Read more
Osho - Thiền: Con đường nghịch lý (Tập 2)
Chương 1. Này bạn, chờ một chút…
Một hôm, khi sư Shichiri Kojun đang thực hành công phu tối,
một tên cướp với chiếc gươm bén đột nhập vào phòng đòi ông phải đưa tiền nếu
không sẽ mất mạng.
Vị thiền sư bảo y: "Đừng có làm rộn ta. Tiền ở trong
cái ngăn tủ đó." Xong ông bắt đầu tụng kinh tiếp.
Một lát, ông bỗng ngưng đọc kinh và bảo tên cướp: "Này,
đừng có lấy hết nghe. Chừa lại một ít để ta còn phải đóng thuế ngày mai nữa
đó."
Tên cướp gom gần hết số tiền và sắp sửa tẩu thoát.
"Này, ai tặng cho mình cái gì thì phải biết cảm ơn người đó chớ,"
Shichiri nói thêm. Tên cướp lí nhí cảm ơn rồi lỉnh mất.
Vài hôm sau thì tên cướp bị bắt và thú nhận tất cả tội lỗi,
trong số nạn nhân dĩ nhiên có cả sư Shichiri. Khi sư được gọi đến như một nhân
chứng, ông bảo: "Đối với tôi thì người này không phải là kẻ cướp. Tôi tặng
y tiền và y còn biết nói lời cảm ơn tôi".
Sau khi ở tù ra, tên cướp tìm đến sư Shichiri và xin ông xuống
tóc thu nhận làm đệ tử.
Chúa Giêsu bảo: "Đừng phán xét." Nếu Chúa ngưng lại
ở chỗ này thì đây là một câu nói tuyệt vời thấm đẫm chất Thiền. Tuy nhiên có thể
là ngài đang nói chuyện với
người Do Thái trong một cung cách hoàn toàn Do Thái, thế nên
ngài đã thêm vào, "... nếu ngươi không muốn mình bị phán xét." Bây giờ
thì câu nói chẳng còn gì mùi vị Thiền. Nó chẳng khác gì một sự mặc cả đổi chác.
Câu thêm vào đã hủy diệt hoàn toàn cái rất mực phẩm chất, cái rất mực sâu sắc của
câu nói đầu tiên.
"Đừng phán xét," tự nó đã đủ ý nghĩa, không cần phải
thêm thắt vào bất cứ một mệnh đề nào khác. "Đừng phán xét" có nghĩa
là "sống trong trạng thái vô phân biệt"; "Đừng phán xét" có
nghĩa là "Nhìn cuộc đời mà không đánh giá". Đừng đánh giá -đừng cho rằng
"cái này xấu, cái kia tốt". Cũng đừng theo thói quen luân lý -đừng gọi
cái này là thiện, cái kia là ác. "Đừng phán xét" là một câu nói sâu sắc
bao hàm ý nghĩa không có Thượng Đế cũng như không có Qủy Sứ.
Phải chi Chúa Giêsu dừng lại ở đó, ở câu nói mang ba chữ ngắn
ngủi, "Đừng phán xét", thì hẵn là Chúa đã chuyển hoá toàn diện bản sắc
của Cơ Đốc Giáo. Thế nhưng khi ngài thêm vào một cái gì đó, ngài đã hủy diệt
nó. Khi Chúa bảo, "... nếu ngươi không muốn bị phán xét," thì cũng chẳng
khác gì ra một điều kiện. Bây giờ thì không còn là tình trạng vô phân biệt mà là
một sự trao đổi mặc cả -"... nếu ngươi không muốn bị phán xét," đâu
có khác gì một sự bán buôn đổi chác.
Do nỗi sợ hãi -để ngươi đừng bị phán xét - người ta không
phán xét. Nhưng làm thế nào để bạn có thể loại bỏ sự phán xét ra khỏi nỗi sợ
hãi? hay lòng tham lam? Để cho khỏi bị phán xét, đừng phán xét -thế nhưng lòng
tham lam và nỗi sợ hãi không làm cho bạn thoát ra khỏi vòng phân biệt giá trị.
Đó là tinh thần cực kỳ vị ngã -"Đừng phán xét, để không bị phán xét".
Thật là hoàn toàn vị kỷ.
Tất cả nét đẹp tuyệt vời của câu nói đã bị hủy diệt, Hương vị
Thiền biến mất, chỉ còn lại những gì rất đời thường. Chẳng khác gì một lời
khuyên răn -lời khuyên răn của bậc làm cha mẹ, chẳng có mảy may hơi hướm cách mạng
chút nào. Cũng tốt thôi -nhưng chẳng có gì cấp tiến. Cái mệnh đề thứ hai đã
đóng đinh toàn bộ ý nghĩa cấp tiến của câu nói.
Thiền thì ngưng lại ở chỗ: Đừng phán xét. Bởi vì Thiền cho rằng
vạn pháp đều như thị -chẳng có gì tốt cũng chẳng có gì xấu. Vạn pháp hiện bày
theo cách thế của nó. Có cây cao bên cạnh cây thấp. Có người đạo đức bên cạnh kẻ
vô luân. Có người đang nguyện cầu tin tưởng nhưng cũng có kẻ đang bước đi trên
con đường đạo tặc. Chuyện đời là như thế.
Bây giờ hãy thưởng thức cái hương vị cách mạng của Thiền. Nó
sẽ làm bạn sợ hãi, nó sẽ làm bạn kinh hoàng. Đó là lý do tại sao Thiền không có
những điều răn. Nó không hề bảo: Làm cái này, đừng làm cái nọ -trong Thiền
không hề có những "cái nên" và những "cái không nên". Nó
không hề dựng lên cái nhà tù của "phải thế này, phải thế kia". Nó
không hề mang tính cầu toàn.
Đến bây giờ thì các nhà phân tâm học đã hiểu rất rõ rằng, chủ
nghĩa cầu toàn chỉ là một chứng loạn thần kinh. Và Thiền là một loại tôn giáo
duy nhất không mắc bệnh loạn tưởng. Nó chấp nhận tất cả. Đây là một sự chấp nhận
toàn bộ, rất mực hoàn toàn, đến độ nó sẽ không gọi một tên trộm là kẻ trộm, kẻ
giết người là sát nhân. Hãy cố gắng để lãnh hội cho được cái tinh nguyên của
tinh thần này -cái hoàn toàn siêu việt tính của nó. Tất cả đều như thị.
Thiền mang tinh thần phi-giá-trị một cách vô điều kiện -nếu
bạn còn nêu lên một điều kiện, bạn đã đánh mất trọng điểm. Trong Thiền không có
sự sợ hãi cũng như tham đắm. Trong Thiền không có Thượng Đế cũng như Quỷ Sứ,
thiên đường hay địa ngục. Nó không hề gợi lòng tham con người bằng cách cám dỗ
hay hứa hẹn họ với những phần thưởng ở thiên đường. Nó cũng không làm bạn kinh
hoàng, sợ hãi bằng cách tạo ra những cơn ác mộng về ý niệm địa ngục.
Nó không hối lộ bạn bằng những phần thưởng, cũng không trừng
phạt bạn bằng những cực hình tra tấn. Một cách đơn giản, nó chỉ cho bạn một cái
nhìn xuyên suốt vào vạn pháp -cái nhìn xuyên suốt đó sẽ giải phóng bạn. Cái
nhìn xuyên suốt này không hề đặt căn bản trên lòng tham lam hay sự sợ hãi. Tất
cả những tôn giáo khác đều được xây dựng trên lòng tham, hàm chứa sâu xa ở đâu
đó nỗi sợ. Đó là lý do tại sao chúng ta thường dùng cụm từ "kinh-sợ-Thượng-Đế"
để chỉ một người có tín ngưỡng - người có tín ngưỡng là người kinh-sợ-Thượng-Đế.
Nhưng làm thế nào sợ hãi lại có thể biến thành tín ngưỡng?
Không bao giờ! Sự sợ hãi không thể nào biến thành niềm tin tôn giáo -duy chỉ có
tinh thần vô úy. Thế nhưng nếu bạn còn mang ý niệm về cái tốt và cái xấu, bạn sẽ
không bao giờ thoát ra khỏi sự sợ hãi. Những ý niệm về tốt xấu làm con người
mang mặc cảm phạm tội, làm họ què quặt, tê liệt. Làm thế nào để bạn có thể giúp
họ vượt ra khỏi tất cả mọi nỗi sợ hãi? Vô phương! Bạn chỉ tạo thêm những nỗi sợ
hãi ở trong họ.
Thông thường, một người không tín ngưỡng càng ít sợ hãi, ít
hàm lượng sợ hãi ở trong họ hơn là một người được gọi là có tín ngưỡng. Kẻ được
gọi là có tín ngưỡng tâm hồn thường run sợ, luôn luôn lo lắng không biết mình
có đạt được hay không. Mình sẽ bị quẳng xuống địa ngục? Hay là mình sẽ vào được
nước thiên đường?
Ngay cả khi Chúa Giêsu rời bỏ thân hữu và môn đệ trong chuyến
đi cuối cùng của đời mình, những môn đệ của ngài cũng chỉ lo lắng bận rộn về
chuyện đâu sẽ là chỗ đứng của mình ở trên nước Trời. Họ sẽ tái hội nhau ở đó
trong lần gặp gỡ đến -nhưng đâu là vị trí của mỗi người? Ai sẽ ở đâu? Dĩ nhiên
họ chấp nhận chuyện Chúa Giêsu sẽ ở bên tay phải của Đức Chúa Cha -nhưng rồi ai
sẽ là người kế tiếp ở cạnh ngài? Những lo lắng của họ bắt nguồn từ lòng tham và
nỗi sợ. Họ chẳng hề quan tâm mấy đến chuyện Chúa Giêsu sẽ bị đóng đinh vào thập
tự giá ngày mai, mối quan tâm chính của họ là quyền lợi của riêng cá nhân mình.
Tất cả các tôn giáo khác đều được xây dựng trên lòng tham và
nỗi sợ rất mực đời thường. Lòng tham đắm về của cải thế gian một ngày nào đó
chuyển biến thành lòng tham đắm về Thượng Đế. Lúc đó, Thượng Đế là của cải của
bạn; bây giờ của cải là Thượng Đế của bạn -chỉ khác nhau ở một chút đó thôi.
Bây giờ thì bạn sợ hãi nhà nước, sợ hãi cảnh sát, sợ chuyện nọ chuyện kia -thế
rồi mai kia bạn sợ hãi địa ngục, toà án tối cao, cái siêu toà án của Thượng Đế...
trong ngày phán xét cuối cùng.
Cái được gọi là những vị thánh Cơ Đốc, ngay cả đến phút cuối
của đời mình cũng không ngừng run rẩy, lo sợ - không biết mình sẽ đạt đến hay
không, cái nước thiên đường đó.
Thiền mang tinh thần phi-giá-trị một cách vô điều kiện. Hãy
để cho ý niệm này lắng sâu vào tâm hồn bạn, bởi vì đây cũng chính là quan điểm
của tôi. Tôi muốn bạn hiểu rõ vấn đề, chỉ có thế. Hiểu biết thôi là đủ. Hãy để
hiểu biết trở thành pháp môn độc nhất, không có một pháp môn nào khác. Đừng để
mình bị lôi đi bằng nỗi sợ hãi, nếu không bạn sẽ bị cuốn sâu vào bóng tối. Cũng
đừng để mình bị lôi đi bằng sự tham lam -bởi vì tham lam không là gì khác ngoài
nỗi sợ lộn ngược đầu. Chúng chỉ là hai bộ mặt của cùng một sự kiện: mặt này là
lòng tham, mặt kia là nỗi sợ. Một người sợ hãi thì luôn luôn tham lam, một người
tham lam thì luôn luôn sợ hãi. Chúng quyện chăt vào nhau, chúng không tách rời
nhau.
Chỉ có hiểu biết, chỉ có tỉnh thức, chỉ có khả năng nhìn sâu
vào vạn pháp là như thị. Bạn có thể chấp nhận hiện hữu như là cách thế chúng hiện
bày? Mà nếu không chấp nhận chuyện này, sẽ chẳng bao giờ có gì thay đổi. Có gì
thay đổi đâu? Đã hàng ngàn năm trôi qua, chúng ta phản đối bao nhiêu thứ -nhưng
chúng vẫn còn đó, nhiều thêm chứ không bớt.
Những tên trộm đạo không hề biến mất. Những kẻ sát nhân cũng
thế. Không có gì thay đổi cả; mọi chuyện vẫn y nguyên. Nhà tù ngày càng tăng.
