Chương 8. Chiều hướng bí truyền của mật tông

Chương 8. Chiều hướng bí truyền của mật tông

Price:

Read more

Osho - Thiền động (Đi tìm điều huyền bí - Tập 2)
Chương 8. Chiều hướng bí truyền của mật tông

Thầy đã nói rằng khác biệt giữa nam và nữ chấm dứt với thể thứ năm. Làm sao các cực điện dương và âm của bốn thể đầu lại trở nên được điều chỉnh để đem lại biến cố này? Xin thầy giải thích chi tiết điều này.
Trong hoàn cảnh của các thể nam và nữ, bạn đã được nghe rằng thể thứ nhất của nữ là thể nữ tính trong khi thể thứ hai lại là nam tính, và đích xác điều ngược lại là trong trường hợp cho nam giới. Thế thì thể thứ ba của đàn bà lại là nữ tính và thể thứ tư là nam tính. Tôi đã nói với các bạn trước đây rằng thể nữ tính là không đầy đủ; thể nam tính cũng vậy. Hai thể này đi đôi với nhau tạo nên một thể trọn vẹn. Sự hợp nhất này là có thể theo hai cách. Nếu đàn ông bên ngoài tổ hợp với đàn bà bên ngoài, cùng nhau họ tạo ra một đơn vị. Với đơn vị này công việc của sinh sản, của tự nhiên được tiếp diễn. Nếu đàn ông hay đàn bà quay vào trong và hợp nhất với nữ hay nam bên trong, một cuộc hành trình khác bắt đầu mà chính là con đường hướng tới điều thiêng liêng. Tuy nhiên hợp nhất bên ngoài là cuộc hành trình hướng tới tự nhiên.
Khi thể thứ nhất của nam gặp thể thứ hai của anh ấy, thể ê te vốn là nữ tính, hai thể này tạo thành một đơn vị. Khi thể thứ nhất của nữ gặp gỡ với thể thứ hai của cô ấy, thể ê te mà vốn là yếu tố nam, chúng cũng tạo ra một đơn vị. Đây là hợp nhất kì diệu. Hợp nhất bên ngoài chỉ có thể là nhất thời. Nó cho một thời kì hoan lạc rất ngắn ngủi, thế rồi nỗi buồn của sự phân tách lớn hơn vô hạn. Và nỗi buồn này đem tới khao khát mới mẻ cho cùng một hoan lạc mà lại tỏ ra nhất thời; thế rồi lại có chia li lâu dài và đau khổ. Cho nên hoan lạc bên ngoài chỉ có thể là tạm thời trong khi hợp nhất bên trong kéo dài mãi mãi. Một khi nó xảy ra, nó chẳng bao giờ ngắt quãng.
Do đó, chừng nào mà hợp nhất bên trong còn chưa xảy ra, vẫn còn nỗi buồn và nỗi đau. Luồng hạnh phúc bắt đầu tuôn chảy bên trong ngay khi hợp nhất bên trong xảy ra. Hoan lạc này cũng tương tự như điều được kinh nghiệm một cách nhất thời trong hợp nhất bên ngoài xảy ra trong khi làm tình - hợp nhất quá nhỏ bé ngắn ngủi đến mức nó gần như bị trôi qua trước khi nó bắt đầu. Nhiều lần nó thậm chí còn không được kinh nghiệm qua; nó xảy ra mau lẹ đến mức là nó chẳng được kinh nghiệm chút nào.
Theo quan điểm của yoga, khi giao hợp bên trong trở thành có thể, bản năng về giao hợp bên ngoài lập tức biến mất. Lí do là ở chỗ hợp nhất bên trong này hoàn toàn thoả mãn và mãn nguyện. Những hình ảnh về giao cấu được vẽ trên tường các đền là những chỉ dẫn theo hướng này.
Giao hợp bên trong là quá trình thiền. Do đó, đối lập nảy sinh giữa khái niệm về giao hợp bên trong và bên ngoài. Điều này là do sự kiện là một khi người ta đi vào giao hợp bên trong, sẽ mất tất cả mối quan tâm tới giao hợp bên ngoài.
Điều này cũng nên nhớ: khi người nữ hợp nhất với thể ê te nam tính của mình, đơn vị kết quả sẽ là nữ tính; khi người nam kết hợp với thể ê te nữ tính của mình, đơn vị kết quả là nam tính. Điều này là bởi vì thể thứ nhất hấp thu thể thứ hai: thể thứ hai gộp vào trong thể thứ nhất. Nhưng bây giờ các thể này là nam tính và nữ tính theo nghĩa rất khác. Đấy không phải là đàn ông bên ngoài và đàn bà bên ngoài mà chúng ta vẫn thấy: đàn ông bên ngoài là không đầy đủ, và do đó không thoải mái, không thoả mãn. Đàn bà bên ngoài cũng không đầy đủ, và do đó bất ổn, không mãn nguyện.
Nếu chúng ta xem xét lại sự phát triển của cuộc sống trên trái đất, chúng ta sẽ thấy rằng trong những tổ chức nguyên thuỷ, cả hai tính đực và cái đều hiện diện. Chẳng hạn, con amip: con amip nửa đực nửa cái. Do đó, không có sinh vật nào khác còn được thoả mãn hơn trên thế giới này. Không có những điều như không hài lòng nảy sinh trong con amip. Đây cũng là lí do tại sao nó lại không phát triển được: nó bao giờ cũng cứ còn là con amip. Cho nên chính những tổ chức sơ cấp trong sự phát triển sinh học không có các thể tách rời cho từng giới. Cả đực và cái cùng được chứa trong một thân thể.
Khi thể thứ nhất của đàn bà hợp nhất với thể ê te, nam tính của cô ấy, một người đàn bà mới đi vào hiện hữu, một người đàn bà trọn vẹn. Chúng ta không có ý tưởng nào về nhân cách của người đàn bà trọn vẹn bởi vì tất cả các đàn bà chúng ta biết đều không trọn vẹn. Chúng ta chẳng có ước lượng nào về người đàn ông trọn vẹn bởi vì tất cả những người đàn ông chúng ta biết đều không trọn vẹn; tất cả họ chỉ là một nửa. Ngay khi đơn vị này được hoàn tất, thoả mãn tối cao tràn ngập - thoả mãn mà trong đó tất cả những không bằng lòng đều giảm đi và cuối cùng biến mất. Bây giờ sẽ khó cho người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn này thiết lập bất kì mối quan hệ bên ngoài nào, bởi vì ở bên ngoài chỉ có nửa đàn ông và nửa đàn bà mà với những người này, nhân cách của họ không cảm thấy hài hoà. Tuy nhiên, lại có thể cho người đàn ông hoàn hảo - người có hai thể đầu đã hợp nhất bên trong - tạo nên mối quan hệ với người đàn bà hoàn hảo, người có hai thể đầu cũng đã hợp nhất.
Mật tông đã thử nhiều thực nghiệm cho mối quan hệ này. Do đó, mật tông đã phải đi qua rất nhiều phiền nhiễu và hiểu lầm. Chúng ta không thể nào hiểu được người theo mật tông làm gì - một cách tự nhiên điều ấy vượt ra ngoài hiểu biết của chúng ta. Khi người đàn bà và người đàn ông được hợp nhất với thể bổ sung bên trong mà làm tình dưới hoàn cảnh mật tông, chẳng có gì khác hơn việc giao hợp bình thường đối với chúng ta cả. Chúng ta chẳng bao giờ đánh giá được điều gì đã xảy ra.
Nhưng đây là một loại biến cố rất khác thường, và điều này là giúp đỡ rất lớn lao cho người tìm kiếm. Nó có ý nghĩa trọng đại với người đó. Việc hợp nhất bên ngoài của người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn là việc bắt đầu cho gặp gỡ mới; nó là cuộc hành trình hướng về hợp nhất mới. Một loại hành trình đã qua đi: người đàn bà không đầy đủ và người đàn ông không đầy đủ đã được làm thành đầy đủ. Sự bình ổn mãn nguyện đặc biệt đã được đạt tới, bởi vì bây giờ không còn ý nghĩ về ham muốn.
Khi người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn gặp nhau theo cách này, lần đầu tiên họ kinh nghiệm phúc lạc của việc hợp nhất của hai sự hiện hữu. Thế thì họ bắt đầu hiểu rằng nếu một sự hợp nhất hoàn hảo như thế có thể xảy ra bên trong họ, sẽ có dòng thác phúc lạc vô biên. Người nửa đàn ông hưởng thú việc hợp nhất với nửa đàn bà; thế rồi người đó hợp nhất với nửa đàn bà bên trong mình và người đó kinh nghiệm niềm phúc lạc vô hạn. Thế rồi người đàn ông trọn vẹn hợp nhất với người đàn bà trọn vẹn. Thế thì điều logic là người đó nên lên đường đạt tới người đàn bà trọn vẹn bên trong mình, cho nên người đó lên đường tìm kiếm người đàn bà trọn vẹn bên trong nơi sự gặp gỡ của các thể thú ba và thứ tư xảy ra.
Thể thứ ba của đàn ông lại là nam tính và thể thứ tư là nữ tính; thể thứ ba của đàn bà là nữ tính và thể thứ tư là nam tính. Mật tông đã chú ý thấy rằng đàn ông không trì trệ lại sau khi đạt tới hoàn thiện thứ nhất. Có nhiều loại hoàn thiện bên trong chúng ta. Hoàn thiện không bao giờ là cản trở, nhưng có nhiều loại hoàn thiện mà lại là không hoàn thiện nếu so với những hoàn thiện tiếp sau còn nằm ở phía trước. Tuy nhiên, chúng là hoàn thiện trong mối quan hệ với những cái chưa hoàn thiện trước đó. Những cái chưa hoàn thiện trước đó có thể biến mất, nhưng chúng ta vẫn không có ý tưởng gì về những hoàn thiện lớn hơn còn nằm ở phía trước. Điều này có thể tạo ra trở ngại.
Do đó, nhiều phương pháp đáng ngạc nhiên đã được phát triển trong mật tông mà không thể nào hiểu ngay được. Chẳng hạn, khi có giao hợp giữa người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn, sẽ không có việc mất năng lượng: không thể mất được, bởi vì từng người đã hình thành nên một mạch trọn vẹn bên trong bản thân mình. Sẽ không có việc tiết ra năng lượng từ các tình nhân; lần đầu tiên họ sẽ kinh nghiệm niềm hoan lạc mà không mất năng lượng.
Hoan lạc được kinh nghiệm trong giao hợp vật lí vào lúc cực thích, bao giờ cũng có theo sau là kinh nghiệm nhọc mệt. Cái tối tăm, cái khổ não, mệt mỏi, ăn năn theo sau với việc mất năng lượng là điều không tránh khỏi. Cực thích trôi qua trong thoáng chốc nhưng việc mất năng lượng lại xảy ra mà phải hai mươi bốn đến bốn mươi tám tiếng  hay  hơn nữa  mới hồi phục lại được. Chừng nào mà năng lượng còn chưa được phục hồi lại, tâm trí vẫn còn tràn đầy bi thảm.
Mật tông đã rút ra những phương pháp kì lạ và phi thường cho việc giao hợp không phóng tinh, và nó đã làm việc rất dũng cảm theo hướng đó. Chúng ta sẽ phải nói riêng về chủ đề này vào một lúc khác nào đó vì thực hành mật tông tạo nên một mạng lưới đầy đủ trong bản thân nó. Và vì mạng lưới này đã bị phá vỡ nên toàn bộ khoa học này dần trở thành bí truyền. Cũng vậy, khó mà nói về thực hành mật tông một cách cởi mở và trực tiếp, bởi vì niềm tin đạo đức của chúng ta đã làm cho điều này thành rất khó khăn. Hơn nữa, những người "khôn ngoan" ngu đần của chúng ta, những người chẳng biết gì nhưng lại có khả năng nói về bất kì cái gì đã làm cho việc gìn giữ sống động bất kì trí huệ quí giá nào thành không thể được. Việc thực hành của mật tông do vậy đã phải bị từ bỏ hoặc bằng không, nó phải được che giấu và những thực nghiệm mật tông phải đi ngầm. Bởi lí do này mà dòng chảy của tri thức mật tông không còn tuôn chảy rõ ràng trong cuộc sống chúng ta.
