Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Thiền – Con Đường Của Nghịch Lý – Osho
Bài nói về Thiền
Tập 1
Chương 4. Học từ bầy công
Câu hỏi thứ nhất:
Norman O. Brown đã nói: 'Thế hệ sau cần được
bảo cho rằng tranh đấu thực không phải là tranh đấu chính trị mà là đặt sự kết
thúc cho chính trị. Từ chính trị tới siêu chính trị. Từ chính trị tới thơ ca.'
Theo cách nào mà thơ ca là nhà cách mạng?
Thơ ca không phải là
nhà cách mạng, thơ ca là cách mạng - vì thơ ca là cái nhìn sự sống khác toàn bộ.
Thơ ca là biểu dụ, hướng tới tinh thần. Thơ ca ngụ ý nhìn vào sự sống với ngạc
nhiên, nhìn vào sự sống dường như nó là điều huyền bí, nhìn vào sự sống và mở hội
nó. Thơ ca không chỉ là thơ ca, nó đang tiếp cận tới sự tồn tại bằng tình yêu.
Khoa học là cưỡng đoạt vì về căn bản lí trí là cưỡng đoạt - và thơ ca là chuyện
tình. Lí trí là hung hăng, lí trí là bạo hành; thơ ca là bất bạo hành. Lí trí
nghĩ; thơ ca cảm.
Chúng ta đã xây dựng
một thế giới quanh suy nghĩ và nó đã thất bại, nó đã thất bại hoàn toàn. Trong
thế giới văn xuôi, trong thế giới của logic là lí trí, chính khách trở thành rất,
rất quan trọng. Trong thế giới của việc cảm, trong thế giới của thơ ca, trong
thế giới của yêu, nhà huyền bí sẽ thay thế chính khách.
Lí trí là tham vọng,
nó muốn thâu tóm quyền lực. Tại sao nó muốn thâu tóm quyền lực? Tại sao nó muốn
sở hữu quyền lực? Vì sâu bên dưới nó cảm thấy bất lực; phức cảm tự ti lớn tồn tại
ngay ở đáy. Để che đậy điều đó, lí trí cố trở thành quyền lực. Bất kì cái gì được
cần để được làm - dù tốt hay xấu - lí trí sẵn sàng làm nó. Nhưng quyền lực được
cần với bất kì giá nào vì không có quyền lực sâu bên dưới người ta cảm thấy là
không ai cả, người ta cảm thấy vô thực thể. Lí trí là trò bản ngã. Để văn xuôi
là biểu tượng cho lí trí.
Thơ ca là biểu tượng
cho việc cảm. Nó mạnh trong bản thân nó tới mức nó không cần quyền lực nào khác
làm cái thay thế. Nó không chịu đựng từ phức cảm tự ti. Con người của việc cảm
là vô tham vọng. Người đó yêu vô cùng nhưng người đó không là người tích trữ.
Người đó có sự hiện diện nhưng người đó không đi tìm việc có ngày càng nhiều
hơn. Người đó không cạnh tranh - nếu người đó vô tham vọng làm sao người đó có
thể mang tính cạnh tranh? Và khi người đó vô tham vọng và không cạnh tranh, người
đó đối xử tốt với sự tồn tại. Đó là điều Phật gọi là từ bi.
Vâng, thơ ca là cách
mạng, nhưng tôi không biết liệu Norman O. Brown có biết đích xác thơ ca là gì
không vì bản thân ông ấy là nhà logic. Tôi không biết liệu ông ấy đã bao giờ trải
nghiệm thơ ca chưa. Khi ông ấy nói về thơ ca, điều đó nữa là đang nói về nó. Bạn
có thể nói về thơ ca nhưng điều bạn nói vẫn còn là văn xuôi. Người ta phải là
thơ ca, người ta phải là nhà huyền bí. Việc nói về huyền môn sẽ không giúp ích
- đó là cùng điều, không cái gì đã thay đổi. Nó là cùng bệnh với cái nhãn mới.
Có thể cái chai là mới, nhưng rượu là cũ. Đó là lí do tại sao ông ấy bỏ lỡ.
Nhìn lại phát biểu của
ông ấy mà xem. 'Thế hệ sau cần được bảo cho...' Ngôn ngữ của 'bảo cho thế hệ
sau' là ngôn ngữ của chính khách. Thế hệ sau không cần được bảo, thế hệ sau cần
được chỉ. Người ta phải trở thành nhà huyền bí, đó là phát biểu duy nhất có thể.
