Read more
Osho – Tâm kinh
Chương 4. Hiểu biết - Luật duy nhất
Câu hỏi thứ nhất:
Osho kính yêu,
Tôi tới từ một gia đình đã có bốn người tự
tử bên đằng ngoại, kể cả bà tôi. Làm sao điều này ảnh hưởng tới cái chết của
người ta? Có sự giúp đỡ nào để vượt qua được sự bóp méo này của cái chết mà vẫn
cứ diễn ra như một chủ đề trong gia đình?
Hiện tượng chết là một trong những
điều bí hiểm nhất và hiện tượng tự tử cũng vậy. Bạn đừng quyết định trên bề mặt
tự tử là gì. Nó có thể là nhiều điều đấy. Cách hiểu riêng của tôi là ở chỗ người
tự tử là những người nhạy cảm nhất trên thế giới, rất thông minh. Bởi sự nhạy cảm
của họ, bởi cái thông minh của họ mà họ thấy khó đối phó được với thế giới thần
kinh này.
Xã hội là thần kinh. Nó tồn tại
trên các nền tảng thần kinh. Toàn bộ lịch sử của nó là lịch sử của điên khùng,
của bạo hành, chiến tranh, huỷ diệt. Ai đó nói, “Quốc gia chúng ta là quốc gia
vĩ đại nhất trên thế giới” - bây giờ đây là thần kinh. Ai đó nói, “Tôn giáo của
tôi là tôn giáo vĩ đại nhất và cao cả nhất trên thế giới” - bây giờ đây là thần
kinh. Và cái thần kinh này đã ăn sâu vào tận máu và xương, và mọi người đã trở
thành rất, rất trì trệ, không nhạy cảm. Họ phải trở thành như vậy, nếu không
thì cuộc sống sẽ là điều không thể được.
Bạn phải trở thành không nhạy cảm
để đối phó với cuộc sống trì trệ này quanh bạn; nếu không bạn sẽ mất hài hoà với
nó. Nếu bạn mất hài hoà với xã hội, thì xã hội sẽ tuyên bố bạn điên. Xã hội
điên, nhưng nếu bạn không điều chỉnh theo nó, thì nó sẽ tuyên bố bạn điên. Cho
nên hoặc là bạn phải phát điên, hoặc là bạn phải tìm ra cách thoát khỏi xã hội;
đó chính là tự tử là gì. Cuộc sống trở thành không thể dung thứ được. Dường như
là không thể nào đối phó được với biết bao nhiêu người quanh bạn - và tất cả họ
đều điên khùng. Bạn sẽ làm gì nếu bạn bị ném vào giữa một nhà thương điên?
Điều đó đã xảy ra cho một trong
những người bạn tôi; anh ta trong bệnh viện tâm thần. Anh ta bị toà án tống vào
đó trong chín tháng. Sau sáu tháng - anh ta đã điên, cho nên anh ta có thể làm
điều đó - anh ta tìm thấy một chai phenol trong nhà tắm và uống hết. Trong mười
lăm ngày anh ta bị ỉa chảy và nôn mửa, và bởi vì việc ỉa chảy và nôn mửa đó mà
anh ta trở lại với thế giới. Lục phủ ngũ tạng của anh ta được thanh lọc, chất độc
biến mất. Anh ta bảo với tôi rằng ba tháng tiếp sau đó là khó khăn nhất, “Sáu
tháng đầu thì đẹp đẽ bởi vì tôi điên, và mọi người cũng điên. Mọi thứ đơn giản
diễn ra tốt đẹp, không có vấn đề gì. Tôi đã hài hoà với toàn bộ cái điên khùng
quanh tôi.”
Khi anh ta uống phenol, và mười
lăm ngày ỉa chảy và nôn mửa, bằng cách nào đó tình cờ lục phủ ngũ tạng của anh
ta được thanh lọc, dạ dầy của anh ta được thanh lọc. Anh ta không thể ăn được
trong mười lăm ngày này - việc nôn mửa quá nhiều - cho nên anh ta phải nhịn ăn.
Anh ta nằm trên giường trong mười lăm ngày. Việc nghỉ ngơi đó, việc nhịn ăn đó,
việc thanh lọc đó đã có ích – nó là một sự ngẫu nhiên - và anh ta trở nên lành
mạnh. Anh ta tới bác sĩ, bảo với họ “Tôi đã được lành mạnh”; tất cả họ đều cười
phá lên. Họ nói, “Ai mà chẳng nói vậy.” Anh ta càng nhấn mạnh, thì họ lại càng
khăng khăng, “Anh điên đấy, bởi vì mọi người điên đều nói như vậy. Anh cứ đơn
giản đi và làm việc của anh đi. Anh không thể nào được thả ra trước khi lệnh của
toà án tới đâu.”
“Ba tháng ấy thật không thể nào
chịu đựng nổi,” anh ta nói, “thật là ác mộng!” Nhiều lần anh ta nghĩ tới tự tử.
Nhưng anh ta là một người có ý chí mạnh mẽ. Và đấy chỉ là vấn đề của ba tháng,
anh ta có thể đợi. Thật không thể dung thứ được! - ai đó kéo tóc anh ta, ai đó
kéo chân anh ta, ai đó đơn giản nhảy lên mình anh ta. Tất cả những cái đã xảy
ra trong sáu tháng, nhưng anh ta đã là một phần trong nó. Anh ta cũng làm cùng
những việc như thế; anh ta là thành viên hoàn hảo của xã hội điên đó. Nhưng
trong ba tháng điều đó là không thể được bởi vì anh ta đã lành mạnh còn mọi người
thì điên khùng.
Trong thế giới thần kinh này, nếu
bạn lành mạnh, nhạy cảm, thông minh, thì hoặc là bạn phải thành điên, hoặc bạn
phải tự tử - hay bạn phải trở thành sannyasin. Còn gì khác nữa nào?
Câu hỏi này là của Jane Ferber;
cô ấy là vợ của Bodhicitta. Cô ấy đã tới tôi đúng lúc. Cô ấy có thể trở thành một
sannyasin và tránh được việc tự tử. Tại phương Đông, tự tử không tồn tại nhiều
lắm, bởi vì sannyas là một phương thức thay thế. Bạn có thể mất hút một cách
đáng kính trọng; phương Đông chấp nhận điều đó. Bạn có thể bắt đầu làm việc của
riêng mình; phương Đông đã tôn kính điều đó. Do đó, khác biệt giữa Ấn Độ và Mĩ
lên tới năm lần: cứ một người Ấn Độ tự tử, thì có năm người Mĩ tự tử. Và hiện
tượng tự tử là hiện tượng đang tăng lên ở Mĩ. Trí thông minh tăng lên, tính nhạy
cảm tăng lên, và xã hội thì lại trì trệ. Và xã hội không đưa ra một thế giới
thông minh - thế thì phải làm gì? Cứ chịu đựng một cách không cần thiết mãi
sao?
Thế thì người ta bắt đầu nghĩ,
“Tại sao lại không loại bỏ tất cả điều đó đi? Tại sao lại không kết thúc nó đi?
Tại sao không trả vé lại cho Thượng đế?” Tại Mĩ, nếu sannyas trở thành một
phong trào lớn, tỉ lệ tự tử sẽ bắt đầu giảm đi, bởi vì người ta sẽ có phương án
sáng tạo hơn và tốt hơn nhiều về loại bỏ. Bạn đã bao giờ quan sát điều xảy ra
là những kẻ hippie không tự tử không? Đấy là một thế giới ngay thẳng, thế giới
theo tập tục nơi tự tử lại còn phổ biến hơn. Kẻ hippie đã vứt bỏ. Anh ta là một
loại sannyasin - không thật hoàn toàn tỉnh táo về điều mình làm nhưng đang trên
con đường phải; di chuyển, dò dẫm, nhưng theo hướng phải. Kẻ hippie là việc bắt
đầu của sannyas. Kẻ hippie đang nói, “Tôi không muốn là một phần của trò chơi đồi
bại này, tôi không muốn là một phần của trò chơi chính trị này. Tôi thấy mọi điều,
và tôi muốn sống cuộc sống của riêng mình. Tôi không muốn trở thành bất kì ai
khác cả. Tôi không muốn bị giết trong bất kì mặt trận chiến tranh nào. Tôi
không muốn đánh nhau - còn rất nhiều điều đẹp đẽ phải làm.”
Nhưng đối với hàng triệu người
thì chẳng có gì cả; xã hội đã tước đi tất cả khả năng cho trưởng thành của họ.
Họ bị mắc kẹt. Người ta tự tử bởi vì họ đang cảm thấy bị mắc kẹt và họ không thấy
lối ra nào cả. Họ tới bước đường cùng. Và bạn càng là người thông minh bạn càng
chóng đi tới bước đường cùng đó, ngõ cụt đó. Và thế thì bạn định làm gì? Xã hội
không cho bạn bất kì phương án nào khác; xã hội không cho phép một xã hội khác.
Sannyas là một xã hội khác. Điều
có vẻ kì lạ là ở Ấn Độ, tỉ lệ tự tử là thấp nhất trên thế giới. Một cách logic
nó đáng phải là cao nhất, bởi vì mọi người đều đau khổ, mọi người đều khổ, chết
đói. Nhưng hiện tượng kì lạ này đã xảy ra tại mọi nơi: người nghèo không tự tử.
Họ chẳng có gì để sống, họ chẳng có gì để chết. Bởi vì họ đã chết đói nên họ bận
tâm tới thức ăn, chỗ ở, tiền bạc, mọi thứ như thế. Họ không thể đảm đương được
với việc nghĩ về tự tử, họ còn chưa đủ giầu có. Mĩ có mọi thứ, Ấn Độ chẳng có
gì.
Mới ngày hôm nọ, tôi mới đọc...