Việc giao hợp giữa người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn là một loại rất khác biệt hoàn toàn. Đấy là việc giao hợp mà trong đó không có việc mất năng lượng.
Một biến cố hoàn toàn mới xảy ra mà chỉ có thể được hướng dẫn tới. Khi người đàn ông không đầy đủ và người đàn bà không đầy đủ gặp nhau, cả hai cùng trải qua việc mất năng lượng. Phần năng lượng sau việc giao hợp của họ ít hơn rất nhiều so với trước lúc đó.
Hoàn toàn ngược lại là trường hợp hợp nhất  của người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn. Phần năng lượng sau khi giao hợp của họ sẽ còn nhiều hơn trước đó. Năng lượng của cả hai đều tăng lên. Năng lượng này nằm bên trong họ, và nó trở nên được thức tỉnh và kích hoạt bởi việc ở gần bạn tình kia. Trong hành động dục thông thường, việc phóng tinh xảy ra bởi việc tới với nhau của đàn ông và đàn bà. Trong cuộc gặp gỡ thứ hai của người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn, năng lượng cá nhân của riêng họ trở nên thức tỉnh và kích hoạt trong sự hiện diện của người khác; bất kì cái gì còn nằm ẩn bên trong cái ta của riêng từng người đều biểu lộ đầy đủ. Từ biến cố này có hướng dẫn về sự hợp nhất của người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn có thể xảy ra ở bên trong. Sự hợp nhất thứ nhất là hợp nhất của hai con người không hoàn chỉnh. Bây giờ giai đoạn thứ hai của công trình bắt đầu đem tới việc gắn các thể thứ ba và thứ tư.
Thể thứ ba của đàn ông là nam tính và thể thứ tư là nữ tính, thể thứ ba của của đàn bà là nữ tính và thể thứ tư là nam tính. Bây giờ trong việc hợp nhất của thể thứ ba và thứ tư, chỉ nam tính sẽ còn lại bên trong nam; thể thứ ba của anh ta sẽ trở thành nổi bật. Bên trong nữ, nữ tính sẽ thành nổi bật. Thế thì hai nữ trọn vẹn sẽ gộp thành một, bởi vì bây giờ sẽ không có biên giới giữa hai và phân chia chúng. Thể nam là cần để giữ chúng cách ra. Tương tự, giữa hai thể nam, thể nữ là cần có để giữ một khoảng cách giữa chúng.
Khi nữ tính của các thể thứ nhất và thứ hai gặp nữ tính của các thể thứ ba và thứ tư, tại chính khoảnh khắc gặp gỡ chúng sẽ gộp lại làm một. Thế thì người đàn bà đạt tới nữ tính hoàn hảo gấp đôi. Không một nữ tính nào lớn hơn còn có thể có nữa, bởi vì sau điều này, không còn trưởng thành thêm nữa của nữ tính. Đây sẽ là trạng thái nữ hoàn hảo. Đây là người đàn bà hoàn hảo, người không có ham muốn nào cho dù là để gặp người đàn ông hoàn hảo.
Trong tính trọn vẹn đầu tiên có ca tụng về việc gặp gỡ của người trọn vẹn thứ hai, và gặp gỡ này đã tạo ra nhiều năng lượng hơn. Bây giờ điều đó nữa cũng trôi qua. Bây giờ thậm chí đến việc gặp gỡ với Thượng đế cũng sẽ thành vô nghĩa theo một nghĩa nào đó. Bên trong người đàn ông cả hai nam tính sẽ gộp lại thành một. Khi bốn thể hợp nhất lại, cái còn lại trong nam là nam và cái còn lại trong nữ là nữ. Từ thể thứ năm trở đi, không có nam và không có nữ nữa.
Do đó, biến cố xảy ra trong người đàn ông và người đàn bà sau bình diện thứ tư sẽ khác nhau; nó nhất định là như thế. Biến cố thì là một nhưng thái độ của họ đối với nó là khác nhau. Đàn ông vẫn sẽ năng nổ và đàn bà vẫn sẽ buông xuôi. Sau khi đạt tới thể thứ tư, đàn bà buông bỏ hoàn toàn; thậm chí không có đến một li được giữ lại trong buông xuôi của cô ấy. Buông xuôi này, buông bỏ này, sẽ đưa cô ấy tới cuộc hành trình của bình diện thứ năm nơi đàn bà không còn là đàn bà nữa bởi vì để còn là đàn bà, cần phải giữ lại cái gì đó.
Thực tế, chúng ta là cái chúng ta đang là bởi vì chúng ta giữ lại một chút ít của chính mình. Nếu như chúng ta buông bỏ mình hoàn toàn, chúng ta sẽ trở thành cái gì đó mà chúng ta chưa bao giờ là như thế trước đây. Nhưng có việc giữ lại trong sự hiện hữu của người ta vào mọi lúc. Nếu người đàn bà chịu nhượng bộ hoàn toàn ngay cả đối với một người đàn ông bình thường, sẽ có kết tinh bên trong cô ấy và cô ấy sẽ vượt ra ngoài thể thứ tư. Đây là lí do tại sao đàn bà có nhiều lần đi qua thể thứ tư với tình yêu của mình với những người đàn ông rất bình thường.
Từ sati không có ý nghĩa bí truyền nào khác. Sati không có nghĩa là người đàn bà mà mắt không nhìn vào người đàn ông khác; sati có nghĩa là người đàn bà mà không còn nhân tố đàn bà bên trong mình để nhìn vào người đàn ông khác.
Nếu người đàn bà trở thành buông xuôi hoàn toàn trong tình yêu thậm chí với người đàn ông bình thường, cô ấy chẳng phải đi qua cuộc hành trình dài này. Tất cả bốn thể của cô ấy sẽ tổ hợp lại và đứng ngay ở ngưỡng cửa của bình diện thứ năm. Do đó, chính những đàn bà trải qua kinh nghiệm này sẽ nói, "Chồng là Thượng đế." Điều này không có nghĩa là họ thực tại nghĩ rằng chồng là Thượng đế; điều đó có nghĩa là cánh cửa của bình diện thứ năm đã mở ra đối với họ qua trung gian người chồng. Không có sai lầm nào trong điều họ nói; điều họ nói tuyệt đối đúng đắn. Điều mà thiền nhân khác thu được qua nỗ lực lớn lao, cô ấy thu được dễ dàng bằng tình yêu của mình. Tình yêu với một người đưa cô ấy tới trạng thái đó.
Ta hãy lấy trường hợp của Sita: cô ấy thuộc về loại những đàn bà mà chúng ta có thể gọi là sati. Bây giờ việc buông xuôi của Sita là duy nhất. Từ quan điểm của việc buông xuôi, cô ấy là hoàn hảo; việc buông xuôi của cô ấy là toàn bộ. Ravana là người đàn ông không đầy đủ trong khi Sita là người đàn bà trọn vẹn. Sự toả sáng của người đàn bà trọn vẹn là ở chỗ người đàn ông không đầy đủ không dám động tới cô ấy. Người đó thậm chí không thể nhìn thẳng vào cô ấy, và người đó chỉ có thể nhìn người đàn bà không đầy đủ theo con mắt dục tính.
Khi người đàn ông tới người đàn bà về mặt dục, người đàn ông không phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Cái không đầy đủ này của người đàn bà cũng là trách nhiệm không tránh khỏi. Khi người đàn ông chạm có tính dâm dục vào người đàn bà trong đám đông, anh ta cũng chỉ có trách nhiệm một nửa. Người đàn bà mời chào, điều đó cũng có trách nhiệm tương đương. Cô ấy gợi ra điều đó, mời chào điều đó, và bởi vì cô ấy thụ động nên hăm hở của cô ấy chẳng ai để ý tới. Vì người đàn ông là chủ động nên hiển nhiên là anh ta chạm vào cô ấy. Nhưng chúng ta không thể thấy lời mời của phía bên kia cho điều đó.
Ravana thậm chí không thể ngước mắt lên nhìn Sita và Ramana chẳng hiểu ý nghĩa gì về Sita. Vậy mà sau chiến tranh Rama cứ khăng khăng đòi thử lửa đối với Sita để xác minh sự thuần khiết của cô. Sita không chống lại. Nếu như cô ấy từ chối trải qua phép thử, cô ấy sẽ mất tư thế là sati. Cô ấy cũng có thể đòi hỏi rằng cả hai người đều phải đi qua phép thử lửa, bởi vì nếu cô ấy có một mình với người đàn ông khác, Rama nữa cũng lang thang trong rừng một mình - và ai biết được anh ta có thể gặp đàn bà nào!
Nhưng câu hỏi này chưa bao giờ nảy sinh trong tâm trí Sita. Cô ấy sẵn sàng đi qua phép thử lửa. Nếu như cô ấy hỏi về uy quyền của Rama dù chỉ một lần, cô ấy đã rơi khỏi vị thế của mình - bởi vì thế thì việc buông xuôi sẽ không còn là toàn bộ nữa; sẽ có cái gì đó hơi thiếu đi trong nó. Và nếu mà cô ấy đưa ra câu hỏi dù chỉ một lần và rồi đi qua lửa, cô ấy sẽ bị thiêu cháy; cô ấy sẽ bị tổn thương. Nhưng buông xuôi của cô ấy là toàn bộ. Với cô ấy không có người đàn ông khác. Tuy nhiên chúng ta nghĩ đấy là phép màu nên cô ấy đi qua lửa mà không hề hấn gì.
Nếu người bình thường cũng đi qua lửa trong khi ở một trạng thái bên trong đặc biệt, người đó sẽ không bị cháy. Nếu trong trạng thái thôi miên một người được bảo rằng lửa sẽ không thiêu cháy anh ta, anh ta có thể bước vào lửa và không bị cháy.
Một thầy tu khổ hạnh bước trên lửa trong một trạng thái tâm trí đặc biệt khi mạch năng lượng là hoàn toàn ở bên trong người đó. Mạch năng lượng này bị ngắt ra bởi hoài nghi. Nếu một ý nghĩ hoài nghi thoáng qua tâm trí ông ta dù chỉ một lần, nếu ông ấy hoài nghi rằng có thể ông ấy sẽ bị cháy, thế thì mạch bị ngắt và ông ấy nhất định sẽ cháy. Nếu hai thầy tu khổ hạnh nhảy vào trong đống lửa và thấy họ bạn có cảm giác, "Nếu hai người này có thể nhảy vào và không hề hấn gì, làm sao mình có thể cháy được?" thế thì nếu bạn cũng nhảy vào đống lửa đó, bạn cũng sẽ không bị làm sao cả. Một đoàn người vậy có thể đi qua lửa và không bị cháy. Người mà hoài nghi thì sẽ không dám đi vào trong lửa; người đó sẽ đứng ngoài. "Nếu biết bao nhiêu người chẳng làm sao cả, sao lửa lại làm hại mình được?" Cho nên bởi lí do này mà người đó có thể đi qua đống lửa và lửa không hề chạm tới anh ta.
Nếu mạch bên trong chúng ta là trọn vẹn, thậm chí lửa cũng chẳng có cách nào chạm vào chúng ta được. Cho nên nếu lửa không ảnh hưởng tới Sita, điều đó hoàn toàn quan niệm được. Sau phép thử lửa, khi Rama đuổi cô ấy ra khỏi vương quốc, ngay cả thế thì cô ấy cũng chẳng hỏi lại Rama. Cô ấy đã đi qua phép thử lửa để chứng minh sự trong sạch của mình. Nhưng buông xuôi của Sita là toàn bộ, là trọn vẹn đến độ với cô ấy không có lí do gì để hỏi cả.
Nếu người đàn bà trọn vẹn đạt tới sự hoàn thiện của tình yêu với một người, cô ấy sẽ nhảy qua bốn bước đầu của thực hành tâm linh. Với người đàn ông, rất khó bởi vì anh ta không có tâm trí buông xuôi. Nhưng điều thú vị cần biết là ở chỗ ngay cả tính năng nổ cũng có thể là hoàn hảo. Tuy nhiên, với tính năng nổ là hoàn hảo, nhiều điều khác vẫn phải tham gia vào chứ không phải chỉ có một mình bạn. Tuy nhiên trong buông xuôi, bạn một mình chịu trách nhiệm cho sự hoàn hảo của nó và những điều khác chẳng thành vấn đề chút nào. Nếu tôi muốn buông xuôi với ai đó, tôi có thể làm như vậy hoàn toàn mà chẳng cần nói với người đó. Nhưng nếu tôi phải năng nổ hướng tới ai đó, ai đó cũng sẽ phải tham dự vào trong kết quả cuối cùng.