Không phải là thế hệ sau phải được 'bảo' vì thế thì bạn trở thành người lãnh đạo,
thế thì bạn không còn là Thầy. Khác biệt gì giữa người lãnh đạo và Thầy? Người
lãnh đạo bảo bạn làm cái gì, Thầy hiện hữu. Thầy chỉ cho bạn cách hiện hữu.
Brown nói: ''Thế hệ
sau cần được bảo cho rằng tranh đấu thực không phải là tranh đấu chính trị...'
Nhưng nó vẫn còn là tranh đấu. Ngôn ngữ vẫn là của hung hăng; ngôn ngữ vẫn là của
cưỡng đoạt, không của yêu. Những điều này chỉ ra. Đây là chỗ sơ hở. Người ta phải
đọc giữa các dòng chỉ thế thì bạn sẽ hiểu. Lại tranh đấu sao? Chính từ 'tranh đấu'
là xấu.
Và ông ấy nói:
''Tranh đấu thực không phải là tranh đấu chính trị...' Nhưng bất kì tranh đấu
nào đều sẽ là chính trịnh; tranh đấu như vậy là chính trị. Chống lại điều bạn
tranh đấu không tạo ra khác biệt, bạn sẽ trở thành chính khách. Nhà huyền bí
không tranh đấu, nhà huyền bí là người bỏ cuộc - nhớ điều đó. Ông ấy không phải
là chiến sĩ, ông ấy là người bỏ cuộc. Thấy cái ngớ ngẩn của mọi sự, ông ấy
thoát ra khỏi nó, ông ấy nhảy ra khỏi bánh xe. Nếu bạn tranh đấu, bạn còn ở
trong nó, bạn trở thành một phần của nó. Ngay cả trong đối lập bạn vẫn còn trong
nó. Chỉ bằng việc là đối lập với bất kì cái gì, bạn không đi ra ngoài, chỉ bằng
việc là đối lập bạn không được biến đổi. Thế thì bạn sẽ có chính trị của những
người phản chính khách, nhưng điều đó chẳng là gì.
Và nhớ, khi hai người
tranh đấu họ trở thành giống nhau. Mọi người giống nhiều với kẻ thù của họ hơn
giống bạn của họ - bạn đã không quan sát điều đó sao? Khi bạn phải tranh đấu với
ai đó bạn phải chọn cùng chiến lược, cùng kĩ thuật, cùng vũ khí, cùng cách thức.
Churchill tranh đấu với Hitler gần như trở thành Hitler. Điều đó phải xảy ra bằng
không ông ấy sẽ không thắng được Hitler. Churchill thắng Hitler vì ông ấy chứng
tỏ là nhiều tính Hitler hơn bản thân Hitler.
Kẻ thù biến đổi bạn
hoàn toàn thành người giống như bản thân kẻ thù - đó là lí do tại sao tôi nói bạn
có thể chọn bạn của bạn một cách ngu xuẩn nhưng không bao giờ chọn kẻ thù của bạn
một cách không khôn ngoan. Bạn bè không biến đổi bạn nhiều mấy nhưng kẻ thù đi
sâu, sự thù địch đi sâu. Yêu dường như rất, rất nhất thời; ghét dường như là
thường hằng. Chuyện tình xảy ra và trôi qua, tuần trăng mật chấm dứt rất sớm,
nhưng sự thù địch tiếp tục nhiều năm, nhiều thế hệ, đôi khi trong nhiều thế kỉ.
Tại sao con người có
nhiều năng lực hận hơn là năng lực yêu? Thực ra, đôi khi bạn thấy anh ta trong
yêu, đó chỉ là vì hận. Chẳng hạn, nếu Ấn Độ và Pakistan lâm vào chiến tranh, có
tình yêu lớn giữa những người Ấn Độ; họ cảm thấy được thống nhất hơn, họ cảm thấy
giống như một gia đình hơn. Thế thì người Maharashtrian không đánh nhau với người
Gujarati, thế thì người nói tiếng Hindi không chống lại người không nói tiếng
Hindi. Thế thì họ quên mọi thù nghịch, họ là một. Kẻ thù chung tạo ra một loại
tình yêu. Nhưng đó là yêu được hận thù tạo ra và khi hận thù đó không còn đó nữa
thế thì yêu này sẽ biến mất - nó là sản phẩm phụ.
