Chương 3. Con đường kundalini: Chân thực và tự do

Chương 3. Con đường kundalini: Chân thực và tự do

Price:

Read more

Osho - Thiền động (Đi tìm điều huyền bí - Tập 2)
Chương 3. Con đường kundalini: Chân thực và tự do



Trong bài nói hôm qua, Thầy đã nói rằng kinh nghiệm giả về kundalini có thể được phóng chiếu điều Thầy coi không phải là tâm linh mà là tâm trí. Tuy nhiên, trong bài nói ban đầu, Thầy đã nói rằng kundalini chỉ là tâm trí. Điều này có nghĩa là, theo Thầy, có hai trạng thái kundalini - tâm trí và tâm linh. Xin thầy giải thích điều này.
Để cho bạn hiểu điều này, cần phải nói thêm chi tiết về cấu trúc của các thể tinh tế đa dạng.
Cá nhân có thể được chia thành bẩy thể. Thể thứ nhất là thể vật lí mà tất cả chúng ta đều biết. Thể thứ hai là thể ê te, và thể thứ ba - bên ngoài thể thứ hai này - là thể vía.
Thể thứ tư - bên ngoài thể này - là thể trí hay hồn; còn thể thứ năm - lại ở ngoài thể này - là thể tâm linh. Thể thứ sáu ở ngoài thể thứ năm, và nó được gọi là thể vũ trụ. Thế rồi thể thứ bẩy và là thể cuối cùng là nirvana sharir, hay thể niết bàn, thể vô thể. Một chút ít thông tin thêm về bẩy thể này sẽ làm cho bạn có thể hiểu được kundalini đầy đủ.
Trong bẩy năm đầu của cuộc sống, sthul sharir - thể vật lí một mình được hình thành. Các thể khác còn đang ở dạng hạt mầm. Chúng có tiềm năng cho sự trưởng thành nhưng chúng nằm ngủ trong lúc bắt đầu cuộc sống. Cho nên bẩy năm đầu là những năm của giới hạn. Không có trưởng thành trí tuệ, xúc cảm hay ham muốn trong những năm này. Chỉ thể vật lí phát triển trong thời kì này. Một số người chưa bao giờ trưởng thành vượt ra ngoài bẩy năm này; họ trì trệ tại giai đoạn này và không hơn con vật. Con vật chỉ phát triển trong thể vật lí; các thể khác vẫn còn không được động chạm tới bên trong chúng. Trong bẩy năm tiếp sau - tức là từ bẩy cho tới mười bốn tuổi - bhawa sharir, thể ê te, phát triển. Bẩy năm này là những năm trưởng thành về xúc cảm của cá nhân. Đây là lí do tại sao sự chín muồi dục, vốn là dạng mạnh mẽ nhất của xúc cảm, được đạt tới vào độ tuổi mười bốn. Bây giờ một số người còn trì trệ ở giai đoạn này. Thể vật lí của họ phát triển nhưng họ bị mắc kẹt với hai thể đầu.
Trong thời kì bẩy năm thứ ba, giữa độ tuổi mười bốn và hai mươi mốt, shukshma sharir, thể vía, phát triển. Trong thể thứ hai xúc cảm được phát triển; trong thể thứ ba lập luận, tư duy và trí tuệ được phát triển. Đây là lí do tại sao không toà án luật pháp nào buộc trẻ con phải chịu trách nhiệm về hành động của của nó cho đến bẩy tuổi, bởi vì trẻ con chỉ có thể vật lí. Chúng ta đối xử với trẻ con giống như cách ta đối xử với con vật; chúng ta không thể buộc nó có trách nhiệm được. Cho dù trẻ con có phạm phải tội ác, điều đó vẫn được coi rằng nó phạm tội dưới hướng dẫn của ai đó - rằng tội phạm thực là ai đó khác.
Sau khi phát triển thể thứ hai, người ta đạt tới tuổi trưởng thành. Nhưng đây là tuổi trưởng thành về dục. Công trình của tự nhiên được hoàn chỉnh với sự phát triển này, và đây là lí do tại sao tự nhiên trao cộng tác hoàn toàn cho tới giai đoạn này. Nhưng tại giai đoạn này con người không phải là con người theo nghĩa hoàn toàn của từ này. Thể thứ ba, nơi năng lực lập luận, trí tuệ và tư duy phát triển, là kết quả của giáo dục, văn minh và văn hoá. Đây là lí do tại sao quyền bỏ phiếu được cấp cho một người khi người đó hai mươi mốt tuổi. Mặc dầu điều này là phổ biến trên khắp thế giới, một số nước đang tranh cãi xem liệu có cho phép người mười tám tuổi có quyền đi bầu hay không. Điều này là tự nhiên, bởi vì con người đang trở nên ngày càng tiến hoá hơn, khoảng thời gian bẩy năm cho việc trưởng thành của mỗi thể đang trở nên ngày một ngắn hơn.
Trên khắp thế giới con gái đạt tới tuổi dậy, vào độ tuổi mười ba hay mười bốn. Từ ba mươi năm qua độ tuổi cho điều này đang ngày một trở nên thấp dần. Thậm chí con gái mười một tuổi cũng đạt tới dậy thì. Việc hạ thấp độ tuổi đi bầu xuống mười tám là một chỉ dẫn rằng con người bây giờ hoàn tất công việc của hai mươi mốt năm trong mười tám năm. Tuy nhiên, thông thường hai mươi mốt năm là cần thiết cho trưởng thành của thể thứ ba, và đại đa số mọi người đều không phát triển hơn điều này. Trưởng thành của họ dừng lại ngay với phát triển của thể thứ ba, và không có phát triển thêm nữa cho phần còn lại cuộc sống của họ.
Điều tôi có thể gọi là hồn là ở thể thứ tư - manas sharir. Thể này có những kinh nghiệm kì diệu riêng của nó. Bây giờ một người có trí tuệ không phát triển thì không thể có khả năng quan tâm tới hay thích thú toán học, chẳng hạn. Toán học có cái đẹp của riêng nó, và chỉ Einstein mới có thể bị cuốn hút vào nó như nhạc sĩ trong âm nhạc hay hoạ sĩ trong mầu sắc. Với Einstein toán học không phải là công việc mà là trò chơi, nhưng trí tuệ phải đạt tới đỉnh phát triển này để biến toán học thành trò chơi được.
Với mỗi thể đã phát triển đều có vô hạn khả năng mở ra trước chúng ta. Người có thể ê te không phát triển, người trì trệ sau bẩy năm phát triển đầu tiên, không có mối quan tâm gì trong cuộc sống ngoài ăn và uống. Cho nên văn hoá của những nền văn minh mà tại đó đại đa số mọi người phát triển chỉ tới thể đầu tiên, vẫn xoay vòng quanh những chồi nụ ăn uống của họ. Nền văn minh mà đại đa số mọi người bị mắc kẹt ở thể thứ hai sẽ đọng vào dục. Nhân cách của họ, văn chương của họ, âm nhạc, phim ảnh, sách vở của họ, thơ ca và hội hoạ của họ, thậm chí nhà cửa và xe cộ của họ, đều sẽ đặt trọng tâm vào dục, vào dâm dục: tất cả những điều này sẽ được rót đầy bằng dục, bằng dâm dục.
Trong nền văn minh mà trong đó thể thứ ba phát triển đầy đủ, mọi người sẽ mang tính trí tuệ và suy tư. Bất kì khi nào việc phát triển thể thứ ba trở thành rất quan trọng trong xã hội hay trong quốc gia, nhiều cuộc cách mạng trí tuệ xảy ra. Tại Bihar, đại đa số mọi người mang phẩm chất này vào thời của Phật và Mahavira. Đây là lí do tại sao tám người có tầm vóc của Phật và Mahavira đã được sinh ra trong tỉnh Bihar nhỏ bé này. Bên cạnh đó, có hàng nghìn người khác vào thời đó, những người được trời phú thiên tài. Đó cũng là hoàn cảnh ở Hi lạp vào thời Socrates và Plato; đó cũng là hoàn cảnh ở Trung quốc vào thời Lão Tử và Khổng tử. Điều thậm chí còn kì diệu hơn và cần lưu ý là sự kiện rằng tất cả những con người chói sáng này đều tồn tại trong thời kì năm trăm năm. Trong năm trăm đó sự phát triển của thể thứ ba trong con người đã đạt tới đỉnh của nó. Nói chung con người dừng lại tại thể thứ ba. Đại đa số mọi người không phát triển sau hai mươi mốt tuổi.
Có những kinh nghiệm bất thường về thể thứ tư. Thôi miên, viễn cảm, thiên nhãn tất cả đều là tiềm năng của thể thứ tư. Người này có thể có liên hệ với người khác mà không bị cản trở bởi thời gian hay nơi chốn; họ có thể đọc được ý nghĩ của người khác mà không phải hỏi hay họ có thể phóng chiếu ý nghĩ lên người khác. Không có bất kì sự giúp đỡ bên ngoài nào người ta vẫn có thể truyền dẫn hạt mầm ý nghĩ vào người khác. Người ta có thể du hành bên ngoài thân thể mình; người đó có thể phóng chiếu thể vía và tự biết mình bên ngoài thể vật lí.
Có những khả năng lớn trong thể thứ tư, nhưng chúng ta thông thường không phát triển thể này vì có nhiều mạo hiểm cũng như lừa dối. Khi mọi thứ bắt đầu trở nên ngày một tinh tế, khả năng lừa dối cũng tăng thêm. Bây giờ khó mà tìm ra liệu một người có thực bước ra khỏi thân thể mình hay không. Người đó có thể mơ rằng mình bước ra khỏi thân thể mà người đó cũng có thể thực tại đã làm như vậy nữa, và trong cả hai trường hợp không có nhân chứng nào khác hơn bản thân người đó. Cho nên có mọi khả năng lừa dối.
Thế giới bắt đầu từ thể thứ tư mang tính chủ quan, trong khi thế giới trước đó mang tính khách quan. Nếu tôi có đồng ru pi trong tay, tôi có thể thấy nó, bạn có thể thấy nó, năm mươi người khác cũng có thể thấy nó. Đây là thực tại chung mà trong đó tất cả chúng ta có thể dự phần, và người ta có thể nghiên cứu liệu đồng ru pi có đó hay không. Nhưng trong địa hạt suy nghĩ của tôi, bạn không thể là đối tác, mà tôi cũng không thể là đối tác trong địa hạt suy nghĩ của bạn. Từ đây thế giới cá nhân bắt đầu với tất cả những may rủi của nó; không qui tắc bên ngoài nào về tính hợp thức của chúng ta có thể dùng được ở đây. Cho nên thế giới thực của sự lừa dối bắt đầu từ thể thứ tư. Tất cả mọi lừa dối của ba thể đầu đều có thể thấy được.
Nguy hiểm lớn nhất là ở chỗ không nhất thiết kẻ lừa dối nhận biết được sự kiện rằng mình đang lừa dối. Người đó có thể lừa dối một cách không chủ ý - cả bản thân mình cũng như người khác. Mọi việc đều tinh tế, hiếm hoi và cá nhân trên bình diện này đến mức người ta chẳng có phương tiện nào để kiểm tra tính hợp thức của kinh nghiệm của người đó. Cho nên người đó không thể nói được liệu mình đang tưởng tượng mọi thứ hay liệu chúng thực sự xảy ra cho người đó.
Cho nên chúng ta bao giờ cũng cố gắng cứu loài người khỏi thể thứ tư này, và những người đã dùng thể thứ tư này, bao giờ cũng bị kết án và vu cáo. Hàng trăm đàn bà đã bị đóng dấu sắt nung là phù thuỷ và bị thiêu sống ở châu Âu bởi vì họ đã dùng các khả năng của thể thứ tư. Hàng trăm người thực hành mật tông đã bị giết ở Ấn Độ bởi thể thứ tư. Họ biết một số bí mật dường như là nguy hiểm cho con người. Họ biết điều xảy ra trong tâm trí bạn; họ biết nơi các thứ được cất giấu trong nhà bạn mà chẳng cần phải bước tới đó. Cho nên địa hạt thể thứ tư bị xem như nghệ thuật "đen" trên toàn thế giới, vì người ta chẳng bao giờ biết cái gì có thể xảy ra. Chúng ta bao giờ cũng cố gắng hết sức để chặn tiến bộ không cho đi xa hơn nữa từ thể thứ ba, bởi vì thể thứ tư bao giờ cũng dường như là rất nguy hiểm.
Có những may rủi, nhưng cùng với những điều này cũng có những cái lợi kì diệu. Cho nên thay vì dừng lại, nghiên cứu là cần thiết. Thế thì chúng ta có thể tìm ra cách thức để kiểm tra tính hợp lệ của kinh nghiệm của mình. Bây giờ có những công cụ khoa học, và quyền năng hiểu biết của con người cũng tăng lên. Cho nên có thể tìm ra những cách thức hệt như trong trường hợp của nhiều khám phá khác đã được thực hiện trong khoa học.
