Chương 5. Bí mật tối thượng của kiếm thuật

Chương 5. Bí mật tối thượng của kiếm thuật

Price:

Read more

Osho – Nhạc cổ trong rặng thông
Chương 5. Bí mật tối thượng của kiếm thuật

Yagyu Tajima no Kami Munenori là thầy dạy về kiếm thuật cho vị tướng Nhật.
Một hôm một trong các vệ sĩ của vị tướng đó tới gặp Tajima no Kami để xin được học kiếm thuật.
“Như ta quan sát thì bản thân anh dường như là thầy kiếm thuật rồi,” thầy nói. “Nói cho ta biết anh thuộc vào môn phái nào trước khi chúng ta đi vào trong mối quan hệ thầy trò.”
Vệ sĩ nói, “Tôi không thuộc vào môn phái nào cả, tôi chưa bao giờ học về kiếm thuật cả.”
“Chẳng ích gì mà lừa ta đâu,” thầy nói. “Con mắt phán xét của ta chưa bao giờ sai.”
“Tôi rất tiếc là không theo ý thầy được, thưa thầy,” vệ sĩ nói, “nhưng tôi thực sự không biết gì.”
“Nếu anh nói thế thì điều đó phải là đúng,
nhưng ta chắc anh là thầy về cái gì đó,
cho nên kể cho ta về bản thân anh vậy.”
“Có một điều,” vệ sĩ nói.
“Khi tôi còn nhỏ tôi đã nghĩ rằng một samurai  phải không bao giờ sợ chết. Cho nên tôi vật lộn với vấn đề này, và bây giờ ý nghĩ về cái chết đã thôi làm tôi lo nghĩ.”
“Nó đấy!” thầy kêu lên.
“Bí mật tối thượng của kiếm thuật nằm trong việc thoát khỏi ý nghĩ về cái chết. Anh không cần học tập kĩ thuật, anh đã là thầy rồi.”
Đại dương không chỉ ẩn kín đằng sau các con sóng, nó gần như biểu lộ bản thân nó trong sóng. Nó có đó trên bề mặt cũng nhiều như dưới chiều sâu. Chiều sâu và bề mặt không phải là hai điều tách rời nhau, chúng là hai cực của cùng một hiện tượng. Trung tâm đi tới chu vi; ở chu vi cũng nhiều như ở trung tâm.
Điều thiêng liêng không chỉ là không biểu lộ, nó cũng là biểu lộ. Điều thiêng liêng không chỉ là đấng sáng tạo, nó cũng là sự sáng tạo. Nó có nhiều trong thế giới này cũng như nó có trong thế giới khác.
Mới đêm hôm nọ một sannyasin đã hỏi tôi, “Osho ơi, thầy có thể chỉ cho tôi hình dạng thiêng liêng được không?” Tôi bảo người đó, “Tất cả các hình dạng đều thiêng liêng. Tôi chưa hề thấy một hình dạng nào mà không thiêng liêng cả. Toàn bộ sự tồn tại là thiêng liêng - bạn đừng phân chia nó thành phàm tục và thiêng liêng.”
Mọi lúc, tôi làm cái gì khác? - chỉ ra hình dạng thiêng liêng. Bạn đang làm gì khác? - chỉ ra hình dạng thiêng liêng. Điều gì khác nữa đang xảy ra trong tất cả sự tồn tại? Điều thiêng liêng đang lan toả khắp nơi. Nó có nhiều trong cái nhỏ cũng như nó có trong cái lớn; nó có nhiều trong nhành cỏ cũng như trong vì sao to lớn xa xăm.
Nhưng tâm trí nghĩ trong nhị nguyên. Nó nghĩ sùng kính bị che kín, thế là nó cố gắng để phủ nhận cái biểu lộ và tìm kiếm cái không biểu lộ. Bây giờ bạn đang tạo ra xung đột không cần thiết cho chính mình. Đó là lí do tại sao tôi nói rằng đại dương là trong những con sóng. Đào sâu vào trong sóng, đào sâu vào trong hình dạng, và bạn sẽ thấy cái vô hình dạng.
Nếu bạn không thể thấy được điều này, điều đó không có nghĩa là sự sùng kính là không biểu lộ, nó chỉ có nghĩa là bạn vẫn còn mù. Bạn vẫn còn chưa có mắt có thể thấy cái hiển nhiên. Sự sùng kính là hiển nhiên.
Và điều này là như vậy với mọi mức của bản thể: dù bạn là bất kì cái gì, bạn cứ phát nó ra quanh mình. Bạn không thể che giấu nó được. Không cái gì, tuyệt đối không cái gì, có thể được che giấu. Có một câu ngạn ngữ thiền là “Không cái gì được che giấu từ cái cũ bởi bất kì cái gì, mọi thứ đều sáng tỏ như ban ngày.” Nhưng tất cả không sáng tỏ như ban ngày với bạn. Điều đó không có nghĩa là ban ngày không có đó; nó đơn giản nghĩa là bạn đang đứng với mắt nhắm. Mở mắt ra một chút thôi và bóng tối bắt đầu biến mất. Mở mắt ra và dù bạn ở bất kì đâu, lập tức bạn sẽ có khả năng thấy sâu như sự tồn tại hiện có. Một khi mắt bạn mở ra, mọi thứ trở nên trong suốt.
Khi bạn thấy tôi, bạn chỉ thấy bề ngoài, con sóng. Khi bạn nghe tôi, bạn chỉ nghe lời nói, không nghe cái im lặng ẩn đằng sau chúng. Bạn thấy đích xác cái không có giá trị và bạn bỏ lỡ tất cả những cái giá trị và có ý nghĩa. Khi tôi thấy bạn, đấy không phải là hình dạng, đấy không phải là hình ảnh mà bạn thấy trong gương. Khi tôi thấy bạn, tôi thấy bạn.
Và bạn đang toả phát bản thân mình trong mọi cử chỉ, trong mọi khoảnh khắc. Cách bạn bước, cách bạn nói, cách bạn giữ im lặng và không nói, cách bạn ăn, cách bạn ngồi - mọi thứ đang biểu lộ bạn. Bất kì ai dễ cảm nhận đều sẽ có thể thấy liệu bạn còn tối bên trong hay liệu bạn đã thắp lên ngọn lửa.
Điều ấy cũng dễ dàng như bạn đi qua một ngôi nhà trong đêm, đêm tối, và ngôi nhà được thắp sáng bên trong. Có khó gì để mà biết liệu nó có được thắp sáng hay không? Không, bởi vì từ cửa sổ và cửa ra vào bạn có thể thấy ánh sáng phát ra. Hay nếu ngôi nhà đang trong bóng tối và không có ánh sáng cháy bên trong, thế thì tất nhiên bạn thấy điều đó, nó là hiển nhiên.
Cùng điều như thế xảy ra trong bạn: dù bạn là bất kì cái gì, cái đó cũng đang được phát ra mọi khoảnh khắc. Chứng loạn thần kinh của bạn được phát ra, chứng ngộ của bạn cũng được phát ra. Thiền của bạn được phát ra, điên của bạn cũng được phát ra. Bạn không thể che giấu nó. Tất cả mọi nỗ lực để che giấu bản thân bạn đều vô ích. Chúng là đần độn, lố bịch.