Josef Stalin và
Winston Churchill và Roosevelt đã từng là kẻ thù nhưng họ trở thành bạn vì kẻ
thù chung, Hitler. Một khi người Đức đã mất rồi tình bạn của họ cũng mất. Tình
bạn đó không phải là tình bạn, nó là chuyện chính trị được sinh ra do có kẻ thù
chung. Nhớ, yêu được sinh ra từ thù nghịch không phải là yêu, nó là đồng tiền
giả. Và mọi sự thống nhất chính trị tuỳ thuộc vào nó. Bạn không được thống nhất
với ai đó, bạn được thống nhất chống lại ai đó - đó là logic của chính trị.
Nếu bạn bảo mọi người
rằng tranh đấu thực sẽ là chống lại chính trị, bạn sẽ làm cho họ thành chính trị.
Họ sẽ bắt đầu là các chính khách tranh đấu, họ sẽ bắt đầu tranh đấu chính trị -
và họ sẽ trở thành có tính chính trị. Dần dần, dần dần họ sẽ học cùng công nghệ,
cùng chiến lược, cùng cách thức, và đến lúc họ thắng họ sẽ có tính chính trị
như những người họ đã tranh đấu chống lại. Điều này đã xảy ra nhiều lần trên thế
giới tới mức nó đơn giản là ngu xuẩn mà chúng ta không nhận biết về nó.
Cái gì đã xảy ra
trong cuộc Cách mạng Nga? Người cộng sản đã tranh đấu chống lại Sa hoàng, một
trong những người cai trị bạo ngược nhất đã từng có. Tranh đấu với Sa hoàng họ
trở thành các sa hoàng. Khi họ đi vào quyền lực họ đã chứng tỏ là nguy hiểm
hơn, bạo ngược hơn, độc tài hơn bản thân Sa hoàng. Một Josef Stalin đã là nguy
hiểm như một nghìn sa hoàng. Ông ta đã giết hàng triệu người, và đã giết họ
nhân danh cách mạng. Những người đó không phải là người giầu, họ đã là người
nghèo, người vô sản. Người vô sản bị giết vì người vô sản - bạo hành tiếp tục.
Cái gì đã xảy ra? Cơ
chế này đã là gì? Tại sao Josef Stalin đã biến thành phản cách mạng? Sau khi là
một trong những nhà cách mạng vĩ đại nhất làm sao ông ta đã biến thành người phản
cách mạng? Nếu bạn tranh đấu với một sa hoàng bạn sẽ phải trở thành giống sa
hoàng; dần dần bạn sẽ học cùng ngôn ngữ. Đến lúc bạn đi vào quyền lực đó là một
sa hoàng khác đi vào quyền lực. Sa hoàng thay đổi nhưng 'tính sa hoàng' tiếp tục.
Đó là cách nó bao giờ
cũng xảy ra. Hầu như không thông minh nào được cần để chỉ ra cho bạn điều đó.
Cách mạng bao giờ cũng thất bại vì người cách mạng biến thành người phản cách mạng
khi người đó đi vào quyền lực. Người đó phải vậy, người đó không thể làm được bất
kì cái gì khác.
''Thế hệ sau cần được
bảo cho rằng tranh đấu thực không phải là tranh đấu chính trị...' Tranh đấu thực
không phải là tranh đấu chút nào, tranh đấu thực không thể là tranh đấu chút
nào. Người ta phải bỏ cuộc. Người cách mạng thực không tranh đấu với bất kì người
nào, người đó đơn giản thấy cái ngớ ngẩn của mọi sự và bỏ cuộc. Người đó nói rằng
người đó sẽ không là một phần của nó theo cách này hay cách nọ - người đó không
ủng hộ không chống đối. Điều đó là ngu xuẩn tới mức người đó thậm chí không thể
chống lại nó. Rất ít người là người cách mạng thực - một Phật là người cách mạng
thực, một Bồ đề đạt ma là người cách mạng thực, các nhà huyền bí Thiền mà tôi
đã từng nói tới là những nhà cách mạng thực. Nhưng họ đã không được coi là nhà
cách mạng, họ bị coi là kẻ trốn chạy. Ngay cả Brown sẽ nghĩ rằng họ là kẻ trốn
chạy - họ đáng phải cho chính khách cuộc tranh đấu ra trò, thế thì họ là nhà
cách mạng. Nhưng nếu bạn cho chính khách cuộc tranh đấu ra trò, bạn trở thành
chính khách - chính khách này bị đánh bại nhưng chính khách khác đi vào quyền lực.