Người ta không biết liệu con vật có mơ hay không. Làm sao điều này có thể chắc chắn được khi mà con vật không nói? Chúng ta biết điều ta mơ bởi vì ta dậy vào buổi sáng và nói rằng chúng ta đã mơ. Sau những nỗ lực và kiên nhẫn lớn, bây giờ người ta đã tìm ra cách thức. Một người đã làm việc nhiều năm với khỉ để tìm ra về điều này, và cách thức người này tiến hành thực nghiệm này cũng đáng để hiểu. Người này bắt đầu bằng việc chiếu phim cho khỉ xem. Ngay khi phim được bắt đầu, con khỉ được đem vào thực nghiệm sẽ bị gây một cú sốc điện. Một nút được đặt trên ghế của con khỉ và nó được dạy để nhấn nút này khi nó cảm thấy sốc. Cho nên hàng ngày nó được đặt ngồi trên ghế, và khi phim bắt đầu, nó cảm thấy sốc. Thế là nó ấn nút để tắt đi.
Điều này tiếp diễn trong vài ngày; thế rồi nó được gây ngủ trong ghế. Bây giờ khi nó bắt đầu mơ, nó sẽ bắt đầu cảm thấy không thoải mái, bởi vì với nó phim trên màn ảnh và phim trong giấc mơ của nó là một và như nhau. Nó lập tức ấn nút. Nhiều lần lặp đi lặp lại nó ấn phím, và điều này chứng tỏ rằng nó đang mơ. Theo cách này, con người bây giờ có thể thâm nhập vào thế giới mơ bên trong của các con vật câm. Các thiền nhân cũng đã tìm ra cách thức để kiểm tra kinh nghiệm về thể thứ tư từ bên ngoài, và bây giờ người ta có thể chứng minh liệu điều xảy ra là đúng hay sai. Kinh nghiệm về kundalini trên thể thứ tư có thể là về hồn, nhưng điều đó không làm cho chúng thành giả. Có những trạng thái hồn chân thực và trạng thái hồn giả. Khi tôi nói rằng kundalini có thể chỉ là kinh nghiệm tâm trí, điều đó không nhất thiết có nghĩa là đấy là kinh nghiệm giả. Kinh nghiệm tâm trí có thể là giả cũng như chân thực.
Bạn thấy một giấc mơ ban đêm. Bây giờ giấc mơ này là sự kiện bởi vì nó đã xảy ra. Nhưng khi tỉnh dậy vào buổi sáng, bạn có thể nhớ ra một giấc mơ nào đó mà bạn không thực đã mơ; thế nhưng bạn vẫn cứ khăng khăng rằng đấy là điều bạn đã mơ. Thế thì đây là giả. Một người có thể dậy vào buổi sáng và nói mình chẳng hề mơ. Nhiều người tin họ không mơ. Họ có mơ: cả đêm dài họ mơ, và điều này đã được chứng minh một cách khoa học. Nhưng vào buổi sáng họ khẳng định họ chưa hề mơ. Cho nên điều họ nói là tuyệt đối sai, mặc dầu họ không biết về nó. Thực tế, họ không nhớ các giấc mơ. Điều hoàn toàn đối lập cũng xảy ra: bạn nhớ những giấc mơ mà bạn chưa hề mơ. Điều này cũng sẽ là giả.
Mơ là không giả; chúng có thực tại của riêng chúng. Nhưng mơ có thể là thực cũng như không thực. Mơ thực là những giấc mơ thực tế đã được mơ. Điều rắc rối cũng là ở chỗ bạn không thể nào kể lại giấc mơ của mình một cách chính xác khi tỉnh dậy. Bởi lí do này, ngày xưa bất kì ai có thể kể lại giấc mơ của mình một cách rõ ràng và chính xác đều được quí trọng cao. Rất, rất khó để báo cáo lại một giấc mơ cho đúng. Trình tự giấc mơ là một điều khi bạn mơ nó và là điều đối lập lại khi bạn nhớ nó. Nó cũng tựa như cuốn phim. Khi chúng ta xem phim, câu chuyện trải ra từ đầu phim. Tương tự, cuộn phim về vở kịch mơ cuốn theo một chiều trong giấc ngủ và bắt đầu tháo ra theo chiều ngược lại trong trạng thái tỉnh, cho nên chúng ta nhớ phần cuối của giấc mơ trước hết rồi đi ngược để nhớ lại. Điều ta mơ đầu tiên trở thành điều cuối cùng được nhớ lại. Điều này cũng giống hệt như ai đó cố gắng đọc một cuốn sách từ cuối ngược lên; từ đảo ngược sẽ gây ra những lộn xộn như vậy. Cho nên nhớ lại giấc mơ và đưa ra cách biểu diễn đúng cho nó là một nghệ thuật lớn. Nói chung, khi chúng ta nhớ lại giấc mơ, chúng ta hồi tưởng những sự kiện mà chúng ta chưa hề mơ tới. Chúng ta bỏ phần lớn của mơ thực và sau đó bỏ phần lớn phần còn lại.
Mơ xảy ra cho thể thứ tư, và thể thứ tư có tiềm năng lớn. Bất kì cái gì siddhis được nói tới trong yoga cũng đều đạt được trong thể này. Yoga không ngừng cảnh báo cho thiền nhân đừng đi vào trong chúng. Nguy hiểm lớn nhất là việc đi lạc lối. Cho dù bạn đi vào trạng thái hồn, nó cũng chẳng có giá trị tâm linh nào.
Cho nên khi tôi nói kundalini là hồn, điều tôi muốn nói là ở chỗ nó thực tại là điều xảy ra cho thể thứ tư. Đây là lí do tại sao các nhà sinh lí học không thể nào phát hiện ra kundalini bên trong thân thể con người. Cho nên cũng là điều tự nhiên mà họ từ chối sự tồn tại của kundalini và luân xa và gọi chúng là tưởng tượng. Chúng là những sự kiện của thể thứ tư. Thể thứ tư tồn tại, nhưng nó rất tinh tế; nó không thể tới bên trong việc hiểu thấu của chúng ta. Chỉ thể vật lí mới có thể được hiểu thấu. Nhưng có những điểm tương ứng giữa thể thứ nhất và thể thứ tư.
Nếu chúng ta đặt bẩy tờ giấy chồng lên nhau, xuyên một lỗ qua chúng bằng chiếc đinh ghim để cho tất cả các tờ giấy đều bị xuyên thủng, thế thì cho dù lỗ hổng biến mất trong tờ đầu, nó vẫn mang một dấu hiệu tương ứng với lỗ hổng trong các tờ giấy còn lại. Thế thì mặc dầu tờ giấy đầu tiên không có lỗ hổng, nó vẫn có một điểm tương ứng trực tiếp với các lỗ hổng trên các tờ giấy khác khi nó được đặt lên chúng. Cho nên luân xa, kundalini, vân vân không thuộc vào thể thứ nhất nhưng có những điểm tương ứng trong thể thứ nhất. Cho nên nhà sinh lí học cũng không sai nếu ông ta phủ định chúng. Luân xa và kundalini là trong các thể khác, nhưng các điểm tương ứng với chúng có thể thấy trên thể vật lí.
Vậy kundalini là việc xảy ra ở thể thứ tư và đó là phần hồn. Và khi tôi nói rằng phần hồn này có hai loại - một thật và một giả - thế thì bạn sẽ hiểu điều tôi muốn nói. Nó sẽ là giả khi nó là sản phẩm của trí tưởng tượng của bạn, bởi vì tưởng tượng cũng là một đặc trưng của thể thứ tư. Con vật không có quyền năng tưởng tượng, cho nên chúng có rất ít kí ức về quá khứ và không có ý tưởng nào về tương lai. Con vật được tự do khỏi lo âu vì lo âu bao giờ cũng là về tương lai. Con vật thấy nhiều cái chết xảy ra, nhưng chúng chưa bao giờ tưởng tượng  rằng chúng cũng có thể chết; do đó, chúng không sợ chết. Trong con người cũng có nhiều người không bị bận tâm bởi việc sợ chết. Người như vậy bao giờ cũng liên kết cái chết với người khác chứ không với chính mình. Lí do là ở chỗ quyền năng tưởng tượng trong thể thứ tư còn chưa phát triển đầy đủ để nhìn vào tương lai.
Điều này có nghĩa là tưởng tượng cũng có thể thật hoặc giả. Tưởng tượng thật nghĩa là chúng ta có khả năng thấy trước tương lai, nghĩa là chúng ta có thể quán tưởng cái còn chưa tới. Nhưng tưởng tượng điều gì đó sẽ xảy ra mà không thể nào xảy ra được, cái không tồn tại, lại là tưởng tượng giả. Khi tưởng tượng được dùng theo đúng hoàn cảnh của nó, nó trở thành khoa học; khoa học chủ yếu chỉ là tưởng tượng.
Từ hàng nghìn năm con người đã mơ bay lượn. Những người đã mơ theo cách này đều phải rất giàu trí tưởng tượng. Nếu con người chưa bao giờ mơ về việc bay, sẽ không thể nào có chuyện anh em nhà Wright làm máy bay đầu tiên. Họ đã làm cho ham muốn bay của con người thành cái gì đó cụ thể. Ham muốn này cần thời gian để thành hình; thế rồi thực nghiệm đã được tiến hành, và cuối cùng con người đã thành công trong việc bay.
Cũng thế từ hàng nghìn năm nay con người đã muốn lên tới mặt trăng. Trước hết đấy chỉ là tưởng tượng của con người; dần dần nó thu được mảnh đất, và bây giờ nó được hoàn thành. Bây giờ, những tưởng tượng này là chân thực: tức là, chúng không phải trên con đường giả. Những tưởng tượng này đang trên con đường hiện thực mà có thể được khám phá vào thời gian sau. Cho nên các nhà khoa học cũng tưởng tượng, và người điên cũng làm như vậy.
Nếu tôi nói rằng khoa học là việc tưởng tượng và điên khùng cũng là tưởng tượng, chớ nghĩ rằng chúng là một và cùng một thứ. Người điên tưởng tượng những thứ không tồn tại và không có quan hệ gì với thế giới vật lí. Nhà khoa học cũng tưởng tượng: ông ta tưởng tượng những thứ có quan hệ trực tiếp với thế giới vật lí. Và nếu điều ấy ban đầu không dường như là vậy thì vẫn có khả năng đầy đủ cho sự hiện hữu của chúng trong tương lai.
Trong số những khả năng của thể thứ tư bao giờ cũng có cơ hội đi sai. Thế thì thế giới giả bắt đầu. Đây là lí do tại sao tốt nhất chúng ta đừng nuôi dưỡng bất kì trông đợi nào trước khi đi vào thể này. Thể thứ tư này là thể hồn. Bây giờ, chẳng hạn, nếu tôi muốn đi xuống tầng đất của ngôi nhà này, tôi sẽ phải tìm thang máy hoặc cầu thang để đi xuống. Nhưng nếu tôi muốn đi xuống trong ý nghĩ của mình, chẳng cần thang máy hay cầu thang. Tôi có thể ngồi ngay đây và đi xuống.
Mối nguy của tưởng tượng và ý nghĩ là ở chỗ người ta chẳng phải làm gì ngoại trừ việc tưởng tượng hay suy nghĩ, và do vậy bất kì ai cũng đều có thể làm điều đó. Hơn nữa, nếu bất kì ai đi vào cõi này với những ý tưởng và trông đợi định trước, thế thì người đó lập tức đi vào những điều này, bởi vì thế thì tâm trí cũng sẽ sẵn lòng hợp tác với điều đó. Nó sẽ nói, "Mình muốn thức tỉnh kundalini ư? Được thôi! Nó đang lên đấy... nó đã lên rồi." Thế thì bạn sẽ bắt đầu tưởng tượng kundalini đang lên, và tâm trí sẽ động viên bạn trong cái cảm giác giả tạo này cho tới cuối cùng bạn sẽ cảm thấy rằng nó hoàn toàn được thức tỉnh và rằng các luân xa đều đã được kích hoạt hết. Nhưng có một cách để kiểm tra tính hợp lệ của nó, và đó là ở chỗ với việc mở từng luân xa sẽ có sự thay đổi rõ rệt trong nhân cách của bạn. Sự thay đổi này bạn không thể tưởng tượng hay nghĩ trước, bởi vì sự thay đổi này xảy ra trong thế giới vật chất.
