồn tại ở đâu cả. Nhiều người viết thư cho tôi, "Cho chúng tôi phương pháp để cho chúng tôi có thể nhớ các kiếp sống quá khứ của mình." Bạn định làm gì nào? Cho dù bạn nhớ rằng bạn đã là Alexander Đại đế hay Cleopatra, làm sao điều đó sẽ có ích theo bất kì cách nào? Nó sẽ tạo ra nhiều phức tạp hơn. Bạn đã trong đống lộn xộn thế!
Đó là lí do tại sao tự nhiên đóng cánh cửa này mọi lúc bạn chết. Đây là từ bi lớn lao, bằng không bạn sẽ được sinh ra bị điên. Nhớ tất cả các kiếp sống quá khứ của mình bạn sẽ trong trạng thái mà bạn không thể vận hành được chút nào, bởi vì mẹ bạn có thể đã là vợ bạn trong kiếp quá khứ và trong kiếp khác bà ấy có thể đã là con gái bạn. Bây giờ, làm sao cư xử với bà ấy được? - như mẹ bạn, như vợ bạn, như con gái bạn? Bạn sẽ bị rất lẫn lộn!
Không cần bận tâm tới quá khứ. Khi bạn trở nên nhận biết, điều đầu tiên biến mất khỏi tâm trí bạn là quá khứ, và quá khứ là một phần ba của tâm trí. Nó là chính cơ sở của tâm trí, nền tảng. Một khi nó biến mất, thế thì toàn thể toà nhà bắt đầu đổ sập.
Điều thứ hai phải ra đi là tương lai. Khi không có hôm qua bạn không thể quan niệm được ngày mai. Ngày mai không là gì ngoài phóng chiếu của hôm qua. Bạn muốn sống trong vui vẻ của ngày hôm qua lần nữa vào ngày mai và bạn muốn tránh khổ sở của hôm qua; đó là điều tương lai của bạn là gì. Nếu hôm qua mất rồi, ngày mai bị kết thúc; chẳng mấy chốc nó sẽ biến mất.
Và khi hôm qua đã qua rồi và ngày mai đã qua rồi, hôm nay ở đâu? Nó tồn tại giữa hai điều này. Nếu cả hai bờ đều đã biến mất, bản thân dòng sông sẽ biến mất. Nếu cả hai bờ đã biến mất, chiếc cầu sẽ biến mất. Từng chùm một trong ba mảnh, thời gian tan biến: đầu tiên quá khứ, thế rồi tương lai và chung cuộc hiện tại. Thế thì bạn bị bỏ lại không có thời gian, trạng thái vô thời gian. Và điều này, Phật nói, là niết bàn.
Kinh nghiệm vô thời gian là kinh nghiệm tính bất tử. Kinh nghiệm vô thời gian là kinh nghiệm cái thực sự đang đó. Nó không là quá khứ không là hiện tại không là tương lai; nó đơn giản hiện hữu. Nó không thể bị giới hạn vào bất kì ngăn nào, vào bất kì phân loại nào; nó không thể được phân loại. Bạn đơn giản kinh nghiệm từng khoảnh khắc với an bình và im lặng và vui vẻ vô cùng. Và từng khoảnh khắc trở thành ngát hương thế, sống động thế! Từng khoảnh khắc trở thành phúc lành tới mức không thể nào tưởng tượng được nó, không thể nào mô tả được nó. Người ta phải biết nó để biết nó; không có cách khác. Không ai có thể giải thích nó cho bạn. Nó là không thể diễn đạt được, nó không phải là giải thích được. Nó là bí ẩn lớn nhất. Khi thời gian biến mất, tâm trí biến mất, cái gì còn lại? Cái còn lại, cái bao la đó... cái đó là bản thể thực của bạn - theo lời của Phật, cái không hiện hữu của bạn, cái vô ngã của bạn.
Jesus sẽ gọi nó là vương quốc của Thượng đế; đó là cách mô tả khẳng định về nó. Và Phật gọi nó là trạng thái dừng lại - mọi thứ đã dừng lại. Và với vui vẻ lớn lao người đó biết rằng mình đã kết thúc. Người đó đã thức dậy từ giấc ngủ của mình.
Đủ cho hôm nay.
Xem tiếp Chương 8 – Quay về Mục lục

Ads Belove Post