Và, một cách tự nhiên, người đi vào quyền lực là mạnh hơn người đã bị đánh bại.
Quyền lực liên tục chuyển vào trong những bàn tay tinh ranh hơn và nguy hiểm
hơn.
Tôi nói gì? Tôi nói rằng
tranh đấu thực không phải là tranh đấu chút nào. Những người rất dũng cảm được
cần để trở thành người bỏ cuộc. Nếu nhiều, nhiều người trở thành người bỏ cuộc
thế giới sẽ thay đổi - không có cách khác. Tôi ủng hộ tất cả cho người bỏ cuộc.
Đủ cách mạng và đủ nhà cách mạng rồi! Họ đơn giản liên tục cho hi vọng. Họ chỉ
là củ cà rốt treo lủng lẳng trước bạn. Bạn không bao giờ có thể chộp được củ cà
rốt, nó liên tục di chuyển. Nó như đường chân trời cứ lùi xa - bạn liên tục chạy
xô theo nó và nó liên tục rời xa, và khoảng cách vẫn còn như cũ.
Brown nói: 'Từ chính
trị tới siêu chính trị.' Nó vẫn còn là chính trị. Ông ấy gọi nó là siêu chính
trị nhưng chỉ đổi tên chẳng cái gì được thay đổi. Nếu bạn hỏi tôi, tôi sẽ nói:
'Từ chính trị tới vô chính trị' - không siêu chính trị. Từ chính trị tới vô
chính trị - chỉ thế thì bạn sẽ đi từ chính trị tới thơ ca.
Thơ ca là phúc lành.
Thơ ca không quan tâm theo bất kì cách nào tới bất kì cấu trúc nào - xã hội,
chính trị, kinh tế. Thơ ca quan tâm tới sự tồn tại, thơ ca quan tâm tới sự sáng
tỏ của cái nhìn, thơ ca quan tâm tới trạng thái thiền của tâm thức. Với thơ ca
bạn phải trở nên có tính thiền, bạn phải trở thành mở hội nhiều hơn, bạn phải học
nhảy múa nhiều hơn, ca hát nhiều hơn, bạn phải học ngôn ngữ của niềm vui, bạn
phải trở nên nhạy cảm hơn. Bạn phải trở nên sống động hơn trong các giác quan của
bạn - mắt bạn phải nhìn thấy nhiều hơn, tai bạn phải nghe thấy nhiều hơn, tay bạn
phải chạm nhiều hơn. Bạn phải lại trở nên hoang dã hơn chút ít. Bạn phải học từ
bầy công cách múa, bạn học lại từ chim cách hót điên dại, bạn phải học từ núi
và sông và cát.
Để có tính thơ ca người
ta cần là tự nhiên; chính trị là nhân tạo. Thơ ca là rơi trở lại tự nhiên, là
làm mất bản thân bạn trở lại trong tự nhiên. Thơ ca làm tan biến con người bạn
vào trong cái gì đó lớn hơn bạn.
Vâng, thơ ca là cách
mạng - và đó là điều tôi đang dạy bạn ở đây. Là nhà thơ đi. Tôi không ngụ ý trở
thành một Shakespeare hay một Kalidas hay một Rabindranath... không, tôi không
ngụ ý điều đó. Khi tôi nói 'là nhà thơ' tôi ngụ ý trở thành phật - vì bất kì
cái gì bạn gọi là thơ ca chỉ là thoáng nhìn về thơ ca vĩ đại đó mà tôi đang nói
tới, chỉ một thoáng nhìn, một mảnh. Điều một Rabindranath đi tới thấy chỉ là một
thoáng nhìn; nó giống như các đỉnh Himalaya xa xăm, xa xa, xa hàng nghìn dặm.
Nhà thơ có thoáng nhìn về nó nhưng Phật sống ở đó trên những đỉnh đó.