Tôi đã đọc một cuốn sách của Edmund Carpenter. Ông ấy làm việc về một dự án xã hội, một dự án nghiên cứu, ở Borneo. Ông ấy viết: “Trong một thành phố nhỏ ở Borneo, các thư kí chuyên nghiệp ngồi trước cửa sổ mở, đọc và viết. Bởi vì mọi người đều thiếu văn hoá và họ không thể đọc và viết được, cho nên thư từ, tài liệu hay bất kì cái gì khác họ đều cần sự giúp đỡ của những người đọc và viết chuyên nghiệp. Và tôi rất ngạc nhiên bởi vì tôi để ý đến một người lấy ngón tay bịt tai lại trong khi người đó đọc to. Tôi hỏi và được biết rằng điều này phải làm theo yêu cầu của người nghe, người ấy không muốn người đọc biết về bức thư!”
Cho nên người đọc đã dùng ngón tay để bịt tai lại và đọc rõ to bức thư!
Nhưng đây là điều vẫn đang xảy ra trong cuộc sống của mọi người. Bạn cứ che giấu, nhưng mọi thứ đang được tuyên bố, liên tục, thật to. Mọi thứ vẫn đang phát ra, bạn là trạm phát liên tục. Thậm chí khi bạn ngủ bạn cũng phát. Nếu vị phật tới với bạn trong khi bạn đang ngủ, người ấy sẽ có thể thấy bạn là ai. Cho dù trong giấc ngủ bạn vẫn làm các cử chỉ, nét mặt, chuyển động, thốt ra điều gì đó. Và tất cả những điều đó sẽ chỉ ra điều gì đấy về bạn, bởi vì giấc ngủ là của bạn và nó nhất định mang dấu ấn của bạn.
Nếu người ta trở nên tỉnh táo chút ít, người ta sẽ dừng che giấu. Điều đó là vô ích, điều đó là lố bịch. Thế thì người ta đơn giản thảnh thơi. Bởi vì che giấu của bạn mà bạn vẫn còn căng thẳng, liên tục sợ rằng ai đó có thể biết về bạn. Bạn chưa bao giờ phơi bầy bản thân mình, bạn chưa bao giờ sống trong trần trụi, bạn bao giờ cũng sợ hãi. Cái sợ đó làm què quặt bạn và làm tê liệt bạn.
Một khi bạn hiểu rằng mọi thứ nhất định được công bố ra - nó đã được công bố rồi; trung tâm đang đi tới chu vi vào mọi khoảnh khắc và đại dương đang cuộn sóng và sùng kính ở khắp mọi nơi, lan khắp sự tồn tại, và bạn đang trải rộng khắp hoạt động của mình -  phỏng có ích gì mà che giấu. Chẳng cái gì được che giấu theo bất kì cái gì khỏi cái cũ, mọi thứ đều sáng tỏ như ban ngày - thế thì sao phải bận tâm?
Thế thì người ta thanh thản. Lo âu, căng thẳng, khổ sở biến mất. Bỗng nhiên bạn trở nên mong manh, không còn đóng nữa. Bỗng nhiên bạn cởi mở, bỗng nhiên bạn trở thành việc mời chào. Và đây là điểm cần được hiểu: một khi bạn được phơi bầy cho người khác, chỉ thế thì bạn mới được phơi bầy cho bản thân mình. Nếu bạn che giấu người khác, bất kì điều gì bạn che giấu người khác cũng sẽ dần dần bị ném vào trong tầng ngầm của tâm trí vô thức của bạn. Người khác có thể không biết về nó nhưng dần dần bạn cũng sẽ quên nó.
Nhưng bất kì khi nào bạn đi vào trong tầm nhìn của một người cảm nhận, mọi sự sẽ lộ ra. Đó là một trong những lí do cơ bản tại sao, ở phương Đông, mối quan hệ đệ tử và thầy có giá trị đến thế: bởi vì thầy chỉ giống như tia sáng, tia X, còn đệ tử phơi bầy bản thân mình. Và thầy càng thấm nhuần và biết về đệ tử, đệ tử dần dần càng trở nên nhận biết về kho báu dấu kín của riêng mình.
Bằng cố gắng che giấu bản thân mình khỏi người khác, người đó đã trở thành chuyên gia trong che giấu đến mức người đó che giấu chính bản thân mình nữa.
Bạn không biết nhiều về bản thân mình. Bạn chỉ biết một mẩu về bản thân mình, chỉ cái chóp của núi băng. Tri thức của bạn về bản thân mình là rất giới hạn - mà không chỉ giới hạn, nó gần như chẳng liên quan! Nó bộ phận, nó manh mún đến mức chừng nào mà bạn còn chưa đặt nó vào hoàn cảnh của toàn bộ bản thể bạn, nó chẳng mang ý nghĩa gì. Nó gần như vô nghĩa.
Đó là lí do tại sao bạn sống mà chẳng biết gì về bản thân mình. Và làm sao mà người ta có thể sống mà không biết tới bản thân mình được? Còn bạn phóng chiếu mọi thứ lên người khác những cái chẳng liên can gì tới người khác cả; chúng có thể chỉ là các lực ẩn kín bên trong bạn. Nhưng bạn không biết rằng chúng bị dấu kín trong bạn, bạn phóng chiếu chúng lên người khác. Ai đó trông như người bản ngã với bạn: bạn có thể là kẻ bản ngã và bạn phóng chiếu. Ai đó trông rất giận dữ: cái giận dữ có thể là ở bên trong bạn và người khác chỉ hệt như màn ảnh - chính bạn phóng chiếu lên.
Chừng nào bạn còn chưa biết tới bản thân mình một cách chính xác, bạn sẽ không thể nào biết cái gì là thật và cái gì là phóng chiếu. Bạn sẽ không thể nào biết được về người khác nữa. Tự hiểu mình trở thành cánh cửa cho tất cả các tri thức; nó là rất cơ bản. Không có nền tảng đó, mọi tri thức đều chỉ là tri thức mẽ ngoài; sâu bên dưới là dốt nát.
Tôi đã nghe một giai thoại:
Bà Jones, phiền muộn sâu sắc, đến tư vấn một nhà tâm thần.
“Chồng tôi,” bà ấy nói, “tin chắc ông ấy là con gà. Ông ấy cứ đi quanh đào bới thường xuyên, và ngủ trên một thanh gỗ lớn mà ông ấy sửa thành cành đậu.”
“Tôi biết,” nhà tâm thần nói một cách thận trọng. “Và chồng bà đã chịu đựng việc ấn định này từ bao lâu rồi?”
“Được gần hai năm nay.”
Nhà tâm thần hơi cau mày và nói, “Nhưng sao bà đợi mãi đến giờ mới đi tìm sự giúp đỡ?”
Bà Jones đỏ mặt và nói, “Thế đấy, cũng hay là có việc cung cấp trứng đều đặn!”
Bây giờ bà này thần kinh rồi! Bà ấy nghĩ chồng mình thần kinh: bất kì khi nào bạn nghĩ điều gì đó về ai đó khác, quan sát đi. Đừng vội vàng, trước hết nhìn vào bên trong đã. Nguyên nhân có thể ở bên trong bạn. Nhưng bạn không biết bản thân mình cho nên bạn lẫn lộn phóng chiếu của mình với thực tại bên ngoài. Không thể nào biết được bất kì cái gì thực chừng nào mà bạn còn chưa biết đến bản thân mình. Và cách duy nhất để biết bản thân mình là sống một cuộc sống mong manh, cởi mở. Đừng sống trong phòng giam đóng kín. Đừng che giấu bản thân mình đằng sau tâm trí, bước ra đi.