Do đó, trong bài nói của tôi về shaktipat, bạn có thể cảm thấy rằng có điều gì đó hơi thiêu thiếu trong đàn bà, rằng có điều gì đó hơi khó khăn khi có liên quan tới đàn bà. Tôi đã nói với các bạn rằng có những qui tắc bù trừ trong cuộc sống. Trong trường hợp của đàn bà, cái thiếu sót của cô ấy được đền bù bởi khả năng của cô ấy trong buông xuôi. Đàn ông chẳng bao giờ có thể yêu một cách trọn vẹn dù cho người đó yêu ai đó đến đâu. Lí do là ở chỗ anh ta năng nổ và ít có khả năng buông xuôi. Cho nên nếu bốn thể đầu của đàn bà trở nên trọn vẹn và gộp lại trong một đơn vị, cô ấy có thể buông xuôi rất dễ dàng ở bình diện thứ năm. Và khi người đàn bà trong trạng thái thứ tư trải qua hai bước giao hợp bên trong và trở thành hoàn hảo, không sức mạnh nào trên trái đất này có thể ngăn trở con đường của cô ấy. Thế thì không ai ngoại trừ Thượng đế là tồn tại cho cô ấy. Thực tại, người mà cô ấy yêu trong bốn thể đầu của mình cũng đã trở thành Thượng đế cho cô ấy, nhưng bây giờ, dù bất kì cái gì, cũng là Thượng đế cả.
Có một sự kiện đẹp trong cuộc đời của Meera. Một lần cô ấy tới Vrindavan. Tại đó sư coi ngôi đền lớn không nhìn nhận đàn bà, cho nên đàn bà không được phép vào bên trong đền. Chuông trong tay, chìm ngập trong Krishna của mình, thế là Meera đi thẳng vào bên trong. Những người khác trong đền vội vã bảo cô ấy rằng ngôi đền là đóng với đàn bà vì sư không nhìn nhận đàn bà. Với điều này Meera nói, "Điều ấy thật rất kì lạ. Tôi đang có ấn tượng là chỉ có một người đàn ông trên thế giới này - Krishna. Ai là người đàn ông khác người này? Còn có người đàn ông khác sao? Tôi muốn thấy ông ta."
Người ta chạy xô tới sư và kể cho ông ấy về Meera. Khi ông ấy nghe thấy tất cả những điều họ đã nói, ông ấy chạy lại chỗ Meera, quì xuống dưới chân cô, và nói, "Thật là vô nghĩa để gọi cô là đàn bà, người chỉ có một người đàn ông duy nhất. Vấn đề đàn ông và đàn bà đã chấm dứt cho cô. Tôi xin chạm chân cô và xin được tha thứ. Nhìn người đàn bà bình thường tôi cứ coi mình là đàn ông. Nhưng với người đàn bà có phẩm chất như cô, việc là đàn ông của tôi chẳng có nghĩa gì cả."
Khi đàn ông đạt tới thể thứ tư, người đó trở thành người hoàn chỉnh. Người đó sẽ phải trải qua hai bước đi tới để đạt đến hoàn chỉnh này. Từ đó trở đi, không còn đàn bà cho người đó nữa; từ đàn bà chẳng còn mang ý nghĩa gì cho người đó. Bây giờ người đó chỉ còn là một lực năng nổ, cũng giống như đàn bà đã đạt tới tính đàn bà hoàn chỉnh trong thể thứ tư, trở thành năng lượng buông xuôi duy nhất. Bây giờ họ chỉ còn là năng lượng của năng nổ và năng lượng của buông xuôi tương ứng. Bây giờ họ không còn ôm giữ cái tên của đàn ông hay đàn bà; họ chỉ còn là năng lượng.
Tính năng nổ của đàn ông đã phát triển trong nhiều công phu yoga khác nhau và buông xuôi của đàn bà nở hoa trong nhiều con đường khác nhau của bhakti, sùng kính. Buông xuôi trở thành bhakti, năng nổ trở thành yoga. Cả nam và nữ đều là như nhau; không có khác biệt giữa họ bây giờ nữa. Khác biệt giữa đàn ông và đàn bà bây giờ đơn thuần là ở bên ngoài và chỉ áp dụng cho thể vật lí. Bây giờ, dù giọt nước rơi vào trong đại dương hay đại dương rơi vào trong giọt nước, kết quả cuối cùng là một. Giọt của đàn ông sẽ nhảy vào đại dương và hội nhập với nó. Cái giọt của đàn bà sẽ trở thành vực thẳm và gọi toàn bộ đại dương đổ vào cô ấy. Cô ấy sẽ buông xuôi và toàn bộ đại dương sẽ dồn vào trong cô ấy.
Ngay cả bây giờ cô ấy cũng mang tính âm, cô ấy là hoàn toàn âm. Cô ấy là bụng mẹ ôm giữ toàn bộ đại dương bên trong nó. Toàn bộ năng lượng của vũ trụ sẽ đi vào trong cô ấy. Đàn ông, cho dù ở giai đoạn này, cũng không thể nào tiếp nhận được. Người đó vẫn duy trì phẩm chất sức mạnh, cho nên người đó sẽ nhảy và chìm đắm trong đại dương. Trong chiều sâu riêng tư của bản thể mình nhân cách của họ sẽ mang khác biệt nam-nữ - cho đến ngay chính điểm cuối của thể thứ tư.
Tuy nhiên thực tại của bình diện thứ năm hoàn toàn khác biệt. Chỉ linh hồn là còn lại. Không còn bất kì phân biệt gì dựa trên giới tính nữa, và từ đó trở đi cuộc hành trình là như nhau với tất cả mọi người. Cho đến bình diện thứ tư, vẫn còn khác biệt, và điều đó nữa cũng chỉ là vấn đề liệu giọt nước rơi vào trong đại dương hay đại dương rơi vào trong giọt nước. Nhưng kết quả cuối cùng là như nhau. Không có gì khác biệt liệu giọt nước rơi vào trong đại dương hay đại dương rơi vào trong giọt nước. Tuy nhiên cho tới giới hạn cuối cùng của thể thứ tư, khác biệt là rất rõ ràng. Tại đó nếu người đàn bà muốn nhảy vào trong đại dương, cô ấy sẽ tạo ra khó khăn cho chính mình, và nếu người đàn ông muốn buông xuôi, anh ta sẽ tự mình tiếp đất xuống rắc rối. Cho nên bạn nên nhận biết về khả năng của những lỗi lầm như thế.

Trong một bài nói của Thầy, Thầy đã nói rằng giao hợp được kéo dài dẫn tới việc hình thành một mạch điện giữa đàn ông và đàn bà. Mạch này là gì, làm sao nó được hình thành và ích lợi của nó là gì trong mối quan hệ với bốn thể đầu? Cũng vậy, chừng nào còn có liên quan tới đơn độc của thiền nhân, hình thái của biến cố nói trên là gì?
Như tôi đã nói trước đây, đàn bà là một nửa và đàn ông là một nửa. Cả hai đều là năng lượng, cả hai đều là điện. Đàn bà là cực âm, đàn ông là cực dương. Bất kì khi nào cực âm và cực dương của điện gặp gỡ nhau và tạo nên mạch điện, ánh sáng được tạo ra. Ánh sáng này có nhiều loại khác nhau: nó có thể không thấy được chút nào, nó có thể đôi khi mới thấy được, hay nó cũng có thể là thấy được đối với ai đó và không thấy được với người khác. Nhưng mạch điện được tạo thành là như nhau. Nhưng hợp nhất đàn ông và đàn bà nhất thời đến độ ngay khi mạch này được tạo ra, nó bị ngắt ngay. Do đó có những phương pháp và hệ thống kéo dài việc giao hợp. Nếu việc giao hợp vượt quá một giờ rưỡi, có thể thấy mạch điện chạy vòng quanh đôi này. Nhiều bức tranh về điều này đã được chụp ảnh. Có nhiều bộ lạc nguyên thuỷ mà việc hợp nhất dục kéo dài; do đó mạch điện được hình thành.
Thông thường rất khó tìm ra mạch năng lượng này trong thế giới văn minh. Tâm trí càng căng thẳng, giao hợp càng chóng vánh. Xuất tinh xảy ra nhanh hơn khi mà tâm trí căng thẳng. Căng thẳng càng lớn, xuất tinh càng nhanh, bởi vì tâm trí căng thẳng, không tìm kiếm việc giao hợp mà chỉ để tiết xuất. Tại phương Tây dục không có mục đích nào lớn hơn việc hắt hơi. Căng thẳng bị ném đi, tải trọng được dỡ bỏ. Khi năng lượng được tống đi, tải trọng được dỡ bỏ. Khi năng lượng được tống đi, bạn cảm thấy được tiêu tan. Thảnh thơi là một điều, cảm thấy được tiêu tan là điều hoàn toàn khác. Thảnh thơi nghĩa là năng lượng ở bên trong và bạn đang nghỉ ngơi, còn cảm thấy tiêu tan có nghĩa là năng lượng được ném đi và bạn nằm đấy cạn kiệt. Bạn yếu đi với việc mất năng lượng và bạn nghĩ bạn đang thảnh thơi.
Cho nên khi căng thẳng tăng lên ở phương Tây, dục trở thành sự tiết xuất khỏi căng thẳng, việc thoát khỏi sức ép của năng lượng bên trong. Có những nhà tư tưởng ở phương Tây không sẵn sàng coi dục có giá trị gì nhiều hơn hắt hơi. Mũi ngứa, bạn hắt hơi, và do vậy tâm trí được làm nhẹ bớt. Tại phương Tây người ta không sẵn sàng dành cho dục cái gì nhiều hơn điều này. Họ cũng là đúng, bởi vì điều họ đang làm với dục, cũng chẳng nhiều hơn điều này.
Tại phương Đông người ta cũng đang dần đi tới điểm này... bởi vì phương Đông cũng đang trở nên căng thẳng. Đâu đó, trong hang động núi non xa xôi, chúng ta có thể bắt gặp một người không căng thẳng. Người đó sống trong thế giới núi non và suối ngàn, cây cối và rừng rú, cứ như là chưa từng bị nền văn minh động chạm tới. Tại đó, thậm chí bây giờ, mạch năng lượng cũng được hình thành trong giao hợp.
Có những phương pháp mật tông mà với nó bất kì ai cũng có thể tạo ra mạch năng lượng như thế. Kinh nghiệm về mạch này là tuyệt diệu bởi vì chỉ khi mạch năng lượng được hình thành, bạn có được cảm giác về cái một. Cái một này chưa bao giờ được kinh nghiệm tới trước khi hình thành ra mạch này. Ngay khi mạch này được hình thành, đôi lứa tham gia vào giao hợp không còn là hai thực thể tách biệt nữa. Họ trở thành luồng của một năng lượng, một sức mạnh. Cái gì đó được kinh nghiệm khi nó tới rồi đi và xoay vòng; hai thực thể tách biệt biến mất.
Tuỳ theo sự mạnh mẽ của mạch này, ham muốn giao hợp sẽ kém dần và khoảng cách của nó sẽ tăng lên. Có thể xảy ra là một khi mạch này được hình thành, trong một năm tròn người ta có thể không muốn lặp lại giao hợp nữa, bởi vì mãn nguyện đã xảy ra.
Hoặc ta hãy xem xét nó theo cách này: một người ăn thịt rồi nôn ra. Thế thì người này sẽ không có tí gì thoả mãn với bữa ăn cả. Thoả mãn xảy ra không phải bởi ăn thức ăn mà bởi tiêu hoá nó. Nói chung chúng ta cảm thấy rằng hành động ăn đem tới thoả mãn. Nó không phải như vậy; thoả mãn chỉ tới khi thức ăn được tiêu hoá.