Rabindranath tạo ra
thơ ca, Phật là nhà thơ. Khác biệt này là mênh mông. Phật có thể không tạo ra
thơ ca - khi bạn là nhà thơ ai bận tâm? Rabindranath tạo ra thơ ca. Ông ấy có những
khoảnh khắc đẹp thế, những khoảnh khắc chói sáng tới mức khi ông ấy quay lại thế
gian chúng còn nấn ná - như nỗi hoài niệm, kí ức dịu dàng, hương thơm. Và ông ấy
muốn đưa nó vào trong lời vì sợ rằng ông ấy quên. Những khoảnh khắc đó là hiếm
hoi, chúng thỉnh thoảng mới xảy ra - bằng không nhà thơ là người thường như bạn
vậy, ông ấy có tính chính trị như bạn vậy. Những khoảnh khắc đó là ít và thưa
thớt ở giữa; chỉ hiếm hoi ông ấy được mang đi xa vào linh ảnh. Nhưng Phật sống ở
đó, Bồ đề đạt ma cư ngụ ở đó. Với Rabindranath thơ ca là mọi hoạt động, với Phật
nó là bản thân sự sống. Rabindranath làm thơ, Phật thở nó.
Cho nên khi tôi nói
trở thành nhà thơ tôi ngụ ý trở thành chư phật, bắt đầu sống trong một loại cảnh
quan khác toàn bộ. Lắng nghe tim nhiều hơn đi, lắng nghe đầu ít hơn đi. Chính
trong đầu mà một Josef Stalin và một Adolf Hitler được tạo ra. Phật đang ngồi
trong tim bạn, trong chỗ thầm kín bên trong nhất của tim bạn. Đi tới đó đi. Di
chuyển im lặng vào bên trong.
Nếu nhiều, nhiều người
là nhà thơ như Phật thế giới chắc được thay đổi - nhưng không bởi bất kì nỗ lực
trực tiếp nào, không bởi hành động trực tiếp. Hành động trực tiếp là chính trị,
hành động gián tiếp là thơ ca. Bạn không làm nó một cách trực tiếp, nó đơn giản
bắt đầu xảy ra. Vì bạn đã thay đổi bạn tạo ra rung động của thay đổi. Vì bạn sống
ở bình diện khác những người tới tiếp xúc với bạn bắt đầu nghe thấy âm thanh của
bình diện khác, họ bắt đầu nghe thấy bài ca của thế giới khác, họ bắt đầu trở
nên được khuếch tán cùng nó, họ bắt đầu mang hương thơm của bạn.
Một nhà thơ như Phật
hay Bồ đề đạt ma tạo ra hàng nghìn nhà thơ trên thế giới. Người đó trở thành chất
xúc tác. Sự hiện diện của người đó gây hứng khởi. Đó là lí do tại sao ở phương
Đông chúng ta đã ca ngợi satsanga. Satsanga ngụ ý hiện hữu trong sự hiện diện của
nhà thơ, hiện hữu trong sự hiện diện của Thầy, hiện hữu cùng Thầy người đã đạt
tới - chỉ hiện hữu cùng ông ấy, có vậy thôi. Nếu bạn đi qua khu vườn bạn thậm
chí có thể đã không chạm vào hoa nhưng khi bạn quay về nhà đột nhiên bạn thấy
hương thơm phảng phất trên quần áo bạn.
Khi bạn tới Thầy cái
gì đó bắt đầu phảng phất, cái gì đó bắt đầu lơ lửng quanh bạn. Lúc ban đầu nó rất
mơ hồ, lúc ban đầu bạn không thể chắc chắn nó là gì hay nó không là gì, nhưng một
điều là chắc chắn: cái gì đó có đó. Dần dần nó bắt đầu trở nên mỗi lúc một rõ
hơn; dần dần sự sáng tỏ nảy sinh, trong suốt hơn. Và bạn sớm thấy bản thân bạn
lắng đọng trong một chiều hiện hữu khác toàn bộ.
Câu hỏi thứ hai:
Tôi không thể hiểu được hiện tượng này của
việc nói của thầy ngay cả việc nói của thầy mà thầy đã không thốt ra cho dù một
lời. Osho ơi, làm sao điều đó là có thể được?
Một bài thơ Thiền:
Bóng tre
quét cầu thang
cả đêm dài
không hạt bụi bị khuấy động.
Ánh trăng xuyên
tới đáy ao
vậy mà trong nước
không một vết bỏ lại.
Câu hỏi thứ ba:
Chứng ngộ là gì?