Một khi bạn bước ra, bạn sẽ dần dần trở nên nhận biết về hàng triệu điều trong bạn. Bạn không phải là căn hộ một buồng, bạn có nhiều buồng - bạn là lâu đài. Nhưng bạn đã trở nên quen với việc sống ở hành lang và bạn đã quên hoàn toàn lâu đài. Nhiều kho báu đang bị che khuất trong bạn, và những kho báu đó thường xuyên gõ cửa, mời chào. Nhưng bạn gần như điếc.
Mù này, điếc này, không nhạy cảm này, phải bị đập vỡ - và không ai khác có thể làm được điều đó. Nếu ai đó khác thử làm điều đó, bạn sẽ cảm thấy đề phòng, bạn sẽ cảm thấy xúc phạm. Nó vẫn xảy ra hàng ngày: nếu tôi thử giúp bạn, bạn cảm thấy bạn đã bị xúc phạm. Nếu tôi cố gắng nói điều gì đó đúng về bạn, bạn cảm thấy đề phòng, bạn cảm thấy bẽ mặt, bạn cảm thấy tổn thương, lòng tự hào của bạn bị tổn thương. Bạn muốn nghe những lời nói dối về bản thân bạn từ tôi; bạn muốn nghe điều gì đó có ích cho hình ảnh đã ấn định của bạn. Bạn có một hình ảnh rất hoàng kim về bản thân mình, cái là giả tạo. Nó phải bị đập tan thành từng mảnh, bởi vì một khi nó bị đập tan, thực tại sẽ nảy sinh. Nếu nó không bị đập tan  bạn vẫn cứ níu bám lấy nó.
Bạn nghĩ bạn là tôn giáo, bạn nghĩ bạn là người tìm kiếm lớn lao: bạn có thể chẳng tôn giáo chút nào, bạn có thể đơn giản sợ cuộc sống. Trong đền chùa và nhà thờ, những kẻ hèn đang ẩn núp, sợ cuộc sống. Nhưng chấp nhận rằng người ta sợ là rất bẽ mặt, cho nên họ nói họ không sợ cuộc sống, họ đã từ bỏ: “Cuộc sống chẳng đáng giá gì. Cuộc sống chỉ dành cho những tâm trí xoàng xĩnh.” Họ đã từ bỏ mọi thứ vì Thượng đế, họ đang tìm kiếm Thượng đế. Nhưng quan sát xem... họ đang run rẩy. Quì xuống, họ đang cầu nguyện, nhưng lời cầu nguyện của họ không phải là tình yêu, lời cầu nguyện của họ không phải là mở hội, lời cầu nguyện của họ không phải là hân hoan - lời cầu nguyện của họ là từ sợ. Sợ làm biến chất mọi thứ, không ai có thể tiếp cận Thượng đế qua sợ được.
Bạn phải tiếp cận chân lí qua dũng cảm. Nhưng nếu bạn che giấu sợ của mình đằng sau tính tôn giáo, sẽ rất khó để đập tan nó. Bạn vẫn còn tham, khổ, nhưng bạn cứ nói rằng bạn sống một cuộc sống rất giản dị. Nếu bạn che giấu đằng sau việc hợp lí hoá về tính giản dị, thế thì rất khó để thấy rằng bạn là kẻ keo kiệt. Và kẻ keo kiệt bị lỡ nhiều lắm bởi vì cuộc sống là dành cho những người chia sẻ, cuộc sống dành cho nhưng người yêu, cuộc sống dành cho những người không quá níu bám vào mọi thứ - bởi vì thế thì họ mới trở thành sẵn có cho mọi người.
Níu bám vào một vật là níu bám vào cái gì đó thấp kém hơn bạn. Và nếu bạn níu bám vào các vật thấp kém hơn bạn, làm sao bạn có thể bay vút lên cao được? Cũng dường như là bạn bám vào tảng đá và cố gắng bay lên trên trời. Hoặc bạn đang mang tảng đá trên đầu và cố gắng trèo lên đỉnh Everest. Bạn phải vứt chúng đi, bạn phải vứt những tảng đá đó đi. Bạn sẽ phải tự làm nhẹ gánh cho mình.
Edmund Hillary, người đầu tiên đạt tới đỉnh Everest, nói trong cuốn tiểu sử của mình, “Khi chúng tôi càng lên tới gần hơn, tôi đã phải bỏ lại đằng sau càng nhiều đồ đạc hơn. Vào khoảnh khắc cuối cùng tôi đã phải bỏ hầu hết mọi thứ, bởi vì mọi thứ đã trở thành gánh nặng thế.”
Bạn càng vươn lên cao hơn, bạn càng cần được nhẹ gánh thêm nữa - cho nên kẻ keo kiệt không thể bay vút lên cao được. Kẻ keo kiệt không thể bay vút lên trong tình yêu, hay trong lời cầu nguyện, hay trong sự sùng kính. Người đó vẫn còn níu bám lấy mặt đất, người đó gần như bắt rễ trong mặt đất. Cây cối không thể bay được. Nếu bạn muốn bay  bạn cần phải nhổ bật gốc rễ lên. Bạn cần giống như đám mây trắng không bắt rễ vào đâu cả, kẻ lang thang.
Nhưng bạn có thể che giấu cái ngã khổ của mình. Và bạn có thể che giấu bệnh tật của mình đằng sau những thuật ngữ và lời nói tốt lành, đẹp đẽ. Bạn có thể nói rất thành thạo và bạn có thể rất hợp lí hoá. Tất cả những điều này đều phải bị đập vỡ.
Và nếu bạn che giấu, thế thì không chỉ bạn che giấu bệnh tật của mình, bạn che giấu cả các kho báu của mình nữa. Che giấu này trở thành đông đặc lại, nó trở thành thói quen, nỗi ám ảnh. Nhưng tôi nói với bạn, trước một người nhạy cảm, trước một thầy đã biết tới bản thân mình, bạn sẽ hoàn toàn bị xuyên thấu như qua tia X. Bạn không thể che giấu khỏi người nào đó có mắt. Bạn có thể che giấu với chính mình, bạn có thể che giấu với thế giới, nhưng bạn không thể che giấu với người nào đó đã đi tới biết sáng tỏ là gì, cảm nhận là gì.
Với người như vậy, bạn hoàn toàn trên bề mặt.
Tôi đã nghe nói về một đôi người Mĩ đi dạo dọc theo bờ sông Seine dưới bóng nhà thờ Đức Bà. Người đó mất hút trong im lặng. Cô ấy cuối cùng nói, “Anh đang nghĩ gì vậy, anh yêu?”
“Anh đang nghĩ, em yêu, rằng nếu có chuyện gì xảy ra cho một trong hai chúng ta, anh sẽ dành quãng đời còn lại của mình ở Paris.”
Người đó có thể không nhận biết về điều người đó đang nói, người đó có thể đã thốt ra điều này một cách hoàn toàn không nhận biết. Để tôi nhắc lại nó. Người đó nói, “Anh đang nghĩ, em yêu, rằng nếu có chuyện gì xảy ra cho một trong hai chúng ta, anh sẽ dành quãng đời còn lại của mình ở Paris.” Người đó muốn vợ chết đi mặc dầu người đó không nói điều đó một cách rõ ràng - nhưng người đó đã nói điều đó.
Chúng ta liên tục phát ra, theo nhiều cách.