Giao hợp có hai kiểu: một kiểu đơn thuần là ăn và kiểu kia là tiêu hoá. Điều nói chung chúng ta vẫn biết như giao hợp, đơn thuần chỉ là ăn và nôn, chẳng có gì được tiêu hoá cả. Nếu cái gì đó được tiêu hoá, thoả mãn của nó sẽ dài và sâu. Tuy nhiên hấp thu xảy ra chỉ khi mạch năng lượng được tạo thành. Mạch năng lượng chỉ ra rằng tâm trí của cả hai bạn tình đã hợp nhất lại và trở nên bị hấp thu vào lẫn nhau. Bây giờ không có hai; họ trở thành một. Có hai thân thể nhưng năng lượng bên trong mỗi người đã trở thành một; năng lượng đã nhảy qua nhảy lại và trộn lẫn vào nhau.
Điều kiện hấp thu dục này để lại trạng thái thoả mãn sâu sắc: đây là điều tôi muốn nói. Nó là rất có ích cho yoga và cho thiền nhân. Nếu giao hợp bên trong đó là có thể cho thiền nhân, nhu cầu về giao hợp trở nên được giảm đi rất nhiều. Thế thì thời kì xen giữa sẽ để cho người đó tự do đi vào cuộc hành trình bên trong. Một khi cuộc hành trình bên trong bắt đầu và giao hợp bên trong xảy ra với người đàn bà hay đàn ông bên trong, người đàn bà bên ngoài trở thành vô dụng, người đàn ông bên ngoài trở thành vô dụng.
Với người đã có gia đình thuật ngữ brachmacharya, vô dục, có nghĩa là hành động giao hợp phải đã mãn nguyện đến mức nó để lại nhiều năm ròng với brachmacharya ở giữa. Một khi thời kì brachmacharya này đã được đạt tới, người tìm kiếm bắt đầu cuộc hành trình bên trong, người ngoài cần cho việc giao hợp phai mờ dần đi.
Tôi đang nói rằng đây là trường hợp cho người có gia đình. Đối với những người đã được điểm đạo thành sannyas, loại sannyas truyền thống, đối với những người không chấp nhận cuộc sống gia đình, ý nghĩa của brachmacharya là antarmaithun, sự hợp nhất dục giữa nam và nữ bên trong. Với họ có nhu cầu về giao hợp bên trong. Một người như vậy sẽ phải trực tiếp bắt đầu tìm phương tiện cho việc giao hợp bên trong, hoặc nếu không, người đó sẽ tránh xa người đàn bà bên ngoài chỉ trên danh nghĩa trong khi tâm trí người đó vẫn cứ đuổi theo đàn bà, và người đó sẽ mất nhiều năng lượng trong nỗ lực tránh né người đàn bà bên ngoài hơn là người đó bị mất bởi việc giao hợp.
Cho nên con đường có chút khác biệt đối với sannyasin truyền thống. Khác biệt chỉ là thế này: việc hợp nhất dục với người đàn bà bên ngoài là bước khởi đầu cho người có gia đình; thế rồi người đó gặp người đàn bà bên trong ở bước thứ hai, trong khi sannyasin truyền thống lại hợp nhất trực tiếp với người đàn bà bên trong bản thân mình. Bước thứ nhất không dành cho người đó.
Do đó, khái niệm truyền thống về sannyas làm cho bất kì ai và mọi người đều thành sannyasin là điều xuẩn ngốc. Thực tại, việc điểm đạo trong sannyas truyền thống chỉ có thể khi chúng ta có thể nhìn vào bên trong một người để xem liệu thể thứ nhất của người đó có trong trạng thái sẵn sàng gặp gỡ với người đàn bà của thể thứ hai của người đó hay không. Nếu quả là như vậy, chỉ thế thì việc điểm đạo thành brachmacharya mới được ban cho; ngoài ra, điều này sẽ chỉ đem tới điên khùng mà không cái gì khác cả.
Nhưng có những người cứ đi điểm đạo một cách bừa bãi. Vị thầy này có một nghìn sannyasin, vị thầy kia có hai nghìn người, và họ chẳng biết họ đang làm gì. Liệu những người họ điểm đạo có sẵn sàng và thích hợp cho việc giao hợp bên trong khi ở các trạng thái thiền không ? Chẳng sẵn sàng chút nào cả - họ thậm chí còn không biết rằng có cái gì giống như giao hợp bên trong nữa. Đây là lí do tại sao, bất kì khi nào một sannyasin truyền thống tới tôi, điều rắc rối sâu sắc và sâu kín nhất của người đó là về dục. Những người có gia đình tôi gặp cũng có rắc rối khác, nhưng tôi chưa bắt gặp một sannyasin truyền thống nào mà điều rắc rối của người đó là ngoài dục.
Dục là một trong nhiều nỗi lo nghĩ của người có gia đình, nhưng nó là một và và chỉ một nỗi ưu phiền của sannyasin truyền thống. Do đó, toàn bộ tâm trí của người đó đều tập trung vào xung quanh điểm này. Thầy của người đó chỉ ra cho người đó nhiều phương thuốc để tự cứu bản thân mình khỏi người đàn bà bên ngoài, nhưng ông ấy cũng chẳng có ý tưởng nào về cách thiền nhân có thể gặp gỡ người đàn bà bên trong. Do đó, vấn đề trở thành không thể nào loại bỏ được người đàn bà bên ngoài. Người đó chỉ có thể tạo ra những lí do để lảng tránh cô ấy - và điều đó là rất rất khó.
Năng lượng sinh học phải di chuyển đi đâu đó. Nếu nó có thể đi vào trong, chỉ thế thì nó mới có thể được ngăn cản khỏi chảy ra ngoài. Nếu nó không đi vào trong, nó nhất định sẽ chảy ra ngoài. Cũng chẳng có gì khác biệt dù người đàn bà là bằng xương bằng thịt hay trong tưởng tượng; nó có thể chảy ra với sự giúp đỡ của người đàn bà tưởng tượng nữa. Điều tương tự cũng xảy ra cho đàn bà, nhưng ở đây lại có chút ít khác biệt giữa hai loại người mà cần phải ghi nhớ trong tâm.
Dục không phải là vấn đề lớn lắm với người tìm kiếm nữ so với người tìm kiếm nam. Tôi có quen biết nhiều ni cô đạo Jaina, và với họ, dục không đặt ra vấn đề lớn. Lí do là ở chỗ dục của đàn bà là thụ động. Một khi nó được thức tỉnh, nó trở thành vấn đề; nếu nó không được thức tỉnh, cô ấy có thể đi qua suốt cuộc đời mà chẳng bao giờ cảm thấy rằng có vấn đề gì.
Đàn bà đòi hỏi được khởi đầu - ngay cả trong dục. Một khi người đàn ông đưa một người đàn bà vào trong dục, năng lượng dâng lên đột ngột bên trong cô ấy. Nhưng nếu điều này không xảy ra, cô ấy có thể vẫn còn là đồng trinh cả đời. Điều này rất dễ dàng với cô ấy bởi vì bản tính thụ động của cô ấy. Tâm trí riêng của cô ấy không năng nổ; cô ấy có thể chờ đợi và chờ đợi vô hạn định. Bởi lí do này mà tôi cảm thấy rằng thật nguy hiểm khi điểm đạo cho đàn bà đã có chồng chừng nào mà cô ấy còn chưa được dạy để hợp nhất với người đàn ông bên trong mình.
Một cô gái trinh, có thể được điểm đạo. Cô ấy ở vị trí tốt hơn là cậu thanh niên. Cô ấy có thể chờ đợi vô hạn định cho tới khi cô ấy được đưa vào dục, bởi vì cô ấy không năng nổ. Và bằng không có sự năng nổ từ bên ngoài, dần dần người đàn ông bên trong sẽ bắt đầu hợp nhất với người đàn bà bên ngoài. Thể thứ hai của cô ấy là thể nam vốn mang tính năng nổ.
Cho nên việc giao hợp bên trong, dễ dàng đối với đàn bà hơn rất nhiều so với đàn ông. Bạn có hiểu điều tôi muốn nói gì không? Thể thứ hai của đàn bà là nam tính và thể này là năng nổ. Do đó, cho dù nếu người đàn bà không tìm được người đàn ông bên ngoài, cũng chẳng thành vấn đề gì với cô ấy cả. Và nếu cô ấy không kinh nghiệm về dục từ nguồn bên ngoài, người đàn ông bên trong sẽ bắt đầu thành năng nổ. Thể ê te của cô ấy sẽ bắt đầu choán lấy cô ấy; thế thì cô ấy sẽ quay vào trong và trở nên chìm vào trong việc giao hợp bên trong.
Với người đàn ông việc giao hợp bên trong là khó khăn, bởi vì thể năng nổ của người đó là thể thứ nhất trong khi thể thứ hai của người đó lại là nữ tính. Thể này không thể nào tự khẳng định mình đối với thể thứ nhất. Chỉ khi thể thứ nhất đi với nó, nó mới đón nhận.
Đấy là tất cả những khác biệt, và một khi chúng được hiểu rõ, chúng ta sẽ phải thay đổi tất cả những thu xếp của mình. Nếu người có gia đình thành công trong việc tạo ra mạch điện trong giao hợp, điều đó sẽ rất có ích cho người đó. Cùng mạch năng lượng này sẽ được hình thành trong trường hợp giao hợp bên trong nữa. Mạch năng lượng này bao quanh một người bình thường chỉ vào lúc giao hợp bình thường. Cùng năng lượng đó sẽ bao quanh người đã hợp nhất với thể thứ hai của mình trong hai mươi bốn giờ một ngày. Vòng năng lượng này sẽ trở nên ngày một rộng hơn tại mọi bình diện.
Không một hình ảnh nào được tạo ra về Phật trong suốt năm trăm năm sau cái chết của ông ấy, và loại hiện tượng này đã xảy ra nhiều lần trong suốt lịch sử. Thay vào đó là tấm ảnh về cây bồ đề đã được khắc và được tôn thờ trong các đền, nhưng chỗ dưới gốc cây nơi người ta cho rằng Phật đã ngồi, bị bỏ trống. Bây giờ những người nghiên cứu lịch sử và huyền học đều rất phải suy nghĩ về việc tại sao ảnh Phật lại không được khắc hoạ: tại sao Phật được tượng trưng bằng một cây? Và tại sao hình ảnh của ông ấy mãi năm trăm năm sau mới được lập nên? Tại sao chỗ dưới gốc cây lại được để trống vào thời đó? Đây là bí ẩn mà cả các nhà lịch sử và các nhà huyền môn chẳng thể giải quyết nổi.
Thực tế, những người đã quan sát Phật rất kĩ lưỡng đều nhận xét rằng khi quan sát ông ấy với sự chú ý tập trung vào một điểm, không thể thấy được Phật: chỉ có cây và hào quang của năng lượng là còn lại. Thể vật lí của ông ấy biến mất. Bây giờ, chẳng hạn, nếu bạn quan sát tôi thật tinh tường, tôi nữa cũng sẽ biến mất và chỉ còn lại cái ghế. Cho nên những người thấy ông ấy một cách sâu sắc đều nói rằng không thể thấy được Phật, nhưng những người không thấy, lại nói rằng có thể thấy được ông ấy. Tuy nhiên, phát biểu của người trước thì xác thực hơn. Trong năm trăm năm lời của những người nói rằng Phật không bao giờ thấy được, và rằng chỉ có cái cây và chỗ trống dưới gốc cây, vẫn được tôn trọng. Nhưng khái niệm này chỉ có tác dụng chừng nào mà có những người có thể thấy được sâu sắc. Khi phẩm chất của những người này bắt đầu giảm đi, người ta sẽ khó mà tôn thờ một mình cái cây mà không có Phật. Năm trăm năm sau Phật thần tượng của ông ấy đã được thiết lập. Đây là một sự kiện rất thú vị.
Những người đã nhìn sâu sắc vào Jesus cũng đều không thể thấy được ông ấy; họ chỉ có thể thấy ánh sáng. Những người thấy Mahavira sâu sắc cũng chỉ thấy ánh sáng, sự việc cũng tương tự cho Krishna nữa. Nếu người ta quan sát người có phẩm chất này với sự tỉnh táo hoàn toàn, chỉ ánh sáng của năng lượng là thấy được; không người nào như thế lại thấy được ở đó.