Chứng ngộ là tìm thấy
rằng chẳng có gì để tìm thấy. Chứng ngộ là đi tới biết rằng không có chỗ nào mà
đi. Chứng ngộ là việc hiểu rằng thế này là tất cả, rằng thế này là hoàn hảo, rằng
thế này là nó. Chứng ngộ không phải là việc đạt tới, nó là việc hiểu rằng không
có gì để đạt tới, không chỗ nào mà đi. Bạn đã ở đó - bạn chưa bao giờ ở xa, bạn
không bao giờ có thể ở xa khỏi chỗ đó. Thượng đế chưa bao giờ bị bỏ lỡ. Có thể
bạn đã quên, có vậy thôi. Có thể bạn đã rơi vào giấc ngủ, có vậy thôi. Có thể bạn
đã lạc trong nhiều, nhiều giấc mơ, có vậy thôi - nhưng bạn ở đó. Thượng đế là
chính con người bạn.
Cho nên điều thứ nhất
là: không nghĩ về chứng ngộ như mục đích, nó không là vậy. Nó không là mục
đích, nó không là cái gì đó mà bạn có thể ham muốn. Và nếu bạn ham muốn nó, bạn
sẽ không có được nó. Trong ham muốn cả nghìn lẻ một thứ, dần dần bạn đi tới hiểu
rằng mọi ham muốn là vô tích sự. Từng ham muốn đưa bạn vào thất vọng, từng ham
muốn ném đi ném lại bạn vào cống rãnh.
Điều này đã từng xảy
ra trong hàng triệu năm nhưng bạn lại bắt đầu hi vọng, bạn lại bắt đầu nghĩ rằng
ham muốn mới này, cái đang nảy sinh, đang mọc ra trong bạn sẽ có thể dẫn bạn tới
thiên đường, rằng ham muốn mới này sẽ cho bạn điều bạn đã từng khao khát, sẽ
đáp ứng cho bạn. Hi vọng nảy sinh đi nảy sinh lại. Chứng ngộ là khi mọi hi vọng
biến mất. Chứng ngộ là việc biến mất của hi vọng.
Đừng bị rối trí khi
tôi nói rằng chứng ngộ là trạng thái vô hi vọng - nó không phải là phủ định. Hi
vọng không nảy sinh thêm nữa, ham muốn không còn được tạo ra thêm nữa, tương
lai biến mất. Khi không có ham muốn, không có nhu cầu về tương lai. Vải vẽ
tương lai được cần tới cho ham muốn. Bạn vẽ ham muốn của bạn trên vải vẽ tương
lai. Khi không có gì để vẽ tại sao bạn phải mang vải vẽ một cách không cần thiết?
Bạn bỏ nó. Khi không có gì để vẽ tại sao bạn phải mang cọ vẽ và ống mầu? Chúng
tới từ quá khứ. Vải vẽ tới từ tương lai và mầu và cọ và kĩ thuật và mọi thứ tới
từ quá khứ. Khi bạn không định vẽ bạn vứt vải vẽ, bạn vứt cọ, bạn vứt ống mầu -
thế thì đột nhiên bạn ở đây bây giờ.
Đây là điều tôi đã
nói hôm nọ - chittakshana (sát na nhận biết). Đây là điều Phật gọi là
chittakshana - khoảnh khắc của nhận biết, khoảnh khắc của ý thức. Khoảnh khắc của
ý thức này có thể xảy ra bất kì khoảnh khắc nào, không có thời gian đặt biệt
cho nó, không có tư thế đặc biệt cho nó, không có chỗ đặc biệt cho nó - nó có
thể xảy ra trong đủ mọi loại tình huống, nó đã xảy ra trong mọi loại tình huống.
Mọi điều được cần là ở chỗ trong một khoảnh khắc phải không có ý nghĩ, không
ham muốn, không hi vọng. Trong một khoảnh khắc đó, tia sét...
Một hôm Chikanzenji
đang cắt cỏ dại quanh chiếc am đổ nát. Khi ông ấy ném đi một mảnh ngói vỡ nó chạm
lách cách vào cây tre. Đột nhiên ông ấy chứng ngộ.
Và rồi thì ông ấy
hát:
Khi nghe tiếng lách cách của ngói vỡ
mọi điều ta đã học bị quên ngay.
Sửa bản tính ta là không cần thiết.
Theo đuổi nhiệm vụ của mọi ngày
ta bước theo con đường cổ.
Ta không chán nản trong trống rỗng vô tâm.
Bất kì chỗ nào ta đi, ta không để lại dấu
chân
vì ta không ở trong mầu sắc hay âm thanh.
Người chứng ngộ ở mọi nơi đã nói:
'Như thế như thế này là đạt tới.'