Mới vài ngày trước đây tổng thống Ford mở tiệc chiêu đãi để tỏ lòng tôn trọng vị đại sứ Ai cập mới tới Mĩ. Nhưng thế rồi khi ông ấy nâng cốc ông ấy hoàn toàn quên mất và một cái gì đó từ vô thức buột ra - lỡ lời, chúng ta vẫn nói, nhưng đó không chỉ là lỡ lời. Ông ta nâng cốc và nói, “Để tỏ lòng trân trọng quốc gia Israel vĩ đại.” Với người Ai cập! Thế rồi tất nhiên ông ta cố gắng chữa lại điều đó, vá víu lại điều đó, nhưng quá muộn rồi. Sâu bên trong ông ấy muốn người Israel thắng người Ai cập; từ vô thức nó buột ra, trồi lên.
Chuyện xảy ra trong bữa tiệc: một người ra về, nhưng người đó rất nhút nhát. Người đó thì thầm với bà chủ, “Món ăn ngon lắm, cái có trong đó ấy.”
Để ý thấy biểu hiện chạm tự ái trên khuôn mặt bà chủ, vị khách đỏ mặt và hấp tấp nói, “A, a. Và có nhiều thức ăn lắm, nó đều như thế cả.”
Có những khẳng định vô ý thức; chúng xuất phát từ bạn, khi bạn không canh chừng. Thông thường bạn canh chừng. Đó là lí do tại sao mọi người căng thẳng thế, liên tục canh chừng, canh chừng bản thân mình. Nhưng có những khoảnh khắc khi căng thẳng quá nhiều và người ta thảnh thơi; người ta phải thảnh thơi, người ta không thể canh chừng cả hai mươi tư giờ được. Trong những khoảnh khắc đó, mọi thứ trồi lên.
Bạn thật hơn khi bạn say hơi quá một chút và mọi thứ bắt đầu trồi ra từ vô thức của bạn. Dưới ảnh hưởng của rượu bạn thật hơn là bạn thông thường, bởi vì rượu làm lỏng việc canh chừng. Thế thì bạn bắt đầu nói những điều bạn bao giờ cũng muốn nói, và bạn không lo nghĩ về điều gì, và bạn không cố gắng để lại ấn tượng nào - bạn đơn giản là con người thực. Người say là người đẹp, thật hơn, chân thực hơn. Điều trớ trêu là chỉ người say mới chân thực.
Bạn càng láu lỉnh và mánh khoé, bạn càng trở nên không chân thực. Đừng lẩn sau màn ảnh. Bước ra ánh mặt trời đi. Và đừng sợ rằng hình ảnh của bạn sẽ bị tan tành. Cái hình ảnh mà bạn sợ bị tan tành đó không đáng giữ lấy. Tốt hơn cả là để nó tan tành theo cách riêng của bạn - lấy búa và đập tan nó ra.
Đó là điều sannyasin nghĩa là gì: nghĩa là bạn cầm chiếc búa trong tay và bạn đập tan hình ảnh cũ. Và bạn bắt đầu một cuộc sống mới từ ABC, từ chính sự bắt đầu, dường như bạn được sinh ra lần nữa. Đấy là tái sinh.
Thế thì, dần dần, nếu bạn thảnh thơi và bạn không quá lo nghĩ về hình ảnh của mình trong con mắt người khác, khuôn mặt chân thực của riêng bạn, khuôn mặt nguyên thuỷ, đi vào trong con người bạn - khuôn mặt mà bạn đã có từ trước khi được sinh ra và khuôn mặt mà bạn sẽ có khi bạn chết; khuôn mặt nguyên thuỷ, không phải là mặt nạ được trau chuốt. Với khuôn mặt nguyên thuỷ đó bạn sẽ thấy sự sùng kính ở mọi nơi, bởi vì với khuôn mặt nguyên thuỷ đó bạn có thể gặp gỡ với ngọn nguồn, với thực tại.
Với mặt nạ bạn sẽ chỉ gặp các mặt nạ khác. Với mặt nạ  không bao giờ có thể có bất kì đối thoại nào với thực tại. Với mặt nạ bạn vẫn còn trong mối quan hệ của ‘tôi’ và ‘nó’; thực tại vẫn còn ở đằng sau nó. Khi mặt nạ bị lột bỏ đi và bạn đã trở về nhà, biến đổi cực kì lớn xảy ra. Mối quan hệ với thực tại không còn là mối quan hệ của ‘tôi-nó’ nữa, nó là ‘ta-ngươi’. Cái ‘ngươi’ đó là sự sùng kính.
Thực tại lấy dạng một nhân cách: bạn trở thành sống động ở đây, thực tại trở thành sống động ở đây. Nó bao giờ cũng sống động, chỉ bạn là chết. Cứ dường như là bạn đã bị đánh thuốc mê: khi bạn trở lại và ảnh hưởng của thuốc mê mất dần đi, bạn cảm thấy thế nào? Đấy là một kinh nghiệm đẹp! Nếu bạn chưa bao giờ lên bàn mổ, thử xem, chỉ để kinh nghiệm thôi! Trong vài khoảnh khắc bạn hoàn toàn quên lãng, và thế rồi tâm thức nảy sinh. Bỗng nhiên, mọi thứ trở thành sống động, tươi tắn. Bạn đang tới từ bụng mẹ. Cũng hệt như thế xảy ra khi bạn quyết định sống một cuộc sống chân thực. Thế thì lần đầu tiên bạn hiểu rằng bây giờ bạn được sinh ra. Chỉ trước đó bạn vẫn còn nghĩ và mơ rằng bạn đang sống, nhưng bạn không sống.
Một nhà toán học lớn, Herr Gauss, thức để trông nom khi vợ ông nằm ốm trên tầng. Và thời gian trôi qua, ông ấy thấy mình bắt đầu chìm sâu vào vấn đề toán học...
Mọi người có nếp cũ trong tâm trí mình và họ theo cùng lối mòn ấy lặp đi lặp lại. Nhà toán học có lối mòn nào đó. Vợ ông ấy sắp chết, bác sĩ đã nói rằng đây sẽ là đêm cuối cùng, ông ấy cố thức để trông nom - nhưng tâm trí bắt đầu theo hình mẫu cũ, tất nhiên. Ông ấy bắt đầu nghĩ về một vấn đề toán học. Xem đấy - vợ sẽ không còn đó nữa, đó là đêm cuối cùng, nhưng tâm trí đang tạo ra màn ảnh về toán học. Ông ấy đã hoàn toàn quên mất người vợ; ông ấy đã đi, ông ấy đã đi rất xa trên một cuộc hành trình.
... Khi thời gian trôi qua ông ấy thấy mình bắt đầu chìm sâu vào vấn đề toán học. Ông ấy kéo bút chì và giấy về mình và bắt đầu vẽ biểu đồ. Người phục vụ lại gần ông ấy và nói một cách tôn kính, “Thưa ông Herr Gauss, vợ ông sắp chết.”
Và Gauss, chẳng hề nhìn lên vẫn nói, “Vâng, vâng. Nhưng bảo bà ấy đợi đến khi tôi làm xong đã.”
Ngay cả những tâm trí vĩ đại cũng vô ý thức như bạn. Khi mà có liên quan tới tâm thức  dù vĩ đại, nhỏ bé hay tầm thường, tất cả đều dương buồn trên cùng một con thuyền. Thậm chí tâm trí vĩ đại nhất  cũng vẫn sống trong u mê.