Cứ sau mỗi hai thể, năng lượng sống lại tăng lên. Sau thể thứ tư nó đạt tới độ đầy đủ. Tại thể thứ năm, chỉ có năng lượng. Tại thể thứ sáu năng lượng này sẽ xuất hiện không tách biệt mà là một với các ngôi sao và bầu trời. Tại bình diện thứ bẩy ngay cả điều này cũng biến mất. Ban đầu vật chất biến mất, rồi đến năng lượng biến mất.

Tại bình diện nào thiền nhân đạt tới trạng thái vô suy nghĩ? Liệu ý nghĩ có thể không đồng nhất tâm thức với các vật hay việc đồng nhất là bản chất của ý nghĩ?
Trạng thái vô suy nghĩ hoàn hảo được đạt tới ở thể thứ năm nhưng những thoáng nhìn nhỏ bắt đầu từ thể thứ tư. Suy nghĩ tiếp tục trong thể thứ tư nhưng người ta bắt đầu quan sát thấy lỗ hổng giữa hai ý nghĩ. Trước thể thứ tư có toàn những ý nghĩ và chỉ có ý nghĩ; chúng ta không thấy lỗ hổng giữa các ý nghĩ. Trong thể thứ tư các khoảng hở bắt đầu xuất hiện và sự nhấn mạnh đã thay đổi. Nếu bạn quan sát những hình ảnh động thái, bạn sẽ có thể hiểu được sự thay đổi này. Giả sử có một bức tranh các bậc thang, nó có thể được vẽ sao cho nếu bạn nhìn chăm chú bạn sẽ thấy bậc thang đi lên; thế rồi nếu bạn nhìn lại bạn sẽ thấy bậc thang đi xuống. Nhưng phần thú vị nhất là ở chỗ bạn không thể nào quan sát bậc thang đi lên và đi xuống đồng thời. Bạn chỉ có thể thấy một trong hai loại bậc thang này. Khi bạn quan sát bức ảnh thứ hai, bức ảnh thứ nhất sẽ tan biến.
Chúng ta có thể làm một bức ảnh mà trong đó hai khuôn mặt nhìn vào nhau, đối xứng mắt, mũi và râu. Lần đầu tiên nó sẽ có vẻ như hai người đàn ông đang đối mặt với nhau. Bây giờ tô các khuôn mặt đen lại để khoảng trắng chen vào giữa. Bây giờ bạn sẽ thấy rằng có một bình hoa trong khoảng trống ở giữa này, và mũi, mắt trở thành đường viền của bình. Bạn sẽ không thể nào thấy được cái bình và hai khuôn mặt đồng thời. Khi bạn thấy hai khuôn mặt, không thấy cái bình; khi bạn thấy cái bình, các khuôn mặt tan biến. Dù bạn có cố gắng đến đâu để thấy chúng, động thái sẽ thay đổi việc nhấn mạnh của nó. Khi nhấn mạnh của bạn dịch chuyển về phía các khuôn mặt, cái bình sẽ tan biến; khi nhấn mạnh dồn vào cái bình, các khuôn mặt sẽ tan biến.
Cho tới thể thứ ba, động thái của tâm trí chúng ta vẫn còn nhấn mạnh vào ý nghĩ. Rama tới, cho nên Rama là thấy được và việc tới của ông ấy là thấy được. Không gian trống rỗng giữa Rama và việc tới của ông ấy, hay không gian trống rỗng trước việc tới của Rama và sau việc đi của Rama, là không thấy được đối với chúng ta.
Sự nhấn mạnh là vào việc tới của Rama; khoảng trống chen giữa không được quan sát. Sự thay đổi bắt đầu từ thể thứ tư. Bất thình lình sự việc đập vào bạn là việc tới của Rama không còn rất quan trọng nữa. Khi Rama không tới, vẫn có không gian trống rỗng; khi Rama đã đi, vẫn có không gian trống rỗng. Không gian trống rỗng bắt đầu đi vào bên trong hội tụ của tâm trí bạn: khuôn mặt biến mất; cái bình trở thành thấy được. Và khi sự chú ý của bạn dồn vào không gian trống rỗng, bạn không thể nghĩ được.
Bạn chỉ có thể làm một trong hai việc sau: khi mà bạn còn thấy ý nghĩ, bạn sẽ nghĩ, nhưng khi bạn thấy không gian trống rỗng, bạn sẽ là sự trống rỗng bên trong. Tuy nhiên, điều này sẽ thường đan xen trong thể thứ tư. Đôi khi bạn sẽ thấy hai khuôn mặt và đôi khi bạn thấy cái bình: tức là đôi khi bạn sẽ thấy ý nghĩ và đôi khi thấy lỗ hổng. Im lặng sẽ tới và ý nghĩ cũng sẽ tới như thế.
Khác biệt giữa im lặng và trống rỗng chỉ là thế này: im lặng có nghĩa là ý nghĩ còn chưa kết thúc, nhưng nhấn mạnh đã thay đổi. Tâm thức đã dịch chuyển khỏi ý nghĩ và lấy thích thú trong im lặng, nhưng ý nghĩ vẫn còn. Đấy chỉ là tâm thức đã dịch chuyển: chú ý đã dịch chuyển khỏi ý nghĩ. Thế thì chú ý là dồn vào im lặng. Nhưng ý nghĩ đôi khi trở lại - và khi nó xoay xở để lôi kéo chú ý của bạn, lần nữa im lặng lại bị mất và ý nghĩ bắt đầu.
Trong những khoảnh khắc cuối của thể thứ tư tâm trí sẽ thay phiên chuyển giữa cả hai điều này. Trên bình diện thứ năm tất cả các ý nghĩ đều sẽ mất và chỉ im lặng là còn lại. Đây không phải là im lặng tối hậu, bởi vì im lặng này là trong so sánh với ý nghĩ và lời nói. Im lặng có nghĩa là không nói; trống rỗng có nghĩa là trạng thái không có im lặng lẫn lời nói. Không có khuôn mặt nào còn lại mà cũng chẳng có bình hoa; chỉ có giấy trắng. Bây giờ nếu bạn được hỏi liệu các khuôn mặt có đó hay bình hoa có đó, bạn sẽ chẳng nói gì cả.
Trạng thái vô ý nghĩ xuất hiện trong tính toàn bộ của nó ở thể thứ năm. Tại thể thứ tư chúng ta có thoáng nhìn về trạng thái này; nó sẽ được quan sát thấy có rồi mất giữa hai ý nghĩ. Tại thể thứ năm, trạng thái vô ý nghĩ sẽ trở thành hiển nhiên và ý nghĩ sẽ biến mất.
Bây giờ đến phần thứ hai của câu hỏi của bạn là, "Liệu việc đồng nhất có cần thiết cho việc hình thành các ý nghĩ không, hay các ý nghĩ có thể xuất hiện mà không có bất kì sự đồng nhất nào?" Cho tới thể thứ ba, việc đồng nhất và ý nghĩ là cùng đến. Có sự đồng nhất của bạn và có việc ý nghĩ tới: không có khoảng hở giữa cả hai. Ý nghĩ của bạn và bạn là một - không phải hai. Bây giờ khi bạn giận dữ, nói rằng bạn giận dữ là sai. Đúng hơn phải nói là bạn đã trở nên giận dữ, bởi vì để giận dữ, bạn cũng phải có thể không giận dữ. Chẳng hạn, tôi nói, "Tôi đang di chuyển tay." Thế rồi giả sử bạn nói, "Bây giờ dừng tay lại," còn tôi nói, "Điều đó là không thể được; tay vẫn đang di chuyển" - thế thì bạn có thể nghi vấn điều tôi ngụ ý khi tôi nói, "Tôi đang di chuyển tay." Tôi phải nói, "Tay đang di chuyển," bởi vì nếu tôi đang di chuyển tay, tôi phải có khả năng dừng nó lại. Nếu tôi không thể nào dừng tay tôi lại, tôi không thể nào công bố mình là chủ của nó được. Điều đó không có nghĩa. Bởi vì bạn không thể dừng ý nghĩ của mình nên việc đồng nhất của bạn với chúng là trọn vẹn cho tới thể thứ ba. Cho tới đó bạn là ý nghĩ.
Cho nên tới thể thứ ba, bằng việc huých vào ý nghĩ của ai đó là chúng ta huých vào chính bản thân người đó. Nếu tôi bảo một người "Điều anh nói là sai," thì anh ta sẽ chẳng bao giờ cảm thấy rằng điều mình nói là sai; anh ta sẽ cảm thấy anh ta sai. Cãi nhau và đánh nhau xảy ra không phải bởi vì câu nói mà bởi vì cái tôi - bởi vì có sự đồng nhất hoàn toàn. Công kích vào ý nghĩ của bạn tức là công kích vào bạn. Ngay cả nếu bạn nói, "Thôi cũng được nếu bạn không đồng ý với cách nghĩ của tôi,", bên trong bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã bị phản đối. Nhiều lần việc xảy ra là ý tưởng đang tranh luận bị gạt sang bên và chúng ta bắt đầu đánh nhau vì đơn thuần chúng ta đưa ra quan điểm chứ chẳng bởi lí do gì khác. Bạn ủng hộ nó đơn thuần bởi vì bạn đã đưa nó ra như quan điểm của mình - bởi vì bạn đã tuyên bố nó là kinh sách của mình, nguyên tắc của mình, luận cứ của mình.
Cho tới thể thứ ba không có khoảng cách nào giữa bạn và ý nghĩ của mình. Bạn là ý nghĩ. Trong thể thứ tư sự nghiêng ngả bắt đầu. Bạn sẽ bắt đầu thoáng thấy sự kiện là bạn là cái gì đó riêng và ý nghĩ của bạn là cái gì đó riêng. Nhưng cho đến lúc này bạn còn chưa thể dừng lại ý nghĩ của mình, bởi vì sâu bên trong gốc rễ mối liên kết vẫn còn tồn tại. Trên các cành bạn cảm thấy khác biệt. Bạn ngồi trên một cành và ý nghĩ trên cành khác và bạn thấy chúng không phải là bạn. Nhưng sâu bên trong bạn và ý nghĩ vẫn là một. Do đó, dường như ý nghĩ là tách biệt, và cũng dường như là nếu mối liên kết của tôi với chúng mà bị phá vỡ, ý nghĩ sẽ dừng. Nhưng chúng lại cứ không dừng. Tại chiều sâu nào đó mối liên kết với ý nghĩ vẫn tiếp tục.
Thay đổi bắt đầu xảy ra trên bình diện thứ tư. Bạn bắt đầu có được khái niệm mơ hồ về ý nghĩ là khác và bạn là khác. Tuy nhiên, bạn vẫn chưa thể nào tuyên bố ra được điều này, và quá trình suy nghĩ vẫn là máy móc. Bạn không thể nào dừng lại ý nghĩ, mà bạn cũng chẳng đem chúng tới được. Nếu tôi có thể nói với bạn, "Dừng giận dữ lại và chứng tỏ bạn là người chủ," thì người ta cũng có thể nói, "Đem giận dữ tới và chứng tỏ rằng bạn là người chủ." Bạn sẽ hỏi, "Làm sao làm được điều này? Chúng tôi không thể đem giận dữ tới được." Khoảnh khắc bạn có thể làm được điều đó, bạn là người chủ của nó. Thế thì bạn có thể dừng nó lại vào bất kì khoảnh khắc nào. Khi bạn là người chủ, quá trình đem giận dữ tới và chấm dứt nó cả hai đều trong tay bạn. Nếu bạn có thể đem giận dữ tới, bạn cũng có thể dừng nó lại nữa.