Sư đáng thương này,
Chikanzenji, đã từng làm việc trong ít nhất ba mươi năm. Ông ấy đã là người tìm
kiếm cần mẫn, ông ấy đã là người tìm kiếm rất, rất chân thành và chân thực và
nghiêm chỉnh. Ông ấy đã thực hành mọi điều được bảo cho ông ấy, ông ấy đã tới
thăm nhiều Thầy, ông ấy đã sống trong nhiều thiền viện. Ông ấy đã làm mọi điều
con người có thể làm. Ông ấy đã thực hành yoga, ông ấy đã thực hành toạ thiền,
ông ấy đã làm cái này và cái nọ - nhưng tất cả chẳng đi tới đâu. Không cái gì
đã xảy ra; thực ra, thất vọng của ông ấy đã tăng lên ngày càng nhiều. Các
phương pháp càng thất bại, ông ấy càng trở nên thất vọng hơn.
Ông ấy đã đọc mọi
kinh sách Phật giáo - có hàng nghìn kinh sách. Người ta nói về Chikanzenji này
rằng ông ấy có mọi kinh sách trong phòng mình và ông ấy thường xuyên đọc suốt
ngày đêm. Và trí nhớ của ông ấy là hoàn hảo thế, ông ấy có thể trích đọc toàn
thể kinh sách - nhưng dầu vậy chẳng cái gì xảy ra.
Thế rồi một hôm ông ấy
đốt toàn thể thư viện của mình. Nhìn những kinh đó cháy trong lửa ông ấy cười.
Ông ấy bỏ thiền viện, ông ấy bỏ guru, và ông ấy đi sống trong am đổ nát. Ông ấy
quên mọi điều về thiền, ông ấy quên mọi điều về yoga, ông ấy quên mọi điều về
thực hành cái này và cái nọ, ông ấy quên mọi điều về đức hạnh, sheela, ông ấy
quên mọi điều về kỉ luật và ông ấy không bao giờ đi vào trong đền chùa để tôn
thờ Phật.
Nhưng ông ấy đã sống
trong am đổ nát đó thì điều đó đã xảy ra. Ông ấy đang dọn cỏ dại quanh am - làm
thứ chẳng tôn giáo gì mấy, không cái gì đặc biệt, chỉ nhổ cỏ dại. Khi ông ấy
ném đi viên ngói vỡ nhỏ, nó chạm lách cách vào cây tre - trong khoảnh khắc đó
chittakshana, khoảnh khắc của nhận biết, đã xảy ra. Trong chính tiếng lách cách
của ngói đập vào tre, cú sốc, giật mình đã xảy ra và tâm trí ông ấy đã dừng lại
một khoảnh khắc. Trong chính khoảnh khắc đó ông ấy đã trở nên chứng ngộ.
Làm sao người ta có
thể trở nên chứng ngộ trong một khoảnh khắc, người ta có thể chứng ngộ, vì người
ta đã được chứng ngộ rồi - người ta chỉ phải nhận ra sự kiện này. Nó không phải
là cái gì đó xảy ra từ bên ngoài, nó là cái gì đó nảy sinh từ bên trong. Nó bao
giờ cũng có đó nhưng bạn bị che mờ, bạn đầy những ý nghĩ.
Chikanzenji đã đốt mọi
kinh sách. Điều đó đã là biểu tượng. Bây giờ ông ấy không còn nhớ bất kì cái
gì, bây giờ ông ấy đã quên mọi tìm kiếm, bây giờ ông ấy không còn quan tâm.
Không quan tâm ông ấy đã sống cuộc sống rất bình thường - ông ấy thậm chí không
còn là sư. Ông ấy đã không có giả vờ nào nữa, ông ấy đã không có mục đích bản
ngã nào nữa. Nhớ, có hai loại mục đích bản ngã: một, thế gian, và cái kia, thế
giới khác. Một số người đang tìm kiếm tiền; một số người đang tìm kiếm quyền,
danh, thế lực; một số người đang tìm kiếm Thượng đế, moksha, niết bàn, chứng ngộ
- nhưng việc tìm kiếm tiếp tục. Và ai đang tìm kiếm? Cùng bản ngã đó. Khoảnh khắc
bạn bỏ việc tìm kiếm bạn cũng bỏ bản ngã này. Khoảnh khắc không có việc tìm,
người tìm không thể tồn tại.