Một ai đó đã viết: “Mĩ có Jimmy Carter, Johnny Cash và Bob Hope mỉm cười. Còn Ấn
Độ thì có Morarji Desai khô khan, trì trệ, không tiền mặt, và rất ít hi vọng.”
Nhưng người ta vẫn không tự tử: họ vẫn cứ sống, họ tận hưởng cuộc sống. Thậm
chí đến kẻ ăn xin cũng xúc động, kích động. Chẳng có gì để mà kích động, nhưng
họ vẫn hi vọng.
Tại sao điều này xảy ra ở Mĩ
nhiều thế? - các vấn đề thông thường của cuộc sống đã biến mất, tâm trí được tự
do đi lên cao hơn tâm thức thông thường. Tâm trí có thể vượt ra ngoài thân thể,
vượt ra ngoài bản thân tâm trí. Tâm thức sẵn sàng cất cánh nhưng xã hội không
cho phép điều đó. Cứ trong mười người tự tử có chín người nhạy cảm. Nhìn thấy
cái vô nghĩa của cuộc sống, thấy sự sỉ nhục mà cuộc sống áp đặt cho, thấy những
thoả hiệp mà người ta phải làm chẳng vì cái gì cả, thấy tất cả những cái lầm
lì, nhìn quanh và thấy điều này - “câu chuyện do thằng ngốc kể lại, chẳng có
nghĩa lí gì” - họ quyết định loại bỏ thân thể. Nếu như họ có cánh liền thân thể,
thì họ chắc sẽ không quyết định như thế.
Thế thì tự tử còn có một ý
nghĩa khác nữa; điều đó cần phải được hiểu. Trong cuộc sống mọi thứ dường như đều
tầm thường, bắt chước. Bạn không thể nào có một chiếc xe mà người khác không
có. Hàng triệu người có cùng chiếc xe như của bạn. Hàng triệu người đang sống
trong cùng cuộc sống như bạn sống, xem cùng phim, cùng chương trình ti vi như bạn
xem, đọc cùng tờ báo như bạn đọc. Cuộc sống quá tầm thường, chẳng có gì duy nhất
còn lại cho bạn làm, cho bạn hiện hữu. Tự tử dường như là một hiện tượng duy nhất:
chỉ bạn mới có thể chết cho mình, không ai khác chết cho bạn cả. Cái chết của bạn
là cái chết của bạn, không của ai khác cả. Cái chết là duy nhất!
Nhìn vào hiện tượng này: chết
là duy nhất - nó xác định bạn như một cá nhân, nó cho bạn tính cá nhân. Xã hội
đã lấy đi tính cá nhân của bạn; bạn chỉ là một cái răng trong bánh xe, có thể
thay thế được. Nếu bạn chết đi thì chẳng ai thiếu bạn cả, bạn sẽ được thay thế.
Nếu bạn là giáo sư đại học, thì người khác sẽ là giáo sư đại học. Ngay cả nếu bạn
có là tổng thống một nước, thì người khác cũng sẽ là tổng thống của nước đó,
ngay lập tức, khoảnh khắc mà bạn không còn nữa. Bạn là thay thế được.
Điều này làm tổn thương - rằng
giá trị của bạn chẳng nhiều nhặn gì, rằng bạn sẽ không bị bỏ quên, rằng một
ngày nào đó bạn sẽ biến mất và rồi chẳng mấy chốc những người sẽ nhớ bạn cũng sẽ
biến mất. Thế thì, cũng hầu như là bạn chưa bao giờ có đó. Nghĩ về ngày đó mà
xem. Bạn sẽ biến mất... Vâng, trong vài ngày mọi người sẽ nhớ - người yêu của bạn
sẽ nhớ tới bạn, con bạn sẽ nhớ tới bạn, có thể thêm vài người bạn nữa. Dần dần,
kí ức của họ sẽ trở nên lu mờ, phôi phai, sẽ bắt đầu biến mất. Nhưng có thể
trong khi những người mà bạn cảm thấy thân thiết, vẫn còn sống, thì bạn có thể
được họ nhớ tới đôi lúc. Nhưng khi mà họ cũng đã qua đi, thế thì ... thế thì bạn
đơn giản biến mất, dường như bạn chưa bao giờ có ở đây. Thế thì cũng chẳng khác
biệt gì liệu bạn đã từng ở đây hay chưa từng ở đây.
Cuộc sống không tạo cho bạn sự
tôn trọng duy nhất. Nó rất hay gây bẽ mặt. Nó hướng bạn vào cái hố, nơi bạn chỉ
là một chiếc răng trong bánh xe, một chiếc răng trong cỗ máy bao la. Nó làm cho
bạn thành ẩn danh. Cái chết, ít nhất, cũng là duy nhất. Và tự tử còn duy nhất hơn
cái chết. Tại sao? - bởi vì cái chết tới, còn tự tử lại là một cái gì đó mà bạn
làm ra. Cái chết ở bên ngoài bạn: khi nó tới, nó sẽ tới. Nhưng tự tử thì bạn có
thể điều khiển được, bạn không phải là nạn nhân. Tự tử thì bạn có thể điều khiển
được. Với cái chết bạn là nạn nhân, với tự tử bạn sẽ trong kiểm soát. Cái sinh
đã xảy ra - bây giờ bạn không thể nào làm bất kì cái gì về nó, và bạn đã không
làm bất kì cái gì trước khi bạn được sinh ra - nó là một điều ngẫu nhiên.
Có ba điều rất chủ chốt trong
cuộc sống: sinh, yêu và chết. Việc sinh đã xảy ra; chẳng có gì phải làm về nó cả.
Bạn thậm chí còn không được hỏi ý kiến liệu bạn có muốn được sinh ra hay không.
Bạn là nạn nhân. Tình yêu cũng xảy ra; bạn chẳng thể làm được gì về nó cả, bạn
bất lực. Một hôm nào đó bạn phải lòng ai đó, bạn chẳng thể làm gì về điều đó. Nếu
bạn muốn phải lòng ai đó thì bạn cũng chẳng thể điều khiển được, đấy là điều
không thể được. Và khi bạn yêu ai đó, nếu bạn không muốn yêu - nếu bạn muốn rút
chạy - điều đó nữa cũng dường như khó khăn. Việc sinh là một sự xảy ra, việc
yêu cũng vậy. Bây giờ chỉ có cái chết còn là cái gì đó có thể làm được: bạn có
thể là nạn nhân hay bạn có thể quyết định theo ý riêng mình.
Người tự tử là người quyết định,
người nói, “Để cho tôi ít nhất thì cũng làm một việc trong sự tồn tại này mà
tôi gần như không ngẫu nhiên: tôi sẽ tự tử. Chí ít thì cũng có một việc tôi có
thể làm!” Việc sinh là không thể nào làm được rồi; việc yêu cũng không thể được
tạo ra nếu nó không có đó; nhưng việc chết... cái chết có một phương án. Hoặc
là bạn có thể là nạn nhân hoặc là bạn có thể quyết định.
Xã hội này đã lấy đi tất cả phẩm
giá từ bạn. Đó là lí do tại sao người ta tự tử - bởi vì việc tự tử của họ sẽ
cho họ một loại phẩm giá. Họ có thể nói với Thượng đế, “Con đã từ bỏ thế giới của
mình và cuộc đời mình. Nó không xứng đáng!” Những người tự tử gần như bao giờ
cũng nhạy cảm hơn người khác, những người cứ sống kéo lê. Và tôi không nói cứ tự
tử đi, tôi đang nói có một khả năng cao hơn. Mỗi khoảnh khắc cuộc sống đều có
thể đẹp thế, cá nhân thế, không bắt chước, không lặp lại.
Mỗi khoảnh khắc đều có thể quí
giá thế! Thế thì không cần phải tự tử. Mỗi khoảnh khắc đều có thể đem lại phúc
lạc thế, và mỗi khoảnh khắc đều có thể xác định bạn như điều duy nhất - bởi vì
bạn là duy nhất! Trước đây chưa hề có một người như bạn, và cũng chẳng bao giờ
sẽ có người như bạn nữa.
Nhưng xã hội buộc bạn phải trở
thành một phần của đám đông lớn. Xã hội chưa bao giờ thích một người đi theo đường
riêng của mình. Xã hội muốn bạn là một phần của đám đông: là một người Hindu,
là một người Ki tô giáo, là một người Do Thái, là một người Mĩ, là một người Ấn
Độ - nhưng là một phần của đám đông; bất kì đám đông nào, nhưng cứ là một phần
của đám đông đi.
Đừng bao giờ là bản thân mình.
Và những người muốn là chính họ... và những người đó là muối trên trái đất, những
người muốn là chính họ. Họ là người có giá trị nhất trên trái đất. Trái đất có
ít phẩm giá và hương thơm bởi vì những người này. Thế thì họ tự tử.
Sannyas và tự tử là các phương
án. Đây là kinh nghiệm của tôi: bạn có thể trở thành một sannyasin chỉ khi bạn
đã tới điểm mà, nếu không phải là sannyas, thì là tự tử. Sannyas có nghĩa là,
“Tôi sẽ cố gắng trở thành một cá nhân trong khi đang sống! Tôi sẽ sống cuộc đời
mình theo cách riêng của mình. Tôi sẽ không bị sai khiến, không bị chi phối.
Tôi sẽ không vận hành như cái máy, như một người máy. Tôi sẽ không có ý tưởng
nào, và tôi sẽ không có mục đích nào. Tôi sẽ sống trong từng khoảnh khắc, và
tôi sẽ sống do sự thôi thúc của tình thế.
Tôi sẽ tự phát, và tôi sẽ mạo
hiểm tất cả vì nó!” Sannyas là mạo hiểm. Jane, tôi muốn nói với bạn: tôi đã
nhìn vào mắt bạn; khả năng tự tử đã có đó nữa. Nhưng tôi nghĩ rằng bạn sẽ không
tự tử - sannyas sẽ xảy ra! Bạn còn may mắn hơn bốn người trong gia đình bạn, những
người đã tự tử.