Cho nên, chẳng hạn, khi kundalini thức tỉnh, bạn không thể uống chất say được; điều ấy là không thể được. Thể trí bị ảnh hưởng bởi rượu cồn rất nhanh chóng vì nó rất tinh tế. Đây là lí do tại sao - và bạn sẽ ngạc nhiên mà biết điều này - khi đàn bà uống rượu, cô ấy trở nên còn nguy hiểm hơn đàn ông làm việc đó. Điều này là vì thể trí của cô ấy còn tinh tế hơn, và nó bị ảnh hưởng nhanh chóng đến mức mọi thứ tuột ra ngoài sự kiểm soát của cô ấy. Đây là lí do tại sao đàn bà đã được bảo vệ khỏi nguy cơ này bởi một số luật lệ trong xã hội. Đây là một chỗ mà đàn bà không tìm kiếm sự bình đẳng với đàn ông, mặc dầu không may là về sau, cô ấy lại cố gắng làm điều đó. Cái ngày cô ấy khẳng định sự bình đẳng của mình trong lĩnh vực này và cố gắng vượt trội hơn đàn ông trong điều đó, cô ấy sẽ gây ra tác hại cho bản thân mình mà chưa bao giờ hành động của đàn ông gây ra lại gây tác hại được đến thế.
Trong thể thứ tư việc thức tỉnh của kundalini không thể được chứng minh bởi việc bạn nói về kinh nghiệm này, bởi vì, như tôi đã nói trước đây, bạn có thể tưởng tượng giả về việc thức tỉnh và kinh nghiệm kundalini nữa. Nó chỉ có thể được đánh giá qua những nét vật lí của bạn: liệu có biến đổi triệt để nào đã xảy ra trong nhân cách của bạn hay không. Ngay khi năng lượng này được thức tỉnh, lập tức sẽ có những dấu hiệu về thay đổi trong bạn. Đây là lí do tại sao tôi bao giờ cũng nói rằng hành vi là tiêu chuẩn bên ngoài và không phải là nguyên nhân bên trong. Nó là tiêu chí cho điều đã xảy ra bên trong. Với từng nỗ lực, một số điều bắt đầu xảy ra không tránh khỏi. Khi năng lượng thức tỉnh, thiền nhân trở nên không thể nào uống được bất kì chất say nào. Nếu người đó vẫn còn say mê ma tuý và rượu cồn, thế thì biết rằng kinh nghiệm của người đó tất cả là tưởng tượng, bởi vì điều ấy là tuyệt đối không thể được.
Sau khi thức tỉnh kundalini, khuynh hướng bạo hành biến mất hoàn toàn. Thiền nhân không chỉ không bạo hành, mà người này còn không cảm thấy bạo hành bên trong mình nữa. Thôi thúc để bạo hành, thôi thúc làm hại người khác, chỉ có thể tồn tại khi sinh lực đang ngủ. Khoảnh khắc nó thức tỉnh, người khác dừng là người khác và do vậy bạn không thể muốn làm hại người đó. Thế thì bạn sẽ không phải kìm nén bạo hành bên trong bản thân mình bởi vì thế thì bạn không thể là bạo hành được.
Nếu bạn thấy rằng bạn phải kìm nén cảm giác bạo hành, thế thì biết rằng kundalini còn chưa thức tỉnh đâu. Nếu sau khi mắt mở ra bạn vẫn phải dò đường bằng gậy, thế thì biết rằng mắt vẫn chưa thể thấy được, dù bạn có nói gì khác cũng chẳng thành vấn đề - bởi vì bạn vẫn chưa vứt được cây gậy đi. Việc người ngoài có thấy liệu bạn có thể thấy được hay không là tuỳ ở hành động của bạn. Gậy của bạn, dò dẫm của bạn và bước đi loạng choạng của bạn chứng tỏ rằng mắt bạn vẫn còn chưa mở.
Cho nên sẽ có thay đổi triệt để trong hành vi của bạn với việc thức tỉnh, và tất cả các lời thề tôn giáo đều giống như lời thề của mahavrata - không bạo hành, không ăn cắp, không sở hữu, vô dục và đầy nhận biết - sẽ trở thành tự nhiên và dễ  dàng cho bạn. Thế thì biết rằng kinh nghiệm của bạn là chân thực. Tuy nó là phần hồn, nhưng tất cả đều là chân thực như nhau. Bây giờ bạn có thể tiến thêm nữa. Bạn có thể tiến lên nếu con đường của bạn là chân thực nhưng không có điều ngược lại. Bạn không thể ở yên mãi mãi trong thể thứ tư vì đấy không phải là mục đích. Còn có các thể khác cần phải đi qua.
Như tôi đã nói, chúng ta thấy rằng rất ít người có khả năng phát triển thể thứ tư. Đó là lí do tại sao có những người thực hiện phép màu trong thế giới ngày nay. Nếu thể thứ tư trong mọi người đều được phát triển, phép màu sẽ tan biến ngay khỏi trái đất này. Nếu như có xã hội của những người mà sự phát triển của họ đã bị đình trệ sau độ tuổi mười bốn, thế thì người đã phát triển thêm một chút nữa, người có thể cộng hay trừ, sẽ được coi như thực hiện được phép màu.
Hàng nghìn năm trước đây, khi một người tuyên bố về ngày tháng của nhật thực, điều đó được coi như một phép màu mà chỉ những người rất thông thái mới có thể thực hiện nổi. Ngày nay chúng ta biết rằng thậm chí máy cũng có thể cho chúng ta thông tin này. Đấy là vấn đề tính toán và chẳng cần đến một nhà thiên văn hay nhà tiên tri hay người có học nào cả. Một máy tính có thể cho thông tin không chỉ về một nhật thực mà còn hàng triệu nhật thực. Nó thậm chí còn có thể dự đoán ngày mà mặt trời sẽ lạnh đi - vì có tất cả các tính toán. Máy có thể tính ngày tháng từ số lượng năng lượng mà mặt trời phát ra hàng ngày, chia cho tổng số năng lượng của mặt trời để thu được số năm mặt trời sẽ kéo dài.
Nhưng tất cả những điều này bây giờ đối với chúng ta không giống như phép màu nữa vì bây giờ tất cả chúng ta đều đã phát triển tới thể thứ ba. Một nghìn năm trước đây, nó đã là phép màu lớn nếu một người tiên đoán được rằng năm tới, trong tháng này, trong đêm này, sẽ có nguyệt thực. Người đó sẽ được coi là siêu nhân. ‘Phép màu’ đó bây giờ xảy ra thường xuyên - bùa mê ảo thuật, tro thả từ khung tranh - tất cả đều là sự kiện thông thường của thể thứ tư. Nhưng vì chúng ta không biết nên nó thành phép màu với chúng ta.
Cũng hệt như bạn đứng dưới gốc cây còn tôi đang ngồi trên cây, và chúng ta hai người cùng nói. Bây giờ tôi thấy một chiếc xe đang chạy từ xa và tôi bảo bạn rằng trong một giờ nữa xe sẽ tới và dừng dưới cây. Bạn sẽ nói, "Thầy có là nhà tiên tri không đấy? Thầy nói điều bí ẩn thế. Chẳng có xe nào ở đâu quanh đây cả. Tôi không tin vào điều thầy nói." Nhưng sau một giờ, chiếc xe lăn bánh tới cái cây, và tất yếu bạn phải chạm chân tôi và nói, "Thưa thầy kính yêu, tôi kính trọng thầy. Thầy đúng là nhà tiên tri." Khác biệt chỉ là thế này thôi, đó là tôi ngồi cao hơn bạn một chút - trên cây - từ đó có thể thấy được chiếc xe một giờ trước khi bạn cũng thấy  được.  Tôi không nói về tương lai, tôi đang nói chính về hiện tại. Nhưng có khoảng cách một giờ giữa thời hiện tại của bạn và của tôi bởi vì tôi ở mức cao hơn. Với bạn, nó sẽ thành hiện tại sau một giờ, nhưng với tôi nó là hiện tại bây giờ.
Người càng đứng sâu hơn bên trong bản thể mình, người đó càng trở thành phép màu lớn hơn đối vối những người vẫn ở tầng bề mặt. Thế thì tất cả những việc làm của người đó sẽ trở thành phép màu với chúng ta bởi vì chúng ta không có cách nào phán đoán những điều xảy ra này vì chúng ta không biết luật của thể thứ tư. Đây là cách thức ảo thuật và phép màu xảy ra: chúng là sự trưởng thành hơn của thể thứ tư. Cho nên nếu chúng ta muốn phép màu chấm dứt trong thế giới này, nó sẽ không xảy ra bởi việc thuyết giảng cho quần chúng. Cũng hệt như việc chúng ta trao dạy dỗ cho một người về thể thứ ba và làm cho người đó hiểu được ngôn ngữ và toán học, bây giờ chúng ta phải trao cho người đó việc huấn luyện về thể thứ tư. Mỗi người đều phải có đủ khả năng tương ứng, bởi vì chỉ thế thì phép màu mới dừng lại; bằng không, ai đó hay người khác bao giờ cũng sẽ lợi dụng điều này. Thể thứ tư phát triển cho tới hai tám tuổi - tức là, cho bẩy năm nữa. Nhưng rất ít người có thể phát triển được nó.
Atma sharir - thể thứ năm, còn được gọi là thể tâm linh - có giá trị lớn. Nếu trưởng thành trong cuộc sống còn tiếp tục theo cách thức đúng đắn, đến độ tuổi ba mươi nhăm thể này phải được phát triển hoàn toàn. Nhưng đây là ý tưởng xa xôi bởi vì thậm chí thể thứ tư cũng chỉ được phát triển ở rất ít người. Đây là lí do tại sao linh hồn và những điều như vậy là chủ đề thảo luận duy nhất cho chúng ta; không có nội dung đằng sau từ này. Khi chúng ta nói atman, đấy đơn thuần chỉ là từ; chẳng có gì đằng sau nó cả. Khi chúng ta nói bức tường, không chỉ có từ mà còn có cả chất liệu đằng sau từ này; chúng ta biết "tường" nghĩa là gì. Nhưng không có ý nghĩa đằng sau từ atman, vì chúng ta không có tri thức, không có kinh nghiệm về atman. Đây là thể thứ năm của chúng ta, và chỉ nếu kundalini thức tỉnh trong thể thứ tư, lối vào thể thứ năm mới thành có thể; bằng không, chúng ta không thể vào được. Chúng ta không nhận biết về thể thứ tư cho nên thể thứ năm cũng vẫn còn là điều không được biết tới.
Rất ít người phát hiện ra thể thứ năm; họ là những người mà chúng ta gọi là người tâm linh. Những người này coi điều này là chỗ kết thúc cuộc hành trình và tuyên bố, "Đạt tới atman là đạt tới tất cả." Nhưng cuộc hành trình vẫn chưa kết thúc. Tuy nhiên, những người dừng lại ở thể thứ năm đều phủ nhận Thượng đế. Họ nói, "Không có brahman; không có paramatman," cũng hệt như người trì trệ ở thể thứ nhất sẽ phủ nhận sự tồn tại của atman. Cũng hệt như người duy vật nói, "Thân thể là mọi thứ; khi thân thể chết, mọi thứ đều chết," cho nên người tâm linh tuyên bố, "Không có gì bên ngoài atman: atman là mọi thứ; nó là trạng thái cao nhất của hiện hữu." Nhưng đây chỉ là thể thứ năm.
Thể thứ sáu là brahman sharir - thể vũ trụ. Khi một người tiến hoá ra ngoài atman của mình, khi người đó sẵn lòng mất nó đi, người đó đi vào thể thứ sáu. Nếu loài người phát triển một cách khoa học, sự phát triển tự nhiên của thể thứ sáu sẽ xảy ra vào độ tuổi bốn mươi hai, và sự phát triển của nirvana sharir - thể thứ bẩy - vào độ tuổi bốn mươi chín. Thể thứ bẩy là thể niết bàn, thể vô thể - trạng thái vô thể. Đây là trạng thái tối thượng nơi chỉ cái hư không còn lại - thậm chí không có cả brahman, thực tại vũ trụ, mà chỉ có cái trống rỗng. Cái không còn lại; mọi thứ đã biến mất.
Cho nên khi bất kì ai hỏi Phật, "Cái gì xảy ra ở đó?", ông ấy đáp, "Ngọn lửa mất rồi." "Thế thì cái gì xảy ra?" người ta sẽ lại hỏi ông ấy. "Khi ngọn lửa mất đi, ông không hỏi, ‘Nó đã đi đâu? Ngọn lửa bây giờ đâu rồi?’ Nó mất đi, có vậy thôi." Từ niết bàn hàm ý sự tiêu tan của ngọn lửa. Do đó, Phật nói, niết bàn xảy ra.
Trạng thái của moska được kinh nghiệm trong thể thứ năm. Giới hạn của bốn thể đầu bị siêu việt lên và linh hồn trở thành hoàn toàn tự do. Cho nên giải thoát là kinh nghiệm của thể thứ năm. Cõi trời và địa ngục đi đôi với thể thứ tư, và người dừng lại đây sẽ kinh nghiệm chúng. Với những người dừng lại các thể thứ nhất, thứ hai và thứ ba, cuộc sống giữa sinh và tử trở thành mọi thứ; không có cuộc sống bên ngoài cái chết cho họ. Nếu một người vượt ra ngoài đi vào thể thứ tư, sau cuộc đời này người đó kinh nghiệm cõi trời và địa ngục, nơi có những khả năng vô hạn của hạnh phúc và khổ.