Luật pháp cũng tăng tiến theo và ngày càng thêm tinh vi phức tạp. Và bởi vì luật
pháp càng tinh vi, người ta lại càng phải sử dụng thêm nhiều tên trộm đạo -đó
là những luật sư, những quan toà...
Khắp nơi, chẳng có gì thay đổi cả. Cái hệ thống nhà tù của bạn
chẳng mang lại điều gì tốt lành -mà thật ra cực kỳ độc hại. Cái hệ thống nhà tù
đó đã biến thành trường đại học của tội ác -nơi đào luyện tội phạm, nơi người
ta học tập từ những tay tổ sư. Khi một người bước chân vào nhà tù, y sẽ trở
thành một khách viếng thường xuyên. Một lần đã bước chân vào đó, dứt khoát là y
sẽ còn trở đi trở lại nhiều lần nữa. Rất hiếm khi thấy một người đã vào tù mà
không bao giờ quay trở lại.
Và mỗi lần ra tù y càng trở nên thiện nghệ hơn, nhiều mánh
khoé hơn -biết cách làm thế nào để thực hiện tội ác cũ trong một cách thế dày dặn
kinh nghiệm hơn. Bây giờ thì y không còn là một tên tội phạm tài tử. Y ra tù với
một bằng cấp tốt nghiệp; nhà tù là một trưòng huấn luyện chuyên nghiệp -nơi tốt
nghiệp tội ác. Bây giờ thì y học hỏi được nhiều hơn, biết cách thực hiện tôi ác
tinh vi hơn. Y biết làm thế nào để tránh khỏi bị bắt giữ, y biết rõ đâu là những
lỗ hỗng trong hệ thống pháp luật.
Và những kẻ thực thi pháp luật thì là cũng những tên tội phạm
như bao nhiêu kẻ khác -sự thực còn tội ác hơn nữa là đằng khác. Khi phải đối
phó với tội ác, họ càng phải tội ác hơn. Cảnh sát, cai tù, quản đốc trại giam
còn tội ác hơn là những kẻ bị họ tống vào tù -Đó là chuyện đương nhiên. Không
có gì thay đổi cả. Đây không phải là cách thế để thay đổi mọi chuyện; điều này
chứng tỏ cho thấy một sự thất bại hoàn toàn. Thiền cho rằng thay đổi phải được
bắt nguồn từ hiểu biết, không phải từ bất cứ một hình thức áp đặt nào.
Còn cái thiên đường và địa ngục của bạn thì sao? Cũng cùng một
ý niệm chứ không có gì khác, từ thế giới này được chuyển tải vào thế giới bên
kia. Từ cái ý niệm về nhà tù thế gian biến thành ý niệm về địa ngục. Và cũng
phát xuất từ cái ý niệm về ban thưởng -những huy chương ân thưởng của nhà nước,
những huy chương của tổng thống, những huy chương vàng, huy chương bạc các thứ
- cũng từ cái ý niệm đó được chuyển đổi thành thiên đường, firdaus (1). Nhưng
cái động cơ tâm lý thì hoàn toàn giống nhau.
Thiền hủy diệt cái tâm lý này ngay từ gốc rễ. Thiền không hề
lên án bất cứ cái gì. Chỉ có sự hiểu biết: Nó bảo rằng hãy cố để hiểu vạn pháp
y như chúng hiện bày. Cố để hiểu một người như con người thực của y -đừng áp đặt
lên đó một khuôn mẫu lý tưởng, đừng bảo y phải nên thế này hay thế nọ. Cái khoảnh
khắc bạn bảo một người nên như thế nào đó, bạn trở thành đui mù trước sự hiện hữu
thực sự của y.
Cái chữ "nên" đã trở thành vật chướng ngại. Từ đó
bạn không thể nào nhìn thấy được thực tại, bạn không thể nào trông thấy cái như
thị -chữ "nên" của bạn đã trở thành một gánh nặng. Bạn đã mang sẵn một
khuôn mẫu lý tưởng, một thần tượng toàn bích, và chắc chắn là mọi người đều rớt
ra ngoài cái bảng giá trị đó. Và thế là mỗi người đều bị lên án.
Và rồi những con người vị kỷ đó bằng cách này hay cách khác
tự khép mình vào những khuôn mẫu lý tưởng này -ít ra là một cách giả tạo hay
hình thức bên ngoài - những người này bỗng nhiên biến thành những vị thánh. Thực
ra họ chẵng là cái gì cả ngoài cái ngã to tướng. Và nếu bạn nhìn sâu vào mắt họ,
chỉ một màu sắc duy nhất mà bạn có thể tìm thấy: thánh-thiện-hơn-Bạn. Đây là một
số người rất hiếm hoi đã được chọn lựa, những người được chọn lựa của Thượng Đế.
Và sự có mặt của họ ở trên cõi đời này là để lên án và chuyển hoá bạn!
Thiền không hề quan tâm đến chuyện chuyển hoá của bất cứ ai.
Thế mà nó chuyển hoá -đó là điều nghịch lý. Thiền không hề quan tâm đến chuyện
bạn sẽ như thế nào, nó chỉ quan tâm bạn là cái gì. Hãy nhìn sâu vào đó, nhìn bằng
đôi mắt yêu thương và trân trọng. Cố gắng để hiểu nó là gì. Từ sự hiểu biết
này, một sự chuyển hoá sẽ đến. Và sự chuyển hoá này đến một cách tự nhiên -bạn
không cần phải làm gì cả, nó xảy ra một cách đơn giản trong hoà điệu của chính
tự thân.
Thiền chuyển hoá nhưng không hề nói đến chuyện chuyển hoá.
Thiền đổi thay nhưng không hề quan tâm đến chuyện đổi thay. Nó mang đến hồng
phúc cho con người hơn bất cứ cái gì khác, nhưng nó chẳng hề bận tâm đến chúng
chút nào. Nó đến với bạn như là một ân sủng, quà tặng. Nó đến từ hiểu biết. Đó
là nét tuyệt diệu của Thiền, nó mang tinh thần phi-giá-trị một cách vô điều kiện.
Sự đánh giá là một bệnh thái của tâm hồn -đó chính là thông điệp của Thiền.
Không có gì tốt cũng không có gì xấu. Vạn pháp hiện bày theo cách thế của nó.
Trong Thiền một chiều kích tổng hợp mới xuất hiện, chiều
kích của chuyển hoá vô tác, đến với ta một cách tự nhiên, qua mắt nhìn tỏ tường
hơn, qua trong suốt tĩnh lặng. Qua cái nhìn trực tiếp xuyên suốt vào bản chất của
vạn pháp, không chướng ngại và thiên kiến.
Cái khoảnh khắc bạn cho rằng một người là tốt, bạn đã ngưng
không còn nhìn vào y nữa. Bạn đã dán lên y một cái nhãn hiệu, đã xếp y vào một
ngăn tủ, đã phân loại y. Cái khoảnh khắc bạn cho rằng "người này là xấu"
làm sao bạn có thể nhìn thẳng vào mắt y được nữa? Bạn đã quyết định tức thời,
đã chấm dứt với y. Người này đã không còn là một thực thể bí ẩn. Sự bí mật đã
được giải đáp: bạn đã viết lên đó "đây là kẻ xấu", "đây là người
tốt". Và từ đó thái độ ứng xử của bạn được căn cứ trên những nhãn hiệu này
chứ không phải trên thực tại.
Một người tốt có thể trở thành kẻ xấu và ngược lại. Điều này
xảy ra trong từng khoảnh khắc -buôi sáng y là người tốt, buổi chiều y biến
thành kẻ tệ hại, nhưng buổi tối có thể y trở thành người tốt trở lại. Thế nhưng
bây giờ bạn sẽ chỉ ứng xử với y theo cái nhãn hiệu có sẵn. Bạn sẽ không còn đối
thoại với một con người thực mà chỉ nói chuyện với cái nhãn hiệu do mình dán
lên, với cái bóng do mình tạo ra.
Dĩ nhiên, cứ thế bạn tiếp tục đánh mất thực tại, những con
người thực. Từ đây mà một ngàn lẻ một vấn đề phức tạp, và vấn nạn xảy ra. Những
vấn nạn không hề được giải đáp. Thực sự có phải là bạn đang trò chuyện với vợ
mình hay là một bóng hình nào đó, khi hai người đang chăn gối với nhau?
Tôi có cảm giác như thế này -bất cứ lúc nào hai người đang gặp
gỡ nhau thì có cả một đám đông tham dự vào đó, chứ không phải là hai người. Hay
chắc chắn ít nhất cũng có bốn người. Cái bóng của người kia và cái bóng của bạn,
những cái bóng đó luôn luôn hiện hữu. Và chúng không bao giờ phản ảnh trung thực
-con người thực biến đổi trong từng giây phút, con người thực là một giòng liên
tục. Đó là một giòng sông tuôn chảy không ngừng, lấp lánh mọi màu sắc.
Con người thực là một thực thể sinh động! Cái ngày mà bạn
gán cho y một cái nhãn hiệu, y không hề là một xác chết khô cứng, y đang sống.
Một lần có người hỏi Trang Tử, "Công viêc của ngài đã
hoàn tất chưa?". Ông trả lời, "Làm sao mà hoàn tất được? -Tôi đang sống
mà!" Hãy nhìn sâu vào câu nói: Ông ta bảo, "Làm sao mà hoàn tất được?
-Tôi đang sống mà. Nó chỉ được hoàn tất vào cái ngày mà tôi chết. Mạch đời vẫn
còn đang tuôn chảy, mọi việc sẽ vẫn còn tiếp tục diễn tiến."
Khi một cái cây đang còn nhựa sống, vẫn còn đó những nụ hoa,
những cành lá mới, những đàn chim mới sẽ tiếp tục bay về làm tổ, những khách lữ
hành sẽ dừng chân ngừng lại tạm nghỉ qua đêm... mọi việc sẽ tiếp tục đổi thay.
Một khi bạn còn sống, mọi chuyện đều có thể xảy ra. Thế
nhưng một khi bạn dán nhãn hiệu cho một ai đó là tốt hay xấu, đạo đức hay vô
luân, tín ngưỡng hay vô tín ngưỡng, hữu thần hay vô thần, là cái nọ cái kia -bạn
làm như người đó đã là một xác chết. Bạn chỉ nên dán cái nhãn hiệu cho một người
khi chắc chắn rằng y đã chết, lên nấm mồ y thay vì trước đó. Bạn có thể đi đến
trước mộ phần của y và viết lên: Người Này là Thế Này. Bây giờ thì y không thể
nào phản đối được bạn; bây giờ thì mọi việc đã chấm dứt, mọi việc đã đến điểm
cuối. Giòng sông đời đã không còn tuôn chảy nữa.
Thế nhưng khi một người còn đang sống... Và bạn thì lại cứ
tiếp tục dán lên y một cái nhãn hiệu, kể cả một đứa trẻ, một đứa con nít. Có phải
chúng ta thường nói, "Đứa bé này rất vâng lời, thằng bé kia quá ngỗ nghịch.
Đứa trẻ này rất ngoan, thằng bé kia thật hư đốn." Thế là bạn đã dán lên một
cái nhãn hiệu. Nên nhớ rằng khi bạn dán cho ai cái nhãn hiệu, bạn đã tạo ra rất
nhiều vấn nạn. Trước tiên, khi bạn dán cho ai đó một nhãn hiệu, bạn đã giúp cho
y ứng xử theo cung cách mà bạn đã gán cho y -bởi vì từ đây y bắt đầu cảm thấy rằng
y có bổn phận phải chứng tỏ điều nhận định của bạn là đúng.
Khi một người cha bảo, "Thằng con tôi hư quá," đứa
trẻ lập tức sẽ nghĩ rằng, "Tôi phải chứng tỏ mình hư đốn thật, bằng không
cha tôi sẽ là người nói bậy hay sao." Đây là một luận lý phát xuất từ tiềm
thức -làm sao một đứa trẻ lại cho cha mình ăn nói bậy bạ được? Thế là y càng tạo
ra thêm nhiều vấn nạn. Và người cha lại được dịp chứng minh, "Coi đó. Thằng
này hư đốn thật mà."