Trong thực tế, mọi người thông
minh đều có khả năng tự tử, chỉ kẻ ngu đần mới không bao giờ tự tử. Bạn đã bao
giờ nghe thấy có kẻ đần độn nào tự tử chưa? Người ấy chẳng bận tâm về cuộc sống;
làm sao người ấy phải tự tử? Chỉ người thông minh hiếm có mới bắt đầu cảm thấy
cần phải làm điều gì đó, bởi vì cuộc sống như nó đã được sống thì không đáng sống.
Cho nên, hoặc là làm điều gì đó và thay đổi cuộc sống của bạn - cho nó một hình
thức mới, một chiều mới, một hướng mới - hoặc tại sao cứ phải mang mãi cái gánh
nặng ác mộng này, hết ngày nọ tới ngày kia, năm nọ tới năm kia? và nó sẽ tiếp tục...
Và y học đang giúp bạn tiếp tục cuộc sống thậm chí còn dài hơn - một trăm năm,
một trăm hai mươi năm. Và bây giờ người ta đang nói rằng con người có thể sống
tới gần ba trăm năm, dễ dàng. Thử nghĩ xem nếu người ta phải sống ba trăm năm:
tỉ lệ tự tử chắc sẽ rất cao - bởi vì thế thì ngay cả một tâm trí xoàng xĩnh
cũng sẽ bắt đầu nghĩ rằng điều đó là vô ích.
Thông minh có nghĩa là thấy sâu
sắc vào mọi việc. Cuộc sống của bạn có ý nghĩa gì không? Cuộc sống của bạn có
niềm vui nào không? Cuộc sống của bạn có bài thơ nào trong nó không? Cuộc sống
của bạn có chút sáng tạo nào trong nó không? Bạn có cảm thấy biết ơn là bạn được
ở đây không? Bạn có cảm thấy biết ơn rằng bạn đã được sinh ra không? Bạn có cám
ơn Thượng đế của mình không? Bạn có thể nói với toàn bộ tấm lòng mình rằng đây
là phúc lành không? Nếu bạn không thể, thế thì tại sao bạn cứ sống mãi làm gì?
Hoặc là bạn làm cho cuộc sống của mình thành phúc lạc... hoặc tại sao bạn cứ
làm nặng gánh cho trái đất này? Biến đi cho rồi. Ai đó khác có thể lấy chỗ bạn
và có thể làm tốt hơn. Ý tưởng này tới với tâm trí thông minh một cách tự
nhiên. Nó là một ý tưởng rất, rất tự nhiên khi bạn thông minh. Người thông minh
tự tử. Còn những người thông minh hơn người thông minh - họ chọn tính chất
sannyas. Họ bắt đầu tạo ra ý nghĩa, họ bắt đầu tạo ra nghĩa lí, họ bắt đầu sống.
Tại sao bỏ lỡ cơ hội này?
Heidegger đã nói: “Cái chết cô
lập tôi và làm cho tôi thành cá nhân.” Đấy là cái chết của tôi, không phải là
đám đông mà tôi thuộc vào. Mỗi người trong chúng ta đều chết cái chết của riêng
mình; cái chết không thể nào được lặp lại. Tôi có thể ngồi làm bài thi hai lần,
ba lần; so sánh cuộc hôn nhân thứ hai với cuộc hôn nhân đầu, vân vân và vân
vân. Tôi chỉ chết có một lần. Tôi có thể xây dựng gia đình bao nhiêu lần tuỳ
thích, tôi có thể đổi việc bao nhiêu lần tuỳ thích, tôi có thể đổi thành phố
bao nhiêu lần tuỳ thích... nhưng tôi chỉ chết có một lần. Cái chết thách thức
thế vì nó là chắc chắn và không chắc chắn. Điều nó sẽ tới là chắc chắn, khi nào
nó sẽ tới là không chắc chắn.
Do đó có tò mò lớn về cái chết,
về nó là gì. Người ta muốn biết về nó. Và chẳng có gì không lành mạnh trong suy
tư về cái chết. Những lời kết tội thuộc loại đó đơn thuần là phương sách của
‘những người’ vô nhân xưng - đám đông - để ngăn cản người ta thoát khỏi tên bạo
chúa của nó và trở thành cá nhân. Điều cần thiết là thấy cuộc sống chúng ta như
việc tiến tới cái chết. Một khi điều này đã được đạt tới, có khả năng giải
thoát khỏi điều vô vị của cuộc sống thường ngày và sự nô lệ của nó vào những
quyền lực ẩn danh. Người đã đương đầu như vậy với cái chết của mình do đó bị
đau nhói đến thức tỉnh. Người ấy nhận ra bản thân mình bây giờ như một cá nhân
khác biệt với đám đông, và được chuẩn bị để nhận lấy trách nhiệm cho cuộc đời
riêng của mình. Theo cách này, chúng ta quyết định về sự tồn tại đích thực ngược
với sự tồn tại không đích thực. Chúng ta nổi lên từ đám đông và cuối cùng trở
thành bản thân mình.
Ngay cả việc suy tư về cái chết
cũng cho bạn một cá nhân, một hình hài, một dạng thức, một định nghĩa - bởi vì
đấy là cái chết của bạn. Đấy là điều duy nhất còn lại trong thế giới mà là duy nhất.
Và khi bạn nghĩ về tự tử thì nó trở thành còn cá nhân hơn; đấy là quyết định của
bạn. Và nhớ lấy, tôi không nói rằng bạn nên tự tử. Tôi nói rằng cuộc sống của bạn,
như nó hiện thế, đang dẫn bạn tới tự tử. Thay đổi nó đi. Và suy tư về cái chết.
Nó có thể tới vào bất kì lúc nào, cho nên đừng cho rằng việc nghĩ tới cái chết
là không lành mạnh. Không phải vậy, bởi vì cái chết là đỉnh cao của cuộc sống,
chính đỉnh cao nhất của cuộc sống.
Bạn phải lưu ý về nó. Nó đang tới
- dù bạn tự tử hay nó tới... nhưng nó vẫn đang tới. Nó phải xảy ra. Bạn phải
chuẩn bị cho nó, và cách duy nhất để chuẩn bị cho cái chết - cách đúng đắn -
không phải là tự tử; cách đúng đắn là chết đi mỗi khoảnh khắc đi vào quá khứ.
Đó là con đường phải. Đó là điều một sannyasin được giả thiết cần làm: chết đi
từng khoảnh khắc đi vào quá khứ, không bao giờ mang quá khứ dù chỉ một khoảnh
khắc. Từng khoảnh khắc, chết đi quá khứ và được sinh ra trong hiện tại. Điều đó
sẽ giữ bạn tươi tắn, trẻ trung, sống động, rạng ngời; điều đó sẽ giữ cho bạn sinh
động, rộn ràng, kích động, cực lạc. Và một người biết cách chết từng khoảnh khắc
cho quá khứ thì cũng biết cách chết, và đó là tài năng và nghệ thuật vĩ đại nhất.
Cho nên khi cái chết tới cho một người như vậy, người ấy nhảy múa với nó, người
ấy ôm choàng nó! - nó là người bạn, nó không phải là kẻ thù. Đấy là Thượng đế tới
với bạn dưới dạng cái chết. Đấy là sự thảnh thơi toàn bộ trong sự tồn tại. Đấy
là lần nữa trở thành cái toàn thể, lần nữa trở thành cái một với cái toàn thể.
Cho nên đừng gọi điều này là hư
hỏng. Bạn nói: “Tôi tới từ một gia đình có bốn người tự tử bên đằng ngoại, kể cả
bà tôi.” Đừng kết án những người tội nghiệp đó, và đừng khoảnh khắc nào nghĩ rằng
họ là hư hỏng. “Làm sao điều này ảnh hưởng tới cái chết của người ta? Có giúp đỡ
nào để vượt qua được sự bóp méo này của cái chết mà vẫn cứ diễn ra như một chủ
đề trong gia đình?”
Đừng gọi nó là hư hỏng; nó
không phải vậy. Những người đó đơn giản là nạn nhân. Họ không thể đối phó được
với xã hội thần kinh, và họ đã quyết định biến mất vào trong cái chưa biết. Có
lòng từ bi với họ đi, đừng kết án. Đừng nói xấu họ, đừng gọi tên họ - đừng gọi
đó là hư hỏng hay bất kì cái gì giống thế. Thương lấy họ và yêu mến họ.
Không cần phải theo gương họ,
nhưng cảm thông với họ. Họ phải đã đau khổ nhiều lắm. Người ta không quyết định
rất dễ dàng để vứt bỏ cuộc sống đâu: họ phải đã đau khổ ghê gớm lắm, họ phải đã
thấy địa ngục của cuộc sống. Người ta không bao giờ quyết định dễ dàng cho cái
chết, bởi vì sinh tồn là bản tính tự nhiên. Người ta cứ tiếp tục sống trong đủ
mọi loại tình huống và điều kiện.
Người ta cứ tiếp tục thoả hiệp
- chỉ để sống còn. Khi ai đó loại bỏ cuộc sống của mình, điều đó đơn giản chỉ
ra rằng cuộc sống đã vượt ra ngoài khả năng của người ấy để thoả hiệp; đòi hỏi
là quá đáng. Đòi hỏi là quá đáng đến mức không còn đáng sống vì nó nữa; chỉ thế
thì người ta mới quyết định tự tử. Các bạn hãy thương lấy những người này.
Và nếu bạn cảm thấy rằng cái gì
đó sai, thế thì cái gì đó là sai trong xã hội, chứ không phải trong những người
đó. Xã hội là hư hỏng! Trong xã hội nguyên thuỷ không ai tự tử cả. Tôi đã từng
tới các bộ lạc nguyên thuỷ ở Ấn Độ: trong nhiều thế kỉ họ chẳng biết đến người
nào tự tử cả. Họ không có sổ ghi lại gì về bất kì ai đã tự tử. Tại sao vậy? Xã
hội là tự nhiên, xã hội còn chưa bị hư hỏng. Nó không hướng người ta vào những
cái trái tự nhiên. Xã hội chấp nhận. Nó cho phép mọi người theo đường của mình,
theo việc chọn lựa của mình về cách sống cuộc đời mình. Đó là quyền của mọi người.