Một điều thú vị là để ý rằng việc dừng nó có chút ít khó khăn, nhưng việc đem nó tới lại dễ dàng hơn. Cho nên nếu bạn muốn là người chủ, trước hết bắt đầu với việc đem giận dữ tới, bởi vì điều này dễ dàng hơn. Trong tình huống đem nó tới, bạn đang tĩnh lặng, nhưng trong tình huống phải dừng nó lại, bạn đã giận dữ rồi và do vậy bạn thậm chí không biết đến bản thân mình. Thế thì làm sao bạn dừng nó được? Do đó, bao giờ cũng dễ hơn cả là bắt đầu thực nghiệm này bằng việc đem giận dữ tới thay vì bởi việc dừng nó lại. Chẳng hạn, bạn bắt đầu cười nhưng rồi bạn thấy rằng bạn không thể nào chấm dứt việc cười được; điều ấy là khó. Nhưng nếu bạn đang không cười và bạn muốn đem lại tiếng cười, bạn có thể làm việc đó trong một hoặc hai phút. Thế thì bạn sẽ biết đến bí mật của cái cười - từ đâu nó tới và tới như thế nào - và thế thì bạn sẽ biết cái bí mật của việc dừng nó lại nữa, và nó có thể được dừng lại thật.
Tại bình diện thứ tư bạn sẽ bắt đầu thấy rằng bạn là tách biệt và các ý nghĩ là tách biệt; rằng bạn không phải là ý nghĩ của mình. Do đó, bất kì khi nào trạng thái vô ý nghĩ xuất hiện - như tôi đã nói trước đây - việc chứng kiến cũng tới, và bất kì khi nào có ý nghĩ, việc chứng kiến sẽ mất. Trong khoảng giữa các ý nghĩ - tức là trong lỗ hổng giữa các ý nghĩ - bạn sẽ hiểu việc đồng nhất tách biệt của mình với ý nghĩ. Thế thì không có liên hệ nào giữa bạn và và ý nghĩ. Nhưng ngay cả thế thì bạn cũng vẫn là người quan sát vô dụng. Bạn sẽ không thể nào làm được gì nhiều nhặn cho lắm, mặc cho tất cả những nỗ lực đã được tiến hành chỉ trong thể thứ tư.
Cho nên tôi đã định nghĩa hai khả năng của thể thứ tư - một là khả năng tự nhiên và hai là khả năng thu được qua thiền. Bạn sẽ luân phiên giữa hai khả năng này. Khả năng thứ nhất là ý nghĩ và khả năng thứ hai là hiểu biết. Khoảnh khắc bạn đạt tới tiềm năng thứ hai của thể thứ tư - vivek, hay hiểu biết - thì thể thứ tư sẽ rũ sạch việc đồng nhất tâm thức với tâm trí. Khi bạn đạt tới thể thứ năm, hai điều sẽ bị gạt bỏ: thể thứ tư và sự đồng nhất này.
Trong thể thứ năm bạn có thể đem ý nghĩ tới hay không đem chúng tới, tuỳ ý bạn. Lần đầu tiên ý nghĩ sẽ là phương tiện và sẽ không phụ thuộc vào sự đồng nhất nữa. Nếu bạn muốn đem giận tới, bạn có thể đem giận tới; nếu bạn muốn đem yêu tới bạn có thể làn điều đó. Nếu bạn không muốn đem bất kì cái gì, bạn được tự do không làm như vậy. Nếu bạn muốn dừng giận mà mới thành hình một nửa, bạn có thể ra lệnh cho nó dừng lại. Bất kì ý nghĩ nào bạn muốn đem tới, sẽ tới với bạn, và cái mà bạn không muốn đem tới sẽ không có bất kì sức mạnh gì để choán ngập tâm trí bạn.
Có nhiều hoàn cảnh như thế trong cuộc đời của Gurdjieff. Người ta coi ông ấy như một người lập dị. Nếu hai người ngồi trước ông ấy, ông ấy sẽ nhìn vào một người với giận dữ nhất và nhìn vào người kia với thương mến nhất. Ông ấy thay đổi cách bầy tỏ tình cảm nhanh chóng đến nỗi hai người mang hai báo cáo khác nhau về ông. Mặc dầu cả hai người cùng gặp ông ấy, một người sẽ nói, "Ông ấy trông như một người nguy hiểm," trong khi người kia, nói, "Ông ấy đáng yêu làm sao." Điều này rất dễ dàng ở bình diện thứ năm. Gurdjieff đã vượt ra ngoài cách hiểu biết của mọi người quanh ông. Ông ấy có thể ngay lập tức đem lại bất kì cách diễn đạt thái độ nào trên vẻ mặt. Chẳng có khó khăn gì đối với ông ấy trong việc này, nhưng lại là khó khăn với người khác.
Lí do nằm sau điều này là ở chỗ trong thể thứ năm, bạn là người chủ của chính mình; bạn có thể đem lại bất kì cảm giác nào bạn thích. Thế thì giận dữ, yêu thương, hận thù, tha thứ, tất cả những ý nghĩ của bạn, đều đơn thuần trở thành trò chơi; do đó, bạn có thể thảnh thơi khi bạn thích. Thảnh thơi sau trò chơi là rất dễ dàng nhưng thảnh thơi trong cuộc sống là khó khăn. Nếu tôi chỉ chơi đùa với giận dữ, tôi sẽ không ở trong giận dữ sau khi bạn đã rời khỏi phòng. Nếu tôi đang chơi trò chơi nói chuyện, tôi sẽ không nói nữa khi bạn đi. Nhưng nếu việc nói là hơi thở cuộc đời của tôi, thế thì tôi sẽ cứ nói ngay cả khi bạn đã bỏ đi. Thậm chí không có ai nghe cả, tôi sẽ nghe. Tôi sẽ cứ nói bởi vì đó là chính cuộc đời tôi; nó không phải là trò chơi mà sau đó tôi có thể thảnh thơi. Nó chính là cuộc đời tôi, nó choán trong tôi. Cho nên một người như vậy sẽ nói thậm chí cả vào ban đêm. Trong giấc mơ người đó cũng tụ tập đám đông và nói. Trong giấc mơ người đó cũng cãi nhau, người đó sẽ đánh nhau và làm tất cả những gì người đó đã làm lúc ban ngày. Người đó sẽ cứ làm điều này cả hai mươi bốn giờ, bởi vì đấy là cuộc sống của người đó, đấy là chính sự tồn tại của người đó.
Sự đồng nhất của bạn bị phá vỡ ở thể thứ năm. Thế thì lần đầu tiên bạn được an bình, bạn là trống rỗng, bởi ý chí tự do riêng của bạn. Nhưng khi nhu cầu nảy sinh, bạn cũng nghĩ. Cho nên trong thể thứ năm, lần đầu tiên, bạn sẽ đem năng lực suy nghĩ của mình ra dùng. Đúng hơn, nên nói rằng trước thể thứ năm ý nghĩ sử dụng bạn; sau thể thứ năm bạn dùng ý nghĩ. Trước đó nói "tôi nghĩ" là không đúng. Trong thể thứ năm bạn cũng đi tới nhận ra rằng ý nghĩ của bạn, không phải là của bạn: ý nghĩ của mọi người quanh bạn đi vào tâm trí bạn. Tuy nhiên, bạn thậm chí không biết rằng ý nghĩ mà bạn nghĩ là của riêng mình, có thể là của ai đó khác.
Một Hitler được sinh ra và toàn bộ nước Đức bị thấm đẫm ý nghĩ của ông ta - nhưng từng người Đức lại cảm thấy rằng đấy là ý nghĩ của riêng mình. Một người rất năng động, lan truyền ý nghĩ của mình vào tâm trí của những người khác và họ trở thành tiếng vọng của cùng một điều. Thuyết động lực học là nghiêm chỉnh vì nó sâu sắc. Chẳng hạn, đã hai nghìn năm trôi qua kể từ khi Jesus chết. Sóng ý nghĩ mà ông ấy đã để lại trên thế giới này vẫn còn ăn sâu vào tâm trí những người Ki tô giáo, người nghĩ rằng đấy là ý nghĩ của riêng mình. Điều tương tự cũng là trường hợp của Mahavira, Phật, Krishna và những người khác. Bất kì loại ý nghĩ nào của người năng động, dù họ là người thiện hay người ác, cũng đều ảnh hưởng vào tâm trí con người. Ảnh hưởng của Tamerlane và Genghis Khan lên tâm trí chúng ta không bớt đi mà ảnh hưởng của Krishna và Rama cũng chẳng kém đi. Sóng ý nghĩ của họ chuyển động mãi mãi quanh chúng ta, và bạn có thể bắt được những sóng ý nghĩ này, cái đưa đến trạng thái tâm trí đặc biệt của chúng ta.
Điều bao giờ cũng xảy ra là một người rất hiền vào buổi sáng lại trở thành ác vào buổi trưa. Vào buổi sáng người đó đi trong sóng của Rama; đến trưa người đó có thể bị sóng của Genghis Khan chụp lấy. Tính tiếp nhận và thời gian tạo ra khác biệt. Những người ăn xin bao giờ cũng đi ăn xin vào buổi sáng, bởi vì tác động của những rung động ác là tối thiểu vào lúc mặt trời lên. Khi ngày qua đi và khi mặt trời mệt mỏi bởi cuộc hành trình dài trên bầu trời, ảnh hưởng của những rung động đó lại thu được sức mạnh, cho nên người ăn xin chẳng hi vọng vào lòng từ thiện của người khác vào buổi tối. Nếu người ăn xin hỏi xin hai ru pi của một người vào buổi sáng sớm, người đó sẽ không thể từ chối thẳng cánh được; khi ngày qua đi, khó mà nói có cho người ăn xin. Đến tối người này mệt mỏi với cả ngày làm việc cho nên bây giờ người đó được chuẩn bị hoàn toàn để từ chối. Điều kiện tâm trí của người này bây giờ hoàn toàn khác; cho nên đấy cũng là do toàn bộ bầu không khí bao quanh người này. Cho nên ý nghĩ mà chúng ta cảm thấy là của chúng ta, cũng chẳng thuộc vào chúng ta.
Điều này bạn sẽ kinh nghiệm thấy chỉ trong thể thứ năm và bạn sẽ ngạc nhiên mà thấy cách thức các ý nghĩ đến và đi. Ý nghĩ đến, rồi lại đi; nó ảnh hưởng lên bạn, rồi nó bỏ lại bạn một mình. Có hàng nghìn loại ý nghĩ - và rất mâu thuẫn với nhau nữa; do đó, có lẫn lộn trong tâm trí chúng ta. Từng người đều lẫn lộn. Nếu ý nghĩ của bạn thuộc về bạn hoàn toàn, không có vấn đề về lẫn lộn. Một tay bạn bị ảnh hưởng bởi Genghis Khan và tay kia, bị ảnh hưởng bởi Krishna, cho nên nhất định là có lẫn lộn. Cả hai luồng ý nghĩ này đều nằm chờ bạn, và ngay khi bạn bộc lộ sự sẵn sàng của mình, chúng sẽ đi vào. Chúng hiện diện khắp xung quanh bạn.
Tất cả những điều này bạn sẽ nhận ra khi sự đồng nhất của bạn với các ý nghĩ bị phá vỡ hoàn toàn. Thay đổi lớn nhất sẽ là ở chỗ từ trước đó cho đến lúc này bạn không có ý nghĩ, nhưng bây giờ bạn sẽ có việc suy nghĩ. Có khác biệt giữa hai điều này. Ý nghĩ là các nguyên tử: chúng tới và đi và chúng bao giờ cũng là xa lạ. Nói rằng ý nghĩ bao giờ cũng xa lạ là hoàn toàn đúng đắn. Việc suy nghĩ là của chúng ta, nhưng ý nghĩ là xa lạ. Việc suy nghĩ này sẽ bắt đầu bên trong bạn sau thể thứ năm. Thế thì bạn sẽ có khả năng suy nghĩ; bạn sẽ không còn đơn thuần là việc tích tụ ý nghĩ của người khác. Do đó, việc suy nghĩ ở thể thứ năm không bao giờ là gánh nặng lên bạn, bởi vì nó là của riêng bạn. Việc suy nghĩ này được sinh ra trong thể thứ năm có thể được gọi là trí huệ hay hiểu biết hay bất kì cái gì bạn thích gọi nó.