Ba bà mẹ đang ngồi tán chuyện về đứa con mình. Và khi mà những
người đàn bà nói chuyện với nhau, họ thường thích khoe con. Một người bảo,
"Thằng con của tôi mới năm tuổi thôi mà đã biết làm thơ rồi. Thơ của nó hay
đáo để đến nỗi ngay cả bậc thi hào cũng phải ngả nón chào." Bà thứ hai
khoe, "Đâu có nhằm gì so với thằng con tôi. Nó mới lên bốn mà đã biết vẽ
-những bức tranh hiện đại, cực kỳ hiện đại, ngay cả Picasso cũng chẳng biết đầu
đuôi đâu mà mò. Mà nó không thèm dùng đến cây cọ đâu nhá, chỉ dùng đôi bàn tay
thôi. Đôi khi nó chỉ việc tung mực lên khung vải và rồi cả một khung trời diễm ảo
hiện ra. Nó thuộc trường phái ấn tượng đấy, một họa sĩ rất mực nguyên sơ."
Bà thứ ba cũng không vừa, "Thế thì có gì là hay. Thằng con tôi chỉ mới lên
ba thôi nhá. Thế mà nó biết tự mình đi tìm gặp nhà phân tâm học rồi đấy."
Khi bạn dán nhãn hiệu, bạn sẽ đóng khung vào đó... và rồi bạn
hủy diệt tất cả. Tất cả mọi loại nhãn hiệu đều tàn hoại. Đừng bao giờ gán cho một
người là ông thánh hay kẻ tội lỗi. Khi nhiều người khoác cho ai một chiếc nón
nào đó... Mà người đời thì thường có thói quen suy nghĩ hùa theo đám đông, ít
ai có những ý tưởng độc lập của riêng mình. Không tin ư? Bạn nghe tin đồn ở đâu
đó rằng người kia là một tên tội lỗi xấu xa, và bạn tin như thế. Thế rồi bạn
chuyền cái tin đồn này đến tai một người khác, và y cũng tin như thế. Cái tin đồn
này sẽ lan rộng mãi ra, chiếc nón mà bạn đội cho người kia ngày càng trở nên lớn
thêm mãi. Cho đến một ngày, cái "Tên Tội Lỗi Xấu Xa" như một bảng hiệu
bằng đèn nê-ông được viết bằng chữ in hoa khắc đậm lên người y và rồi y sẽ phải
ứng xử theo cách mà người ta đã gán cho mình. Cả cái xã hội chung quanh chờ đợi
cái cung cách ứng xử đó, nếu không người ta sẽ nổi giận lên -"Này, mày
đang làm cái gì vậy? Mày là một tên tội lỗi xấu xa mà muốn trở thành một vị
thánh hả?! Thôi đi, xử sự theo cái kiểu của mày đi!"
Xã hội là như thế -một sự dự phần rất mực vi tế trong cung
cách gán ghép nhãn hiệu cho người: "Hãy xử sự theo kiểu cách mà chúng tôi
gán cho bạn! Đừng làm bất cứ điều gì ngược lại với cái nhìn của chúng tôi về bạn."
Đó là một thoả thuận ngầm không nói ra, nhưng nó hiện hữu.
Thứ hai, khi bạn gán cho ai một cái nhãn hiệu, dù y cố gắng
cách mấy để ứng xử cho phù hợp với cái nhãn hiệu đó, y cũng không thể nào làm
được. Y không thể nào hoàn thành vai trò một cách tuyệt hảo, vô phương! Điều
này không bao giờ có thể xảy ra trong thực tế, y chỉ giả vờ mà thôi. Thế rồi một
lúc nào đó khi y không ở trong tình trạng đóng kịch, khi y đang xả hơi thư giản
-trong bầu khí hội hè của một cuộc píc-níc ngoài trời chẳng hạn- con người thực
của y hiện ra. Thế là bạn cảm thấy mình đã bị lừa dối; và người kia, trước mắt
bạn, trở thành một tên lường gạt. Bạn luôn nghĩ rằng y là một người tốt, bao
nhiêu năm qua đối với bạn y là một vị thánh, và rồi hôm nay y bỗng dưng biến
thành kẻ cắp đi móc túi trộm tiền của bạn!
Bạn nghĩ là y đã lường gạt mình? Không phải, chính cái nhãn
hiệu mà bạn khoác cho y đã lường gạt bạn. Y chỉ hành xử theo đúng với con người
thực của mình. Y đã cố gắng để thích nghi với cái khung mà bạn vạch ra -thế
nhưng một ngày đẹp trời nào đó người ta cũng sẽ lớn dậy thoát ra khỏi cái khung
đó thôi. Người ta sẽ phải làm những chuyện mà người ta muốn làm.
Không có ai được sinh ra ở đây để hoàn tất những điều mà bạn
mong chờ ỏ họ. Chỉ có những kẻ rất mực hèn nhát mới cố gắng để hoàn tất những
điều mà kẻ khác mong đợi. Một con người thực sự sẽ đạp đổ tất cả những gì mà kẻ
khác trông đợi ở y, bởi lẽ y có mặt ở trên cõi đời này không phải là để bị cầm
tù bỏi những ý tưởng của bất cứ ai. Y sẽ mãi mãi tự do. Y sẽ mãi mãi ở trong trạng
thái mâu thuẫn. Hôm nay y sẽ làm việc này và mai kia y sẽ làm một việc hoàn
toàn trái ngược -để cho bạn không thể nào mang bất cứ ý tưởng nào về y.
Một con người thật và trung thực luôn ở trong tình trạng mâu
thuẫn. Chỉ có những con người nộm mới cứng nhắc. Một con người thật và trung thực
mang trong họ những điều nghịch lý. Y hoàn toàn tự do. Y tự do đến mức có thể
là thế này hay thế nọ, hoàn toàn đối nghịch nhau. Y có toàn quyền chọn lựa - nếu
y muốn là một người khuynh tả, y sẽ là kẻ khuynh tả, nếu y muốn là người khuynh
hữu, y sẽ trở thành một kẻ khuynh hữu. Trong y không hề có bất kỳ chướng ngại
nào. Nếu y muốn hướng ngoại, y có thể là người hướng ngoại; nếu y muốn hướng nội
y sẽ là người hướng nội, y có thể làm bất cứ điều gì. Sự tự do của y chọn lựa
ngay tức thời điều mà y muốn thực hiện.
Thế nhưng chúng ta thì lại cứ luôn áp đặt một khuôn mẫu cứng
nhắc lên mỗi con người. Chúng ta khoác cho tính kiên định một giá trị lớn lao
khi nói rằng, "Con người này trước sau như một. Người này thật là vĩ đại
-kiên định hết mức." Thế nhưng "kiên định" là gì? "Kiên định"
cũng đồng nghĩa với "Người này đã chết, y không còn sống nữa." Y đã
ngừng thở vào cái ngày mà y trở thành kiên định -từ đó y không còn hiện hữu.
Khi bạn nói rằng, "Ông xã tôi là người rất đáng
tin," bạn muốn nói cái gì vậy? Bộ ông xã bạn hết yêu rồi chăng, hết sống rồi
chăng -thế nên bây giờ không còn một bóng hồng nào có thể hấp dẫn được ông ta?
Nếu không có một phụ nữ nào có thể hấp dẫn được ông ta, thế thì làm sao bạn lại
có thể hấp dẫn ông ấy được? -bạn cũng là một phụ nữ cơ mà! Thật ra, ông ta chỉ
giả bộ đó thôi. Một người đàn ông đang còn nhựa sống, đang còn biết yêu, khi
trông thấy một giai nhân, không thể nào y lại không bị thu hút. Một người phụ nữ
đang sống, đang thở, trái tim còn cảm xúc, khi trông thấy một anh chàng đẹp
trai, lẽ nào bà ta không cảm thấy bị lôi cuốn? Đó là điều tự nhiên. Tôi không
nói rằng bà ta rồi sẽ phải bỏ nhà chạy theo cái anh chàng đẹp trai này -tuy
nhiên sự thu hút là chuyện khá tự nhiên. Bà ta có thể chọn lựa không chạy theo
anh ta -thế nhưng phủ nhận sự hấp dẫn cũng có nghĩa là phủ nhận đời sống.
Thiền bảo rằng: Hãy luôn trung thực với chính tự do của bạn.
Từ đó một mầm sống mới khác biệt khai sinh ở trong bạn, hoàn toàn không chờ đợi,
không báo trước. Tín ngưỡng, nhưng không phải luân lý. Cũng không phải vô luân
-phi luân: nó vượt ra khỏi luân lý, vượt ra khỏi vô luân. Đây là một chiều kích
mới mà Thiền mở vào đời sống, một thực tại tách biệt hoàn toàn với cái mà bạn
đã và đang sống -hoàn toàn tách biệt. Nó mang một phẩm chất mới; phẩm chất phi
cá tánh.
Cái từ này đôi khi làm bạn rất mực khó chịu, bởi vì từ lâu bạn
đã từng khăng khít với hai tiếng "cá tánh". Hằng bao thế kỷ qua chúng
ta đã bị điều kiện hoá bởi cái danh từ này. Chúng ta thường hay nói, "Cái
ông đó có một cá tánh nổi bật". Nhưng bạn có nhìn kỹ chưa? Một người có cá
tánh chỉ là một xác chết. Một người có cá tánh đồng nghĩa với việc được xếp loại,
được dự đoán. Một người có cá tánh chỉ có dĩ vãng, không hề có tương lai.
Hãy nghe cho kỹ điều này: Một người có cá tánh chỉ có dĩ
vãng. Bởi vì cá tánh đồng nghĩa với quá khứ. Con người đó cứ tiếp tục lập đi lập
lại quảng đời cũ của mình như một chiếc dĩa hát nhựa bị hư. Y lập đi lập lại
cùng một điệp khúc không biết bao nhiêu lần. Y chẳng hề còn điều gì mới nửa để
nói ra, chẳng có gì mới mẻ để sống. Và chúng ta gọi y là một người có cá tánh.
Vâng, bạn có thể tin tưởng vào y, bạn có thể trông cậy ở y -y sẽ là người không
bao giờ bội ước. Đúng thế. Y là người rất mực hữu dụng, rất mực hữu ích cho xã
hội -tuy nhiên y chỉ là một thây ma, một cổ máy.
Máy móc cũng không thiếu cá tánh; bạn có thể sở cậy ở chúng.
Đó là lý do tại sao chúng ta sẽ lần hồi thay thế con người bằng máy móc. Máy
móc còn có khả năng dự báo hơn; chúng có cá tánh vượt trội hơn -bạn có thể tin
cậy vào chúng.
Người ta khó tin cậy vào một con ngựa hơn là chiếc xe. Con
ngựa cũng có một loại nhân cách - đôi khi nó cũng nổi cơn tính khí bất thường,
có lúc nó không muốn đi theo con đường mà bạn chọn, nó nổi loạn phản kháng lại
bạn. Có hôm nó cứ nằm ỳ ra một chỗ không chịu bước đi. Nó cũng có linh hồn; thế
nên bạn không thể hoàn toàn tin cậy ở nó. Thế nhưng một chiếc xe thì không có
linh hồn. Chỉ là những cơ phận ráp nối vào nhau, nó không hề có một trung tâm
chỉ đạo. Nó chỉ việc tuân theo cách thức mà bạn điều khiển. Ngay cả việc bạn muốn
nó phóng ra khỏi cái vách núi, nó cũng phóng thôi. Còn con ngựa thì không. Nó sẽ
bảo, "Hãy hượm. Nếu bạn muốn tự tử hả, cứ việc -Còn tớ thì không đâu nhá.
Bạn cứ việc nhảy đi. Tớ không có nhảy đâu." Thế nhưng chiếc xe sẽ chẳng
bao giờ trả lời không, nó không có linh hồn. Nó chẳng bao giờ trả lời có, cũng
chẳng bao giờ trả lời không.
Một đôi khi ngay cả cái đầu của một nhà toán học vĩ đại cũng
ì ra. Thế nhưng một chiếc máy điện toán thì có thể cần mẫn làm việc suốt hai
mươi bốn tiếng một ngày - năm này qua năm nọ- không có vấn đề.
Như vậy, một cổ máy cũng có cá tánh, một cá tánh rất đáng
tin cậy. Đó là những gì mà chúng ta đã và đang nỗ lực thực hiện -trước tiên, cố
gắng biến con người thành một cổ máy. Chúng ta đã không thể thành công một trăm
phần trăm, thế nên ngày qua ngày chúng ta đã sáng chế ra đủ loại máy móc có khả
năng thay thế con người. Và rồi không sớm thì muộn, ở khắp mọi nơi con người sẽ
được thay thế bằng máy móc. Máy móc càng ngày sẽ càng làm việc tốt hơn, hiệu quả
hơn, tin cậy và nhanh chóng hơn.