Cho dù ai đó có phát điên, xã hội cũng chấp nhận điều đó. Nó cho phép điều đó;
đấy là quyền của người đó được phát điên. Không có kết án. Trong thực tế, trong
xã hội nguyên thuỷ, người điên được kính trọng như các nhà huyền môn - và họ có
một loại bí ẩn quanh mình. Nếu bạn nhìn vào trong mắt người điên và vào trong mắt
nhà huyền môn, có điều gì đó tương tự nhau - cái gì đó bao la, cái gì đó không
xác định, cái gì đó âm u, cái gì đó giống như hỗn loạn mà sinh ra các ngôi sao.
Nhà huyền môn và người điên có những điều tương tự.
Mọi người điên không nhất thiết
là nhà huyền môn, nhưng mọi nhà huyền môn thì đều điên. Bởi ‘điên’ tôi muốn nói
họ đã vượt ra ngoài tâm trí. Người điên có thể tụt xuống thấp hơn tâm trí, còn
nhà huyền môn có thể đã vượt ra ngoài tâm trí, nhưng một điều là tương tự - cả
hai đều không trong tâm trí mình. Trong xã hội nguyên thuỷ ngay cả người điên
cũng được kính trọng, cực kì kính trọng. Nếu người ấy quyết định điên, điều đó
là được. Xã hội lo lắng đồ ăn cho người ấy, chỗ ở cho người ấy. Xã hội yêu mến
người ấy, yêu cái điên khùng của người ấy.
Xã hội không có luật lệ cố định;
thế thì không ai phải tự tử bởi vì tự do vẫn còn không bị động chạm tới. Khi xã
hội đòi hỏi sự nô lệ và tiếp tục phá huỷ tự do của bạn và làm què quặt bạn từ mọi
phía và làm tê liệt linh hồn bạn và làm mờ xỉn con tim bạn... người ta đi tới cảm
thấy tốt hơn là chết đi chứ không thoả hiệp.
Đừng gọi họ là hư hỏng. Thương
lấy họ; họ đau khổ đã nhiều, họ là nạn nhân. Và cố gắng hiểu điều đã xảy ra cho
họ; điều đó sẽ cho bạn cái nhìn sáng suốt vào trong cuộc sống riêng của mình.
Và không cần phải lặp lại điều đó, bởi vì tôi trao cho bạn một cơ hội được là
chính bản thân bạn. Tôi mở ra cánh cửa cho bạn. Nếu bạn hiểu, bạn sẽ thấy ra vấn
đề về nó, nhưng nếu bạn không hiểu thế thì khó khăn. Tôi có thể tiếp tục hô to
còn bạn thì sẽ chỉ nghe cái mà bạn có thể nghe, và bạn sẽ nghe chỉ cái bạn muốn
nghe thôi - cái mà bạn muốn nghe.
Một người bạn là nhà tâm lí tới
tôi: người ấy đã viết một câu hỏi dài. Người ấy nói: “Tại sao thầy cứ nói mãi về
loại bỏ bản ngã? Chẳng ai có thể loại bỏ được bản ngã cả.”
Bây giờ làm sao anh ta biết được
điều đó - rằng chẳng ai có thể loại bỏ được bản ngã? Anh ta nói điều đó đã
không thành công. Làm sao mà bạn biết được? Điều đó đã thành công, mặc dầu nó
đã thành công chỉ với rất ít và rất hiếm người. Nhưng điều đó đã thành công, và
nó đã thành công chỉ với hiếm người bởi vì chỉ những người hiếm hoi ấy mới cho
phép nó thành công. Nó có thể thành công cho mọi người, nhưng người ta không
cho phép nó thành công. Họ không sẵn sàng để làm mất bản ngã của mình.
Anh ta là một nhà tâm lí, và
anh ta nói, “Osho ơi, tôi thấy thầy nữa cũng là một bản ngã lớn.” Như một nhà
tâm lí anh ta nói, “Tôi thấy bản ngã lớn trong thầy.”
Thế thì bạn chẳng trông thấy
tôi chút nào cả. Thế thì bạn đã thấy một cái gì đó chính là phóng chiếu của bạn.
Bản ngã cứ phóng chiếu bản thân nó. Bản ngã cứ tạo ra thực tại của riêng nó
quanh bản thân nó, sự phản xạ của riêng nó.
Bây giờ, nếu bạn có thể thấy
sâu vào bên trong tôi đến thế thì tại sao bạn còn phải tới đây? - bạn có thể thấy
sâu vào trong chính bạn. Nếu bạn đã có cái nhìn sáng suốt vĩ đại như thế, thì
phỏng có ích gì mà tới đây? - điều đó là vô ích. Và nếu bạn đã quyết định rằng
bản ngã không thể nào bị loại bỏ được, rằng điều đó là không thể, thế thì bạn
đã quyết định không cố gắng gì. Và tôi không nói bản ngã có thể bị loại bỏ! Tôi
đang nói bản ngã không tồn tại! Làm sao bạn có thể loại bỏ cái gì đó mà lại
không tồn tại? Và Phật cũng chẳng nói rằng phải loại bỏ bản ngã, ông ấy nói chỉ
phải nhìn vào bản ngã thôi - và bạn không tìm thấy nó đâu cả, do đó nó biến mất.
Thế thì bạn có thể làm gì - khi
bạn đi vào bên trong bản thể mình và bạn không thấy bản ngã nào, bạn thấy im lặng
ở đấy; không cái ta nào thống trị cả, không trung tâm nào giống như bản ngã có
đấy? Việc loại bỏ bản ngã không có nghĩa là bạn phải loại bỏ nó. Việc loại bỏ bản
ngã chỉ là biểu dụ. Nó đơn giản có nghĩa là khi bạn đi vào trong, bạn nhìn vào
và bạn chẳng tìm thấy gì cả, bản ngã biến mất. Trong thực tế, ngay cả việc nói
‘biến mất’ cũng không đúng, bởi vì ngay đầu tiên nó không có đó. Nó là việc hiểu
sai.
Bây giờ, thay vì đi vào trong bản
thân mình, bạn lại nhìn vào tôi. Và bạn nghĩ bạn đã nhìn được vào tôi! Và bởi
vì bạn là nhà phân tâm hay nhà tâm lí, nên bạn quyết định. Và quyết định của bạn
sẽ trở thành rào chắn - bởi vì bản ngã không tồn tại trong tôi! Và tôi muốn
tuyên bố: bản ngã không tồn tại trong bạn! Ngay cả với anh bạn nhà tâm lí này
tôi sẽ nói: bản ngã không tồn tại trong anh ta. Bản ngã không tồn tại! Nó là một
ý tưởng không tồn tại, chỉ là một ý tưởng.
Cũng giống như khi bạn thấy một
sợi dây thừng trong bóng tối và bạn nghĩ đấy là con rắn, và bạn bắt đầu chạy,
và bạn chạy hết hơi, và bạn vấp vào hòn đá, bị gẫy xương, rồi sáng hôm sau bạn
mới nhận ra là đấy chỉ là sợi dây thừng. Nhưng nó đã có tác dụng ghê gớm! Con rắn
không có đó, nhưng nó ảnh hưởng vào thực tại của bạn. Việc hiểu sai thì cũng thực
như hiểu vậy. Điều đó không đúng, nhưng nó là thực! Đó là khác biệt giữa thực tại
và chân lí. Con rắn được thấy qua sợi dây là thực, bởi vì kết quả của nó, hậu quả
của nó là thực. Nếu bạn yếu tim thì có thể rất nguy hiểm khi nhìn con rắn trong
sợi dây thừng: bạn có thể chạy nhanh đến mức bạn có thể bị đau tim. Điều đó có
thể ảnh hưởng tới toàn bộ cuộc sống của bạn. Và nó mới có vẻ kì cục làm sao; đấy
chỉ là một sợi dây thừng.
Điều tôi đang nói, hay điều Phật
đang nói là: cầm lấy chiếc đèn và đi vào trong. Nhìn cho kĩ liệu có rắn đó hay
không. Phật đã thấy nó không tồn tại trong ông ấy. Tôi đã thấy nó không tồn tại
trong tôi. Và cái ngày tôi thấy nó không tồn tại trong tôi, tôi đã nhìn quanh
vào mắt mọi người và tôi chẳng bao giờ thấy nó cả. Đấy chỉ là ý tưởng vô căn cứ.
Đấy chỉ là mơ.
Nhưng nếu bạn nữa cũng lại tràn
đầy mơ, bạn thậm chí còn có thể phóng chiếu nó lên tôi. Và tôi không thể nào
làm được gì về điều đó. Nếu bạn phóng chiếu, thì bạn cứ phóng chiếu. Cứ dường
như là bạn đang đeo kính, kính mầu, kính xanh, và toàn bộ thế giới trông xanh rờn.
Và bạn tới tôi và bạn nói, “Osho ơi, thầy đang mặc bộ quần áo mầu xanh.” Tôi
làm gì được nào? Tôi chỉ có thể nói, “Bỏ kính ra đi.” Và bạn nói, “Chẳng ai có
thể bỏ kính của mình ra được. Điều ấy chưa bao giờ xảy ra!” Thế thì khó khăn.
Nhưng đấy không phải là vấn đề
đối với tôi; đấy là vấn đề đối với bạn. Tôi cảm thấy tiếc cho bạn, bởi vì nếu
đây là ý tưởng của bạn thế thì bạn sẽ phải khổ cả đời mình - bởi vì bản ngã tạo
ra khổ. Và một ý tưởng không thật, bị coi là thật, tạo ra khổ. Khổ thực sự là
gì? Khổ là khi bạn có một ý tưởng nào đó mà lại không tương ứng với chân lí. Thế
thì có khổ.