Thoát ra khỏi nó đi, làm cho bản thân bạn tỉnh táo hơn, đem bản thân bạn lại. Để một điều trở thành định tâm, định tâm thường xuyên trong bạn - và đó là tỉnh táo, nhận biết. Bạn làm bất kì việc gì bạn đang làm, nhưng làm nó với ý thức. Và dần dần tâm thức tích luỹ và nó trở thành kho chứa năng lượng.
Bây giờ đến câu chuyện thiền.
Yagyu Tajima no Kami Munenori là thầy dạy về kiếm thuật cho vị tướng Nhật.
Trong thiền, và chỉ trong thiền, cái gì đó rất quan trọng đã xảy ra: đó là, họ không phân biệt gì giữa cuộc sống bình thường và cuộc sống tôn giáo. Thay vì thế, họ bắc cầu qua cả hai. Và họ đã dùng những kĩ năng rất thông thường như upaya, như phương pháp cho thiền. Đó là điều cực kì quan trọng. Bởi vì nếu bạn không dùng cuộc sống bình thường như phương pháp cho thiền, việc thiền của bạn chắc chắn trở thành cái gì đó để trốn chạy.
Tại Ấn Độ điều đó đã xảy ra, và Ấn Độ đã phải đau khổ lắm. Khổ mà bạn thấy khắp xung quanh, cái nghèo nàn, cái xấu khủng khiếp của nó, là bởi vì Ấn Độ bao giờ cũng nghĩ cuộc sống tôn giáo là tách biệt với cuộc sống bình thường. Cho nên những người trở nên quan tâm tới Thượng đế, họ từ bỏ thế giới này. Những người trở nên quan tâm tới Thượng đế, họ nhắm mắt lại, ngồi trong các hang động trên Himalayas, và cố gắng quên rằng thế giới đã tồn tại. Họ cố gắng tạo ra ý tưởng rằng thế giới này đơn giản là ảo tưởng, ảo vọng, maya, giấc mơ. Tất nhiên cuộc sống bị đau khổ nhiều bởi điều đó.
Tất cả các tâm trí vĩ đại của đất nước này đều trở thành kẻ trốn chạy và đất nước bị bỏ lại cho những người xoàng xĩnh. Không khoa học nào có thể phát triển, không kĩ thuật nào có thể phát triển.
Nhưng ở Nhật Bản, thiền đã làm điều gì đó rất hay. Đó là lí do tại sao Nhật Bản là quốc gia duy nhất nơi Đông và Tây gặp gỡ: thiền phương Đông và lí trí phương Tây vào trong sự tổng hợp sâu sắc ở Nhật Bản. Thiền đã tạo ra toàn bộ tình thế ở đó. Ở Ấn Độ bạn không thể nào quan niệm được rằng kiếm thuật có thể trở thành một upaya, một phương pháp cho thiền, nhưng ở Nhật  họ đã làm được điều đó. Và tôi thấy rằng họ đã đem cái gì đó rất mới tới cho tâm thức tôn giáo.
Bất kì cái gì cũng có thể được chuyển vào trong thiền, bởi vì toàn bộ vấn đề là nhận biết. Và tất nhiên, trong kiếm thuật cần nhiều nhận biết hơn bất kì đâu khác bởi vì cuộc sống lâm nguy vào mọi khoảnh khắc. Khi đánh nhau bằng kiếm, bạn phải thường xuyên tỉnh táo; chỉ vô ý thức một khoảnh khắc và bạn sẽ đi đời. Trong thực tế, kiếm thủ thực sự không hoạt động từ tâm trí của mình. Người đó không thể hoạt động từ tâm trí của mình được bởi vì tâm trí cần thời gian - nó suy nghĩ, tính toán. Và khi bạn đánh nhau bằng lưỡi kiếm, lấy đâu ra thời gian? Không có thời gian. Nếu bạn lỡ một phần giây để suy nghĩ, người kia sẽ không bỏ lỡ cơ hội, lưỡi kiếm của người kia sẽ xuyên vào tim bạn hay chặt đứt đầu bạn.
Cho nên suy nghĩ là không thể được, người ta phải hoạt động từ vô trí. Người ta phải đơn giản hoạt động, bởi vì nguy hiểm nhiều đến mức bạn không thể có được dư thừa thời gian mà suy nghĩ. Suy nghĩ cần một cái ghế thoải mái. Bạn chỉ thảnh thơi trong chiếc ghế thoải mái đó và bạn biến vào cuộc hành trình tâm trí.
Nhưng khi bạn đang tranh đấu và cuộc sống đang lâm nguy và lưỡi kiếm đang lấp loáng trong ánh mặt trời và vào bất kì lúc nào chỉ một thoáng không nhận biết, người kia sẽ không bỏ lỡ cơ hội, bạn sẽ ra đi mãi mãi, không còn chỗ cho ý nghĩ xuất hiện, người ta phải hoạt động từ vô ý nghĩ. Đó là điều thiền tất cả là gì.
Nếu bạn có thể hoạt động từ vô ý nghĩ, nếu bạn có thể hoạt động từ vô trí, nếu bạn có thể hoạt động như một toàn thể, một thể thống nhất hữu cơ, không phải từ đầu óc; nếu bạn có thể hoạt động từ tận ruột gan mình...  điều đó có thể xảy ra cho bạn nữa. Bạn đang bước đi trong đêm và bỗng nhiên một con rắn bò qua đường. Bạn làm gì? Bạn ngồi đó và nghĩ về nó sao? Không, đột nhiên bạn nhảy ra khỏi đường. Trong thực tế bạn không quyết định nhảy: bạn không nghĩ dưới dạng lí trí logic rằng đây là con rắn và bất kì khi nào có rắn  đều có nguy hiểm, do đó, vậy thì mình phải nhảy. Đấy không phải là cách thức! Bạn đơn giản nhảy! Hoạt động là toàn bộ. Hoạt động này không bị biến chất bởi suy nghĩ; nó tới từ chính cốt lõi của bản thể bạn, không từ cái đầu. Tất nhiên khi bạn đã nhảy ra khỏi nguy hiểm rồi  bạn có thể ngồi dưới gốc cây và nghĩ về toàn bộ sự việc - đấy lại là vấn đề khác. Thế thì bạn có thể đảm đương được xa hoa.
Nhà cháy - bạn làm gì? Bạn có nghĩ liệu phải chạy ra hay không chạy ra, sống hay không sống? Bạn có tham khảo kinh sách về việc làm điều đó là phải không? Bạn có ngồi im lặng và ngẫm nghĩ về nó không? Bạn đơn giản chạy ra khỏi nhà! Và bạn sẽ không lo nghĩ về cách thức và nghi thức, bạn sẽ nhảy ra khỏi cửa sổ.
Mới hai đêm trước đây một cô gái vào đây lúc ba giờ sáng và bắt đầu gào thét trong vườn. Asheesh nhảy ra khỏi giường, chạy ra, và chỉ thế thì anh ta mới hiểu ra mình đang trần trụi; thế là anh ta quay lại. Đó là hoạt động vô trí, không có ý nghĩ nào: anh ta đơn giản nhảy ra khỏi giường, ý nghĩ tới sau đó. Ý nghĩ theo sau, tụt đằng sau. Anh ta đi trước ý nghĩ. Tất nhiên, nó bắt giữ anh ta cho nên anh ta đã bỏ lỡ cơ hội. Điều đó đáng trở thành tỏ ngộ satori, nhưng anh ta đã quay lại và mặc áo choàng. Lỡ rồi!