Con người thì có tánh khí bất thường, bởi vì con người có
linh hồn. Bởi vì có linh hồn, một người chỉ sống hoàn toàn chân thực khi nào
không còn mang cá tánh. Nhưng thế nào gọi là "phi cá tánh"? Điều tôi
muốn nói là con người hãy buông bỏ quá khứ . Y không thể nào sống trong quá khứ
-đó là lý do tại sao ta khó có thể dự đoán y sẽ như thế nào. Y sống trong từng
khoảnh khắc, y sống trong hiện tại. Y nhìn ra chung quanh và y sống, y trông thấy
chung quanh và y sống, y cảm nhận chung quanh và y sống. Y không hề mang sẵn những
định kiến phải sống như thế nào; tất cả chỉ là sự tỉnh thức trong từng giây
phút. Cuộc đời y là một dòng chảy liên tục. Hoàn toàn tự phát -đó là điều mà
tôi gọi một con người thực sự là phi cá tánh. Y sống một cách tự phát.
Y là người mẫn cảm. Nếu bạn nói với y một điều gì đó, y có
ngay câu trả lời phù hợp chứ không hề lập lại một câu nói rập khuôn. Y trả lời
ngay cho bạn, cho khoảnh khắc này, cho vấn đề này, cho tình huống này. Câu trả
lời không hề được rút ra từ một tình huống đã trải qua. Y trả lời ngay cho bạn,
nhìn thẳng vào bạn. Đây không phải là phản ứng mà là đáp ứng; phản ứng luôn bắt
nguồn từ quá khứ.
Có một câu chuyện đã xảy ra như thế này: Một vị Thiền sư hỏi
môn đệ, "Đâu là bí mật của Đức Phật? Ngài đã trao truyền cho Ma Ha Ca Diếp
cái gì khi trao cho ngài cành hoa? Tại sao Phật bảo rằng, 'Ta trao cho Ma Ha Ca
Diếp những gì mà ta không thể trao cho bất cứ ai khác - bởi vì những người khác
chỉ có thể hiểu qua lời còn Ma Ha Ca Diếp thì có thể hiểu bằng im lặng'?"
Hôm đó Đức Phật đã xuất hiện với đoá sen trong tay. Tất cả
các môn đệ của ngài chăm chú nhìn và rồi họ trở nên lo lắng, càng lúc càng cảm
thấy bất ổn hơn. Đức Phật vẫn lặng yên như là đang thể nhập vào đoá hoa. Ngài
đang nhìn vào bông sen trên tay... hầu như quên hẵn cả đại chúng.
Từng phút từng giờ trôi qua và đại chúng càng trở nên bồn chồn
hơn. Rồi bỗng dưng người ta thấy Ma Ha Ca Diếp mĩm cười. Rồi Đức Phật kêu ngài
đến trao cho cành hoa và bảo, "Những gì mà ta có thể trao truyền bằng lời,
ta đã trao cho những kẻ khác. Những gì ta không thể trao truyền bằng lời, nay
ta trao lại cho ngươi, Ma Ha Ca Diếp. Hãy giữ lấy cho đến khi nào ngươi tìm ra
được người nào có thể lãnh hội được thông điệp này không qua lời nói."
Vị Thiền sư liền hỏi chúng môn đệ, "Cái bí mật đó là
gì? Tại sao lại được trao truyền qua đoá hoa sen? Cái gì đã xảy ra trong khoảnh
khắc đó?"
Một đệ tử của ông ta đứng dậy không nói gì, nhảy múa rồi chạy
ra khỏi phòng. Vị Thiền sư liền bảo, "Đích thị. Đúng y như vậy đó."
Thế nhưng tối hôm đó một vị Thiền sư khác cũng cùng chung tu
viện đến gặp vị Thiền sư trên và bảo, "Ông không nên đồng ý quá sớm như thế.
Sự công nhận của ông là quá vội vàng. Rất đáng nghi."
Thế là vị thiền sư vội chạy đi tìm người đệ tử vừa mới nhảy
múa được ông xác nhận là "Đích thị. Đúng như vậy đó." Trong đêm này
ông ta gặp y và lập lại câu hỏi một lần nữa, "Đức Phật trao đoá sen cho Ma
Ha Ca Diếp mang ý nghĩa gì? Ma Ha Ca Diếp đã lãnh hội được điều gì khi ông ta
mĩm cười? Cái gì thế? Hãy cho ta câu trả lời."
Lần này người đệ tử trẻ lại đứng lên nhảy múa. Vị Thiền sư
liền cho y một trận đòn nên thân và quát, "Sai lầm. Hoàn toàn sai lầm."
"Thế nhưng mới hồi sáng này Thầy đã cho rằng đúng cơ mà", người đệ tử
bào chữa. Vị Thiền sư bảo, "Vâng. Nó đúng vào buổi sáng nhưng nó sai vào
buổi tối. Ngươi chỉ biết lập lại một cách ngu xuẩn. Ban sáng ta đã nghĩ rằng đó
là đáp ứng. Bây giờ thì ta biết rằng đó chỉ là một phản ứng."
Câu trả lời -nếu là một đáp ứng- phải được thay đổi mỗi lần
câu hỏi được nêu lên. Nội dung câu hỏi có thể giống nhau nhưng tình huống đã đổi
khác. Đó là khung cảnh của một buổi sáng với mặt trời đang lên, với chim chóc
ca hát, và đại chúng, cả ngàn vị tăng đang thiền định -một thế giới hoàn toàn
khác biệt. Và vị thiền sư đã nêu lên câu hỏi trong khung cảnh này...
Vâng, câu hỏi có thể giống nhau, lời nói có thể rập khuôn,
thế nhưng toàn cảnh đã thay đổi, tổng thể đã thay đổi. Khung cảnh của buổi tối
hoàn toàn khác biệt, vị thiền sư đang đứng một mình với người đệ tử trong căn
phòng của y. Mặt trời đã lặn, chim chóc không còn ca hát nữa, không có bất cứ
ai khác hiện diện ở đó. Người thiền sư bây giờ cũng không còn là người thiền sư
ban sáng. Tất cả đã đổi thay. Trong vài giờ qua, giòng sông vẫn không ngừng
tuôn chảy, nó đã băng qua những thảo nguyên, đã đi vào những vùng đất mới. Câu
hỏi chỉ hiện bày giống nhau, thế nhưng người đệ tử vẫn trụ yên một chỗ. Y nghĩ
là mình đã có sẵn câu trả lời.
Tuyệt nhiên không, trong thực tại đời sống không hề có sẵn
những câu trả lời cho bất cứ ai. Thực tại đời sống đòi hỏi bạn phải luôn đáp ứng.
Bạn không thể mang theo mình những đáp án sẵn có, cố định, rập khuôn trước thực
tại cuộc đời. Bạn phải để cho tâm hồn luôn rộng mở. Người đệ tử kia đã sai lầm.
Người phi cá tánh như vậy sẽ là người không hề mang sẵn những câu trả lời,
không hề có bất cứ triết lý nào, không hề có quan niệm mọi chuyện phải như thế
nọ, thế kia. Mặc cho chúng hiện bày như thế nào, y luôn luôn rộng mở. Y là một
tấm gương -phản chiếu một cách trung thực.
Bạn có nhìn thấy vấn đề chưa? Khi bạn đứng trước một tấm
gương soi, nếu bạn đang giận, tấm gương sẽ phản chiếu khuôn mặt giận dữ của bạn;
nếu bạn đang cười, tấm gương sẽ phản chiếu khuôn mặt tươi cười của bạn. Bạn già
nua hay trẻ trung tấm gương sẽ phản chiếu trung thực hình ảnh của bạn. Bạn
không thể nói với tấm gương, "Hôm qua mi phản chiếu khuôn mặt tươi cười của
ta, hôm nay mi lại phản chiếu ta đang buồn rầu, giận dữ. Sao lại thế nhỉ? Mi thật
là tiền hậu bất nhất. Mi không hề có cá tánh! Ta sẽ liệng bỏ mi ra khỏi nhà
thôi."
Đúng vậy, một tấm gương không hề có cá tánh. Và một con người
đích thực cũng giống y như một tấm gương soi.
Thiền không hề phán xét, Thiền không hề đánh giá, Thiền
không hề áp đặt cá tánh lên bất cứ ai. Bởi vì khi áp đặt lên ai một cá tánh, bạn
cần phải đánh giá -tốt hay xấu. Để áp đặt lên ai một cá tánh bạn phải đặt ra những
cái nên và những cái không nên; bạn sẽ đưa ra những điều răn. Để áp đặt cá tánh
bạn sẽ phải trở thành một ông Moses - chứ không thể là một Bồ Đề Đạt Ma.
Để áp đặt cá tánh bạn sẽ phải tạo ra nỗi sợ và lòng tham, bằng
không, đâu có ai thèm nghe bạn? Bạn sẽ phải là một B.F.Skinner (2) và đối xử với
con người như là những con chuột thí nghiệm -huấn luyện chúng, trừng phạt
chúng, ban thưởng chúng để buộc chúng phải cư xử theo một khuôn mẫu nào đó. Đó
là những gì mà người ta đã và đang đối xử với bạn. Cha mẹ bạn, nền giáo dục của
bạn, xã hội của bạn, nhà nước đã làm như thế.
Thiền thì không, nó bảo rằng: Thôi đủ rồi, hãy rời bỏ cái mê
lộ này đi. Hãy buông bỏ cái vô nghĩa này đi để có thể bắt đầu nhìn lại chính
mình. Điều này không có nghĩa rằng Thiền sẽ quẳng bạn vào trạng thái hỗn mang.
Không, ngược lại là khác. Thay vì cho bạn một cá tánh cùng với cái lương tâm để
điều khiển cái cá tánh này, Thiền cho bạn cái ý thức.
Hãy lưu ý và ghi nhớ sự khác biệt này. Tất cả các tôn giáo
khác đều mang đến cho bạn cái gọi là lương tâm. Thiền chỉ cho bạn ý thức. Lương
tâm luôn lên tiếng, "Cái này tốt, cái kia xấu. Phải làm cái này, đừng làm
cái nọ." Đơn giản hơn, ý thức chỉ nói rằng: "Hãy là một tấm gương: Phản
chiếu và đáp ứng." Đáp ứng là đúng đắn, phản ứng là sai lầm. Chịu trách
nhiệm không có nghĩa là răm rắp tuân theo những quy điều nào đó; chịu trách nhiệm
có nghĩa là có đầy đủ khả năng đáp ứng.
Thiền thắp lên ngọn đuốc rực rỡ bên trong bạn. Không phải là
một sự áp đặt, nuôi dưỡng từ bên ngoài; nó không hề mang đến cho bạn một chiếc
áo giáp, một cơ chế phòng thủ. Nó không cần bận tâm đến cái vỏ ngoài của bạn mà
một cách đơn giản, nó đốt lên một ngọn đèn ở trong tâm, trong tận cùng cốt lõi
của bạn. Và cái ngọn đèn ấy cứ sáng dần lên... cho đến một ngày toàn bộ nhân
cách bạn sáng ngời lên rực rỡ.
Bằng cách nào mà phong cách Thiền, cái lối tiếp cận này sinh
khởi ? Nó sinh khởi từ thiền quán. Đây là cao điểm tột cùng của một thiền thức
chín mùi. Nếu bạn đi vào thiền quán, dần dần rồi bạn sẽ tỏ ngộ -mọi sự mọi vật
đều tốt đẹp, đều hiện hữu qua cách thế của chúng. Là Chân Như, như thị, là sinh
khởi. Từ đó, khi nhìn một tên trộm, bạn sẽ không còn nghĩ đến việc nên chuyển
hoá y - bạn chỉ đáp ứng một cách đơn giản. Bạn không còn nhìn thấy y như là một
kẻ xấu. Một khi bạn không còn ý niệm cho rằng ai đó là xấu xa, độc ác, bạn đang
tạo ra một khả năng cho kẻ kia chuyển hoá. Bạn đang chấp nhận y trong cách thế
mà y hiện bày. Từ sự chấp nhận này là sự chuyển hoá.