Nếu người đó đạt tới thể thứ năm, có cánh cửa của giải thoát, và nếu người đó đạt tới thể thứ sáu, có khả năng của trạng thái nhận ra Thượng đế. Thế thì không có vấn đề về giải thoát hay không giải thoát; người đó trở thành một với cái đang đấy. Lời tuyên bố về "Aham Brahmasmi" - Ta là Thượng đế - là của bình diện này. Nhưng có một bước nữa, là bước nhảy cuối cùng - nơi không có aham và không có Brahman, nơi cái ta và người là hoàn toàn không tồn tại, nơi đơn thuần không có gì - nơi chỉ có cái hư không toàn bộ và tuyệt đối. Đó là niết bàn.
Đây là bẩy thể được phát triển trong thời kì bốn mươi chín năm. Đây là lí do tại sao điểm giữa của năm mươi năm đã được biết tới như điểm cách mạng. Trong hai mươi nhăm năm đầu có một hệ thống cuộc sống. Trong thời kì này nỗ lực được tiến hành để phát triển bốn thể đầu; thế rồi việc giáo dục của người đó được coi như hoàn thành. Thế rồi người đó được coi như sẽ đi tìm các thể năm, sáu bẩy của mình trong phần còn lại của cuộc sống mình, và trong phần hai mươi nhăm năm còn lại người đó được trông đợi đạt tới thể thứ bẩy. Do đó, độ tuổi năm mươi được xem như tuổi trọng yếu. Vào lúc này con người trở thành wanaprasth, điều chỉ có nghĩa là bây giờ người đó nên quay cái nhìn về rừng rậm - rằng bây giờ người đó nên quay mắt ra khỏi mọi người, xã hội và phố thị.
Độ tuổi bẩy mươi nhăm lại là một điểm cách mạng nữa - khi con người đã trở nên được điểm đạo có tính sannyas. Quay hướng về rừng rậm có nghĩa là loại bỏ bản thân mình khỏi đám đông và mọi người; sannyas nghĩa là bây giờ thời điểm đã đến để nhìn ra ngoài bản ngã, siêu việt lên trên bản ngã. Trong rừng rậm cái ‘tôi’ sẽ cần phải đi cùng với người đó mặc dầu người đó đã từ bỏ tất cả những điều khác, nhưng tại độ tuổi bẩy mươi nhăm, cái ‘tôi’ này nữa cũng phải bị từ bỏ.
Tuy nhiên, điều kiện là ở chỗ trong cuộc đời người ta như một người quản gia, người ta phải trải qua và phát triển tất cả bẩy thể để cho phần còn lại của cuộc hành trình trở thành tự phát và vui vẻ. Nếu điều này không được tiến hành, sẽ rất khó khăn, bởi vì với mọi chu kì bẩy năm đều được gắn với một trạng thái phát triển đặc biệt. Nếu thể vật lí của đứa trẻ không trưởng thành đầy đủ trong bẩy năm đầu cuộc sống của nó, nó bao giờ cũng ốm yếu. Nhiều nhất chúng ta có thể thấy trong đó là nó không còn ốm - nhưng nó sẽ không bao giờ khoẻ bởi vì nền tảng mạnh khoẻ cơ sở của nó mà đáng phải hình thành trong bẩy năm đầu đã bị lung lay. Cái mà đáng phải trở nên mạnh mẽ và vững chắc, đã bị rối loạn, và đó là thời gian cho việc phát triển nó.
Cũng giống hệt như việc làm móng cho ngôi nhà: nếu nền móng yếu, sẽ khó - không, phải nói là không thể được - để sửa chữa nó một khi đã lên tới mái. Tại giai đoạn nền móng này chỉ có thể làm việc đặt nền móng cho vững. Cho nên trong bẩy năm đầu này, nếu có sẵn những điều kiện đúng đắn cho thể thứ nhất, thân thể sẽ phát triển đúng đắn. Bây giờ nếu thể thứ hai và các xúc cảm không phát triển đầy đủ trong bẩy năm tiếp, một số hư hỏng dục sẽ phát sinh. Thế thì sẽ rất khó để sửa chữa những điều này về sau. Cho nên thời kì phát triển cho một thể đặc biệt là chủ chốt nhất.
Tại mỗi bước của cuộc sống, mỗi thể đều có thời kì phát triển định sẵn của nó. Có thể có hơi khác biệt đây đó, nhưng đấy là vấn đề phụ. Nếu một đứa trẻ không phát triển về mặt dục trong mười bốn năm, toàn bộ cuộc sống của nó trở thành cuộc thử thách lâu dài. Nếu trí tuệ không phát triển vào lúc nó hai mươi mốt tuổi, rất ít có cơ hội cho việc phát triển của nó vào thời kì về sau. Nhưng cho đến nay chúng ta đều đồng ý: chúng ta chăm sóc cho thể thứ nhất, thế rồi chúng ta chăm  nom gửi trẻ con tới trường để phát triển trí tuệ của chúng nữa. Nhưng chúng ta quên mất rằng phần các thể còn lại cũng có thời gian được chia phần của chúng mà nếu bị mất đi, sẽ đẩy chúng ta vào khó khăn.
Con người phải mất năm mươi năm để phát triển thân thể mà người đó đáng phải phát triển trong hai mươi mốt năm. Hiển nhiên là người đó không có nhiều sức mạnh vào độ tuổi năm mươi như khi người đó ở độ tuổi hai mươi mốt, cho nên người đó phải đổ ra rất nhiều cố gắng. Thế thì điều đáng ra dễ dàng hơn để hoàn thành vào độ tuổi hai mươi mốt sẽ trở thành dài và gay go.
Còn có khó khăn khác mà người đó gặp phải: tại độ tuổi hai mươi mốt người đó ở đúng cánh cửa nhưng người đó đã bỏ lỡ nó. Bây giờ, ba mươi năm qua, người đó đã ở biết bao nhiêu chỗ đến mức người đó mất cái nhìn về lối mở đúng. Sự lang thang của người đó bây giờ làm cho người đó không thể nào định vị được nơi mà người đó đã đứng ở tuổi hai mươi mốt tuổi và cái được cần để hơi đẩy là mở ra.
Do đó, cần có hoàn cảnh được tổ chức tốt cho trẻ con chừng nào chúng còn chưa đạt tới độ tuổi hai mươi nhăm. Điều đó nên được lập kế hoạch chu đáo để đưa chúng tới mức thể thứ tư. Sau thể thứ tư phần còn lại là dễ dàng. Thế thì nền tảng sẽ được đặt chu đáo; bây giờ chỉ quả là còn phải phát triển. Cây đã được hình thành cho tới thể thứ tư; thế rồi quả bắt đầu xuất hiện từ thể thứ năm và lên tới cao trào ở thể thứ bẩy. Chúng ta có thể phải cho phép một chút xíu chỗ này chỗ nọ, nhưng chúng ta phải rất để tâm tới những nền tảng.
Theo khía cạnh này một vài điều nữa cũng nên được lưu tâm. Có khác biệt giữa đàn ông và đàn bà qua bốn thể đầu. Chẳng hạn, nếu một cá nhân là đàn ông, thể vật lí của anh ta là thể nam tính. Nhưng thể thứ hai của anh ta - thể ê te, nằm sau thể vật lí - lại là nữ tính, bởi vì không cực âm hay cực dương nào có thể tự mình tồn tại cả. Một thể nam tính và một thể nữ tính, dưới dạng điện, là các thể dương và âm.
Thể vật lí của đàn bà là âm tính; do đó, cô ấy không bao giờ năng nổ trong vấn đề dục. Cô ấy có thể chịu đựng bạo hành của đàn ông trong phương diện này, nhưng tự mình không thể bạo hành. Cô ấy không thể làm gì với người đàn ông mà không có sự bằng lòng của người này. Thể đầu tiên của đàn ông là dương tính - năng nổ. Anh ta có thể, do đó, làm điều gì đó năng nổ với đàn bà mà chẳng cần sự bằng lòng của cô ấy; anh ta có thể thứ nhất là năng nổ. Nhưng bởi vì âm tính không có nghĩa là số không hay thiếu vắng. Dưới dạng điện, âm tính có nghĩa là tiếp nhận, dự trữ. Trong thân thể đàn bà, năng lượng nằm dưới dạng dự trữ; nhiều năng lượng nằm trong dự trữ. Nhưng nó không hoạt động; nó bất hoạt.
Đây là lí do tại sao đàn bà không sáng tạo ra cái gì. Cô ấy không làm thơ, không tạo ra bức hoạ lớn, không ấp ủ nghiên cứu khoa học. Điều này là bởi vì cần phải có năng nổ cho nghiên cứu hay công việc sáng tạo nào đó. Cô ấy chỉ có thể đợi; đó là lí do tại sao cô ấy chỉ có thể tạo ra trẻ con.
Đàn ông có thể dương tính, nhưng bất kì ở đâu có thể dương tính, cũng đều phải có thể âm tính đằng sau nó bằng không nó không thể kéo dài được. Cả hai phải cùng hiện diện; thế thì vòng tròn là đầy đủ. Cho nên thể thứ hai của đàn ông là nữ tính, trong khi thể thứ hai của đàn bà là nam tính. Đây là lí do tại sao - và đây cũng là sự kiện thú vị - đàn ông trông và là rất mạnh, khi thể vật lí bắt đầu. Nhưng đằng sau sức mạnh bề ngoài đó là thể nữ tính yếu đuối thường trực. Đây là lí do tại sao anh ta xoay xở bày tỏ sức mạnh chỉ cho vài khoảnh khắc mỗi lúc. Trong hoạt động dài anh ta thua bàn tay đàn bà, bởi vì thể đằng sau thể nữ tính yếu đuối của cô ấy là thể nam tính mạnh.
Đây là lí do tại sao sức mạnh chịu đựng của đàn bà, khả năng của cô ấy về chịu đựng, lại lớn hơn khả năng của đàn ông. Nếu đàn ông và đàn bà cùng chịu đựng một bệnh tật, đàn bà có thể chịu đựng được lâu hơn đàn ông. Đàn bà tạo ra trẻ con. Nếu đàn ông phải tạo ra trẻ con, họ sẽ hiểu cực nhọc phải bị trải qua. Thế thì có lẽ sẽ không cần phải có kế hoạch hoá gia đình nữa - bởi vì đàn ông không thể nào chịu đựng được biết bao đau đớn trong thời gian lâu như thế. Trong một hay hai lúc anh ta có thể phiêu diêu trong giận dữ, có thể đánh gối, nhưng anh ta không thể mang một đứa trẻ trong bụng suốt trong chín tháng, cũng chẳng thể kiên nhẫn ôm bế nó trong nhiều năm sau. Nếu nó khóc cả đêm, anh ta có thể bóp chết nó. Anh ta sẽ không thể nào tha thứ cho sự quấy nhiễu. Anh ta có sức mạnh phi thường, nhưng đằng sau anh ta là thể ê te tinh tế, ẻo lả. Bởi vì điều này anh ta không thể chịu được đau đớn hay không thoải mái.
Đây là lí do tại sao đàn bà lại ít ốm đau hơn đàn ông, khoảng sống của họ dài hơn của đàn ông. Bởi lí do này mà chúng ta nên giữ khác biệt năm năm giữa con trai và con gái vào lúc hôn nhân, bằng không, thế giới sẽ đầy những bà goá. Nếu con trai hai mươi tuổi, chúng ta nên chọn con gái hai mươi bốn hay hai mươi nhăm cho anh ta. Khoảng sống của đàn ông ít hơn đàn bà bốn hay năm năm, cho nên khác biệt này sẽ làm quân bình mọi thứ và cả hai sẽ đồng bộ với nhau.
Một trăm mười sáu con trai được sinh ra để ứng với một trăm con gái được sinh ra. Khác biệt về số lượng khi sinh là mười sáu, nhưng về sau con số này bằng nhau. Mười sáu đứa con trai chết đi trước lúc chúng đạt tới tuổi mười bốn và do vậy con số thành bằng nhau. Nhiều con trai chết đi dễ dàng hơn con gái. Điều này là bởi vì con gái có sức mạnh chịu đựng lớn hơn qua thể nam tính thứ hai.
Bây giờ thể thứ ba của con trai - tức là thể vía - sẽ lại là nam tính, và thể thứ tư hay thể hồn sẽ lại là nữ tính. Đảo ngược lại sẽ là trường hợp của con gái. Phân chia nam tính và nữ tính này chỉ tồn tại tới thể thứ tư; thể thứ năm vượt ra ngoài giới tính. Do đó, ngay khi đạt tới atman, không còn con trai con gái nữa - nhưng chưa đạt tới lúc đó thì vẫn còn.