Tại bình diện thứ năm bạn có trực giác riêng của mình, hiểu biết riêng của mình, thông minh riêng của mình. Tại bình diện thứ năm ảnh hưởng của tất cả các ý nghĩ bên ngoài sẽ chấm dứt, và theo nghĩa này bạn sẽ là người chủ của chính mình; bạn sẽ đạt tới bản thể của mình; bạn sẽ trở thành cái ta của mình. Bây giờ bạn sẽ có ý nghĩ riêng của mình, quyền năng suy nghĩ riêng của mình, con mắt riêng của mình và tầm nhìn riêng của mình. Sau điều này, chỉ cái bạn muốn mới tới với bạn; cái bạn không muốn sẽ không bao giờ tới gần bạn. Bạn có thể nghĩ chỉ điều bạn muốn nghĩ; các ý nghĩ khác không thể choán ngập bạn. Bây giờ bạn sẽ là người chủ. Tại đây vấn đề về sự đồng nhất không nảy sinh.
Trong thể thứ sáu việc suy nghĩ cũng là không cần nữa. Ý nghĩ chỉ cần tới thể thứ tư; suy nghĩ và trí huệ là cần trong thể thứ năm. Trên bình diện thứ sáu thậm chí những điều này cũng đã chấm dứt, bởi vì tại đó chúng chẳng cần tới chút nào. Bạn trở thành vũ trụ; bạn trở thành một với Brahman. Bây giờ không có gì khác.
Thực tế, mọi ý nghĩ bao giờ cũng có quan hệ tới người khác. Các ý nghĩ trước thể thứ tư là móc nối vô ý thức với người khác. Các ý nghĩ của thể thứ năm là móc nối có ý thức nhưng chúng vẫn có liên hệ với người khác. Sau rốt, tại sao các ý nghĩ lại là cần thiết? Chúng là cần chỉ để thiết lập mối quan hệ với người khác. Cho tới thể thứ tư chúng là các móc nối vô ý thức; tại thể thứ năm chúng là các móc nối có ý thức. Nhưng tại thể thứ sáu, không còn có "người khác" để thiết lập móc nối nữa. Tất cả các mối quan hệ đã kết thúc; chỉ còn lại vũ trụ. Tôi và bạn bây giờ là một. Bây giờ không có chỗ nào, không có lí do nào cho ý nghĩ tồn tại.
Thể thứ sáu là Brahman - thực tại vũ trụ, nơi không còn ý nghĩ. Trong Brahman không có ý nghĩ; do đó, có thể nói rằng trong Brahman có việc biết. Thực tại, ý nghĩ mà tồn tại cho tới thể thứ tư là ý nghĩ vô ý thức; chúng chứa dốt nát sâu sắc. Nó biểu lộ rằng chúng ta cần ý nghĩ để đánh nhau với cái tự dốt nát này. Tại thể thứ năm có việc biết tới cái ta bên trong, nhưng chúng ta vẫn còn dốt nát về cái khác với ta; người khác vẫn có đó đối với chúng ta. Do đó, có nhu cầu suy nghĩ trong thể thứ năm. Tại thể thứ sáu, không có bên trong hay bên ngoài nữa, không có tôi hay bạn, không có cái này hay cái kia. Bây giờ không có khoảng cách để biện minh cho ý nghĩ. Bây giờ cái gì có đấy thì có đấy. Do đó, tại thể thứ sáu chỉ có việc biết, không có ý nghĩ.
Tại bình diện thứ bẩy, việc biết cũng không tồn tại, bởi vì người biết không còn nữa và cái mà có thể được biết cũng không còn nữa. Cho nên ngay cả việc biết cũng không có trên bình diện thứ bẩy. Bình diện thứ bẩy không phải là không có việc biết, mà là vượt ra ngoài việc biết. Nếu bạn thích bạn có thể gọi nó là trạng thái của dốt nát nữa. Đó là lí do tại sao bao giờ cũng có trường hợp một người với tâm thức tối thượng và một người hoàn toàn dốt nát dường như là giống hệt nhau - bởi vì hành vi của họ thường là tương tự. Đây là lí do tại sao bao giờ cũng có tương tự lớn giữa trẻ nhỏ và người già người đã đạt tới chứng ngộ: họ thực tế không là một nhưng vẻ bề ngoài, họ dường như giống nhau. Đôi khi một hiền nhân chứng ngộ hành động theo cách thức trẻ thơ; đôi khi trong hành vi của đứa trẻ chúng ta thoáng thấy tính thánh thiện. Đôi khi người chứng ngộ trông như người dốt nát hoàn toàn, đần độn hoàn toàn, và dường như không ai có thể đần độn như ông ta. Nhưng hiền nhân đã vượt ra ngoài tri thức và trẻ nhỏ vẫn còn ở dưới mức tri thức. Tương tự nằm ở sự kiện rằng họ cả hai đều ở ngoài tri thức.

Tại thể nào, người ta đạt được cái mà Thầy vẫn nói là samadhi?
Thực tại có nhiều kiểu samadhi. Một samadhi sẽ xảy ra giữa thể thứ tư và thứ năm. Nhớ lấy, samadhi không phải là biến cố của một bình diện; nó bao giờ cũng xảy ra giữa hai bình diện, nó là thời kì chuyển tiếp, thời kì tranh tối tranh sáng. Người ta rất có thể hỏi liệu lúc tranh tối tranh sáng là thuộc vào ngày hay đêm. Tranh tối tranh sáng chẳng thuộc vào ngày mà cũng chẳng thuộc vào đêm, nó là biến cố giữa ngày và đêm. Cho nên samadhi cũng vậy.
Samadhi thứ nhất xuất hiện giữa bình diện thứ tư và thứ năm. Samadhi này dẫn tới tự hiểu biết, atma gyan. Một samadhi xuất hiện giữa bình diện thứ năm và thứ sáu; lần này dẫn đến brahma gyan - hiểu biết vũ trụ. Samadhi xuất hiện giữa bình diện thứ sáu và thứ bẩy là samadhi dẫn tới niết bàn. Cho nên nói chung có ba samadhi này xuất hiện giữa ba sharira cuối, ba thể cuối.
Có một samadhi giả mà cũng phải nhận ra. Nó xuất hiện trong thể thứ tư, nhưng nó không phải là samadhi mặc dầu nó dường như giống samadhi. Tại Nhật thuật ngữ của thiền phật giáo cho nó là satori tỏ ngộ. Nó là samadhi giả. Nó là trạng thái mà hoạ sĩ hay nhà điêu khắc hay nhạc sĩ đạt tới khi người đó hoàn toàn ngập chìm trong tác phẩm của mình; người đó kinh nghiệm phúc lạc lớn. Đây là một biến cố trên bình diện thứ tư - bình diện hồn. Nếu khi ngắm nhìn vào mặt trời buổi sáng hay lắng nghe giai điệu hay ngắm điệu vũ, hay quan sát việc nở hoa, mà tâm trí đắm chìm hoàn toàn trong biến cố đó, một samadhi giả xảy ra. Samadhi giả đó có thể được đem tới bằng rượu và ma tuý như thuốc phiện, heroin.
Cho nên có bốn kiểu samadhi. Thực tại có ba samadhi chân thực và chúng xảy ra tuần tự. Samadhi thứ tư hoàn toàn là kinh nghiệm giả xuất hiện tựa như samadhi. Trong samadhi này không có kinh nghiệm thực tại - chỉ có cảm giác của samadhi bị hiểu lầm. Nhiều người bị lầm bởi satori. Samadhi giả này xuất hiện ở thể thứ tư - bình diện hồn. Nó không phải là quá trình chuyển biến giữa bình diện thứ tư và thứ năm; nó xảy ra ngay bên trong thể thứ tư. Ba samadhi chân thực xuất hiện bên ngoài các thể trong thời kì chuyển tiếp khi chúng ta đi từ bình diện này sang bình diện khác. Một samadhi là cánh cửa, một bước chuyển.
Giữa các thể thứ tư và thứ năm xảy ra samadhi chân thực thứ nhất. Người ta đạt tới việc tự thảnh thơi. Chúng ta có thể bị mắc kẹt ở đây. Thông thường mọi người dừng tại samadhi giả trong thể thứ tư bởi vì nó dễ dàng lắm. Chúng ta hầu như chẳng tốn nỗ lực, chẳng phải cố gắng gì cả, và nó thu được hệt như thế. Do đó đại đa số thiền nhân bị trì trệ ở đây. Samadhi thực sự đầu tiên, xảy ra trên cuộc hành trình từ thể thứ tư sang thể thứ năm, là rất khó; và samadhi thứ ba, từ thể thứ sáu sang thể thứ bẩy, là khó hơn cả. Tên được chọn cho samadhi thứ ba là vajrabhed - xuyên thấu như cú sét. Nó là samadhi khó nhất bởi vì nó là bước chuyển từ hiện hữu sang không hiện hữu; nó là cái nhảy từ sự sống vào cái chết; nó là việc nhào từ sự tồn tại vào trong cái không tồn tại.
Cho nên thực tại có ba samadhi. Samadhi thứ nhất bạn có thể gọi là atma samadhi, samadhi thứ hai gọi là brahma samadhi, còn samadhi cuối được gọi là samadhi niết bàn. Chính samadhi đầu tiên và giả, bạn có thể gọi là satori. Đây là samadhi mà bạn nên cảnh giác chống lại, bởi vì nó rất dễ đạt tới.
Một phương pháp khác để kiểm tra tính hợp lệ của samadhi là ở chỗ nếu nó xảy ra bên trong một bình diện thì nó là giả; nó phải xảy ra giữa các bình diện. Nó là cánh cửa; nó chẳng liên quan gì tới bên trong căn phòng. Nó phải ở bên ngoài căn phòng, kề với phòng tiếp.
Tại sao rắn được chọn làm biểu tượng cho kundalini? Xin thầy giải thích tất cả các lí do. Trong một biểu tượng mà Hội thông thiên học đã dùng, con rắn cuộn xoắn cắn đuôi nó được đưa ra. Trong biểu tượng Sứ mệnh của Ramakrishna, đuôi rắn chạm tới chỏm đầu rắn. Xin Thầy giải thích ý nghĩa của những điều này.
Biểu tượng rắn cho kundalini là rất thích hợp và có nghĩa. Có lẽ không có biểu tượng nào tốt hơn biểu tượng này. Do đó, không chỉ kundalini mà cả rắn cũng đã trải qua nhiều cuộc du hành lớn trong hình dạng biểu tượng này. Không ở đâu trên thế giới này có một tôn giáo mà trong đó không có mô tả về rắn ở đâu đó. Điều này là bởi vì rắn có nhiều phẩm chất phù hợp với kundalini.
Chính điều đầu tiên xuất hiện trong tâm trí nói tới rắn là việc chuyển động trườn đi - bò đi. Chính kinh nghiệm đầu tiên về kundalini là ở chỗ cái gì đó chuyển động ở bên trong. Bạn cảm thấy dường như cái gì đó đã chuyển động bên trong - giống như rắn bò. Một điều khác cũng tới trong tâm trí với chính việc chuyển động này của rắn là ở chỗ nó không có chân, thế mà nó vẫn di chuyển được. Nó không có phương tiện để chuyển động - nó là năng lượng hoàn toàn - thế mà nó vẫn đi. Điều thứ ba tới trong tâm trí là ở chỗ khi rắn dừng, nó cuộn mình lại. Khi kundalini nằm ngủ bên trong chúng ta, nó nữa cũng nghỉ theo cùng cách thức này.
Khi một vật dài phải dọn chỗ cho nó trong một chỗ nhỏ hẹp, nó phải cuộn lại; không có cách nào khác cho nó cả. Sức mạnh rất lớn ngụ tại một trung tâm rất nhỏ, nó chỉ có thể tự cuộn mình lại. Bây giờ khi rắn tỉnh dậy nó tháo dần từng vòng cuộn ra; nó vươn lên, vòng cuộn cũng tháo ra. Theo cùng cách này chúng ta cảm thấy kundalini đã tháo ra bên trong khi năng lượng kundalini dâng lên trong chúng ta.
Rắn đôi khi cũng chơi đùa bằng việc ngậm  đuôi mình. Việc ngậm đuôi này cũng là biểu tượng có ý nghĩa. Đây là biểu tượng có giá trị và nhiều người nhận ra nó như thế. Nó có giá trị bởi vì nó gợi ý rằng khi kundalini đã thức tỉnh hoàn toàn, nó sẽ trở thành tuần hoàn và bắt đầu tạo nên mạch riêng của nó ở bên trong. Bây giờ khi biểu tượng được tạo ra để mô tả sadhana nam, việc thực hành tâm linh nam, sẽ là việc ngậm đuôi; đấy sẽ là năng nổ. Nếu biểu tượng này được đạt tới bởi sadhana nữ, việc thực hành tâm linh nữ, cái đuôi sẽ chỉ chạm lên chỏm đầu. Đây là cái đuôi buông xuôi - cái đuôi không bị ngậm trong mồm. Đây là khác biệt duy nhất và không gì hơn nữa.