Kiếm thuật trở thành một trong các upayas, một trong những phương pháp luận cơ sở, bởi vì chính việc này là nguy hiểm đến mức nó không cho phép suy nghĩ. Nó có thể dẫn bạn tới kiểu hoạt động khác, kiểu thực tại khác, thực tại tách biệt. Bạn chỉ biết mỗi một cách hoạt động: nghĩ trước rồi mới hoạt động. Trong kiếm thuật kiểu sống khác trở nên mở ra cho bạn: bạn hoạt động trước rồi bạn mới nghĩ. Nghĩ không còn là chính nữa và điều này là hay - khi việc nghĩ không còn là chính nữa  bạn không thể sai lầm được.
Bạn đã nghe câu ngạn ngữ “con người là sai lầm.” Vâng, điều đó đúng, chính con người phạm sai lầm bởi vì tâm trí con người là nguồn sinh ra sai lầm. Nhưng khi bạn hoạt động từ vô trí, bạn không còn là con người nữa, bạn là điều thiêng liêng - và thế thì không có khả năng sai lầm. Bởi vì cái toàn bộ không bao giờ sai lầm, chỉ bộ phận mới sai; chỉ bộ phận mới đi lạc lối. Sùng kính không bao giờ sai lầm, nó không thể sai lầm được, nó là cái toàn thể. Khi bạn bắt đầu hoạt động từ cái không, không có suy luận nào, không suy nghĩ gì, không kết luận gì - tất nhiên kết luận của bạn là có giới hạn, chúng phụ thuộc vào kinh nghiệm của bạn, bạn có thể sai lầm - nhưng khi bạn gạt sang bên tất cả những kết luận của mình, bạn cũng gạt sang bên mọi giới hạn nữa. Thế thì bạn hoạt động từ bản thể không giới hạn của mình, và nó không bao giờ sai.
Tương truyền rằng đôi khi chuyện xảy ra ở Nhật Bản là hai thiền nhân sẽ đánh nhau mà cả hai đều đạt tới satori qua kiếm thuật. Họ không thể bị đánh bại được. Không ai có thể thắng bởi vì cả hai đều không bao giờ sai lầm. Trước khi người kia tấn công, người này đã chuẩn bị đón nhận nó. Trước khi lưỡi kiếm của người kia chặt đầu người này  người này đã chuẩn bị đề phòng công kích đó, và cùng điều ấy xảy ra với công kích của người đó. Hai thiền nhân đã đạt tới satori có thể đánh nhau nhiều năm - nhưng điều đó là không thể có được, họ không thể sai lầm. Không ai có thể chiến bại và không ai có thể chiến thắng.
Yagyu Tajima no Kami Munenori là thầy dạy về kiếm thuật cho vị tướng Nhật.
Một hôm một trong các vệ sĩ của vị tướng đó tới gặp Tajima no Kami để xin được học kiếm thuật.
“Như ta quan sát  bản thân anh dường như là thầy kiếm thuật rồi,” thầy nói.
“Như ta quan sát...” thầy nói. Ở Ấn Độ, khi Phật còn sống, một trong những người đồng thời với ông ấy là Mahavira. Giữa đệ tử của cả hai người này đã có thảo luận lớn lao từ đó đến nay. Thảo luận là về nhận biết của người đã chứng ngộ. Người theo Mahavira, người Jaina, nói rằng bất kì khi nào một người đã trở nên chứng ngộ, người ấy bao giờ cũng biết mọi việc của quá khứ, của hiện tại, của tương lai. Người ấy đã trở thành đấng toàn năng, người ấy biết mọi việc. Người ấy đã trở thành tấm gương cho toàn bộ thực tại.
Những người theo Phật nói rằng vấn đề không phải như vậy. Họ nói rằng ông ấy trở nên có khả năng biết mọi điều nếu ông ấy quan sát. Nếu ông ấy cố gắng tập trung vào bất kì cái gì, ông ấy sẽ có khả năng biết được mọi thứ về nó. Nhưng sự việc không xảy ra như những người theo Mahavira nói, rằng dù ông ấy có tập trung hay không, ông ấy vẫn biết.
Với tôi cũng vậy, quan điểm Phật giáo dường như thích hợp hơn và khoa học hơn. Nếu không, một người như Phật sẽ gần phát điên. Nghĩ về điều đó mà xem: biết mọi điều của quá khứ và hiện tại và tương lai. Không, điều đó dường như không phải. Thái độ của Phật tử dường như phải hơn: ông ấy đã trở nên có khả năng biết. Bây giờ, bất kì khi nào ông ấy muốn dùng khả năng này, ông ấy tập trung, ông ấy phóng tia sáng của mình ra. Ông ấy đặt điều gì đó vào trong luồng thiền của mình và điều đó trở nên hiển lộ với ông ấy. Nếu không, ông ấy sẽ không thể nào nghỉ ngơi được. Thậm chí trong đêm ông ấy cũng liên tục biết, biết về quá khứ và hiện tại và tương lai - và không chỉ cái biết của riêng ông ấy, mà của toàn thế giới! Nghĩ tới cái cực kì không thể nào có được của việc đó. Không, điều đó là không thể được.
“Như ta quan sát...” thầy nói. Đệ tử đã tới và người đó cầu xin được học kiếm thuật. Thầy nói, “Như ta quan sát...” Thầy tập trung tia sáng của mình, ngọn đuốc của mình, hướng về đệ tử này. Bây giờ đệ tử này ở dưới thiền của ông ấy. Ông ấy xét đi xét lại, đệ tử trở nên trong suốt. Đó là điều xảy ra khi bạn đi tới thầy: đơn giản ánh sáng của ông ấy xuyên vào bạn tới tận cốt lõi bạn.
“...bản thân anh dường như là thầy kiếm thuật rồi,” thầy nói.
Ông ấy không thể tìm thấy bất kì điều gì sai trong con người này. Mọi thứ đều như nó phải thế, trong hoà hợp, đều đặn. Con người này là một bài ca hay, người đó đã đạt tới.
“Nói cho ta biết anh thuộc vào môn phái nào trước khi chúng ta đi vào trong mối quan hệ thầy trò.”
Đó là quan hệ cao nhất trong thế giới này, còn lớn hơn cả quan hệ yêu đương, lớn hơn bất kì quan hệ nào - bởi vì buông xuôi phải là toàn bộ. Ngay cả trong quan hệ tình yêu  cũng chưa là toàn bộ, buông xuôi vẫn là bộ phận; li dị vẫn là có thể. Nhưng trong thực tế, nếu bạn đã có lần trở thành đệ tử của một thầy, nếu bạn thực sự trở thành một đệ tử, nếu bạn đã được chấp nhận, nếu bạn đã buông xuôi, không có khả năng li dị. Không có việc quay lại; đấy là điểm không có quay lại. Thế thì hai người không còn đó nữa. Họ tồn tại như một, hai khía cạnh của cái một, nhưng họ không phải là hai.
Cho nên thầy nói, “Trước khi chúng ta đi vào mối quan hệ thầy trò, ta muốn biết liệu anh đã học thuật này chưa. Làm sao mà anh trở nên hoà hợp vậy? Anh đã là thầy.”
Vệ sĩ nói, “Tôi không thuộc vào môn phái nào cả, tôi chưa bao giờ học về kiếm thuật cả.”
“Chẳng ích gì mà lừa ta đâu,” thầy nói.
“Con mắt phán xét của ta chưa bao giờ sai.”