Bạn có thấy điều này cũng đã xảy ra ngay trong đời sống của
bạn không? Bất cứ lúc nào ai đó chấp nhận bạn một cách hoàn toàn, vô điều kiện,
bạn bắt đầu thay đổi. Sự chấp nhận của y đã tạo cho bạn niềm can đảm đó... Khi
có ai đó đơn thuần yêu bạn bất kể bạn là gì, bạn có thấy phép lạ đang xảy ra, rằng
có cái gì đó đang thay đổi, khởi sự thay đổi ngay tức thì, nhanh chóng, phải
không? Sự chấp nhận rằng bạn được yêu không có điều kiện này
-không chờ đợi ở bạn bất cứ điều gì- mang lại cho bạn nhựa sống,
để bạn chan hoà với cuộc đời, làm bạn trở nên tự tin, kỳ vọng. Từ đó bạn cảm nhận
ra mình đích thực hiện hữu, thấy rằng mình không cần phải hoàn tất những điều
mà người ta trông đợi ở mình, rằng bạn có thể là mình, rằng con người nguyên sơ
của bạn được tôn trọng.
Ngay cả việc bạn chỉ tìm ra một người duy nhất hoàn toàn tôn
trọng bạn -bởi vì tất cả mọi phán xét là bất kính- chấp nhận bạn như nguyên trạng,
không hề đặt ra bất cứ một đòi hỏi nào, một người có thể nói với bạn một câu,
"Anh (hay em) hãy là anh. Trung thực với chính mình. Tôi yêu anh. Tôi yêu
anh không phải vì những gì anh
đang làm. Tôi yêu anh với cái con người thực, cái tận cùng cốt
lõi của anh; Tôi không hề bận tâm đến cái vỏ ngoài của anh, bộ áo quần mà anh
đang mặc. Tôi chẳng hề bận tâm đến những gí anh đang có, tôi chỉ quan tâm đến một
điều duy nhất -Anh là anh. Và anh quá đổi tuyệt vời"...
Cái đó gọi là tình yêu. Đó là lý do tại sao tình yêu là nhựa
sống. Khi bạn tìm được một người phụ nữ (hay đàn ông) đơn thuần yêu bạn -không
vì bất cứ một lý lẽ nào, chỉ thuần túy là tình yêu... rồi cái tình yêu này sẽ
chuyển hoá bạn. Bỗng dưng bạn trở thành một con người khác như chưa bao giờ. Bỗng
dưng nỗi buồn phiền tan biến, và cuộc đời bạn không còn là những chuổi ngày tẻ
nhạt. Bỗng dưng mỗi bước đi biến thành khúc luân vũ, và trái tim bạn là một
khúc nhạc rộn rã reo vui. Bạn bắt đầu chuyển hướng - một ân sủng khởi sinh.
Hãy nhìn đi: Bất cứ lúc nào có ai đó yêu bạn, chỉ nguyên cái
tình yêu này không cũng đủ rồi. Đủ để sưởi ấm đời bạn, làm cho mọi giá băng tan
biến. Trái tim bạn mở ra cuộc đời không còn hờ hững nữa. Bây giờ bạn ngắm hoa,
nhìn trời nhiều hơn -ngay cả bầu trời đó như cũng mang thông điệp của tình
yêu... bởi vì đã có một cô gái -hay một chàng trai nào đó- nhìn sâu vào mắt bạn,
chấp nhận bạn một cách hoàn toàn, không điều kiện.
Thế nhưng câu chuyện tình không dừng lại ở đây vì con nguời
thường xuẩn động. Những ngày trăng mật này không sớm thì muộn cũng sẽ biến mất
-một tuần, hai tuần, nhiều lắm là ba tuần. Không sớm thì muộn nàng bắt đầu
trông chờ ở bạn phải thế này, chàng trông chờ ở bạn phải thế nọ, "Phải làm
cái này. Không được làm cái kia." Một lần nữa bạn lại bị kéo lùi trở lại
cuộc đời trần tục, bầu trời không còn là bầu trời hoa mộng cũ. Gánh nặng lại chồng
chất lên, tình yêu đã mất dấu. Bây giờ thì nàng quan tâm đến chiếc ví của bạn
nhiều hơn. Bây giờ thì chàng chỉ nghĩ nhiều đến cái ăn cái uống. Rồi một ngàn lẻ
một thứ chuyện phải lo toan, phải tổ chức gia đình như thế này, phải sắp xếp
nhà cửa như thế nọ -không còn nữa sự hòa điệu giữa hai kẻ yêu nhau.
Nếu mối hoà điệu này được giữ bền vững lâu dài thì mọi chuyện
đều tốt đẹp. Bạn có thể tiếp tục làm một ngàn lẽ một chuyện, không có vấn đề.
Thế nhưng nếu sự hoà điệu kia biến mất; bạn sẽ xem sự hiện hữu của người kia
như là chuyện đương nhiên. Chỉ trong vòng ba tuần lễ đó, bạn bắt đầu gán cho nhau
đủ thứ. Cái ngày mà sự gán ghép này kết thúc, tuần trăng mật của bạn cũng chấm
dứt theo.
Chuyện xảy ra với tình yêu đời thường là như thế, còn đối với
một vị thầy tâm linh, khi bạn yêu họ thì sao? Ai sẽ là người thương yêu bạn một
cách hoàn toàn, yêu thương bạn vô điều kiện? Tình yêu đó là phương thức trị liệu,
có năng lực chữa lành mọi vết thương. Thế nên tôi luôn luôn nhấn mạnh đến hành
trì -bởi vì trừ phi bạn là một hành giả, bạn sẽ chẳng bao giờ đến gần tôi đủ để
nhận sự yêu thương của tôi. Bạn sẽ vẫn còn ở trong tình trạng lo ngại, bạn sẽ vẫn
còn ở trong tư thế phòng thủ. Bạn sẽ còn giữ mải khoảng cách để có thể tháo chạy
kịp thời vào một lúc nào đó.
Trừ phi bạn trở thành một hành giả, trừ phi bạn buông bỏ sự
phòng thủ, bạn sẽ không thể nào nhận được sự yêu thương của tôi. Và, chỉ khi
nào bạn nhận được sự yêu thương của tôi, lúc đó bạn mới có thể bắt đầu thay đổi.
Ngoài tình yêu thương này ra bạn không cần đến bất cứ cái gì khác, sự thực là
thế. Chỉ có tình yêu thương này là đủ rồi, quá đủ. Đó là một năng lực kỳ diệu
phi thường.
Thiền tin tưởng ở yêu thương. Nó không tin vào những quy luật,
tín điều. Nó không tin vào bất cứ hình thức kỷ luật nào, nó chỉ tin vào những
gì sâu thẳm ở bên trong. Thiền phát xuất từ sự yêu thương, sự tôn trọng, tin cậy.
Khi bạn phản chiếu tự soi, bạn bắt đầu tin cậy sự hiện hữu. Hãy nhìn kỹ sự khác
biệt này: Khi bạn hỏi một người Cơ Đốc hay Ấn Độ giáo, đối với họ niềm tin phải
là một yêu cầu đầu tiên. Họ sẽ bảo, "Tin vào sự hiện hữu -và rồi bạn sẽ hiểu
Thượng Đế là gì." Đối với Thiền, đây không phải là yêu cầu đầu tiên. Thiền
bảo rắng: Hãy phản chiếu tự soi. Từ thiền quán, niềm tin sinh khởi, và niềm tin
này thánh hoá hiện hữu. Chân Như sinh khởi.
Làm thế nào bạn có thể cứ tiếp tục làm côg việc lên án khi
biết rằng vạn pháp đều là Thượng Đế? Cái được gọi là truyền thống Vệ Đà của Ấn
Độ cho rằng, "Tất cả đều là Đại Ngã -Brahman", thế nhưng họ vẫn không
ngừng lên án. Họ vẫn tiếp tục gọi bạn là kẻ tội lỗi, gọi người kia là vị thánh,
và ông thánh thì sẽ lên thiên đường còn kẻ tội lỗi thì sẽ sa địa ngục. Điều này
hầu như hoàn toàn phi lý khi tất cả vạn pháp đều là Thượng Đế. Thế thì làm sao
bạn lại là kẻ có tội? Thượng Đế lại là kẻ tội lỗi nằm ở ngay chính trong bạn ư?
Làm sao lại có thể tống Thượng Đế xuống địa ngục được?
Thiền cho rằng: Đến một ngày bạn biết rằng tất cả đều thánh
thiện, tất cả đều là Thượng Đế. Và người ta không còn dùng danh từ "thượng
đế" nữa -bởi vì các tôn giáo khác đã làm băng hoại cái danh từ này quá mức,
đã làm hư hỏng, ô nhiễm, đầu độc nó mất rồi. Người ta không dùng từ "thượng
đế". Khi bạn phản chiếu tự soi, dần dần bạn sẽ thấy vạn pháp hiện bày theo
cách thế của chúng, và rối bạn bắt đầu tin cậy và tôn trọng tính cách như thị của
vạn pháp, từ đó một niềm tin sinh khởi. Niềm tin này là chân như -là như thị.
Chân Như đưa đến một cái nhìn về sự tương tức của mọi hiện hữu.
Và rồi toàn thể vũ trụ chỉ là một khối, vận hành trong một kết cấu thống nhất.
Có một danh từ đặc biệt để nói về khái niệm này, đó là "jiji muge
hokkai": khi bạn hiểu được rằng toàn thể hiện hữu là một khối đồng nhất
-đây là một đơn vũ trụ chứ không phải đa vũ trụ- trong đó vạn pháp được kết nối
cùng nhau, những kẻ tội lỗi và những ông thánh đều giống như nhau, là bộ phận
không hề tách rời của cùng một mạng lưới, xấu và tốt cùng đan chồng vào nhau.
Giống như bóng tối và ánh sáng, cái chết và sự sống không hề tách lìa nhau, cái
tốt và xấu cũng thế.
Vạn pháp đều tương tức. Đó là chiếc lưới Đế châu, một cấu
trúc tuyệt vời.
Hãy lắng nghe kinh nghiệm sau đây của Berenson. "Đó là
một buổi sáng đầu hè. Một làn sương mờ lấp lánh bạc toả lung linh trên đầu những
ngọn chanh. Không khí như mơn man âu yếm. Tôi nhớ lại... lúc đó tôi đang trèo
lên một khúc rễ cây và đột nhiên cảm thấy mình như tan hoà vào cái chân như.
Tôi đã không gọi nó bằng cái tiếng này; trong trạng thái của tâm lúc đó ngôn ngữ
không còn hiện diện, cũng không cả cảm thọ. Không cần thiết để có ngôn từ. Cái
như thị của nó và tôi đã là một. Nó có mặt ở đó như một ân sủng, thế
thôi."
Chân Như có nghĩa là đạt đến một khoảnh khắc khi bạn đột
nhiên nhìn thấy vạn hữu là một, tương liên cùng nhau, hoà điệu trong cùng một
khúc luân vũ, một hợp tấu. Và tất cả đều cần thiết như nhau -cái xấu cũng như
cái tốt. Ramana (3) cũng cần thiết như Rama. Một mình chúa Giêsu thôi sẽ không
trọn vẹn, phải có thêm một Judas. Không có Judas, Chúa Giêsu sẽ không nổi bật
lên như thế. Cắt bỏ Judas ra khỏi cuốn Thánh Kinh sẽ là một mất mát lớn lao. Loại
bỏ Judas ra thì Chúa Giêsu sẽ đứng ở chỗ nào? Và còn gì là Chúa Giêsu? Judas đã
cho một hình ảnh tương phản, tạo ra một cái nền cần thiết. Y trở thành một đám
mây đen trong đó Chúa Giêsu nổi bật lên như một làn chớp bạc. Nếu không có đám
mây đen này, sẽ không có những làn chớp bạc.
Chúa Giêsu hẵn phải cảm ơn Judas mãi mãi. Và khi Chúa rửa
chân cho các môn đệ, sẽ chẳng là một tình cờ khi những bàn chân đầu tiên là của
Judas. Thế rồi khi từ biệt môn đệ trong chuyến đi cuối cùng, Chúa đã ôm, đã hôn
Judas mặn nồng hơn bất cứ ai khác. Judas là môn đệ hàng đầu, được thương yêu nhất
của Chúa.