Chỏm đầu của rắn cũng trở thành có mục đích. Đuôi rất hẹp trong khi chỏm đầu lại rất rộng. Khi kundalini thức tỉnh hoàn toàn, nó đạt tới sahasrar. Nó mở ra và trải dài giống như chỏm đầu của rắn; nó mở rộng ra vô cùng. Dường như nhiều hoa nở ra trong nó. Thế thì đuôi của nó trở thành rất nhỏ.
Khi rắn đứng thẳng lên, đấy là một cảnh tượng kì diệu; nó đứng thẳng trên chỏm đuôi. Điều đó gần như phép màu. Rắn là loại không xương sống, sinh vật không xương, ấy vậy mà thực hiện được hành động này. Điều ấy chỉ có thể được với sự hỗ trợ của năng lượng sống trong nó, bởi vì không có phương tiện chủ chốt nào khác cho nó để đứng thẳng. Nó đứng lên bởi sức mạnh của ý chí riêng của nó; nó không có sức mạnh vật chất nào để dựa vào. Sự việc cũng là như thế khi kundalini thức tỉnh: nó không có sự hỗ trợ vật lí; nó là năng lượng phi vật chất.
Đấy là những lí do tại sao rắn lại được chọn như một biểu tượng. Cũng còn nhiều lí do khác nữa. Chẳng hạn, nó là một sinh vật vô tư; do đó, thần Shiva của Hindu - người cũng được gọi là "Shiva vô tư" - đội nó trên đầu. Theo ý riêng của nó, rắn chẳng gây rắc rồi cho bất kì ai, nhưng nếu nếu nó bị quấy rối, nó có thể rất nguy hiểm. Cùng điều đó cũng áp dụng cho kundalini. Nó là một năng lượng rất vô tư; nó không gây rắc rối cho bạn theo ý riêng của nó. Nhưng nếu bạn quấy rối nó theo cách sai lầm, bạn sẽ thấy mình bị rắc rối. Nó có thể tỏ ra rất nguy hiểm. Cho nên biểu tượng của rắn nhắc nhở chúng ta rằng việc quấy rối kundalini theo cách sai lầm là nguy hiểm.
Khi nhớ tất cả những điều này trong trí, không có biểu tượng nào thích hợp hơn là rắn.
Trên khắp thế giới rắn đều được lấy làm biểu tượng cho trí huệ. Jesus đã nói, "Nhanh trí và thông minh như rắn và vô tư như bồ câu." Rắn là sinh vật rất thông minh - rất tỉnh táo, rất quan sát và rất nhanh nhẹn, sắc sảo. Đó là tất cả phẩm chất của nó. Kundalini cũng giống như thế. Bạn đạt tới đỉnh tối thượng của trí huệ qua nó; nó rất mau lẹ, và cũng rất mạnh mẽ.
Ngày xưa, khi biểu tượng này được chọn cho kundalini, có lẽ chẳng có gì tốt hơn rắn. Ngay cả bây giờ cũng chẳng có gì tốt hơn. Có lẽ trong tương lai có thể có một biểu tượng mới - như tên lửa. Một khái niệm tương lai nào đó có thể thâu tóm kundalini như quả tên lửa. Cuộc hành trình là như nhau; nó đi từ bầu trời này sang bầu trời khác, từ hành tinh này sang hành tinh khác, và có hư không ở giữa. Nó có thể trở thành biểu tượng. Thời đại quyết định ra biểu tượng.
Biểu tượng này đã được chọn khi con người còn rất gần với vương quốc loài vật. Tất cả các biểu tượng của chúng ta của những thời này đều lấy từ loài vật, bởi vì đó là tất cả những gì mà tri thức chúng ta có được cho nên chúng ta đã cố gắng tìm ra biểu tượng trong chúng. Rắn vậy đã là biểu tượng thích hợp nhất để định nghĩa kundalini.
Trong những ngày ấy chúng ta không thể nói rằng kundalini giống như điện; khi chúng ta nói tới ngày nay, chúng ta có thể nói như vậy. Năm nghìn năm trước không thể nói về kundalini dưới dạng điện bởi vì không có khái niệm về điện. Nhưng rắn có phẩm chất của điện. Điều này thật khó cho chúng ta tin bởi vì nhiều người trong chúng ta chẳng có kinh nghiệm gì về rắn cả. Chúng ta có thể không có kinh nghiệm về kundalini so với bất kì cái gì, nhưng chúng ta khó mà có kinh nghiệm về rắn nữa. Rắn là huyền thoại đối với chúng ta.
Gần đây người ta đã tiến hành một cuộc điều tra ở London và người ta thấy rằng bẩy trăm nghìn trẻ con chưa bao giờ thấy con bò. Bây giờ những đứa trẻ này, chưa từng thấy con bò, không thể nào có ý tưởng về rắn được. Cho nên toàn bộ cách nghĩ của chúng - và biểu tượng của chúng - sẽ hoàn toàn khác.
Bây giờ rắn đã quá lỗi thời: nó không còn là phần quan trọng trong cuộc sống chúng ta nữa. Ngày xưa nó rất gần gũi chúng ta; nó đã là hàng xóm của chúng ta và cùng chúng ta cả hai mươi bốn giờ một ngày. Thế thì chính con người đã để ý đến nhanh nhẹn của nó, thông minh của nó, chuyển động của nó, và thoải mái mà nó luôn mang theo mình. Chính là con người đã hiểu con vật này nguy hiểm như thế nào. Có những câu chuyện về rắn canh gác cho trẻ con, và nó vô tư làm sao... Có những trường hợp khi nó cắn những người hung dữ nhất và giết chết người đó, cho nên nó có thể nguy hiểm lắm. Cho nên cả hai khả năng này đều có trong nó.
Khi một người ở rất gần với rắn, người đó phải quan sát nó thật chăm chú. Chủ đề về kundalini cũng bắt đầu vào cùng lúc, và cả rắn lẫn kundalini đều tương tự nhau trong phẩm chất của chúng. Nhưng tất cả các biểu tượng đều có nghĩa, và nếu chúng tới với chúng ta qua các thời đại, cũng có phù hợp, nhịp điệu trong chúng. Nhưng bây giờ điều đó nhất định bị phá vỡ. Biểu tượng về rắn không còn kéo dài lâu. Chúng ta sẽ không thể nào gọi là sức mạnh rắn kundalini, bởi vì bây giờ con rắn tội nghiệp ở đâu? Nó không còn là hàng xóm của chúng ta nữa; chúng ta không còn mối liên quan nào với nó. Chúng ta thậm chí không thấy nó trên đường. Cho nên khi chúng ta không còn liên quan gì tới nó về bất kì cái gì, câu hỏi này nảy sinh. Trước đây nó không thể nảy sinh ra khi nó là biểu tượng duy nhất.

Người ta nói rằng khi kundalini thức tỉnh, nó ăn thịt và uống máu. Điều này có nghĩa là gì?
Có ý nghĩa cho điều này. Mô tả này gần đúng theo từng từ. Thực tại, khi kundalini dâng lên, nhiều biến đổi xảy ra bên trong thân thể. Bất kì khi nào năng lượng mới nảy sinh trong thân thể, những thành phần cũ của nó lại trải qua thay đổi hoàn toàn. Điều đó nhất định thay đổi; thân thể vận hành theo biết bao nhiêu cách thức mà chúng ta không ý thức tới chúng. Chẳng hạn, lấy trường hợp người keo kiệt. Keo kiệt là phẩm chất của tâm trí, nhưng thân thể người keo kiệt cũng trở thành kẻ keo kiệt. Thân thể người đó sẽ bắt đầu thu thập những chất mà có thể nó cần tới trong tương lai. Nó sẽ cứ tích luỹ mà chẳng có lí do gì cho tới khi nó đạt tới một điểm mà tại đó nó trở thành quấy rối và bất tiện.
Bây giờ xét người khác, kẻ hèn nhát. Thân thể người đó sẽ thu thập tất cả các phần tử dẫn tới sợ hãi. Giả sử thân thể muốn run rẩy trong sợ hãi và nó không có những yêu cầu cần thiết - nó sẽ làm gì? Bạn yêu cầu sợ hãi từ thân thể và nó không có các tuyến và hóc môn cần thiết: nó sẽ làm gì? Cho nên thân thể giữ một cái kho sẵn sàng vì nó biết yêu cầu của bạn. Thân thể của người sợ hãi thu thập các tuyến sợ để làm thuận tiện cho việc chiều theo nỗi sợ của bạn. Người toát mồ hôi khi sợ sẽ có tuyến mồ hôi rất mạnh; người đó có khả năng toát mồ hôi vô khối. Sự thu xếp này là tuyệt đối cần thiết bởi vì yêu cầu của người này có thể là nhiều trong quá trình một ngày. Cho nên thân thể trữ sẵn những thứ tương ứng với yêu cầu của tâm trí - và còn nữa.
Khi tâm trí thay đổi, thân thể cũng thay đổi. Khi kundalini dâng lên, sẽ có thay đổi hoàn toàn trong thân thể bạn. Trong biến đổi đó da thịt bạn có thể giảm đi và máu bạn cũng vậy, nhưng nó sẽ giảm đúng theo yêu cầu của bạn. Cho nên thân thể sẽ hoàn toàn được biến đổi. Chỉ những da thịt và máu cần thiết cho thân thể mới còn lại; phần thừa sẽ bị thiêu đốt đi. Chỉ thế thì bạn mới cảm thấy nhẹ nhàng; chỉ thế thì bạn mới có thể bay vào bầu trời bên trong. Điều này sẽ là khác biệt.
Điều vừa nói là đúng đắn. Thiền nhân phải có một chế độ ăn uống đặc biệt và sự thu xếp đặc biệt cho việc sống, bằng không, người đó sẽ thấy mình gặp khó khăn. Khi kundalini dâng lên, rất nhiều nhiệt sẽ được tạo ra bên trong bởi vì đấy là lực điện; đấy là năng lượng có điện thế rất cao. Cũng hệt như tôi đã nói cho các bạn rằng rắn là biểu tượng của kundalini, lửa cũng là biểu tượng của kundalini ở một số nơi. Đây nữa cũng là biểu tượng rất sát.
Cho nên kundalini sẽ thiêu đốt giống như lửa bên trong bạn và ngọn lửa sẽ dâng lên cao. Rất nhiều thứ sẽ cháy trong ngọn lửa này. Khô khan nào đó có thể nảy sinh từ việc thức tỉnh của kundalini. Do đó, nhân cách phải rất hài hoà và một số kênh chất lỏng cần phải phát triển. Chẳng hạn, lấy một người hay giận dữ: nếu kundalini của người này thức tỉnh, người đó sẽ thấy mình gặp khó khăn. Người đó là người khô khan và thô lỗ, cho nên nếu ngọn lửa thiêu đốt bên trong, người đó sẽ gặp rắc rối. Người đáng yêu có hài hoà hoá học sâu sắc. Có hanh thông về hài hoà hoá chất bên trong người đó. Người đó sẽ không bị ảnh hưởng bất lợi bởi việc thức tỉnh của kundalini.
Bất kì điều gì đã được nói, cũng đều đã được nói với tất cả những chi tiết này. Mọi thứ đã được đưa ra khá đại khái bởi vì nghệ thuật diễn đạt của thời xưa còn chưa được phát triển cho lắm và cách tiếp cận cũng còn thô sơ. Cho nên điều đã được nói là rất đúng: da thịt sẽ cháy và cả máu và tuỷ cũng vậy, bởi vì bạn sẽ thay đổi hoàn toàn; bạn đang sắp là một người mới hoàn toàn. Tất cả những mẫu hình của bạn, thành phần của bạn, đều phải trải qua thay đổi. Thiền nhân phải ghi sâu điều này trong trí và chuẩn bị tương ứng cho mình.

Ads Belove Post