Có một điều nữa cần tính tới trong mối liên quan này. Vì mọi nam đều có thể nữ tính bên trong mình và mọi nữ đều có thể nam tính bên trong mình, cho nên nếu ngẫu nhiên một người đàn bà lấy được người chồng đồng nhất với thể nam tính bên trong của mình, hay nếu người đàn ông lấy người đàn bà có thể nữ tính đồng nhất với thể nữ tính bên trong của mình, chỉ thế thì hôn nhân mới thành công; ngoài ra thì không.
Đây là lí do tại sao chín mươi chín phần trăm hôn nhân thất bại: bởi vì qui tắc bản chất cho thành công là chưa được biết tới. Chừng nào chúng ta không thể chắc chắn được liên minh đúng giữa các thể năng lượng tương ứng của hai người, hôn nhân nhất định thất bại dù ta có tiến theo hướng nào đi chăng nữa. Hôn nhân thành công chỉ có thể có nếu các chi tiết khoa học tuyệt đối rõ ràng có liên quan tới các thể bên trong khác nhau này được đạt tới. Con trai hay con gái đã đạt tới điểm thức tỉnh kundalini sẽ thấy rất dễ dàng chọn đúng bạn tình trong cuộc sống. Với tri thức đầy đủ về tất cả thể của mình bên trong, người ta có thể chọn đúng ở bên ngoài. Trước điều này là rất khó khăn.
Do đó, những người biết đều nhấn mạnh rằng trẻ con nên để cho phát triển bốn thể đầu trước trong hai mươi nhăm năm đầu bởi việc duy trì brahmacharya- vô dục, và chỉ thế thì nó mới có thể xây dựng gia đình - bởi vì nó sẽ lấy ai? Nó sẽ sẽ muốn dành cả phần còn lại cuộc sống với ai? Nó sẽ tìm kiếm ai? Người đàn bà tìm người đàn ông nào? Cô ấy tìm người đàn ông bên trong mình. Nếu ngẫu nhiên mà các ghép nối đúng được tạo ra, thế thì cả hai đàn ông và đàn bà đều được thoả mãn; bằng không, sự không thoả mãn vẫn cứ còn và hàng nghìn hư hỏng nảy sinh từ điều này. Thế thì đàn ông đi tới nhà thổ hay tìm kiếm đàn bà hàng xóm. Thất vọng của anh ta lớn lên hang ngày, và khổ sở này nhất định tăng lên với sự tăng lên của trí tuệ con người.
Nếu sự trưởng thành của một người dừng lại tại tuổi mười bốn, người đó sẽ không phải chịu đựng nỗi khổ này, bởi vì tất cả mọi đau khổ đều bắt nguồn từ sự trưởng thành của thể thứ ba. Nếu chỉ có hai thể đầu là phát triển, con người sẽ được thoả mãn bởi dục. Cho nên có hai cách: hoặc trong hai mươi nhăm năm đầu, trong thời kì brahmacharya - vô dục, chúng ta nên phát triển trẻ con cho tới thể thứ tư, hoặc bằng không, khuyến khích chúng xây dựng gia đình. Tảo hôn có nghĩa là hôn nhân trước khi phát triển trí tuệ để cho người ta trì trệ tại dục; thế thì không có rắc rối gì khi mối quan hệ vẫn hoàn toàn trên bình diện con vật. Mối quan hệ của tảo hôn là mối quan hệ dục thuần tuý; không có khả năng của tình yêu trong nó.
Bây giờ những nơi như Mĩ, nơi mà giáo dục đã có tiến bộ lớn và nơi mà thể thứ ba đã phát triển hoàn toàn, hôn nhân tan vỡ. Chúng nhất định phải tan vỡ, bởi vì thể thứ ba nổi loạn ở mối quan hệ bạn tình sai. Cho nên li dị xảy ra như kết quả, bởi vì không thể nào kéo lê hôn nhân như vậy lâu được.
Hình thức đúng đắn của giáo dục là ở chỗ phát triển bốn thể đầu. Giáo dục đúng đắn là ở chỗ nó đem bạn tới thể thứ tư. Tại đó công việc giáo dục là hoàn chỉnh. Không giáo dục nào có thể giúp bạn đi vào thể thứ năm; bạn phải tự mình đi tới đó. Giáo dục đúng có thể dễ dàng đưa bạn tới thể thứ tư. Sau điều này sự trưởng thành của thể thứ năm bắt đầu, điều rất có giá trị và mang tính cá nhân. Kundalini là tiềm năng của thể thứ tư; đây là lí do tại sao kundalini là hiện tượng hồn. Tôi hi vọng điều này bây giờ rõ ràng cho bạn.

Liệu có khả năng gắn bó hồn giữa thiền nhân và người trung gian trong shaktipat không? Liệu nó có thể bất lợi cho thiền nhân hay nó có ích cho người này?
Mối liên hệ gắn bó không bao giờ có thể ích lợi, bởi vì gắn bó bản thân nó là xấu. Càng gắn bó sâu sắc, lại càng tồi tệ hơn. Gắn bó hồn là một điều rất xấu. Nếu ai đó trói buộc tôi bằng xích, chỉ có thể vật lí của tôi là bị ảnh hưởng, nhưng nếu ai đó trói buộc tôi bằng dây xích tình yêu, nó thấm sâu hơn và khó phá vỡ hơn. Nếu ai đó gắn bó tôi bằng dây xích shraddha, niềm tin, nó còn đi sâu hơn nữa. Thế thì việc phá vỡ dây xích này sẽ là "tội lỗi." Cho nên tất cả xiềng xích đều xấu, và xiềng xích hồn thậm chí còn xấu hơn thế.
Người hành động như người trung gian trong shaktipat, đáng phải không bao giờ ràng buộc với bạn. Nếu người đó làm như vậy, người đó không đáng là người trung gian. Nhưng rất có thể là bạn bị gắn chặt với người đó. Bạn có thể ôm lấy chân người đó và thề không bao giờ rời bỏ người đó bởi vì ân huệ rất lớn đã được dành cho bạn. Cần phải rất tỉnh táo vào khoảnh khắc đó. Thiền nhân nên tự bảo vệ mình khỏi gắn bó. Tuy nhiên, nếu vấn đề trở nên rõ ràng với thiền nhân rằng tất cả những gắn bó đều tỏ ra là gánh nặng trong cuộc hành trình tâm linh, thế thì cảm giác biết ơn sẽ không phải là lực ràng buộc mà là lực giải thoát. Nếu tôi cám ơn bạn về điều gì đó, vấn đề gắn bó là ở đâu? Thực tế, nếu tôi không bầy tỏ lòng biết ơn của mình, sự kiện này sẽ vẫn còn như sự tù túng bên trong: rằng thậm chí tôi đã không bầy tỏ lòng biết ơn của mình. Nhưng việc cám ơn này hoàn chỉnh vấn đề.
Biết ơn không phải là lệ thuộc. Ngược lại, nó là việc bầy tỏ tự do tối hậu. Nhưng khuynh hướng trở nên bị lệ thuộc bao giờ cũng ở bên trong chúng ta bởi vì có nỗi sợ bên trong. Chúng ta chưa bao giờ chắc chắn liệu chúng ta sẽ có khả năng tự đứng một mình hay không; do đó mới có thôi thúc níu bám vào ai đó. Nói gì tới việc níu bám vào ai đó - khi một người đi qua phố tối trong đêm, người này hát to bởi vì âm thanh của chính người đó làm khuây khoả đi nỗi sợ. Nếu đấy là tiếng nói của người khác, thế nữa nó cũng sẽ là cái gì đó để níu bám vào, nhưng về cơ bản người đó tập trung sức mạnh và lòng can đảm từ tiếng nói của riêng mình. Con người hoảng sợ cho nên người đó nắm giữ vào bất kì cái gì; đó là lí do tại sao nếu người chết đuối vớ phải cọng rơm, người đó sẽ giữ chặt nó cho dù điều này chẳng bảo vệ được người đó khỏi chết chìm. Thay vì thế cọng rơm cũng chìm cùng với người đó. Cho nên từ nỗi sợ mà tâm trí có khuynh hướng ôm giữ ai đó, cái gì đó, dù đó là guru hay bất kì ai hay bất kì cái gì khác. Bằng việc làm như vậy chúng ta muốn bảo vệ lấy chính mình. Nỗi sợ là gốc rễ của mọi loại níu bám.
Thiền nhân bao giờ cũng phải thận trọng về an ninh. An ninh là mạng nhện gắn bó lớn nhất cho thiền nhân. Nếu người này tìm kiếm an ninh dù chỉ một khoảnh khắc thôi, nếu người này cảm thấy rằng mình có sự hỗ trợ của ai đó mà với bảo vệ của người đó anh ta chẳng có gì phải sợ và do vậy anh ta bây giờ sẽ không đi lạc lối, nếu anh ta đang nghĩ rằng mình sẽ chẳng đi đâu cả và đang ở dưới đôi cánh của thầy mãi mãi, thế thì anh ta đã lạc đường rồi. Với người tìm kiếm không có an ninh; không an ninh là phúc lành cho người tìm kiếm. Không an ninh càng lớn, cơ hội cũng càng lớn cho linh hồn người đó mở rộng và trở nên bạo dạn và không sợ hãi. Càng được bảo vệ, người đó càng trở nên yếu đuối theo cùng tỉ lệ. Nhận sự trợ giúp là một điều, nhưng cứ giữ bị phụ thuộc lại là điều hoàn toàn khác.
Bạn được trao cho sự hỗ trợ để cho bạn có thể đứng vững mà không cần hỗ trợ. Nó được trao cho với chủ định rằng chẳng mấy chốc bạn sẽ không cần nó nữa. Bạn có để ý rằng khi người bố đang giúp đứa con mình tập bước, người đó giữ tay con chứ không phải là đứa trẻ giữ tay không? Trong thời gian vài ngày nó học bước đi, và rồi người bố bỏ tay mình ra. Nhưng ban đầu đứa trẻ nắm lấy tay bố vì tin cậy. Cho nên nếu đứa trẻ cứ nắm lấy tay bố nó, điều đó có nghĩa là mặc dầu nó đã học bước đi nhưng nó sẽ không bỏ việc nắm tay đó. Nếu người bố giữ tay đứa trẻ, thế thì biết rằng đứa trẻ vẫn còn chưa biết đi và sẽ nguy hiểm để cho nó đi theo kiểu của nó. Người bố muốn tay mình được thả ra sớm; đó là lí do tại sao người đó dạy cho đứa trẻ bước đi. Nếu người bố nào đó cho phép con mình cứ nắm giữ tay mình do niềm sung sướng lớn lao mà người đó có được từ điều đó, người đó là kẻ thù của con mình.
Nhiều bậc cha mẹ, nhiều guru đã làm điều này, nhưng đây là sai lầm. Lí do vì nó mà sự trợ giúp được trao cho đã bị thất bại. Thay vì việc làm phát sinh một con người lành mạnh khoẻ mạnh, người có thể bước trên đôi chân riêng của mình, người đó đã làm phát sinh ra người què quặt, người sẽ phụ thuộc vào đôi nạng cả đời. Tuy nhiên điều này lại là niềm vui đem lại sự thoả mãn cho ông bố hay guru - rằng bạn không thể đi được trên con đường của mình mà không có sự trợ giúp của họ. Theo cách này bản ngã của họ được thoả mãn.
Nhưng guru như thế thì không phải là guru. Cho nên chính guru phải là buông tay thiền nhân ra và bảo người đó hãy quả quyết bước đi trên đôi chân của riêng mình. Và chẳng hại gì nếu người đó bị ngã một đôi lần; người đó có thể đứng dậy được. Sau rốt, người ta phải ngã để vươn lên, và cần phải ngã vài lần để vượt qua nỗi sợ ngã.
Tâm trí cố gắng nắm bắt sự hỗ trợ nào đó và do vậy việc trói buộc bắt đầu. Điều này không nên xảy ra. Thiền nhân bao giờ cũng nên nhớ trong tâm sự kiện là mình không tìm kiếm an ninh. Người đó đang tìm kiếm chân lí, không an ninh. Nếu người đó chân thành trong việc truy tìm chân lí của mình, người đó phải từ bỏ tất cả các ý tưởng về an toàn và an ninh. Sự giả dối tạo ra rất nhiều bảo vệ - và rất nhanh chóng nữa, cho nên người đang tìm kiếm an toàn, nhanh chóng bị hấp dẫn về phía nó. Người tìm kiếm sự thuận tiện chưa bao giờ cân được sức nặng của chân lí, bởi vì cuộc hành trình là dài. Thế thì người đó sẽ rập khuôn cái sai lầm từ những ý tưởng đồng bóng và bắt đầu tin rằng mình đã đạt tới trong khi người đó vẫn còn ngồi lại nơi người đó đang vậy.
Do đó, bất kì kiểu gắn bó nào cũng là nguy hiểm - và thậm chí gắn bó với guru còn nguy hiểm hơn, bởi vì đây là gắn bó tâm linh. Chính thuật ngữ gắn bó tâm linh là mâu thuẫn. Tự do tâm linh có nghĩa, nhưng nô lệ tâm linh là vô nghĩa. Nhưng trong thế giới này, các kiểu nô lệ khác kém tính nô lệ hơn nhiều so với nô lệ về tâm linh. Có lí do cho điều này. Thể thứ tư, từ đó tinh thần tự do nảy sinh, vẫn còn chưa phát triển. Đại đa số mọi người đã phát triển chỉ tới thể thứ ba.