Chẳng hạn, bạn nghĩ đá là thức
ăn và bạn ăn chúng; thế thì bạn khổ, thế thì bạn bị đau dạ dầy. Nhưng nếu đấy
là thức ăn thực, thế thì bạn không khổ, thế thì bạn được thoả mãn. Khổ được tạo
ra bởi ý tưởng không đi đôi với thực tại; phúc lạc được tạo ra khi bạn có ý tưởng
đi đôi với thực tại. Phúc lạc là cố kết giữa bạn và chân lí; đau khổ là phân
đôi, chia rẽ giữa bạn và chân lí. Khi bạn không đi cùng chân lí, bạn trong địa
ngục; khi bạn đi cùng với chân lí, bạn trong thiên đường - tất cả là vậy. Và đó
là toàn bộ vấn đề cần phải hiểu.
Bây giờ người này tới từ nước
Mĩ xa xôi. Khi lắng nghe băng nói của tôi, anh ta bắt đầu cảm động về tôi. Anh
ta phải tới đây, nhưng nếu đây là cách anh ta nhìn vào mọi thứ thì anh ta sẽ lỡ.
Và nhớ lấy, đấy không phải là vấn đề cho tôi. Nếu bạn nghĩ tôi là kẻ cá nhân lớn,
thì xin cám ơn bạn - đấy không phải là vấn đề cho tôi. Đấy là ý tưởng của bạn,
và bạn hoàn toàn có quyền có ý tưởng. Nhưng nếu bạn đã chắc chắn về nó đến thế,
thì điều gì sẽ xảy ra? Anh ta nói, “Tôi đã từng gặp nhiều thánh nhân thiêng
thiêng của nhiều tôn giáo và tất cả họ đều là kẻ bản ngã cả.”
Bạn phải đeo cùng chiếc kính ở
mọi nơi rồi. Bạn cứ tạo ra thực tại riêng của mình, mà không đúng. Đó là lí do
tại sao Phật nhấn mạnh nhiều thế vào cái không, vào vô trí - bởi vì khi tâm trí
không có ý nghĩ thì bạn không thể phóng chiếu điều gì. Thế thì bạn phải thấy
cái đang đấy. Khi bạn không có bất kì ý tưởng nào, khi bạn đơn giản trống rỗng,
tấm gương phản chiếu, thế thì bất kì cái gì tới trước bạn cũng đều được phản
chiếu ra. Và nó phản chiếu cái đang đấy. Nhưng nếu bạn có ý tưởng, thế thì bạn
làm méo mó. Ý nghĩ là môi giới cho việc bóp méo.
Nếu bạn có thể thấy bản ngã
trong tôi, thì bạn thực sự đang làm phép mầu đấy. Nhưng có thể là... và bạn có
thể hưởng thú. Nhưng chính bạn sẽ bị hại bởi ý tưởng của mình, không ai khác cả.
Nếu ý tưởng này cứ còn dai dẳng, thế thì sẽ không có khả năng nào để bắc cầu với
tôi. Ít nhất trong vài ngày bạn ở đây, gạt các ý tưởng của bạn sang một bên đi.
Và một điều là chắc chắn: cái nghề tâm lí của bạn chẳng ích gì cho bạn đâu, nếu
không thì bạn đã chẳng cần phải ở đây chút nào.
Mói ngày hôm nọ anh ta còn ngồi
trước tôi và nói về vấn đề của mình. Và đôi khi tôi tự hỏi... anh ta sao có lắm
vấn đề thế, và anh ta là trưởng nhóm. Anh ta sẽ làm gì với mọi người? Anh ta có
thể giúp đỡ mọi người theo kiểu nào? Và anh ta có tấm thân béo thế mà cũng còn
chẳng thể nào thay đổi được nó; mà anh ta lại cứ ních thêm mãi vào mình. Và đây
là vấn đề của anh ta. Và anh ta lại sợ hãi đến mức anh ta cứ nài nỉ mãi với
Laxmi rằng anh ta cần một cuộc nói chuyện riêng tư, bởi vì, “Tôi không thể nào
nói mọi điều trước mọi người.” Tại sao?
Người ta sẽ thấy bạn, rằng bạn
béo. Việc bạn có nói hay không cũng chẳng thành vấn đề. Mọi người đều có mắt và
họ có thể thấy rằng bạn béo, và rằng bạn cứ ních mãi. Làm sao bạn làm trống rỗng
Vrindavan cho mọi người? Họ sẽ biết. Anh ta muốn có một cuộc nói chuyện riêng
tư để cho anh ta có thể nói vấn đề của mình, và vấn đề là về việc béo - “Tôi cứ
ăn mãi mà không thể nào dừng được; tôi phải làm gì đây?” Nghề tâm lí của bạn thậm
chí cũng chẳng có ích gì nhiều lắm, và bạn nghĩ nghề tâm lí của bạn có khả năng
biết được tôi, thấy được tôi sao? Bạn đừng bị lừa bởi trò chơi của riêng mình.
Và bạn cũng chưa ở cạnh bất kì
người thiêng thiêng nào đâu. Tôi không nói rằng họ là không thiêng liêng; tôi
đơn giản nói rằng bạn có thể đã ở đó, nhưng bạn chưa ở cùng với họ. Nếu bạn
không thể ở cùng tôi, làm sao bạn ở cùng với họ được? Bạn chưa ở cùng với bất
kì người thiêng liêng nào. Dù bạn đến đâu, bạn cũng đến với nghề tâm lí của
mình, với tất cả những tri thức mà bạn đã thu thập quanh mình. Và nó chẳng có
ích gì cho bạn cả. Nó là vô ích! Mà bạn thì cứ đi cố vấn cho mọi người. Bạn sẽ
tạo ra cùng loại chấn thương, phức tạp, ở người khác nữa. Nhà trị liệu có thể
có ích chỉ khi lời khuyên của người ấy không chỉ dành cho kẻ khác, mà khi lời
khuyên của người ấy là dành cho cuộc sống của người đó, khi người đó đã sống với
nó và đã thấy chân lí của nó.
Bạn nói rằng giáo huấn của các
thời đại về loại bỏ bản ngã, loại bỏ tâm trí, không có tác dụng. Nó có tác dụng
đấy! Nó đã làm việc cho tôi; đó là lí do tại sao tôi nói nó đã làm việc. Tôi biết
nó không có tác dụng cho bạn. Nhưng chẳng có gì sai trong giáo huấn cả, cái gì
đó sai trong bạn; đó là lí do tại sao nó không có tác dụng trong bạn. Nó đã có
tác dụng cho hàng triệu người. Và đôi khi việc xảy ra là người láng giềng của bạn
có thể là người chứng ngộ mà bạn thì có thể không thể nào thấy được.
Điều ấy đã xảy ra...
Một người tìm kiếm tới từ Mĩ.
Anh ta đã nghe nói có một nhà huyền môn Sufi vĩ đại ở Dacca, Bangladesh, cho
nên anh ta nhào tới - vì người Mĩ thì tới ngay. Anh ta nhào tới: anh ta đơn giản
nhảy tới Dacca! Anh ta bắt một chiếc taxi và nói, “Đưa tôi tới nhà huyền môn
này!” Người lái taxi cười to. Ông ta nói, “Ông có thực sự quan tâm không đấy?
Thế thì ông đã tìm đúng người rồi đấy. Nếu ông hỏi bất kì tài xế taxi nào khác,
thì chẳng ai biết gì đâu. Tôi biết người này. Tôi đã sống với người này gần năm
mươi năm nay rồi.”
“Năm mươi năm cơ à? Ông ấy bao
nhiêu tuổi rồi?” người Mĩ hỏi.
Người lái tắc xi nói, “Ông ấy
cũng năm mươi tuổi rồi.”
Anh ta nghĩ, “Người này dường
như mất trí!” Anh ta thử hỏi những người lái taxi khác, nhưng chẳng ai biết về
người này cả cho nên anh ta phải trở lại với người mất trí này.
Và người lái taxi nói, “Tôi đã
bảo ông rồi là không ai biết người đó đâu. Ông đi cùng tôi đi và tôi sẽ đưa ông
tới.” Và ông ta đưa người Mĩ đi - Dacca là thành phố cổ với phố xá nhỏ bé tí
hin - và ông ta phải đi zic zắc đây đó hàng giờ. Còn người Mĩ thì rất sung sướng,
vì mục tiêu mỗi lúc lại càng gần đạt tới hơn. Sau ba, bốn giờ, họ dừng lại trước
một ngôi nhà nhỏ, một ngôi nhà của người rất nghèo. Và người lái taxi nói, “Ông
cứ đợi nhé, còn tôi sẽ thu xếp cho ông gặp thầy.”
Thế rồi một phụ nữ tới và bà ta
nói, “Thầy đang đợi ông đấy.” Và người này đi vào, còn người lái xe taxi thì
đang ngồi đó.
Và ông ta nói, “Lại đây, con
ta, con có việc gì cần hỏi?”
Người Mĩ không thể nào tin vào
điều đó. Anh ta nói, “Ông mà là thầy ư?”
Người này nói, “Ta là thầy đây,
và ta đã sống với con người này trong năm mươi năm; không ai khác biết về điều
đó.” Hoá ra là ông ấy là thầy.
... Nhưng bạn có ý tưởng của
mình: “Làm sao người lái taxi lại có thể là thầy được?” Nghĩ về tôi như người
lái taxi xem sao... Bạn sẽ không tin - bạn tin được không? Liệu anh bạn nhà tâm
lí này có tin không? Điều ấy là không thể được.