Bây giờ lắng nghe nghịch lí này: con mắt phán xét phát sinh chỉ khi bạn đã bỏ đi tất cả mọi phán xét. Trong thiền bạn phải bỏ tất cả mọi phán xét: cái gì tốt, cái gì xấu - bạn phải vứt bỏ tất cả phân chia ấy. Bạn đơn giản nhìn. Bạn nhìn mà không phán xét nào, không kết án nào, không ca ngợi nào. Bạn không đánh giá, bạn đơn giản nhìn. Cái nhìn trở thành thuần khiết.
Khi cái nhìn này xảy ra cho bạn và đã trở thành một điều hoà hợp trong bản thể bạn, bạn đạt tới khả năng không bao giờ sai. Một khi bạn đã trở thành cái một bên trong và vượt ra ngoài đạo đức, nhị nguyên - tốt và xấu, tội lỗi và đức hạnh, sống và chết, đẹp và xấu - một khi bạn đã vượt ra ngoài nhị nguyên của tâm trí  bạn đạt tới con mắt phán xét.
Đây là nghịch lí: mọi phán xét đều phải bị loại bỏ, thế thì bạn đạt tới con mắt phán xét. Thế thì nó không bao giờ sai. Bạn đơn giản biết nó là vậy và không có phương án khác cho nó. Đấy không phải là chọn lựa về phần bạn, đấy không phải là quyết định. Đó là hiển lộ đơn giản rằng nó là vậy.
“Chẳng ích gì mà lừa ta đâu,” thầy nói.
“Con mắt phán xét của ta chưa bao giờ sai.”
“Tôi rất tiếc là không theo ý thầy được, thưa thầy,” vệ sĩ nói, “nhưng tôi thực sự không biết gì.”
“Nếu anh nói thế thì điều đó phải là đúng,
nhưng ta chắc anh là một thầy về cái gì đó...”
Bây giờ vấn đề này cần phải được hiểu: không có gì khác biệt về việc bạn là thầy về cái gì, hương vị của tính chất thầy là như nhau, mùi vị là như nhau. Bạn có thể trở thành thầy về bắn cung hay bạn có thể trở thành thầy về kiếm thuật hay bạn có thể trở thành thầy chỉ với việc pha trà thông thường, không có gì khác biệt - điều thực sự là ở chỗ bạn đã trở thành thầy. Nghệ thuật này đã đi sâu đến mức bạn không còn mang nó thêm nữa. Nghệ thuật này đã đi sâu đến mức bây giờ không cần phải nghĩ về nó nữa, nó đã trở thành đơn giản là bản tính bạn.
“...nhưng ta chắc anh là thầy về cái gì đó”... có thể anh không phải là thầy kiếm thuật, nhưng anh là thầy... “cho nên kể cho ta về bản thân anh vậy.”
“Có một điều,” vệ sĩ nói.
“Khi tôi còn nhỏ tôi đã nghĩ rằng một samurai  phải không bao giờ sợ chết. Cho nên tôi vật lộn với vấn đề này, và bây giờ ý nghĩ về cái chết đã thôi làm tôi lo nghĩ.”
Nhưng đấy chính là điều tính toàn bộ của tôn giáo tất cả là gì! Nếu cái chết không còn làm bạn bận tâm nữa, bạn đã trở thành thầy. Bạn đã nến trải cái gì đó của tính bất tử, tức là, cái gì đó của bản tính bên trong nhất của bạn. Bạn đã biết cái gì đó về vĩnh hằng. Việc biết đến bất tử là toàn bộ vấn đề của cuộc sống - cuộc sống là cơ hội để biết đến bất tử.
“và bây giờ ý nghĩ về cái chết đã thôi làm tôi lo nghĩ.”
“Nó đấy!” thầy kêu lên.
“Bí mật tối thượng của kiếm thuật nằm trong việc thoát khỏi ý nghĩ về cái chết. Anh không cần học tập kĩ thuật, anh đã là thầy rồi.”
... Bởi vì khi bạn đánh nhau bằng kiếm, nếu bạn sợ chết, suy nghĩ sẽ tiếp tục.
Bây giờ để tôi nói cho bạn một chân lí cơ bản: suy nghĩ bắt nguồn từ sợ hãi. Tất cả các suy nghĩ đều bắt nguồn từ sợ hãi. Bạn càng trở nên sợ hãi, bạn càng nghĩ nhiều. Bất kì khi nào không có sợ hãi, suy nghĩ dừng lại. Nếu bạn đã yêu ai đó, có những khoảnh khắc cùng với người yêu của bạn, suy nghĩ dừng lại. Chỉ ngồi cạnh hồ, không làm gì cả, cầm tay nhau, nhìn mặt trăng hay các vì sao, hay chỉ ngắm vào trong bóng tối của ban đêm, đôi khi ý nghĩ dừng lại bởi vì không có sợ hãi. Tình yêu xua đi sợ hãi như ánh sáng xua đi bóng tối.
Nếu thậm chí trong một khoảnh khắc bạn đang trong tình yêu với ai đó, sợ biến mất và suy nghĩ dừng lại. Với sợ, suy nghĩ tiếp tục. Bạn càng sợ, bạn càng phải nghĩ - bởi vì bằng việc nghĩ bạn sẽ tạo ra an ninh. Bằng việc nghĩ bạn sẽ tạo ra thành luỹ quanh mình. Bằng việc nghĩ, bạn sẽ xoay xở, hay cố gắng xoay xở, cách thức tranh đấu.
Một kiếm thủ, nếu người đó sợ chết, không thể là một kiếm thủ thực sự được, bởi vì nỗi sợ sẽ làm cho người đó run rẩy. Chỉ một thoáng run rẩy bên trong, một thoáng suy nghĩ bên trong, và người đó sẽ không thể nào hoạt động từ vô trí được.
Có một câu chuyện:
Một người ở Trung quốc trở thành một cung thủ vĩ đại nhất. Người đó yêu cầu nhà vua, “Xin công bố thần là cung thủ vĩ đại nhất của quốc gia.” Nhà vua sắp quyết định và công bố cho người đó thì một lão bộc của vua nói, “Tâu bệ hạ, xin đợi đã. Thần biết một người trong rừng sâu, chưa bao giờ về kinh đô. Người này là một cung thủ vĩ đại hơn. Cho nên để cậu thanh niên này tới người ấy và học với người ấy trong ít nhất ba năm. Anh chàng này không biết mình đang yêu cầu điều gì. Người đó giống như con lạc đà còn chưa qua núi. Cung thủ không sống ở kinh đô, cung thủ thực sống ở núi non. Thần biết một người, và thần biết chắc chắn rằng người này không là gì cả.”
Tất nhiên, cậu thanh niên này được phái đi. Anh ta ra đi. Anh ta không thể tin rằng có thể có một cung thủ còn vĩ đại hơn mình. Nhưng anh ta đã tìm thấy một ông già, và chính là người đó! Trong ba năm anh ta đã học từ người này. Thế rồi một hôm, khi anh ta đã học xong mọi điều, một ý nghĩ nảy sinh trong anh ta rằng, “Nếu mình giết ông già này, thế thì mình sẽ là cung thủ vĩ đại nhất.”
Ông già đã đi chặt củi và đang đi về đội củi trên đầu. Cậu thanh niên nấp sau một cái cây, đợi để giết ông. Anh ta bắn một mũi tên. Ông già lấy một mảnh củi nhỏ và ném ra. Nó đập vào mũi tên và mũi tên quay ngược lại làm cậu thanh niên bị thương rất sâu.