Điều rất thường được thấy là viên quan toà thượng thẩm hay vị phó giám đốc đại học đang ngồi dưới chân một kẻ tuyệt đối ngốc. Thấy điều này, những người khác theo cách nghĩ phù hợp rằng nếu một người nổi tiếng như thế mà còn ngồi dưới chân con người này..., chúng ta chẳng là gì trong so sánh. Họ không biết rằng mặc dầu viên quan toà này, vị phó giám đốc đại học này, đã phát triển thể thứ ba của mình đến mức đầy đủ, rằng mặc dầu người đó đã phát triển trí tuệ mình tới một mức rất cao, người đó vẫn còn dốt nát khi có liên quan tới thể thứ tư của mình. Người đó tương đương với kẻ dốt nát khi đó là những vấn đề của thể thứ tư. Và thể thứ ba của người đó - cái đã phát triển về mặt trí tuệ và lập luận - đã bị vét hết bởi việc suy nghĩ và tranh luận thường xuyên và bây giờ phải nghỉ.
Bây giờ khi trí tuệ mệt mỏi và thảnh thơi, nó mê đắm vào những theo đuổi rất không thông minh. Bất kì cái gì thảnh thơi sau hoạt động cực đoan đều trở thành đối lập với bản tính của nó. Điều này là nguy hiểm, và đây là lí do tại sao bạn sẽ thường thấy các quan toà thượng thẩm ở các đạo tràng. Họ kiệt sức và họ lo âu bởi trí tuệ của mình, cho nên họ muốn loại bỏ chúng. Trong hoàn cảnh như vậy họ sẽ làm bất kì cái gì bất hợp lí; họ sẽ chỉ nhắm mắt lại và đặt niềm tin của mình vào bất kì cái gì. Luận điểm của họ là ở chỗ tất cả những học hỏi và lập luận của họ cùng những thảo luận đều chẳng dẫn họ đến đâu cả, cho nên họ vứt bỏ chúng. Và để cắt đứt tất cả mọi mối nối với chúng, họ thường nắm giữ cái gì đó hoàn toàn trái ngược. Thế rồi phần còn lại của đám đông, những người tin vào trí tuệ của những người địa vị cao như thế, bắt đầu bắt chước họ. Những người này có thể rất trí thức, nhưng trong vấn đề về thể thứ tư, họ chẳng là gì cả. Do đó, một hơi chút phát triển của thể thứ tư trong bất kì cá nhân nào sẽ đủ để đem những nhà trí thức vĩ đại nhất xuống dưới chân người này, bởi vì người này có điều gì đó mà nhà trí thức thiếu hoàn toàn.
Loại trói buộc này xuất hiện khi thể thứ tư còn chưa được phát triển. Thế thì tâm trí muốn bám vào ai đó có thể thứ tư đã phát triển, nhưng điều này sẽ không giúp ích gì cho bạn phát triển thể thứ tư của mình. Chỉ bằng việc hiểu người như thế mới có thể làm cho thể thứ tư của bạn phát triển. Tuy nhiên, để tránh rắc rối của việc hiểu người đó bạn nắm giữ lấy người đó. Thế thì bạn sẽ nói, "Cần gì phải hiểu? Chúng tôi sẽ bám chân thầy để khi thầy đi qua dòng sông địa ngục, chúng tôi cũng sẽ đi qua cùng thầy; chúng tôi sẽ níu bám lấy con thuyền của thầy để qua dòng sông cõi trời."
Người ta phải đau khổ để trưởng thành trong hiểu biết. Biến đổi là cần thiết cho việc hiểu biết xảy ra. Hiểu biết là nỗ lực, là sadhana. Hiểu biết cần gắng sức, hiểu biết là cách mạng. Trong hiểu biết biến đổi xảy ra, mọi thứ thay đổi. Cái cũ phải bị đổi thành cái mới. Tại sao phải trải qua tất cả những cái khó chịu này? Tốt hơn cả là cứ ôm lấy người đã biết. Nhưng sự kiện là ở chỗ chẳng ai đạt tới chân lí bởi việc đi theo ai đó khác cả. Người ta phải đi một mình. Đó là con đường hoàn toàn đơn độc. Do đó bất kì loại gắn bó nào cũng đều là cản trở.
Học, hiểu, đón chào cái thoáng nhìn bất kì ở đâu bạn bắt gặp nó. Nhưng chớ dừng lại ở đâu cả; đừng làm ra nơi ở tại bất kì chỗ nghỉ nào; đừng nắm giữ bàn tay chìa ra cho bạn và coi nó như đích. Tuy nhiên bạn sẽ thấy nhiều người nói, "Đừng đi thêm nữa. Dừng lại đây; đây là bờ bên kia rồi." Như tôi đã nói trước đây, một số người sợ hãi ham muốn được trói buộc và còn có những người khác sợ hãi muốn trói họ lại để tự mình thấy không sợ. Khi một người thấy một nghìn người theo mình người đó nhất định cảm thấy rằng mình trí huệ - vì ngược lại tại sao những người này phải theo mình? Người này tự nhủ, "Chắc chắn mình biết điều gì đó, bằng không tại sao những người này tin vào mình?"
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng nhiều lần hiện tượng về guru được gây ra bởi phức cảm tự ti đi tìm kiếm thu thập đám đông quanh mình. Cho nên guru trở nên bận rộn để tăng số tín đồ - một nghìn, mười nghìn, hai mươi nghìn người. Con số càng lớn, ông ta càng được đảm bảo về tri thức của mình - vì ngược lại tại sao những người này phải theo ông ấy? Cách lập luận này giúp làm tăng tinh thần ông ta. Nếu những tín đồ này mất đi, mọi thứ đều mất đi. Thế thì người đó sẽ cảm thấy rằng tất cả bị mất đi và rằng người đó không biết.
Nhiều trò chơi tâm trí tiếp diễn và tốt hơn cả là nhận biết về chúng. Và trò chơi này có thể được chơi từ cả hai phía. Đệ tử bị trói buộc với guru, và người bị trói buộc hôm nay sẽ trói buộc ai đó khác ngày mai bởi vì tất cả điều này là phản ứng dây chuyền. Người là đệ tử hôm nay sẽ là guru ngày mai. Người đó có thể vẫn còn là đệ tử được bao lâu? Nếu người đó ôm giữ ai đó hôm nay, người đó sẽ thấy rằng ai đó sẽ ôm giữ mình ngày mai. Cảnh nô lệ cứ chạy theo chuỗi, và lí do thực chất cho tất cả những điều này là ở việc không phát triển thể thứ tư. Nếu bạn bắt đầu phát triển thể này, bạn có thể độc lập. Thế thì không có lệ thuộc.
Điều này không có nghĩa là bạn trở thành vô nhân tính, rằng bạn sẽ không có liên hệ nào với mọi người. Thay vì thế thì điều đối lập sẽ là hoàn cảnh: nơi có lệ thuộc, không có quan hệ. Giữa chồng và vợ có lệ thuộc. Chúng ta chẳng dùng cách diễn đạt "trói buộc trong đời sống vợ chồng thiêng liêng" đó sao? Chúng ta gửi giấy mời nói rằng "Con trai tôi hay con gái tôi được gắn bó bởi sợi dây thương mến..." Nơi có phục vụ, không có quan hệ. Làm sao có thể có đó được? Có lẽ trong một tương lai xa nào đó người bố có thể gửi một giấy mời nói rằng "Con gái tôi trở nên tự do trong tình yêu của ai đó." Và điều đó cho cảm giác về thông minh rằng tình yêu của ai đó làm cho cô ấy tự do trong cuộc sống; bây giờ sẽ không có lệ thuộc; cô ấy đang trở thành tự do trong tình yêu. Và tình yêu nên cho sinh thành tự do. Nếu tình yêu bắt làm nô lệ thế thì cái gì khác trong thế giới này sẽ giải thoát?
Nơi có lệ thuộc, có khổ, có địa ngục. Vẻ ngoài là lừa dối; bên trong mọi thứ mục nát. Đều là như thế cả, sự lệ thuộc của guru-đệ tử, bố-con, chồng-vợ hay thậm chí hai người bạn: nơi có lệ thuộc, không thể có quan hệ. Nếu quan hệ có đó thế thì lệ thuộc là không thể có. Và qua bề ngoài điều dường như đúng là nơi có lệ thuộc, phải có quan hệ, thực tế là điều chúng ta có thể có quan hệ chỉ với người mà chúng ta không bị ràng buộc với họ theo bất kì cách nào. Đây là lí do tại sao nhiều lần điều xảy ra là bạn nói được cho người lạ những điều mà bạn sẽ chẳng bao giờ nói với con bạn.
Tôi ngạc nhiên biết rằng một người đàn bà thường hay nói chuyện cởi mở với người lạ mà bà ấy mới chỉ gặp một giờ trước đó và thậm chí còn kể những điều mà bà ấy sẽ không mơ đến việc kể chúng cho chồng mình. Chính sự kiện là ở chỗ khi không có lệ thuộc, mối quan hệ trở nên dễ dàng hơn. Đây là lí do tại sao chúng ta bao giờ cũng tốt bụng với người lạ và không tốt được như thế với những người chúng ta biết. Với người lạ, không có lệ thuộc, và do đó không có quan hệ; bằng không, có mối ràng buộc, và do đó không có quan hệ. Thế thì cho dù bạn muốn chúc ai đó buổi sáng tốt lành, điều ấy dường như giống nhiệm vụ.
Tuy nhiên có thể có mối quan hệ giữa guru và đệ tử, và tất cả các mối quan hệ đều có thể đẹp. Nhưng lệ thuộc không thể đẹp được. Mối quan hệ có nghĩa là cái giải thoát.
Có một tục lệ hay trong các thiền sư. Khi một đệ tử kết thúc việc học hỏi, thầy ra lệnh cho anh ta ra nhập trường của đối thủ của mình và học hành ở đó. Ông ấy sẽ nói, "Ông đã thu được tri thức từ một phía, bây giờ biết nó từ phía bên kia." Thế rồi thiền nhân sẽ đi từ thiền viện này sang thiền viện khác trong nhiều năm và ngồi học dưới chân của đối thủ của thầy mình. Thầy anh ta sẽ nói, "Có thể là điều mà kẻ đối lập ta nói lại đúng. Tới và nghe tất cả những điều người đó phải nói; thế rồi ông hãy tự mình quyết định cho mình. Rất có thể là ông sẽ có khả năng quyết định mọi điều tốt hơn sau khi nghe cả hai chúng ta. Hay có lẽ cái còn lại sau khi vứt bỏ cả hai chúng ta có thể biến thành chân lí. Do đó, đi và tìm kiếm đi." Điều này chỉ xảy ra khi thiên tài tâm linh đạt tới trưởng thành tối hậu. Thế thì chẳng cái gì có thể trói buộc được cả.
Cảm giác của tôi là ở chỗ khi hoàn cảnh của đất nước này trở thành hoàn cảnh mà thầy sẽ phái đệ tử của mình vào trong thế giới mà không trói buộc họ, thế thì sẽ có kết quả kì diệu. Và ai biết được kết quả cuối cùng sẽ là cái gì! Bây giờ một người như vậy, người phái bạn tới học và nghe người khác, không thể sai được, cho dù tất cả những cái mà bản thân người đó dạy bạn có thể biến thành sai. Khi một người như vậy nói với bạn, "Ông hãy đi, tìm kiếm chỗ khác; có lẽ ta có thể sai," thế thì cho dù nếu tất cả giáo huấn của người đó chứng tỏ là giả, bạn cũng vẫn sẽ biết ơn ông ấy. Ông ấy chẳng bao giờ có thể sai, bởi vì chính ông là người đã phái bạn đi.
Ngày nay điều đang xảy ra là ở chỗ mọi người đều trói buộc thiền nhân và không cho người đó ra đi. Guru này cấm đệ tử mình không được nghe guru khác. Kinh sách nói, "Đừng bao giờ tới ngôi đền khác. Thà bị voi điên dày xéo còn hơn là trú ẩn trong đền của ai đó khác." Nỗi sợ bao giờ cũng có đó rằng cái gì đó có thể lọt vào tai của thiền nhân. Cho nên cho dù giáo huấn của một guru, người trói bạn, là đúng đắn, người này vẫn sai và bạn không bao giờ có thể biết ơn ông ấy được. Người như vậy chỉ làm bạn thành nô lệ. Ông ấy nghiền nát tâm hồn bạn và giết chết linh hồn bạn. Nếu điều này được hiểu, sẽ không có vấn đề lệ thuộc.