Bạn có ý tưởng. Bởi ý tưởng của
mình mà bạn cứ bỏ lỡ nhiều điều bao quanh. Trái đất này chưa bao giờ trống rỗng
thầy. Có người ở mọi nơi, nhưng bạn không thể thấy được! Và khi bạn muốn thấy họ,
bạn tới Vatican bởi vì bạn có ý tưởng nào đó rằng giáo hoàng phải đã chứng ngộ.
Trong thực tế, làm sao một người đã chứng ngộ có thể là giáo hoàng được? Không
người chứng ngộ nào sẽ đồng ý với điều vô nghĩa ấy. Người ấy có thể ưa thích
làm tài xế taxi hơn.
Xin bỏ ý tưởng của bạn đi trong
khi bạn còn ở đây, trong vài ngày này. Cởi mở bản thân mình, đừng định kiến từ
ngay chính ban đầu rằng, “Điều này chưa bao giờ xảy ra.” Điều này đã xảy ra rồi!
Điều này đã xảy ra trong tôi. Chẳng có gì cản trở nó ngoại trừ những ý tưởng
này, tri thức này. Đó là lí do tại sao tôi nói tri thức là cái đáng nguyền rủa.
Vứt tri thức của mình và bạn sẽ vứt bỏ bệnh hoạn của mình!
Câu hỏi thứ hai:
Osho kính yêu,
Tôi đang yếu đuối. Vậy mà lần đầu tiên tôi
cảm thấy rằng tôi có thể thảnh thơi trong yếu đuối của tôi ở đây. Tôi có phải mạnh
mẽ và dũng cảm không?
Không có cái phải ở đây. Tất cả những cái phải, nên, bắt buộc, đều cần loại bỏ. Chỉ thế thì bạn mới trở thành con người tự nhiên. Và cái gì sai trong khi là yếu đuối? Mọi người đều yếu đuối cả. Làm sao bộ phận có thể mạnh được? - bộ phận thì phải yếu chứ. Và chúng ta là những bộ phận tí xíu, giọt nước trong đại dương bao la. Làm sao chúng ta có thể mạnh được? - mạnh chống lại ai, mạnh vì cái gì?
Đúng, bạn đã được dạy, tôi biết, phải mạnh mẽ, bởi vì bạn đã được dạy phải bạo hành, hung hăng, đấu tranh. Bạn đã được dạy phải mạnh mẽ bởi vì bạn đã được dạy phải cạnh tranh, tham vọng, bản ngã. Bạn đã được dạy tất cả các loại hung hăng bởi vì bạn đã được dạy dỗ để cướp đoạt người khác, cướp đoạt tự nhiên. Bạn chưa bao giờ được dạy dỗ để yêu cả.
Tại đây, thông điệp là tình yêu - cho nên bạn cần sức mạnh để làm gì? Thông điệp ở đây là buông xuôi. Thông điệp ở đây là chấp nhận, chấp nhận toàn bộ bất kì cái gì đang đấy.
Cái yếu là đẹp. Thảnh thơi trong nó, chấp nhận nó, tận hưởng nó. Nó có vẻ đẹp riêng, nó có niềm vui riêng.
“Tôi yếu đuối...”
Xin bạn đừng dùng từ yếu đuối, bởi vì nó có mang ý kết án trong đó. Nói “Tôi là bộ phận,” và bộ phận thì nhất định là không tự lực được. Trong bản thân nó bộ phận nhất định là bất lực. Bộ phận chỉ có hiệu lực cùng với cái toàn thể. Sức mạnh của bạn là khi ở cùng chân lí; không có sức mạnh nào khác. Chân lí là mạnh mẽ, chúng ta là yếu. Thượng đế là mạnh mẽ, chúng ta yếu đuối. Cùng với ngài chúng ta cũng thành mạnh; chống lại ngài, không cùng ngài, chúng ta yếu. Tranh đấu với sông, cố gắng lội ngược dòng và bạn sẽ được chứng minh về cái yếu đuối. Trôi nổi với sông và xuôi theo dòng nước - thậm chí không bơi nữa, trong buông bỏ và để cho dòng sông đưa bạn đến chỗ nó tới - và thế thì không có yếu đuối. Khi ý tưởng là mạnh đã bị loại bỏ đi thì cũng chẳng cái yếu nào còn lại nữa. Chúng cả hai cùng biến đi. Và thế thì, bỗng nhiên, bạn chẳng yếu mà cũng chẳng mạnh.
Trong thực tế, bạn có đâu; chỉ Thượng đế có - chẳng yếu cũng chẳng mạnh. Bạn nói: “Vậy mà lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể thảnh thơi trong cái yếu đuối của tôi ở đây.”
Một cảm giác tốt; đừng bị mất dấu vết của nó. Một cảm giác tốt: thảnh thơi - đó là toàn bộ giáo huấn của tôi. Thảnh thơi trong bản thể của bạn, dù bạn là ai. Đừng áp đặt bất kì ý tưởng nào. Đừng hướng bản thân mình thành điên khùng; không cần đâu. Hiện hữu - loại bỏ việc trở thành. Chúng ta không đi đâu cả, chúng ta chỉ hiện hữu ở đây thôi. Và khoảnh khắc này đẹp làm sao, nó là phúc lành thế; đừng đem bất kì tương lai nào vào trong nó, nếu không bạn sẽ phá huỷ nó. Tương lai là chất độc. Thảnh thơi và tận hưởng đi. Nếu tôi có thể giúp cho bạn thảnh thơi và tận hưởng được, thì công việc của tôi là hoàn tất.
Nếu tôi có thể giúp bạn loại bỏ ý tưởng của bạn, ý tưởng về bạn phải là thế nào và không phải là thế nào, nếu tôi có thể lấy đi tất cả những lời răn dạy đã từng trao cho bạn, thế thì công việc của tôi là được hoàn thành. Và khi bạn không có bất kì lời răn dạy nào, và khi bạn sống trong thôi thúc của tình huống - tự nhiên, tự phát, đơn giản, thông thường - có mở hội lớn, bạn đã về đến nhà.
Bây giờ đừng đem nó lại nữa... “Tôi có phải mạnh mẽ và dũng cảm không?” Để làm gì? Trong thực tế chính cái yếu đuối mới mong là mạnh. Cố hiểu điều này; nó có một chút ít phức tạp nhưng chúng ta đi vào trong nó. Chính cái yếu đuối muốn được là mạnh, chính cái thấp kém muốn là cái cao siêu, chính cái dốt nát muốn hiểu biết - để cho nó có thể trốn bên trong hiểu biết, để cho bạn có thể che dấu cái yếu đuối của mình trong cái gọi là sức mạnh của bạn. Từ cái thấp kém mà nảy sinh ra ham muốn được là cao siêu. Đấy là toàn bộ nền móng của chính trị trên thế giới, chính trị quyền lực. Chính những người thấp kém mới trở thành chính khách: họ có thôi thúc về quyền lực, bởi vì họ biết họ thấp kém. Nếu họ không trở thành tổng thống của một nước hay thủ tướng của một nước, họ không thể nào chứng minh được bản thân mình cho người khác. Trong chính mình, họ cảm thấy yếu đuối; họ hướng bản thân mình về phía quyền lực.
Nhưng làm sao, bằng việc trở thành tổng thống, mà bạn có thể có quyền lực được? Sâu bên trong bạn sẽ biết rằng cái yếu đuối của bạn vẫn còn đó. Trong thực tế, điều đó còn được cảm thấy nhiều hơn, thậm chí nhiều hơn trước nữa, bởi vì bây giờ sẽ có tương phản. Trên bề ngoài có quyền lực, và ở bên trong có yếu đuối - rõ ràng hơn, giống như cái rủi trong cái may. Đó là điều xảy ra: bên trong bạn cảm thấy nghèo túng và bạn bắt đầu chộp giữ, bạn trở thành tham lam, bạn bắt đầu sở hữu mọi thứ, và bạn cứ tiếp tục mãi, và không có cái kết thúc cho nó. Và toàn bộ cuộc sống của bạn bị phí hoài trong mọi thứ, trong tích luỹ.
Nhưng bạn càng tích luỹ nhiều, bạn càng cảm thấy sâu sắc cái nghèo khó ở bên trong. Ngược với cái giầu có, điều ấy có thể thấy rất dễ dàng. Khi bạn thấy điều này - rằng cái yếu đuối cố gắng trở thành cái mạnh mẽ - đấy là điều ngớ ngẩn. Làm sao cái yếu trở thành mạnh được?
Khi thấy được điều đó, bạn không còn muốn trở thành mạnh nữa. Và khi bạn không muốn trở thành mạnh, cái yếu cũng không thể còn lại trong bạn. Nó chỉ có thể còn lại cùng với ý tưởng về cái mạnh - chúng đi đôi với nhau, giống như các cực âm-dương của điện. Chúng tồn tại cùng nhau. Nếu bạn loại bỏ tham vọng trở thành mạnh này, một ngày nào đó bỗng nhiên bạn sẽ thấy cái yếu cũng biến mất. Nó không thể được giữ mãi trong bạn.
Nếu bạn vứt bỏ ý tưởng được giầu có, làm sao bạn có thể cứ nghĩ mình là nghèo được? Làm sao bạn so sánh được, và làm sao bạn đánh giá được rằng bạn là nghèo? So với cái gì? Sẽ chẳng có khả năng nào để đo cái nghèo của bạn cả. Khi vứt bỏ cái ý tưởng về giầu có, về cái giầu, thì một ngày nào đó cái nghèo cũng biến mất.
Khi bạn không còn khao khát tri thức và bạn vứt bỏ tri thức, làm sao bạn có thể vẫn còn dốt nát được? Khi tri thức biến mất, trong thức tỉnh về nó, giống như cái bóng của nó, dốt nát cũng biến mất. Thế thì con người thành trí huệ. Trí huệ không phải là tri thức; trí huệ là việc thiếu vắng cả tri thức lẫn dốt nát.