Bây giờ, đây là một bí ẩn ở đằng sau bí ẩn. Đã có những đồn
đãi qua thời gian trong vòng bí mật rằng tất cả đều chỉ là một sự dàn dựng của
Chúa Giêsu. Gurdjieff (4) là người rất mực tin tưởng vào giả thuyết này. Có
nghĩa rằng Judas chỉ đơn giản tuân hành theo mệnh lệnh của Chúa Giêsu -để phản
bội, để bán đứng ngài cho quân nghịch. Điều này xem ra rất hợp luận lý. Bởi vì
cho dù Judas có tệ đến mức nào đi nữa, không lẽ chỉ bán Chúa với ba mươi đồng?...
hình như quá nhiều. Mà Judas là người thân cận với Chúa khá lâu, được xem như
là một môn đệ thông minh nhất trong nhóm. Ông ta là người có học thức duy nhất,
người duy nhất trong số môn đệ có thể được gọi là trí thức. Thật ra về mặt kiến
thức, có thể nói rằng ông ta còn uyên bác hơn cả Chúa Giêsu, ông là một học giả
uyên thâm bên cạnh Chúa.
Quá nhiều chăng, khi bán Chúa với ba mươi đồng tiền bạc?
Không hẵn thế. Và rồi bạn biết điều gì đã xảy ra không? Khi Chúa bị đóng đinh
lên thập tự giá, Judas đã tự sát -chỉ ngay ngày hôm sau. Những người Cơ Đốc đã
không đề cập nhiều đến chuyện này, thế nhưng đây là điều cần phải được nói lên.
Tại sao y lại tự sát? Bởi vì y là người làm công việc kết thúc bài bản -bây giờ
đã đến lúc y nên bước theo chân của vị tôn sư mình. Làm sao bạn có thể tin được
rằng một người bán Chúa với ba mươi đồng bạc lại bị mặc cảm tội lỗi dày vò đến
độ phải tự sát? Không bao giờ. Tại sao y lại phải băn khuăn chuyện này chứ?
Không, y chỉ đơn thuần tuân hành theo mệnh lệnh của Chúa. Y không thể chối từ
-đó là một phần của sự tuân phục. Y đã phải chấp hành.
Nếu một ngày nào đó tôi bảo bạn rằng, "Hãy giết
tôi", bạn phải chấp hành ngay. Điều đó gọi là sự tuân phục. Bạn không thể
trả lời "Không" với vị tôn sư của mình.
Đây chỉ là một sự dàn dựng. Điều này không phải là không có
lý do: Chỉ thông qua sự đóng đinh lên thập tự giá thì thông điệp của Chúa mới
có thể tồn tại trên thế giới này. Sẽ không bao giờ có Cơ Đốc giáo nếu không có sự
đóng đinh này. Đó là lý do tại sao tôi gọi đạo Cơ Đốc là "thập tự
giáo"-crossianity. Đây không phải là Cơ Đốc- Christianity. Bởi vì nếu chỉ
có Chúa Giêsu -Christ- không thôi thì sẽ chẳng có gì xảy ra, phải cần có một
cây thập tự giá.
Khi bạn thấy được sự tương tức tương liên của vạn pháp, thì
lúc đó Judas cũng trở thành bộ phận của một cuộc chơi có Chúa ở trong. Lúc đó
thì cái xấu cũng chỉ là một thành phần của cái tốt. Lúc đó thì Qủy Sứ cũng chẳng
ai khác hơn là một thiên thần của Thượng Đế -tôi không gọi y là một thiên thần
bị đọa đâu nhé! Mà có thể y đã được Thượng Đế phái đến thế giới này trong một sứ
mệnh lớn lao -biết đâu y lại chẳng là môn đệ tín cẩn nhất của Thượng Đế.
Cái danh từ "ma quỷ" -devil- phát xuất từ danh từ
"thánh thiện" -divine. Đó là một biểu thị khá rõ. Vâng, Quỷ Sứ cũng đồng
thời thánh thiện.
Sasaki kể rằng: Một lần sư phụ của tôi đề cập cái chuyện này
với tôi, về cái chân như này, ông bảo, "Này Sasaki hãy suy nghĩ đi. Ngươi
cho rằng mình là một cá thể độc lập, một ốc đảo. Nhưng thật ra đâu phải thế. Nếu
không có cha ngươi, mẹ ngươi thì làm gì có ngươi. Nếu không có ông bà ngươi thì
làm gì có cha mẹ ngươi và có ngươi."
Cứ thế mà tiếp tục -bạn có thể đi cho đến tận uyên nguyên đầu
nguồn. Bạn có thể tiếp tục đi ngược trở lại mãi, và rồi bạn sẽ thấy rằng bất cứ
cái gì đã xảy ra tạo nên sự hiện hữu của bạn hôm nay, đã phải xảy ra như thế để
bạn có mặt. Bằng không thì chắc chắn là đã không có bạn. Tất cả đã được nối kết
nhau chặt chẽ như thế, tương tức và tương tục. Bạn chỉ là một bộ phận cực nhỏ
trong cái chuổi dài bất tận này. Tất cả cái đang là có mặt ở trong bạn, tất cả
cái đã qua có mặt ở trong bạn. Ở khoảnh khắc này đây, bạn là tụ đỉnh của ngàn
muôn năm trước. Trong bạn có mặt của toàn bộ quá khứ. Nhưng không phải chỉ có
thế thôi đâu. Từ bạn sẽ sinh ra con cái bạn. Rồi cháu chắt... và cứ tiếp tục
như thế mãi.
Từ những hành động của bạn sẽ đẻ ra những hậu quả, và từ những
hậu quả này sẽ sinh ra những hậu quả khác, và từ những hậu quả khác này sẽ lại
sinh ra những hành động. Rồi bạn sẽ biến mất trên cõi đời này, thế nhưng bất cứ
điều gì bạn làm sẽ vẫn còn tiếp tục. Nó sẽ có những phản ứng dội lại, qua bao
thời đại, cho đến điểm rốt ráo tận cùng.
Thế là tất cả quá khứ đều có mặt ở trong bạn, và tất cả
tương lai cũng thế. Ở khoảnh khắc này đây quá khứ và tương lai gặp gỡ nhau ở
trong bạn, không hề có điểm tận cùng -ad infinitum, ở cả hai hướng. Muôn xưa và
muôn sau. Trong bạn chất chứa hạt giống từ đó tương lai sinh khởi, cũng hoàn
toàn giống như bạn ở khoảnh khắc này đây là toàn bộ của quá khứ hiện bày. Thế
nên bạn cũng là toàn bộ của tương lai. Khoảnh khắc này là tất cả, bạn là tất cả.
Bởi vì toàn bộ có mặt ở trong bạn, sinh mệnh của cái toàn bộ này cũng đang ở
tình trạng bị đe dọa. Cái toàn bộ này đang đi đan chéo qua bạn.
Khi bạn chạm tay vào một cọng cỏ, bạn đang chạm vào tất cả
muôn vàn tinh tú, sơn hà đại địa. Bởi vì tất cả cái này đều có mặt trong tất cả
cái khác, tất cả cái này đều ở trong tất cả các cái khác. Thiền gọi sự có mặt của
cái toàn thể ẩn chứa trong từng bộ phận của nó là jiji muge hokkai.
"Điều này được minh hoạ bởi ý niệm về một chiếc lưới vũ
trụ. Chiếc lưới này được gọi là "Lưới Đế Châu", một chiếc lưới trải rộng
ra khắp toàn vũ trụ, với chiều đứng là thời gian, và chiều ngang là không gian.
Ở tại mỗi điểm mà một sợi chỉ lưới xuyên qua một sợi khác là một hạt châu, biểu
trưng cho một cá thể riêng biệt. Trên mình của mỗi hạt châu này không những chỉ
phản chiếu lấp lánh những hạt châu khác ở trên chiếc lưới mà là tất cả những phản
chiếu của tất cả những phản chiếu khác của từng hạt châu khác chiếu dọi trên từng
hạt châu một."
Tất cả những phản chiếu vô cùng vô tận này gọi là jiji muge
hokkai.
Khi Đức Phật Cồ Đàm cầm một chiếc hoa sen đơn độc ở trong
tay, ngài đã trình bày cho thấy cái jiji muge hokkai này. Và Ma Ha Ca Diếp đã
lãnh hội được. Đây là cái thông điệp -rằng trong cái hoa sen nhỏ bé này tất cả
đều có mặt: toàn bộ quá khứ, toàn bộ tương lai, tất cả mọi chiều kích đều hiện
hữu. Trong cái hoa sen nhỏ bé này, tất cả những cái đã và đang nở hoa cùng tất
cả những cái khác sẽ nở hoa vào một ngày nào đó đều được chứa đựng trong cánh
sen này. Ma Ha Ca Diếp đã mĩm cười vì ông đã lãnh hội thông điệp: jiji muge
hokkai. Đó là lý do tại sao Đức Phật đã trao cành hoa cho Ma Ha Ca Diếp như là
một mật truyền tâm ấn.
Thế nên người Phật tử luôn từ bi với muôn loài, tri ân và
tôn trọng muôn loài -bởi vì tất cả vạn pháp đều có mặt trong từng mỗi cá thể.
Bây giờ chúng ta trở lại với câu chuyện.
Một hôm, khi sư Shichiri Kojun đang thực hành công phu tối,
một tên cướp với chiếc gươm bén đột nhập vào phòng đòi ông phải đưa tiền nếu
không sẽ mất mạng.
Vị thiền sư bảo y: "Đừng có làm rộn ta. Tiền ở trong
cái ngăn tủ đó." Xong ông bắt đầu tụng kinh tiếp.
Không lên án, không phán xét. Đơn thuần chấp nhận - như một
cơn gió nhẹ thoáng qua chứ không phải là một tên cướp. Không cả một thay đổi nhỏ
trong mắt nhìn -như là một người bạn chợt đến viếng thăm chứ không phải là tên
cướp. Không có bất cứ một thay đổi nào trong thái độ. Ông bảo, "Đừng có
làm rộn ta. Tiền ở trong cái ngăn tủ đó. Bộ không thấy ta đang tụng kinh hả? Tối
thiểu ngươi cũng nên tỏ ra tôn trọng, không làm rộn một người đang đọc kinh với
ba cái chuyện tiền nong tục tỉu đó chứ. Ngươi hãy tự mình đi kiếm lấy! Đừng có
làm rộn ta."
Bây giờ hãy để ý điểm này: Vị Thiền sư không chống lại tên
cướp vì việc y đến trộm tiền. Ông ta không chống lại tên cướp vì y chỉ biết chạy
theo tiền, ám ảnh bởi tiền - không phải thế, không hề như vậy. Chỉ là một đơn
thuần chấp nhận: đây là cách thế mà y hiện hữu. Đây là cách thế mà y phải có mặt,
Ai mà biết được? Thế thì tại sao tôi lại phải lên án? Mà tôi là ai? Nếu y biết
điều một chút thì đừng làm rộn tôi, thế là đủ rồi, quá đủ là khác khi trông chờ
ở một kẻ khác. Đừng có làm rộn tôi nhé.
Một lát, ông bỗng ngưng đọc kinh và bảo tên cướp: "Này,
đừng có lấy hết nghe. Chừa lại một ít để ta còn phải đóng thuế ngày mai nữa
đó."
Bạn dể ý đến cái trọng điểm -rất thân hữu. Không có một chút
gì thù hằn ở trong đó. Và bởi vì không có thù hằn, cũng sẽ không có sợ hãi. Bởi
vì không có sự lên án, và với một niềm tôn trọng sâu sắc như thế, vị thiền sư
có thể tin rằng tên cướp sẽ bỏ đi sau khi lấy xong tiền. Khi bạn bố thí cho ai
với tất cả tấm lòng, bạn có thể tin -cho dù ngay cả một tên tồi tệ nhất, tối
thiểu cũng sẽ tôn trọng những gì mà bạn tỏ ra tôn trọng y. Y sẽ tôn trọng. Bạn
có thể tin chuyện đó. Khi bạn tin cậy ai, khi bạn không phán xét, lên án ai, bạn
có thể tin rằng rồi người đó sẽ tin cậy bạn. Vị Thiền sư chỉ đơn giản bảo:
"Này, đừng có lấy hết nghe. Chừa lại một ít để ta còn
phải đóng thuế ngày mai nữa đó."
Tên cướp gom gần hết số tiền và sắp sửa tẩu thoát.
"Này, ai tặng cho mình cái gì thì phải biết cảm ơn người đó chớ..."