Ông già tới, rút mũi tên ra và nói, “Ta biết điều này. Ta biết rằng hôm này hay hôm khác cậu sẽ làm điều này. Đó là lí do tại sao ta không dạy cậu bí mật này. Ta chỉ giữ một bí mật cho riêng ta. Nhưng một điều ta phải bảo cậu: thầy ta vẫn còn sống, và ta chẳng là gì trước thầy cả. Cậu sẽ phải đi sâu hơn vào núi. Thầy ta đã một trăm hai mươi tuổi, rất già, nhưng khi thầy còn sống, không ai có thể tham vọng và không ai thậm chí nên nghĩ đến việc tuyên bố mình là cung thủ vĩ đại nhất. Cậu phải ở với ông ấy ít nhất là ba mươi năm. Và thầy già lắm, cho nên phải đi nhanh lên! Tìm ông già ấy!”
Cậu thanh niên lên đường, bây giờ rất thất vọng. Dường như là không thể nào trở thành cung thủ vĩ đại nhất nước được. Anh ta tìm thấy ông già. Ông ấy cổ đại thế, một trăm hai mươi tuổi, lưng còng hoàn toàn, ông ấy không thể đứng thẳng được. Nhưng cậu thanh niên ngạc nhiên bởi vì không có cung, không có tên với ông già ấy. Và anh ta hỏi, “Thầy có phải là ông già là cung thủ vĩ đại nhất không?”
Ông già nói, “Phải.”
“Nhưng cung và tên của ông đâu?”
Ông già nói, “Những cái đó chỉ là trò chơi. Cung thủ thực sự không cần tới chúng một khi họ đã biết được nghệ thuật. Chúng chỉ là phương tiện để học; một khi cậu đã học được rồi, cậu có thể vứt chúng đi. Nhạc sĩ vĩ đại sẽ vứt nhạc cụ đi bởi vì người đó đã biết âm nhạc là gì. Bây giờ mang nhạc cụ là ngu ngốc, trẻ con.”
Và ông già nói, “Nhưng nếu cậu thực sự quan tâm tới việc trở thành cung thủ, thế thì lại đây với ta.”
Ông ấy đưa cậu thanh niên tới vách đá dựng đứng. Một tảng đá chìa ra trên thung lũng rất sâu. Ông già đi trước cậu thanh niên và đứng ngay mỏm đá. Chỉ một chút run rẩy  ông già sẽ lộn nhào xuống thung lũng. Ông ấy gọi cậu thanh niên tới gần mình. Cậu thanh niên bắt đầu toát mồ hôi, anh ta bắt đầu run lẩy bẩy, quá nguy hiểm để ở đó.
Chỉ còn hai bước nữa anh ta nói, “Con không thể tới gần được.”
Ông già bắt đầu cười và ông ấy nói, “Nếu cậu run rẩy vì sợ thế thì làm sao cậu có thể trở thành cung thủ được? Sợ phải biến mất hoàn toàn, không dấu vết nào còn lại nữa.”
Cậu thanh niên nói, “Nhưng làm sao có thể thế được? Con sợ chết.”
Ông già nói, “Vứt cái ý tưởng về chết đi. Tìm ai đó có thể dạy cho cậu cuộc sống bất tử là gì và cậu sẽ trở thành cung thủ vĩ đại nhất, trước đây chưa hề có.”
Sợ tạo nên run rẩy. Sợ tạo nên suy nghĩ. Suy nghĩ là một loại run rẩy bên trong. Khi người ta trở thành không nao núng, ngọn lửa tâm thức vẫn còn đó, không sao lãng, không run rẩy.
“Nó đấy!” thầy kêu lên.
“Bí mật tối thượng của kiếm thuật nằm trong việc thoát khỏi ý nghĩ về cái chết. Anh không cần học tập kĩ thuật, anh đã là thầy rồi.”
... Nhưng người đó không biết về tính chất thầy của mình. Người đó có thể đã che giấu nhiều điều khác, và bởi vì điều đó mà người đó che giấu cả các kho báu của mình nữa. Một khi được để lộ ra cho thầy, người đó trở nên tỉnh táo. Và thầy nói, “Không cần kĩ thuật nào nữa. Anh đã là thầy rồi.”
Như tôi thấy trong bạn, mọi người đều mang bất tử bên trong mình. Bạn có thể biết điều đó, bạn có thể không biết điều đó, cũng chẳng hề gì - nhưng bạn đang mang nó bên trong mình. Nó đã có đó rồi, nó đã là như thế. Chỉ một thoáng hiểu biết về nó và cuộc sống của bạn có thể được biến đổi. Và thế thì chẳng cần kĩ thuật nào cả. Tôn giáo không phải là công nghệ.
Mọi người được sinh ra với một kho báu bí mật nhưng cứ sống dường như mình được sinh ra là kẻ ăn xin. Mọi người được sinh ra như một hoàng đế nhưng cứ sống như kẻ ăn xin. Nhận ra điều đó đi! Và việc nhận ra sẽ tới với bạn chỉ nếu dần dần bạn vứt bỏ đi nỗi sợ của mình.
Cho nên bất kì khi nào nỗi sợ tới với bạn, đừng trù dập nó, đừng kìm nén nó, đừng tránh né nó, đừng bận bịu vào việc gì đó để cho bạn có thể quên nó đi. Không! Khi nỗi sợ tới, quan sát nó. Mặt đối mặt với nó. Đương đầu với nó. Nhìn sâu vào trong nó. Nhìn thẳng vào thung lũng của sợ hãi. Tất nhiên bạn sẽ toát mồ hôi và bạn sẽ run rẩy và điều đó sẽ giống như cái chết, và bạn sẽ phải sống với nó nhiều lần. Nhưng dần dần, đôi mắt bạn càng trở nên trong trẻo hơn, nhận biết của bạn càng trở nên tỉnh táo hơn, tập trung của bạn vào nỗi sợ càng nhiều hơn, nỗi sợ sẽ biến đi như làn sương mù.
Và một khi cái sợ biến đi, đôi khi, cho dù chỉ một khoảnh khắc, bỗng nhiên bạn thành bất tử.
Không có cái chết. Cái chết là ảo tưởng lớn nhất có đó, huyền thoại lớn nhất, dối trá. Dù chỉ một khoảnh khắc, nếu bạn có thể thấy rằng mình là bất tử, thế thì chẳng cần tới thiền. Thế thì sống với kinh nghiệm đó đi. Thế thì hoạt động từ kinh nghiệm đó và cánh cửa của cuộc sống vĩnh hằng mở ra cho bạn.
Nhiều điều bị lỡ bởi vì sợ. Chúng ta quá gắn bó với thân thể và chúng ta cứ tạo ra ngày càng nhiều nỗi sợ từ gắn bó đó. Thân thể rồi sẽ chết. Thân thể là một phần của cái chết, thân thể là cái chết. Nhưng bạn  vượt ra ngoài thân thể. Bạn không phải là thân thể, bạn là vô thân thể. Nhớ điều đó, nhận ra điều đó. Tự thức tỉnh mình về chân lí này rằng bạn còn vượt ra ngoài thân thể này. Bạn là nhân chứng, người thấy. Thế thì cái chết biến mất, nỗi sợ biến mất, và nảy sinh cuộc sống huy hoàng vô cùng, điều Jesus gọi là ‘cuộc sống thừa thãi, vương quốc của Thượng đế.’
Vương quốc của Thượng đế là ở bên trong bạn.

Ads Belove Post