Đây là ba khả năng: bạn có thể dốt nát, bạn có thể dốt nát và hiểu biết, và bạn có thể không dốt nát lẫn không hiểu biết. Khả năng thứ ba chính là trí huệ. Đó là điều Phật gọi là prajnaparamita - trí huệ vượt ra ngoài; trí huệ siêu việt. Nó không phải là tri thức.
Trước hết, bỏ ham muốn này về sức mạnh, và quan sát. Rồi một ngày bạn sẽ ngạc nhiên, bạn sẽ bắt đầu nhảy múa: cái yếu đuối đã biến mất. Chúng là hai mặt của cùng một đồng tiền: chúng sống cùng nhau, chúng đi đôi với nhau. Một khi bạn đã hiểu thấu sự kiện này trong bản thể mình, sẽ có chuyển biến vĩ đại.
Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu,
Tại sao và làm thế nào mà mọi người tới với
Thầy từ bốn phương trên trái đất này?
Nếu người nào nói ra chân lí,
người ấy chắc chắn sẽ được mọi người tìm tới dù sớm hay muộn - đó là lí do tại
sao.
Điều này là không thể nào... nếu
bạn đã thốt ra chân lí, thì không thể nào người khác lại không tới. Họ đang ao
ước về điều đó, họ đang khát khao về điều đó, họ đang đói về điều đó; và họ vẫn
còn đói trong nhiều kiếp. Khi một gợn sóng của chân lí phát sinh ở bất kì đâu,
một bài ca, thì với những người đang đói khát - họ có thể ở bất kì đâu trên
hành tinh này - cái gì đó trong tiềm thức của họ bắt đầu xảy ra. Chúng ta được
nối với nhau trong tiềm thức; trong cõi giới sâu thẳm nhất của bản thể chúng
ta, chúng ta là một. Nếu một người trở thành vị Phật, thế thì tiềm thức của mọi
người đều cảm động. Bạn có thể không biết một cách có ý thức, nhưng tiềm thức của
mọi người đều cảm động. Điều đó cũng giống như mạng nhện vậy: bạn chạm vào nó từ
bất kì đâu và toàn bộ mạng nhện bắt đầu rung rinh. Chúng ta là một trong nền tảng
của mình. Chúng ta giống như một cái cây mạnh mẽ cứng cáp, đứng vững chắc giữa
đồng - to lớn, khổng lồ, với tán lá lớn. Lá có hàng triệu, cành có rất nhiều,
nhưng tất cả đều phụ thuộc vào một thân cây vững chắc, và tất cả chúng đều bắt
rễ vào trong đất. Nếu một lá thành chứng ngộ, toàn bộ cây sẽ biết điều đó một
cách vô ý thức ... “điều gì đó đã xảy ra.” Những người đang tìm kiếm chân lí một
cách có ý thức sẽ là người đầu tiên bắt đầu chuyển động. Tiềm thức sẽ có những
gợn sóng.
Một người bạn vừa mới viết: anh
ấy đang ngồi ở đâu đó tại California... Và điều này có thể xảy ra dễ dàng ở
California hơn bất kì đâu khác. California là tương lai; tâm thức tiềm năng nhất
đang xảy ra ở đó. California là mong manh nhất, cho nên điều đó chỉ có thể xảy
ra ở California. Nó không thể xảy ra ở nước Nga xô viết được - mọi thứ rất trì
trệ và chết.
Một người bạn tới thăm một phụ
nữ. Họ cùng ăn và uống với nhau, rồi bỗng nhiên anh ấy nhìn vào trong mắt người
phụ nữ và có một sức mạnh mênh mông ở đó. Có thể là rượu, đồ uống, âm nhạc, đơn
độc của hai người này, không khí yêu thương, làm phát khởi một cái gì đó. Anh ấy
thấy sức mạnh mênh mông trong mắt người phụ nữ, và anh ấy bị dán chặt vào đôi mắt
ấy, gần như bị hút vào, bị thôi miên. Và anh ấy bắt đầu nhìn, và khi anh ấy bắt
đầu nhìn thì người phụ nữ bắt đầu đung đưa, một cái gì đó bắt đầu chuyển động,
một cái gì đó trong tiềm thức.
Và sau vài phút người phụ nữ bắt
đầu nói, “Rau-neesh, Rau-neesh, Rau-neesh” - mà cô ấy chẳng biết tôi chút nào,
chưa từng nghe nói về tôi. Khi cô ấy trở lại, người đàn ông nói, “Em vừa lẩm bẩm
cái tên nào đó – Rauneesh - dường như rất là kì lạ. Anh chưa bao giờ nghe thấy
nó.”
Còn người phụ nữ thì nói, “Em
cũng chưa bao giờ nghe về cái tên ấy. Em không biết.” Cả hai đến quán bán sách
để tìm cái tên này. Tất nhiên, đấy không phải là Rau-neesh, đấy là Rajneesh. Và
anh ấy nhìn vào sách của tôi, và đó là điều anh ấy đã tìm kiếm trong bao nhiêu,
bao nhiêu năm. Tháng sau anh ta tới đây. Bây giờ làm sao điều đó đã xảy ra? Cái
gì đó sâu trong người phụ nữ...
Việc nhận thông điệp là dễ dàng
hơn cho phụ nữ, bởi vì cô ấy gần tiềm thức hơn đàn ông. Đàn ông đã đi xa khỏi
tiềm thức. Đàn ông đã trở nên quá nghiêng về cái đầu, vào ý thức. Đàn bà vẫn
còn sống với linh cảm. Cái gì đó bắt đầu khuấy động trong tiềm thức cô ấy khi
người đàn ông nhìn vào mắt cô ấy. Và người đàn ông này là người tìm kiếm có ý
thức; người đàn bà thì không. Đàn bà chưa bao giờ tìm kiếm thầy. Cô ấy không tới.
Cô ấy phải giải thích điều đó như sự trùng hợp hay cái gì đó.
Cô ấy chưa bao giờ quan tâm tới
bất kì việc tìm kiếm nào, nhưng tiềm thức của cô ấy thì tiếp nhận nhiều hơn. Là
một phụ nữ, và thế rồi rượu, và người đàn ông này nhìn như có lực từ hút sâu
vào mắt cô ấy - tất cả những điều này cùng tác động, một cái gì đó nổi lên bề mặt.
Và ý thức của người đàn ông này đang tìm kiếm. Nghe thấy lời này anh ấy bị móc
vào. Anh ấy bị móc vào với từ này; anh ấy không thể nào quên được nó. Anh ấy phải
tới quán sách để tìm cho ra, tới thư viện, đây đó, hỏi bạn bè từ này là gì. Đấy
không phải là phép mầu. Đấy là quá trình đơn giản về cách mọi việc xảy ra.
Bạn hỏi tôi: “Tại sao và làm thế
nào mà mọi người tới với Thầy từ bốn phương trên trái đất này?” Khoảng cách
không phải là vấn đề; tìm kiếm, đói khát mới là vấn đề. Nếu ai đó đang tìm kiếm,
chẳng chóng thì chầy người ấy sẽ nhận ra tôi - đôi khi tình cờ - và người ấy sẽ
bắt đầu có sức hút về phía tôi. Hàng triệu người đang tìm kiếm, và càng nhiều
người quanh tôi, và càng nhiều bắt đầu đi sâu vào bản thể mình, thì càng nhiều
người sẽ trở nên bị hút về chỗ này. Thế thì đấy sẽ không chỉ là mình tôi kéo họ,
không chỉ mình tôi khuấy động chiều sâu của họ - toàn bộ chỗ này ở đây sẽ bắt đầu
hấp dẫn. Nó có thể trở thành một trung tâm từ lực. Điều ấy phụ thuộc vào bạn,
vào việc bạn bắt đầu di chuyển bao xa trong bản thể mình, bạn hoà hợp bao xa với
tôi, buông xuôi của bạn sâu đến đâu.
Câu hỏi cuối cùng:
Osho kính yêu,
Phải làm gì với sợ? Tôi cảm thấy mệt mỏi bị
nó lôi đi quanh. Nó có thể bị làm chủ hay bị làm tiêu tan đi không? Làm thế
nào?
Câu hỏi này là của Ramananda.
Nó không thể bị tiêu tan, nó không thể bị làm chủ, nó chỉ có thể được hiểu. ‘Hiểu biết’ là từ khoá ở đây. Và chỉ hiểu biết mới đem lại chuyển hoá, không cái gì khác. Nếu bạn cố gắng làm chủ sợ hãi của mình, nó sẽ vẫn còn bị đè nén, nó sẽ đi sâu bên trong bạn. Nó sẽ không có ích, nó sẽ làm phức tạp vấn đề lên. Nó đang trên bề mặt, bạn có thể kìm nén nó - đó là điều làm chủ là gì. Bạn có thể đè nén nó; bạn có thể đè nén nó sâu đến mức nó biến mất khỏi tâm thức của bạn hoàn toàn. Thế thì bạn sẽ chẳng bao giờ nhận biết được về nó, nhưng nó sẽ có đó trong tầng hầm, và nó sẽ có sức hút. Nó sẽ xoay xở, nó sẽ thao tác bạn, nhưng nó sẽ thao tác bạn theo cách gián tiếp mà bạn sẽ không trở nên nhận biết về nó. Nhưng thế thì nguy hiểm đã đi sâu hơn rồi. Bây giờ bạn thậm chí không thể nào hiểu được nó.