Bây giờ, hãy quan sát cái lòng từ bi của vị thiền sư. Ông ta
không xem đó là chuyện cướp giật; ông bảo tên cướp, "Này, ai tặng cho mình
cái gì thì phải biết cảm ơn người đó chớ." Ông ta đang chuyển hoá y; thị
kiến của ông hoàn toàn khác biệt với thế nhân. Ông không muốn y mang mặc cảm tội
lỗi; lòng từ bi của ông thật là vô lượng. Nếu không sau này tên cướp sẽ bắt đầu
cảm thấy mình có tội. Mà y sắp sửa cảm thấy mình tội lỗi thật -ai lại đi cướp
giật một ông sư nghèo, một tên ăn mày khốn khó mà ngay tự bản chất chẳng hề có
chút gì tài sản cho riêng mình. Cướp giật một người đang sẵn lòng bố thí, đang
chấp nhận bạn một cách hoàn toàn -chắc chắn y sẽ cảm thấy tội lỗi, chắc chắn y
sẽ bắt đầu cảm thấy hối hận. Có thể y sẽ mất ngủ tối nay. Có thể y sẽ trở lại
vào sáng hôm sau để xin được tha thứ.
Không, không thể như vậy được. Thiền không bao giờ muốn tạo
ra mặc cảm phạm tội cho bất cứ tình huống nào. Đó là tất cả những gì độc đáo của
Thiền, một tôn giáo mà không hề dựng lên cái ám ảnh về tội lỗi. Trên căn bản tội
phước, người ta dễ dàng xây dựng lên một tôn giáo, đó là điều mà các tôn giáo
khác thường làm. Thế nhưng khi bạn tạo ra tội, bạn đã tạo ra một cái gì đó còn
tệ hại hơn là chuyện giải tội. Thiền không hề tạo ra bất cứ ý niệm nào về tội
phước, luôn luôn cẩn trọng để không gây cho ai cái mặc cảm phạm tội.
Bây giờ vị Thiền sư bảo tiếp, "Này, ai tặng cho mình
cái gì thì phải biết cảm ơn người đó chớ". 'Đây là một quà tặng! Ngươi hiểu
rõ chuyện này không đấy? Ta đang tặng cho ngươi -không phải ngươi cướp giật của
ta đâu nhé'. Có một mảy may khác biệt nào đâu! Hoàn toàn giống nhau thôi.
Đây là điều Thiền gọi bằng hai tiếng bố thí -thay vì để nó
không bị tước ra khỏi tay bạn. Và đây là cái nhìn tổng thể về đời sống. Trước
khi thần chết đến gần hãy cho đi tất cả để thần chết không mang mặc cảm tội lỗi.
Hãy hiến tặng cuộc đời bạn cho thần chết như một món quà. Đó là tinh thần buông
bỏ của Thiền. Nó hoàn toàn khác xa với Ân Độ giáo hay Thiên Chúa Giáo -họ cho
là để nhận lại một cái gì. Với Thiền, cho là để không tạo ra cái ý niệm phạm tội
ở bất cứ nơi đâu trên trái đất này; không hề có tội lỗi được để lại đằng sau.
"Này, ai tặng cho mình cái gì thì phải biết cảm ơn người
đó chớ," Shichiri nói thêm. Tên cướp lí nhí cảm ơn rồi lỉnh mất.
Vài hôm sau thì tên cướp bị bắt và thú nhận tất cả tội lỗi,
trong số nạn nhân dĩ nhiên có cả sư Shichiri. Khi sư được gọi đến như một nhân
chứng, ông bảo: "Đối với tôi thì người này không phải là kẻ cướp. Tôi tặng
y tiền và y còn biết nói lời cảm ơn tôi".
Bạn có thấy điểm chính yếu này không? Rất mực tôn trọng! Một
sự tôn trọng vô điều kiện đối với một con người -một tên cướp!
Nếu cái ông Shichiri này là một ông thánh Cơ Đốc, hẵn là ông
ta sẽ dọa dẫm y rằng, ngươi dọn mình đi để nhận lãnh cực hình tại địa ngục -địa
ngục đời đời đấy nhé. Còn nếu ông ta là một vị thánh Ấn Độ giáo, hẵn là ông ta
sẽ thuyết giảng cho y một bài luân lý dài về điều răn không được trộm cắp, sẽ
hăm dọa rằng rồi y sẽ bị tống vào hoả ngục. Chưa hết, ông ta sẽ còn vẽ ra một bức
tranh kinh hoàng về địa ngục, dạy thêm cho y một bài học nữa về sự vô dụng của
tiền bạc thế gian.
Hãy nhìn kỹ điểm này: Vị Thiền sư không hề giảng thuyết bất
cứ điều gì về sự vô dụng của tiền bạc. Thay vào đó, ông đã nói một câu rất thực
tế đời thường, "Này, hãy để lại cho ta một ít; sáng mai ta cần dùng đấy."
Dĩ nhiên tiền bạc đều có chủ đích. Ta không cần phải bị ám ảnh
bởi nó, cách này hay cách khác, chạy theo hay
chống lại. Tiền bạc chỉ là phương tiện. Bạn không phải chỉ sống
vì tiền, nhưng bạn cũng không cần phải lên án. Nó chỉ là phương tiện. Đó là lý
do tại sao thái độ của tôi đối với tiền bạc là: Nó cần phải được sử dụng. Nó
thuần túy chỉ là công cụ.
Trong cái thế giới tôn giáo, tiền bạc thường bị lên án - người
đạo hạnh tín ngưỡng thường tỏ ra sợ hãi chuyện tiền bạc. Nỗi sợ này chẳng là gì
cả ngoài lòng tham đứng lộn đầu. Cũng cùng lòng tham đó nay biến thành nỗi sợ.
Nếu bạn đi đến Acharya Vinoba Bhave (5) với tiền bạc trong
tay, ông ta sẽ nhắm đôi mắt lại. Ông ta nhắm mắt vì không muốn nhìn thấy tiền.
Sao lại sợ hãi tiền bạc đến vậy nhỉ? Sao bạn nhắm đôi mắt lại? Chưa hết đâu,
ông ta sẽ còn tiếp tục bảo bạn rằng tiền bạc là thứ dơ dáy bẩn thỉu -thế nhưng
ông ta chẳng hề nhắm mắt lại khi thấy điều dơ dáy. Thật là chuyện hết sức phi
lý. Mà thật ra, nếu tiền bạc là thứ bẩn thỉu dơ dáy, có lẽ ông ta nên phải nhắm
mắt suốt hai mươi bốn tiếng trong ngày bởi vì ở đâu lại chẳng có chuyện dơ dáy.
Tiền bạc dơ dáy bẩn thỉu quá chăng? Thế thì tại sao lại sợ hãi cái dơ dáy? Nỗi
sợ đó là gì?
Thiền có một phương cách tiếp cận hoàn toàn khác biệt tự căn
bản. Một vị thầy không hề cho rằng tiền bạc là thứ dơ dáy và rồi bạn không nên
nhìn vào túi tiền của kẻ khác. Nó phải làm gì với người đời đây? Tiền bạc không
là của ai cả. Thế nên khi bảo một người nào đó rằng, "Mi là tên trộm cướp",
có nghĩa là bạn tin vào chuyện tài sản riêng tư, rằng người này có được một
cách hợp pháp còn kẻ kia thì không, người này có quyền sở hữu nó, kẻ kia không
có quyền.
Trộm cắp bị lên án là do bởi đầu óc của những anh tư bản
trên thế gian này; nó là một phần của đầu óc tư bản. Đầu óc tư bản cho rằng tiền
bạc thuộc về một cá nhân nào đó -nó luôn luôn có một sở hữu chủ hợp pháp, không
ai được quyền lấy đi.
Thế nhưng Thiền lại cho rằng không có cái gì thuộc về ai cả,
không ai là sở hữu chủ hợp pháp cái gì cả. Bạn làm chủ cái thế giới này như thế
nào đây? Bạn đi vào cuộc đời này với hai bàn tay trắng và ra đi cũng với hai
bàn tay trắng -bạn không thể làm chủ được nó. Không ai có thể làm chủ được nó;
chúng ta chỉ sử dụng nó mà thôi. Và tất cả chúng ta ở đây cùng sử dụng nó. Cái
thông điệp đó biểu lộ trong câu nói: "Cứ lấy tiền đi! Nhưng hãy để lại cho
ta một ít. Ta cũng có việc cần dùng nó, như ngươi vậy."
Một thái độ rất mực thực dụng, rất mực thực nghiệm! Đồng thời
cũng phản ảnh tinh thần không nô lệ vào tiền bạc! Và ngay tại tòa án, sư
Shichiri bảo: "Đây không phải là tên trộm...", ông ta đã biến y thành
một người bạn. Ông lại tiếp, "... Tối thiểu theo như hiểu biết của tôi.
Tôi không biết gì cả về tha nhân -làm sao mà tôi có thể biết những người không
phải là tôi? Điều thực sự mà tôi biết là: Tôi đã tặng y tiền và y còn biết nói
lời cảm ơn tôi. Chấm hết, những sổ sách đời đã đóng lại. Y chẳng còn nợ nần gì
tôi nữa. Y đã cám ơn tôi chuyện này -đâu có ai có thể làm gì khác hơn?"
Sau khi ở tù ra, tên cướp tìm đến sư Shichiri và xin ông xuống
tóc thu nhận làm đệ tử.
Bạn có thể làm điều gì khác hơn với một người như cái ông
Shichiri này? Bạn sẽ phải trở thành một môn đệ của ông ta mà thôi. Ông ta đã cải
biến một tên đạo tặc thành một hành giả. Như một nhà luyện kim, ông ta không
bao giờ để mất một cơ hội nào. Bất cứ lúc nào có cơ hội, ông ta đều chộp lấy
-ngay cả tên trộm đạo một lần đến viếng vị thiền sư, anh ta sẽ trở lại để trở
thành một hành giả.
Tiếp xúc với một vị Thầy cũng đồng nghĩa với mình được chuyển
hoá. Có thể là bạn đến vì một lý do nào khác, mục đích chẳng phải là để thăm viếng
vị thiền sư - tên đạo tặc đâu có phải tìm đến để thăm viếng ông Thầy đâu. Ngay
cả việc dù biết rằng trong cái thảo am này có một vị Thiền sư đang trú ngụ, y
cũng chẳng cần phải bận tâm một chút nào cả. Y đến đó chỉ vì tiền; y đã rơi tỏm
vào vị Thiền sư này một cách tình cờ. Thế nhưng nếu do một tình cờ nào đó mà bạn
gặp Đức Phật, rồi bạn cũng sẽ thay đổi hoàn toàn thôi. Bạn sẽ không bao giờ còn
là con người cũ nữa.
Rất nhiều người đã có mặt ở đây như một tình cờ. Bạn đã
không hề tìm tôi, kiếm tôi, thế nhưng do một ngàn lẻ một sự tình cờ nào đó, bạn
đã đến đây. Nhưng khi đã đến đây bạn cũng rất khó để rời đi.
Một vị Thầy không hề giảng đạo, ông ta không bao giờ bảo ai
phải nên làm cái nọ cái kia. Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã từng nói, "Thiền không có
gì để nói ra, nhưng lại có rất nhiều để biểu lộ". Thiền sư Shichiri đã
khai ngộ cho tên đạo tặc này. Ông ta đã thay đổi y hoàn toàn với cái kỹ năng
thiện xảo của mình. Ông ta phải là một nhà phẫu thuật tài ba -đã thực hiện một
cuộc giải phẩu ngay trên trái tim của tên cướp ... không hề gây một tiếng động.
Ông ta đã hủy diệt y toàn diện và tái tạo y thành một con người mới hoàn toàn
mà ngay cả y cũng không hề nhận ra. Đó là phép lạ của một bậc Thầy.
Có một câu ở đâu đó trong một bộ kinh về Thiền: "Người
hiểu đạo không hề loại bỏ lỗi lầm". Khi đọc ngang qua câu này, trái tim
tôi như nhảy múa reo vui. Hãy lập lại câu kinh này cho nó thấm sâu vài tận cùng
tâm hồn bạn: Người hiểu đạo không hề loại bỏ lỗi lầm.
Một vị Thiền sư khác khi nói về cuốn kinh đã chú giải thêm:
"Không cần phải ưu tiên đi tìm kiếm chân lý bởi vì nó hiện bày khắp nơi,
ngay cả trong lỗi lầm. Thế nên ai loại bỏ lầm lỗi cũng có nghĩa là loại bỏ chân
lý."
Thật là những con người vĩ đại! Ai loại bỏ lầm lỗi là loại bỏ
chân lý. Bạn có thấy sự tuyệt vời của câu nói này không? Có thấy được quan điểm
tiến bộ, cách mạng của nó không? Thiền sư Shichiri không loại bỏ người đàn ông
kia chỉ vì y là một tên cướp, vì những lỗi lầm mà y đang phạm -bởi vì đằng sau
lầm lỗi đó là hiện hữu của thánh thiện, của thượng đế. Loại bỏ lỗi lầm thì cũng
chính là loại bỏ thượng đế. Loại bỏ lỗi lầm cũng có nghĩa là bạn loại bỏ chân
lý được ẩn dấu ở đằng sau.