Thầy đã nói rằng nếu shaktipat là chân thực và thuần khiết, không có lệ thuộc. Điều đó có đúng không?
Đúng.
Sẽ không có trói buộc gì.

Việc khai thác hồn liệu có thể có nhân danh shaktipat không? Làm sao điều đó là có thể và làm sao thiền nhân đề phòng được điều đó?
Điều đó là có thể. Nhiều việc khai thác tâm linh là có thể nhân danh shaktipat. Thực tế, nơi có yêu cầu, có tuyên bố, bao giờ cũng có khai thác. Khi một người tuyên bố rằng mình sẽ cho, người đó cũng sẽ lấy cái gì đó để đáp lại, bởi vì cho và nhận đi đôi với nhau. Thế thì dù nó ở dưới bất kì dạng gì - dưới dạng của cải, dưới dạng kính trọng, dưới dạng tin cậy - người đó cũng sẽ nhận. Nơi có việc khăng khăng cho, thế thì chắc chắn có việc nhận. Và người tuyên bố cho nhất định sẽ nhận cái đáp lại nhiều hơn, bằng không người đó chẳng cần phải hô trong bãi chợ.
Người câu cá móc giun vào lưỡi câu trên cần câu bởi vì cá không ăn lưỡi câu. Có lẽ một ngày nào đó cá có thể bị dỗ ngon ngọt mà nuốt lưỡi câu trực tiếp, nhưng chính giun hấp dẫn cá đến cần câu và nó nuốt lưỡi câu với ý định ăn giun. Chỉ sau khi nuốt giun nó mới nhận ra rằng lưỡi câu là cái chính và giun là con mồi. Nhưng đến lúc đó, nó đã bị bắt rồi.
Cho nên bất kì khi nào bắt gặp bất kì ai rêu rao thực hiện shaktipat, người rêu rao là cho bạn trí huệ và đưa bạn tới samadhi, người đưa ra cả nghìn lời tuyên bố khác, hãy cẩn thận. Thận trọng, bởi vì người thuộc vào cõi bên kia không tuyên bố gì về bản thân mình cả. Nếu bạn bảo một người như vậy, "Nhờ có anh mà tôi kinh nghiệm ân huệ," người đó sẽ nói, "Làm sao điều ấy có thể được? Thậm chí tôi cũng chẳng biết. Chắc anh lầm rồi. Điều đó phải xảy ra bởi ân huệ của Thượng đế." Cho nên lời cám ơn của bạn sẽ không được người như vậy thừa nhận; người đó sẽ thậm chí sẽ không thừa nhận rằng mình là trung gian cho việc xảy ra. Người đó sẽ khăng khăng rằng ân huệ giáng xuống bởi vì bạn xứng đáng với điều đó - đó là từ bi của Thượng đế rơi xuống bạn. Người đó là ai? Người đó đứng ở đâu? Giá trị của người đó là gì? Người đó không tới chút nào: đó là điều người đó sẽ nói.
Jesus đi qua một thị trấn. Một người ốm được đưa tới ông ấy. Jesus ôm lấy người này và người đó được chữa khỏi tất cả mọi bệnh tật. Người này nói với Jesus, "Làm sao tôi có thể cám ơn được ông đây? Ông đã giải cho tôi mọi bất hạnh của mình."
Jesu đáp, "Chớ nói như thế. Đưa ra lời cám ơn cho
đúng chỗ đi. Ta là ai và ta bước vào đâu?"
Người này nói, "Nhưng chẳng có ai khác ngoài ông ở đây."
Jesus nói, "Ông và ta đều không có. Ông không thể thấy được ngài, người đang có đấy - và tất cả mọi sự đều xảy ra qua ngài. Ngài đã chữa lành cho ông."
Bây giờ, làm sao một người như vậy có thể khai thác được? Lưỡi câu phải bị bao phủ bởi giun để mà khai thác. Người đó thậm chí không sẵn sàng để có giun, để mỗi lưỡi câu thôi. Cho nên bất kì khi nào một người tuyên bố đạt kết quả, đề phòng đi. Khi người đó nói làm việc này cho bạn việc nọ cho bạn, người đó chỉ che phủ lưỡi câu bằng giun. Người đó đang làm bốc lên trông đợi của bạn; người đó đang kích thích hi vọng và ham muốn của bạn. Và khi bạn bị chiếm lĩnh bởi ham muốn và bạn nói, "Ôi, thầy kính yêu, xin cho...!", người đó bắt đầu đòi hỏi của mình. Bạn sẽ nhận ngay ra rằng con giun chỉ ở trên chóp và lưỡi câu ở bên trong.
Cho nên theo dõi bước đi của mình ở bất kì đâu có những lời tuyên bố phép màu. Đấy là lãnh thổ nguy hiểm. Tránh con đường nơi ai đó đang đợi là guru của bạn. Có nỗi sợ vướng mắc ở đó. Cho nên làm sao người tìm kiếm bảo vệ được mình? Người đó phải tự bảo vệ mình với những người đưa ra lời tuyên bố đao to búa lớn, và do vậy người đó sẽ tự cứu mình khỏi mọi điều xấu. Người đó không  nên  tìm  kiếm  những  người  chuyên  rêu  rao  về những kết quả kì diệu; bằng không, người đó sẽ gặp khó khăn, vì những người như thế cũng đang tìm kiếm. Họ đang tìm những người sẽ rơi vào bẫy của họ. Có những người như thế đang đi khắp mọi nơi. Đừng hỏi bất kì lợi lộc tâm linh nào và đừng chấp nhận bất kì tuyên bố tâm linh nào.
Điều bạn phải làm là vấn đề hoàn toàn khác. Bạn phải chuẩn bị bản thân mình từ bên trong. Và cái ngày bạn sẵn sàng, việc xảy ra nhất định sẽ xảy ra. Thế thì nó sẽ xảy ra qua bất kì trung gian nào. Người trung gian chỉ là thứ yếu; người đó cũng giống như cái móc. Cái ngày bạn có được áo choàng, cái móc sẵn sàng để treo nó lên. Thế thì cái móc cũng chẳng quan trọng lắm. Nếu không có móc, bạn vẫn có thể treo áo choàng lên cửa. Nếu không có cửa, bạn có thể treo nó lên cành cây. Bất kì móc nào cũng có tác dụng; vấn đề chính là cái áo. Nhưng chúng ta không có áo choàng, trong khi móc gọi: "Lại đây! Ta là móc đây." Bạn sẽ bị bắt nếu bạn tới. Bạn không có áo choàng cho nên bạn sẽ làm gì khi đi tới cái móc? Có mọi điều nguy hiểm là bạn tự treo mình lên móc. Bạn phải tìm kiếm giá trị riêng của mình, khả năng của riêng mình. Bạn phải làm cho bản thân mình sẵn sàng để có khả năng nhận ân huệ khi nó tới.
Bạn không phải lo nghĩ về guru chút nào; đấy không phải là mối bận tâm của bạn. Đó là lí do tại sao điều Krishana nói với Arjuna là đúng. Ông ấy nói, "Thực hiện hành động của anh và để kết quả cho điều thiêng liêng." Bạn không phải lo nghĩ về kết quả hành động của mình; điều đó sẽ trở thành cản trở. Thế thì tất cả các loại phức tạp sẽ nảy sinh: bận tâm về hành động nào của bạn sẽ đưa ra, về kết quả sẽ là gì. Và trong lo âu của bạn về kết quả, hiệu năng của bạn sẽ bị mất. Đó là lí do tại sao bản thân hành động nên là mối bận tâm chính của chúng ta.
Chúng ta nên bận tâm tới giá trị và sự tiếp nhận riêng của mình. Khoảnh khắc nỗ lực của chúng ta được hoàn tất - cũng như khi hạt mầm đạt tới điểm nhú ra của nó - chính khoảnh khắc đó tất cả đều đạt được. Khoảnh khắc cái chồi sẵn sàng nhú ra và việc nở thành hoa, mặt trời bao giờ cũng sẵn sàng, nhưng chúng ta không có nụ mà nở ra thành hoa. Thế thì cho dù mặt trời có chiếu sáng trên bầu trời điều đó cũng vô dụng. Cho nên bạn đừng đi tìm kiếm mặt trời; tham dự vào việc phát triển nụ của mình. Mặt trời có đó mãi mãi và bao giờ cũng có sẵn.
Không chiếc bình nào còn chưa được rót đầy cho dù một khoảnh khắc trong thế giới này. Bất kì loại chấp nhận nào cũng đều trở thành được rót đầy ngay lập tức. Thực tế, mang tính chấp nhận và được rót đầy không phải là hai sự kiện; chúng là hai mặt của cùng một sự việc xảy ra. Nếu chúng ta bỏ đi tất cả không khí trong phòng này, không khí trong lành từ bên ngoài sẽ lập tức rót đầy chân không. Đây không phải là hai điều xảy ra, bởi vì khi chúng ta loại bỏ không khí trong phòng, không khí bên ngoài xô vào. Điều như thế cũng là luật của thế giới bên trong. Chúng ta thậm chí khó sẵn sàng về phần mình khi việc đáp ứng cho nỗ lực của chúng ta bắt đầu giáng xuống. Tuy nhiên, khó khăn của chúng ta là ở chỗ yêu cầu của chúng ta bắt đầu từ lâu trước sự sẵn sàng của chúng ta. Thế thì bao giờ cũng có việc cung cấp sai cho yêu cầu sai.
Một số người thực sự làm tôi sửng sốt. Một người tới và nói, "Tâm trí tôi rất bất ổn; tôi muốn an bình." Ông ấy nói với tôi tới nửa giờ, và trong quá trình nói, ông ấy thú nhận rằng nguyên nhân bất ổn của ông ấy là ở chỗ con ông ấy thất nghiệp. Nếu con ông ấy có việc, tâm trí ông ấy sẽ yên ổn. Bây giờ người này tới với cái cớ rằng ông ấy muốn an bình tâm trí, nhưng yêu cầu thực tại của ông ấy lại tuyệt đối khác; nó chẳng liên quan gì với việc an bình tâm trí cả. Ông ấy chỉ muốn có việc cho con mình. Vậy, ông ấy tới sai người.
Bây giờ, người đi vào kinh doanh tôn giáo sẽ nói, "Anh cần việc sao? Lại đây. Ta sẽ kiếm việc cho anh và ta sẽ cho anh an bình tâm trí nữa. Bất kì ai tới đây đều kiếm được việc; bất kì ai tới đây, của cải người đó sẽ tăng lên và công việc của người đó chạy tốt."
Bây giờ vài người sẽ tụ tập xung quanh "cửa tiệm" của người bảo bạn, "Con tôi vừa kiếm được việc." Người khác sẽ nói, "Vợ tôi vừa mới được cứu sống." Người thứ ba nói, "Tôi mới thắng kiện." Người thứ tư nói, "Của cải cứ đổ về tôi." Không phải là những người này đang nói dối hay họ đang đi làm thuê; mà họ cũng chẳng phải là đại lí cho doanh nghiệp này. Không cái gì như thế cả. Khi một nghìn người tới để hỏi việc, mười trong số họ nhất định sẽ kiếm được việc trong quá trình thông thường. Bây giờ mười người này vẫn còn đấy trong khi chín trăm chín mươi người còn lại bỏ đi.
Thế thì mười người này dần dần lan truyền từ ‘phép màu’, và đám đông xung quanh tăng lên. Đây là lí do tại sao mọi cửa tiệm như vậy đều có người bán hàng và người quảng cáo. Những người nói con họ kiếm được việc không phải là nói ra điều không thật; mà họ cũng không bị ông chủ tiệm mua. Người như vậy cũng đã tới để tìm kiếm, và điều xảy ra là con của người đó kiếm được việc. Những người có con không kiếm được việc đã bỏ đi từ lâu để kiếm guru khác, người đáp ứng cho ham muốn của họ. Những người có ham muốn được đáp ứng bắt đầu thường lui tới cửa tiệm; họ tới từng cuộc liên hoan hàng năm. Đám đông tăng lên hàng ngày, và một nhóm hình thành quanh cái gọi là guru như thế. Thế rồi điều họ nói trở thành bằng chứng không thể cãi được. Nếu ao ước của bao nhiêu người như vậy được đáp ứng, tại sao ao ước của bạn lại không? Bây giờ đây là con giun; lưỡi câu bẫy người này là ở bên trong.
Đừng bao giờ yêu cầu, bằng không bạn chắc chắn bị mắc câu. Chuẩn bị cho bản thân mình và bỏ lại tất cả các điều khác để làm chứng. Để cho ân huệ xảy ra khi khoảnh khắc chín muồi cho nó xảy ra. Nếu nó không xảy ra, chúng ta sẽ biết chúng ta còn chưa sẵn sàng đón nhận.