Cho nên sợ không cần phải được làm chủ - nó phải không bị làm tiêu tan. Nó không thể bị làm tiêu tan nữa, bởi vì sợ hãi có chứa một loại năng lượng và không năng lượng nào có thể bị phá huỷ. Bạn có thấy rằng trong sợ hãi, bạn có thể có năng lượng mênh mông không? – Cũng hệt như bạn có thể có trong giận dữ; chúng cả hai đều là hai khía cạnh của cùng một hiện tượng năng lượng. Giận dữ là năng lượng hung hăng còn sợ hãi là năng lượng không hung hăng. Sợ hãi là giận dữ trong trạng thái tiêu cực; giận dữ là sợ hãi trong trạng thái tích cực. Khi bạn giận dữ, bạn chẳng quan sát thấy bạn trở nên mạnh mẽ đến đâu, bạn có năng lượng lớn đến đâu đó sao? Bạn có thể ném một tảng đá lớn khi bạn đang giận dữ; bình thường bạn thậm chí không thể nào lay nổi nó. Bạn trở nên lớn gấp ba, gấp bốn lần khi bạn đang giận dữ. Bạn có thể làm những việc nào đó mà bạn không thể làm nổi nếu không giận dữ.
Hay, trong sợ hãi, bạn có thể chạy nhanh đến mức ngay cả vận động viên Olympic cũng cảm thấy ghen tị. Sợ hãi tạo ra năng lượng; sợ hãi là năng lượng, và năng lượng thì không thể bị huỷ diệt. Không một giọt năng lượng nào có thể bị huỷ bỏ khỏi sự tồn tại cả. Điều này cần phải được ghi nhớ thường xuyên, nếu không bạn sẽ làm điều gì đó sai sót. Bạn không thể phá huỷ được bất kì cái gì, bạn chỉ có thể làm thay đổi hình dạng của nó. Bạn không thể phá huỷ một hạt sỏi nhỏ; một nguyên tử cát nhỏ bé cũng không thể nào bị huỷ diệt, nó sẽ chỉ thay đổi hình dạng. Bạn không thể huỷ diệt một giọt nước. Bạn có thể biến nó thành băng, bạn có thể làm bay hơi nó, những nó vẫn còn. Nó sẽ còn ở đâu đó, nó không thể nào thoát ra ngoài sự tồn tại được.
Bạn cũng không thể huỷ bỏ sợ hãi. Và điều đó đã được làm qua nhiều thời đại - người ta đã cố gắng huỷ bỏ sợ hãi, cố gắng huỷ bỏ giận dữ, cố gắng huỷ bỏ dục, cố gắng huỷ bỏ tham lam, thế này thế khác. Toàn bộ thế giới cứ liên tục làm việc đó, và đâu là kết quả? Con người đã trở thành đống lộn xộn. Chẳng cái gì bị huỷ bỏ cả, tất cả vẫn còn đó; chỉ mọi thứ là bị làm lộn xộn lên. Không cần phải huỷ bỏ thứ gì bởi vì ngay đầu tiên, chẳng cái gì có thể bị huỷ bỏ cả.
Thế thì phải làm gì đây? Bạn phải hiểu sợ hãi. Sợ hãi là gì? Nó nảy sinh như thế nào? Nó tới từ đâu? Thông điệp của nó là gì? Nhìn vào trong nó - và không có bất kì đánh giá nào, chỉ thế thì bạn mới hiểu được. Nếu bạn đã có ý tưởng rằng sợ hãi là sai, rằng phải không nên thế - “Mình phải không nên sợ,” - thế thì bạn không thể nào nhìn được. Làm sao bạn có thể đương đầu với sợ hãi được?
Làm sao bạn có thể nhìn vào trong mắt của sợ hãi khi bạn đã quyết định rằng nó là kẻ thù của bạn? Không ai nhìn vào mắt của kẻ thù. Nếu bạn nghĩ nó là cái gì đó sai trái, thế thì bạn sẽ cố gắng bỏ qua nó, tránh né nó, quên lãng nó. Bạn sẽ cố gắng không gặp nó, nhưng nó sẽ vẫn còn đó. Điều này chẳng ích gì.
Trước hết vứt tất cả các kết án, phán xét, đánh giá đi. Sợ hãi là thực tại. Nó phải được đối diện, nó phải được hiểu. Và chỉ qua hiểu biết nó mới có thể được biến đổi. Trong thực tế, nó được biến đổi qua hiểu biết. Không cần phải làm bất kì cái gì khác; hiểu biết sẽ biến đổi nó.
Sợ hãi là gì? Trước hết: sợ hãi bao giờ cũng bao quanh ham muốn nào đó. Bạn muốn trở thành người nổi tiếng, người nổi tiếng nhất trên thế giới - thế thì có sợ hãi. Điều gì xảy ra nếu bạn không thể làm được điều đó? - sợ hãi tới. Bây giờ sợ hãi tới như sản phẩm phụ của ham muốn: bạn muốn trở thành người giầu nhất trên thế giới. Điều gì xảy ra nếu bạn không thành công? Bạn bắt đầu run rẩy; sợ hãi tới. Bạn sở hữu người đàn bà: bạn sợ rằng ngày mai bạn có thể không còn sở hữu nữa, cô ấy có thể đi với ai đó khác. Cô ấy vẫn còn sống động, cô ấy có thể đi. Chỉ người phụ nữ chết mới không đi; cô ấy vẫn còn sống động. Bạn có thể sở hữu chỉ mỗi cái xác - thế thì không có sợ hãi, cái xác vẫn đấy. Bạn có thể sở hữu đồ đạc, thế thì không có sợ hãi. Nhưng khi bạn cố gắng sở hữu con người thì sợ hãi tới. Ai mà biết được, hôm qua cô ấy còn chưa phải là của bạn, hôm nay cô ấy là của bạn... Ai mà biết được - ngày mai cô ấy sẽ là của ai đó khác. Sợ hãi nảy sinh. Sợ hãi đang nảy sinh từ ham muốn sở hữu, nó là sản phẩm phụ; bởi vì bạn muốn sở hữu, do đó mới có sợ hãi. Nếu bạn không muốn sở hữu, thế thì không có sợ hãi. Nếu bạn không có ham muốn rằng bạn sẽ thích được là cái này cái nọ trong tương lai, thế thì không có sợ hãi. Nếu bạn không muốn lên cõi trời thì chẳng có sợ hãi, thế thì tu sĩ không thể làm cho bạn sợ được. Nếu bạn không muốn đi bất kì đâu, thế thì không ai có thể làm bạn sợ được.
Nếu bạn bắt đầu sống trong khoảnh khắc này, sợ hãi biến mất. Sợ hãi tới qua ham muốn. Cho nên về cơ bản, ham muốn tạo ra sợ hãi. Nhìn vào trong nó đi. Bất kì khi nào có sợ hãi, nhìn vào chỗ nó đang tới - ham muốn gì đang tạo ra nó – và thế rồi thấy cái vô ích của nó. Làm sao bạn có thể sở hữu người đàn bà hay đàn ông được? Đấy là ý tưởng ngu đần thế, xuẩn ngốc thế. Người ta chỉ sở hữu được các vật, không sở hữu được con người.
Con người là tự do. Con người đẹp đẽ bởi vì tự do. Con chim đẹp đẽ tung cánh trên bầu trời: bạn nhốt nó vào lồng - nó không còn là cùng con chim đó nữa. Bầu trời đâu rồi? Mặt trời đâu rồi? Các cơn gió đâu rồi? Những đám mây đâu rồi? Tự do trên đôi cánh đâu rồi? Tất cả đã biến mất. Đây không phải là cùng con chim ấy nữa. Bạn yêu người đàn bà bởi vì cô ấy tự do. Thế rồi bạn nhốt cô ấy lại: thế rồi bạn đến toà án và bạn cưới nhau, và bạn làm một cái lồng đẹp, có thể là bằng vàng, khảm cả kim cương, bao quanh cô ấy, nhưng cô ấy không còn là cùng người phụ nữ đó nữa. Và bây giờ sợ hãi tới. Bạn sợ, sợ bởi vì người phụ nữ này có thể không thích cái lồng đó. Cô ấy có thể ao ước được tự do trở lại. Và tự do là giá trị cuối cùng, người ta không thể loại bỏ nó.
Con người tạo nên từ tự do, tâm thức tạo nên từ tự do. Cho nên chẳng chóng thì chầy người phụ nữ sẽ bắt đầu cảm thấy chán, chán ngấy. Cô ấy sẽ bắt đầu đi tìm ai đó. Bạn sợ. Sợ hãi của bạn tới bởi vì bạn muốn sở hữu - nhưng tại sao ngay từ đầu bạn muốn sở hữu? Đừng sở hữu, và thế thì không có sợ hãi. Và khi không có sợ hãi, nhiều năng lượng bị vướng vào, bị cột vào, bị khoá vào trong sợ hãi lại thành có sẵn, và năng lượng đó có thể trở thành sáng tạo của bạn. Nó có thể trở thành điệu vũ, lễ hội.
Bạn sợ chết sao? Phật nói: Bạn không thể chết được, bởi vì ngay chỗ đầu tiên, bạn không có đó. Làm sao bạn có thể chết được? Nhìn vào bản thể mình, đi sâu vào trong nó đi. Nhìn xem, ai có đó để mà chết? - Và bạn sẽ chẳng tìm thấy bất kì bản ngã nào ở đó cả. Không có khả năng nào cho cái chết cả. Duy nhất ý tưởng về bản ngã là tạo ra sợ hãi chết. Khi không có bản ngã thì không có cái chết. Bạn là im lặng hoàn toàn, bất tử, vĩnh hằng – không phải như bạn, mà là như bầu trời rộng mở, không bị ô uế bởi bất kì ý tưởng nào về cái ‘tôi’ cả, về cái ngã – không bờ bến, không xác định. Thế thì không có sợ hãi.
Sợ hãi tới bởi vì có các thứ khác, Ramananda à. Bạn sẽ phải nhìn vào trong những thứ này, và việc nhìn vào trong chúng sẽ bắt đầu làm thay đổi mọi thứ. Cho nên xin đừng hỏi làm sao có thể làm chủ hay làm tiêu tan nó. Nó không bị làm chủ, nó không bị tiêu tan đâu. Nó không thể bị làm chủ được và nó không thể bị tiêu tan được; nó chỉ có thể được hiểu. Hãy để hiểu biết là luật duy nhất của bạn đi.
Đủ cho hôm nay.