Ông ta chấp nhận lỗi lầm tức là để chấp nhận chân lý. Một
khi chân lý hiện khởi, được chấp nhận, quảng bá ra, lỗi lầm tự nó sẽ tan biến.
Bạn không cần phải đánh nhau với bóng tối -đó là ý nghĩa của bức thông điệp. Rất
đơn giản, bạn chỉ việc thắp lên một ngọn đèn. Thắp lên một ngọn đèn chứ không cần
phải đánh nhau với bóng tối. Vị Thiền sư đã thắp lên một ngọn đèn ở tận bên
trong tên cướp.
Có một câu truyện giống y như câu truyện trên, nhưng mang chất
Thiền hơn, về một vị Thiền sư khác -nội dung gần giống nhau nhưng thấm đẫm Thiền
vị hơn.
Một đêm kia khi Thiền sư Taigan đang ngồi viết thư thì một
tên cướp đột nhập vào phòng ông với một chiếc gươm trần lớn sắc bén trên tay.
Nhìn thẳng vào y, vị Thiền sư hỏi: "Nhà ngươi muốn gì - tiền hay là mạng
ta?"
Bây giờ thì câu truyện có màu sắc Thiền hơn -sư Taigan đã
không hề để cho tên cướp có được một cơ hội bày tỏ ý định của y. Thiền sư
Shichiri thì còn cho y cơ hội để nói lên điều yêu cầu: Một tên cướp với chiếc
gươm bén đột nhập vào phòng đòi ông phải đưa tiền nếu không sẽ mất mạng. Taigan
thì đã cải thiện tình huống ngay từ đầu. Có thể là sư đã rút ra được từ câu
truyện của Shichiri
-mà chắc hẵn là sư đã đọc qua. Sư đã không cho tên cướp một
cơ hội nào. Ông bảo ngay tên cướp, "Nhà ngươi muốn gì - tiền hay là mạng
ta? Cả hai đều không thành vấn đề - bất cứ ngươi muốn cái gì, ngươi cứ việc thực
hiện. Ngươi có quyền lựa chọn."
"Tiền!", tên cướp trả lời với một thoáng sợ hãi.
Cái tên cướp này -có lẽ trong đời chưa hề trông thấy một con
khủng long như thế- khi thấy Taigan thản nhiên, 'Nhà ngươi muốn gì - tiền hay
là mạng của ta?" Thì ta sẵn sàng để cho mà: "Ngươi có quyền chọn lựa."
Không lên án, không một chút gì đại loại như thế. Ngay cả việc nếu y muốn tước
đi mạng sống của sư, thì cứ việc -Taigan cũng cho luôn chẳng chút bận tâm.
Tất cả rồi cũng sẽ bị tước ra khỏi tay bạn, tốt nhất là hãy
cho đi. Hôm nay hay ngày mai, ngay cả đời sống của bạn cũng tan biến đi -thế
thì tại sao phải lo lắng vì nó? Thần chết đang gỏ cửa đời: hãy cho tên cướp này
một niềm vui...
"Tiền!", tên cướp trả lời với một thoáng sợ hãi. Vị
Thiền sư móc túi lấy chiếc ví trao cho y: "Đây này, lấy đi!", rồi tiếp
tục trở lại bàn viết nốt bức thư dở dang như không hề có chuyện gì xảy ra.
Tên cướp rời khỏi phòng cảm thấy bất ổn, nếu không nói là
kinh hoàng. "Này bạn! Hãy hượm!" vị Thiền sư chợt kêu lên. Tên cướp
ngoái lại, một thoáng rùng mình. "Này, khép lại dùm ta cánh cửa," vị
Thiền sư bảo.
Vài hôm sau thì tên cướp bị bắt và thú nhận với cảnh sát,
"Tôi hành nghề cướp bóc này lâu lắm rồi, nhưng chưa có lần nào cảm thấy
kinh khủng khi nghe vị Thiền sư Phật giáo gọi giật tôi lại, "Này bạn! Hãy
hượm!" Cái ông này mới cực kỳ nguy hiểm, tôi không thể nào quên ông ta cho
được. Và cái ngày mà tôi được phóng thích khỏi nhà tù, tôi sẽ đi kiếm ông ấy.
Trong đời tôi chưa bao giờ bắt gặp một người như thế -phẩm chất tuyệt vời! Tôi
đang cầm một chiếc gươm bén trong tay, thế nhưng chẳng là gí cả đối với ông ta.
Ông ấy mới thực là một chiếc gươm bén."
Chỉ với một vài tiếng -"Này bạn! Hãy hượm!" - và
tên cướp thú nhận, "Tôi vẫn còn run."
Khi bạn đến gần một vị Thầy, ông ta sẽ là người giết bạn.
Làm thế nào mà bạn lại có thể giết ông ta được? Cho dù bạn mang một lưỡi gươm
trần sắc bén ở trong tay, bạn cũng không thể nào giết được một vị Thiền sư.
Vị Thiền sư sẽ là người giết bạn. Và ông ta sẽ giết bạn một
cách hết sức vi tế khiến bạn không thể nào nhận ra là mình đã bị giết chết. Bạn
chỉ nhận ra khi được tái sanh. Bỗng nhiên một hôm nào đó bạn thấy mình không
còn là con người cũ nữa. Bỗng nhiên một hôm nào đó con người già cỗi của bạn biến
mất. Một hôm nào đó tất cả đều trở nên trẻ trung và mới tinh khôi -chim chóc lại
bắt đầu ca hát và những lộc non đâm chồi trong cây đời bạn. Giòng sông tù đọng
bao lâu nay bắt đầu tuôn chảy trở lại, bạn đang băng băng tuôn mình ra biển cả.
Một câu chuyện khác.
Một vị Thiền sư đã bị tống giam vào tù rất nhiều lần... Bây
giờ thí câu chuyện đi một bước xa hơn! Người ta thây những ông Thiền sư thường
là những người lập dị, có khi khùng khùng hay dở hơi -tuy nhiên họ lại làm những
chuyện tuyệt vời.
Một vị Thiền sư đã bị tống giam vào tù rất nhiều lần... Đây
không phải là chuyện tha thứ một tên trộm hay là chuyện một ông sư hổ mang mà
là chuyện của một người tự động vào tù. Không phải một lần mà là rất nhiều lần
-về tội ăn cắp vặt những người hàng xóm. Những người láng giềng chung quanh
chùa đều biết rõ chuyện này và quả tình họ rất bối rối: Tại sao ông thầy này lại
đi ăn cắp, mà chỉ toàn ăn cắp vặt? Và cứ mỗi lần được thả ra, ông ta lại đi ăn
cắp và rồi bị tống vào tù trở lại. Đến độ những ông quan toà cũng cảm thấy lo lắng.
Thế nhưng họ buộc phải tống ông vào khám vì lần nào ông cũng thú nhận tội lỗi.
Không bao giờ ông ta trả lời: "Tôi chẳng hề ăn cắp".
Cuối cùng tất cả láng giềng đã phải nhóm họp lại và đặt vấn
đề với ông, "Bạch Thầy, Đừng có đi ăn cắp nữa. Thầy càng ngày càng già rồi
và chúng tôi sẵn sàng chu cấp, cúng dường cho Thầy tất cả những gì mà Thầy cần
đến -tất cả những gì cần thiết, bất cứ cái gì. Làm ơn đừng có ăn cắp nữa! Chúng
tôi rât đổi lo lắng, và rất buồn. Tại sao Thầy lại cứ tiếp tục làm cái chuyện
này mãi thế?
Vị sư già liền cả cười, "Tôi đi ăn cắp là vì muốn được
tiếp cận với những tù nhân ở trong khám, đem thông điệp tâm linh đến với tâm hồn
họ. Ai là người sẽ giúp họ đây? Ở ngoài này, qúy vị thiếu gì những ông thầy.
Nhưng ở trong khám kia chẳng có bóng dáng một ông thầy nào cả. Ai là người giúp
đỡ họ, làm ơn cho tôi biết? Đây là phương cách duy nhất mà tôi có thể vào được
trong tù để giúp đỡ họ. Thế nên khi hạn tù của tôi chấm dứt và tôi bị tống ra
ngoài, tôi đã phải ăn cắp cái gì đó để được nhốt vào tù trở lại. Tôi sẽ tiếp tục
công chuyện này. Và tôi đã tìm thấy biết bao nhiêu tâm hồn đẹp đẽ ở trong tù,
những tâm hồn trong trắng vô tội -nhiều khi rất mực hồn nhiên..."
Có một lần, một người bạn của tôi trở thành thống đốc của một
tiểu bang tại Ấn Độ và ông ta đã cho phép tôi vào thăm viếng các nhà tù trong địa
phận của ông. Tôi đã lui tới các khám đường này trong nhiều năm và quả tình tôi
rất đổi ngạc nhiên. Những người ở trong những trại tù này còn trong trắng hồn
nhiên hơn cả những chính khách tại Tân Đề Li, hơn cả những kẻ giàu có trưởng giả,
hơn cả những người được tôn xưng là những ông thánh.
Tôi biết hầu hết những vị thánh ở trên đất nước này. Họ còn
quỷ quyệt hơn. Tôi đã tìm thấy những linh hồn trong trắng trong những phạm nhân
này. Bây giờ thì tôi có thể hiểu được cái ý tưởng của vị Thiền sư già kia -ăn cắp,
để bị bắt, để mang đến cho họ những thông điệp tâm linh. "Tôi ăn cắp là vì
muốn được tiếp cận với những tù nhân ở trong khám, đem thông điệp của tâm linh
đến với tâm hồn họ."
Thiền không hề có một hệ thống giá trị. Thiền chỉ mang đến
cho thế giới này một điều duy nhất: hiểu biết và tỉnh thức. Sự hồn nhiên đến từ
tỉnh thức. Và hồn nhiên là hồn nhiên với cả cái xấu và cái tốt, cả hai. Hồn
nhiên là hồn nhiên một cách đơn giản -nó không biết đến một sự phân biệt nào.
Và đây là câu chuyện cuối cùng, câu chuyện về Ryokan -vị Thiền
sư mà tôi đã từng có dịp nói đến trước đây, người đã đốt cái mái nhà để cứu một
mụt măng. Ryokan là một vị Thiền sư rất mực yêu mến trẻ con. Như điều mà người
ta chờ đợi ở cá tánh của vị Thiền sư này, bản thân của ông ta cũng chẳng khác
gì một đứa trẻ. Ông ta là hình ảnh của đứa trẻ mà Chúa Giêsu đã từng nói đến.
Ông ta rất mực hồn nhiên, đến độ khó mà tin rằng có một người lại hồn nhiên như
thế. Ông ta không giảo quyệt, không khôn vặt. Ông ta hồn nhiên đến mức mà người
ta tưởng rằng ông là một tên khùng.
Ông rất thích chơi đùa với trẻ con. Từ trò chơi trốn tìm, đến
tamari, và cả đá cầu. Một buổi chiều đến phiên ông ta làm kẻ đi trốn, và ông ta
chui vào trốn kỹ trong một đống rơm ở ngoài đồng. Trời càng lúc càng tối dần và
đám trẻ sau khi không tìm thấy ông ta liền đi về nhà.
Mờ sáng hôm sau, một nông phu ra đồng để dời đống rơm đi.
Trông thấy Ryokan đang nằm ở trong đó, y thảng thốt kêu lên, "Trời đất ơi,
cái ông Ryokan này! Ông đang làm gì ở trong đó vậy?!"
Vị Thiền sư liền ra dấu, "Suỵt, Đừng có la lớn mà bọn
trẻ nó nghe thấy và kiếm ra ta bây giờ."
Thế là suốt cả đêm ông ta đã trốn trong đống rơm kia để chờ
bọn trẻ đi kiếm! Cái hồn nhiên đó chính là Thiền. Cái hồn nhiên đó là thánh thiện.
Cái hồn nhiên như thế không hề biết phân biệt giữa tốt và xấu, không hề biết
phân biệt giữa thế giới này và thế giới kia, giữa cái này và cái khác. Hồn
nhiên như thế chính là những gì mà ta gọi là như thị.
Và cái như thị này là cái cốt lõi của tôn giáo.
Xem Chương 2 - Quay về Mục lục - Quay về Mục lục
Toàn tập