Sự kiện là ở chỗ bạn sẽ cảm thấy nhu cầu shaktipat lặp đi lặp lại chỉ khi sự kiện còn chưa xảy ra. Và bạn sẽ thấy nhu cầu để lấy từ người khác chỉ khi kinh nghiệm của bạn với nhu cầu shaktipat đầu tiên là vô ích. Nếu shaktipat đầu tiên thành công, vấn đề chấm dứt ở đó. Cũng giống như việc thử tới nhiều bác sĩ vì bệnh vẫn còn chưa được chữa lành. Một cách tự nhiên, phải thay bác sĩ. Nhưng bệnh nhân người được chữa, chẳng bao giờ nêu ra vấn đề về việc thay đổi bác sĩ.
Kinh nghiệm nhỏ nhất về thoáng nhìn do shaktipat đem lại làm cho vấn đề này thành không liên quan. Bên cạnh đó, một khi thoáng nhìn này được đạt tới từ ai đó, cũng chẳng khác biệt gì nếu nó được đạt tới từ người khác. Cũng chính cùng năng lượng đó tới từ cùng nguồn gốc, chỉ người trung gian là khác - nhưng điều này không làm phát sinh bất kì khác biệt nào. Dù tới từ mặt trời hay bóng điện hay đèn dầu, ánh sáng vẫn là một.
Không có gì khác biệt và cũng chẳng hại gì nếu việc xảy ra phải xảy ra. Nhưng chúng ta không đi tìm kiếm điều xảy ra. Nếu nó tới với bạn trên đường, chấp nhận nó và đi thêm nữa - nhưng đừng tìm kiếm nó. Nếu bạn tìm kiếm, có nguy cơ, bởi vì thế thì chỉ kẻ lừa đảo mới tới trên con đường của bạn và chứ không phải là người có thể thực sự cho. Người đó sẽ xuất hiện chỉ khi bạn không tìm kiếm, khi bạn đã tự chuẩn bị mình. Cho nên việc tìm kiếm người đó là sai, việc hỏi là sai. Cứ để việc xảy ra có thời gian riêng của nó và để cho ánh sáng tới từ hàng nghìn con đường. Tất cả các con đường đều sẽ chứng tỏ là chân thực của cùng một nguồn cội. Nó là cùng một nguồn cội; nó chỉ có vẻ từ mọi phía.
Ai đó hôm nọ mới nói rằng người đó đã tới gặp một sadhu, một người tôn giáo, và nói rằng trí huệ phải là của riêng người ta. Vị sadhu này bắt bẻ lại rằng không thể thế được - rằng trí huệ "bao giờ cũng thuộc về người khác, và rằng sư như thế như thế đã trao nó cho người như thế như thế, thế rồi ông này lại truyền nó cho người khác."
Thế rồi tôi giải thích cho người bạn này rằng kinh nghiệm của Krishna là của riêng ông ấy. Khi ông ấy nói rằng "điều như thế và như thế đã nhận được nó từ điều như thế và như thế", ông ấy ngụ ý rằng trí huệ này, đã tự nó khải lộ cho ông ấy, không được khải lộ cho riêng một mình ông ấy, nó cũng được khải lộ như thế và như thế thì trước ông ấy. Thế thì người này có chung điều xảy ra với những người khác, và việc xảy ra này cũng xảy ra trong ông ấy nữa. Nhưng điều cần lưu ý ở đây là ở chỗ khải lộ không xảy ra bởi việc nói đơn thuần; nó được nói ra sau khi việc xảy ra. Cho nên Krishna nói với Arjuna, "Trí huệ này ta đang truyền đạt cho ông là cũng điều đã tới với ta. Nhưng việc ta nói lại nó sẽ không đem nó vào trong ông. Khi nó xảy ra cho ông, ông sẽ có khả năng nói cho người khác rằng nó giống như thế này."
Chớ cầu xin về nó, vì nó không được đạt tới từ bất kì ai. Chuẩn bị bản thân mình cho nó và nó sẽ bắt đầu tới từ mọi hướng. Thế thì một hôm khi sự việc xảy ra bạn sẽ nói, "Tôi mù làm sao mà không thể thấy được cái đang tới tôi từ mọi phía."
Người mù có thể đi qua một ngọn đèn hay một đèn điện hay đi ra mặt trời, nhưng người đó chẳng bao giờ thấy ánh sáng. Thế rồi một hôm nếu thị lực của người đó được khôi phục, người đó sẽ bị sốc khi thấy rằng mình bao giờ cũng được bao bọc bởi ánh sáng. Cho nên vào ngày việc xảy ra, bạn sẽ thấy nó tất cả bao quanh bạn. Và chừng nào thời gian còn chưa tới cho nó xảy ra, cúng dường tôn kính của mình ở bất kì đâu bạn thoáng thấy chân lí. Nhận nó từ bất kì đâu bạn có thể được nó, nhưng xin đừng cầu xin nó như kẻ ăn xin - bởi vì chân lí không bao giờ được trao cho kẻ ăn xin. Đừng cầu xin chân lí bằng không việc kinh doanh nào đó có thể quyến rũ bạn với những gợi ý có lợi. Thế thì sự khai thác tâm linh sẽ bắt đầu.
Đi con đường của mình và bao giờ cũng chuẩn bị cho mình, chuẩn bị cho bản thân mình, và bất kì khi nào bạn ngẫu nhiên thấy nó, chấp nhận nó. Cúng dường lòng biết ơn của mình và đi tiếp; thế thì vào khoảnh khắc đạt tới hoàn toàn bạn sẽ không thể nào nói rằng bạn nhận nó từ như thế và như thế. Khoảnh khắc đó bạn sẽ nói, "Tôi có được phép màu từ sự tồn tại. Dù tôi tới bất kì ai, tôi đều đón nhận từ người đó." Thế thì tạ ơn cuối cùng sẽ là cho sự tồn tại và không phải cho bất kì ai nói riêng.
Câu hỏi này đã nảy sinh bởi vì sự kiện là tác động của shaktipat cứ yếu dần đi.
Đúng, nó sẽ yếu dần đi. Thực tế, cái thu được từ người khác nhất định sẽ giảm đi. Bên cạnh đó nó chỉ là thoáng nhìn và bạn không phụ thuộc vào nó. Bạn phải đánh thức nó bên trong bản thân mình: chỉ thế thì nó mới là vĩnh viễn. Tất cả các ảnh hưởng đều ngoại lai; chúng thuộc về bên ngoài. Tôi nhặt một hòn đá và tôi ném nó vào không khí: nó sẽ rơi xuống theo lực do tay tôi tác động. Hòn đá không có sức mạnh của riêng nó, nhưng nó có thể nghĩ, khi nó bay qua không khí, rằng nó có sức mạnh cắt qua không khí và rằng không ai dừng được nó. Nhưng thế thì nó không biết ảnh hưởng nào đã gây nên điều này; nó không biết lực của tay đằng sau nó. Nó sẽ rơi xuống - nếu không sau mười mét thì hai mươi mét, nhưng nó sẽ rơi xuống. Thực tại, bất kì tác động nào tới từ người khác bao giờ cũng bị giới hạn và nhất định suy giảm đi.
Ưu điểm duy nhất của ảnh hưởng bên ngoài là ở chỗ trong thoáng nhìn tạm thời mà bạn kinh nghiệm, bạn có thể có khả năng thấy cội nguồn nguyên thuỷ của mình. Thế thì nó sẽ có ích. Nó cũng tựa như tôi bật que diêm: nó sẽ cháy sáng được bao lâu? Bây giờ bạn có thể làm hai điều: thứ nhất, bạn vẫn còn trong bóng tối và tuỳ thuộc vào ánh sáng của que diêm tôi. Trong khoảnh khắc ánh sáng sẽ tắt đi và trời lại tối đen như hắc ín. Thứ hai, trong ánh sáng của que diêm bạn có thể định vị được cửa và bạn chạy ra; bạn không còn phụ thuộc vào que diêm của tôi. Bạn ra ngoài; bây giờ chẳng có gì khác biệt với bạn dù que diêm có cháy hay không. Bây giờ bạn đã đạt tới nơi có mặt trời. Bây giờ điều gì đó đã trở thành kéo dài và ổn định.
Và tất cả những điều xảy ra này chỉ có một cái dụng: rằng với sự giúp đỡ bên ngoài bạn làm điều gì đó bên trong cho bản thân mình. Nhưng đừng đợi những điều xảy ra này, bởi vì que diêm sẽ cháy và tắt lặp đi lặp lại và bạn, sẽ trở nên bị ước định theo chúng. Thế thì bạn sẽ trở nên phụ thuộc vào que diêm và bạn sẽ chờ đợi trong bóng tối để que diêm sáng lên, và khi nó sáng lên bạn sẽ cứ kinh hãi khoảnh khắc nó tắt đi, khi nó tắt đi lần nữa bạn sẽ nhào vào trong bóng tối. Cho nên điều này sẽ trở thành cái vòng luẩn quẩn. Không, bạn đừng dừng lại lúc que diêm sáng lên. Nó sáng lên là để trong ánh sáng đó bạn thấy con đường và chạy ra khỏi bóng tối nhanh nhất có thể được.
Đây là tất cả ưu thế mà chúng ta có thể lợi dụng từ người khác. Nó không bao giờ có thể là điều lợi vĩnh viễn; mặc dầu nó là điều lợi và không nên bị bỏ qua. Điều đáng kinh ngạc là chúng ta có thể nhận được nhiều thế từ người khác. Nếu người khác là trí huệ và hiểu biết, người đó sẽ chẳng bao giờ bảo bạn ở lại đó. Người đó sẽ nói, "Diêm đã cháy sáng, bây giờ chạy đi - vì chẳng mấy chốc mà diêm sẽ cháy hết." Nhưng nếu người trung gian bảo bạn ở lại, trên mảnh đất mà người đó và không ai khác đã đốt sáng diêm, nếu người đó bảo bạn rằng bạn nên được người đó điểm đạo cho và thề trung thành với người đó, thế thì mối quan hệ này sẽ còn lại. Nếu người đó khẳng định quyền của mình với bạn và cấm bạn đi chỗ khác hay nghe bất kì ai khác, thế thì điều này là rất nguy hiểm.
Sẽ tốt hơn rất nhiều nếu một người như thế không bật sáng que diêm chút nào, bởi vì người đó đã làm điều hại lắm. Trong bóng tối bạn sẽ cảm thấy cách ra một ngày nào đó và đạt tới ánh sáng. Bây giờ bạn đã tự mình tiếp đất trong khó khăn bởi việc ôm giữ lấy que diêm của người đó. Bây giờ bạn sẽ đi đâu? Và một điều là chắc chắn: người này đã đánh cắp que diêm từ đâu đó. Nó không phải là của riêng người đó; bằng không, người đó đã biết cách dùng nó. Người đó sẽ phải biết rằng nó chỉ có nghĩa giúp cho người ta thoát ra khỏi bóng tối và rằng nó không có nghĩa là chặn lại bất kì ai hay dừng tiến bộ của người ta.
Do đó, đây là que diêm bị đánh cắp mà người này đang kinh doanh. Bây giờ người này tuyên bố rằng tất cả những ai có được thoáng nhìn từ que diêm của người đó đều phải ở lại với người đó và phải hết lòng với người đó: đây là sự kết thúc! Bóng tối đầu tiên chặn con đường; bây giờ đấy là guru này. Và bóng tối còn tốt hơn là một guru đòi hỏi, bởi vì nó không trải rộng bàn tay ra để chặn bạn lại. Cản trở của bóng tối là thụ động, nó yên tĩnh, nhưng guru này cản trở một cách tích cực. Ông ấy sẽ tóm lấy tay bạn và chắn đường bạn bằng việc nói, "Đây là bội bạc, đây là lừa dối."
Mới ngày hôm nọ một cô gái tới và bảo tôi rằng guru của cô ấy phản đối cô ấy tới gặp tôi. Guru này nói, "Giống như chồng hay vợ là thuộc về nhau và không thuộc vào ai khác cả, cũng vậy nếu đệ tử bỏ guru đó là tội lỗi lớn." Ông ấy phải đấy - nhưng cái phải của ông ấy là que diêm ăn cắp. Chẳng khó khăn gì trong việc đánh cắp diêm; có nhiều cái sẵn có trong kinh sách lắm.
Diêm ăn cắp có thể cháy được không?
Sự việc là ở chỗ người chưa thấy ánh sáng, không thể nói được cái gì bị đốt cháy để chỉ ra cho người đó ánh sáng. Khi người đó thấy ánh sáng thực tại, chỉ thế thì người đó mới biết cái gì là cái gì. Người đó không chỉ biết cái gì đã được sáng mà người đó thậm chí còn sẽ biết liệu cái gì thực sự sáng được hay liệu người đó chỉ được làm cho tưởng tượng nó là thế thôi.
Khoảnh khắc bạn thấy được ánh sáng, chín mươi chín phần trăm các guru sẽ bị chứng tỏ là bạn bè của bóng tối và là kẻ thù của ánh sáng. Chỉ thế thì chúng ta mới biết họ là kẻ thù nguy hiểm đến mức nào: họ là tay sai của bóng tối.

Ads Belove Post