Quán tưởng sư đáng
thương này - người - không còn là sư nữa - sống trong cái am đổ nát. Ông ấy
không có nơi nào khác để đi, ông ấy chỉ đang dọn sạch nền đất - có thể để vài cỏ
dại ở đó làm rau hay cái gì đó. Ông ấy bắt gặp mảnh ngói, ném nó đi, đã nhặt nó
một cách không nhận biết.
Mảnh ngói va lách
cách vào tre và với tiếng lách cách bất thần, ông ấy đã trở nên chứng ngộ.
Và ông ấy nói:
Khi nghe tiếng lách cách của ngói vỡ
mọi điều ta đã học bị quên ngay.
Chứng ngộ là quá
trình dỡ bỏ. Nó là dốt nát hoàn toàn. Nhưng dốt nát đó là rất chói sáng và tri
thức của bạn là rất mờ xỉn. Dốt nát đó là rất sống động và chói sáng và tri thức
của bạn là rất tối và chết.
Ông ấy nói: mọi điều
ta đã học bị quên ngay. Trong khoảnh khắc đó ông ấy chẳng biết cái gì, trong
khoảnh khắc đó không có người biết, trong khoảnh khắc đó đã không có người quan
sát, chỉ có âm thanh này. Và người ta được thức tỉnh khỏi giấc ngủ dài.
Và ông ấy nói: Sửa bản
tính ta là không cần thiết. Ngày đó ông ấy đã cảm thấy rằng ông ấy đã vật lộn một
cách không cần thiết. Sửa bản tính ta là không cần thiết. Bạn không cần sửa bản
thân bạn, bạn không cần hoàn thiệu bản thân bạn - điều đó toàn chỉ là chuyện vớ
vẩn.
Cảnh giác với tất cả
những người liên tục bảo bạn hoàn thiện bản thân bạn, trở thành cái này hay trở
thành cái nọ, trở nên đức hạnh; người liên tục bảo bạn rằng cái này là sai, đừng
làm nó, rằng cái này là tốt, làm nó đi, rằng cái này sẽ dẫn bạn tới cõi trời và
cái này sẽ dẫn bạn tới địa ngục. Những người liên tục bảo bạn chỉnh sửa bản
tính của bạn và cải thiện bản thân bạn là những người rất nguy hiểm. Họ là một
trong những nguyên nhân cơ bản cho việc không được chứng ngộ của bạn. Bản tính
không thể được chỉnh sửa, nó phải được chấp nhận. Không có cách nào để là khác
đi. Dù bạn là bất kì ai, dù bạn là bất kì cái gì, đó là cách bạn là vậy, đó là
cách bạn hiện hữu, đó là điều bạn là gì. Đó là việc chấp nhận vĩ đại - Phật gọi
nó là tathata, chấp nhận vĩ đại. Không cái gì có đó là bị thay đổi.
Làm sao bạn có thể
thay đổi được nó và ai sẽ thay đổi nói? Nó là bản tính của bạn và bạn sẽ cố
thay đổi nó! Điều đó sẽ chỉ như con chó săn đuổi đuôi riêng của nó. Chó sẽ phát
rồ. Nhưng chó không ngu như con người. Con người liên tục săn đuổi đuôi riêng của
mình và anh ta càng thấy điều đó là khó, anh ta càng nhảy nhiều hơn và anh ta
càng cố nhiều hơn và anh ta trở nên mỗi lúc một kì quái hơn.
Không cái gì phải được
thay đổi vì mọi thứ là đẹp. Đó là chứng ngộ. Mọi thứ là như nó phải vậy, mọi thứ
là hoàn hảo, đây là thế giới hoàn hảo nhất, khoảnh khắc này không thiếu cái gì
- kinh nghiệm về điều này là điều chứng ngộ là gì.
Câu hỏi thứ năm:
Thầy đã nói nó chỉ ngay trước mắt bạn. Có
thực nó là ở xa không?
Không thực đâu. Tôi
đã nói điều đó chỉ để thuyết phục bạn.
Tôi đã nghe...
Mulla Nasruddin nói với
con trai anh ta và anh ta bảo nó lần nữa - sau khi bảo nó nhiều lần trước - rằng
anh ta đi tới Nam Phi anh ta đã giết mười sư tử ở đó.
Và đứa con nói,
'Nhưng bố ơi, mới năm ngoái bố đã nói rằng chỉ còn năm sư tử, và giờ bố đã thay
đổi. Giờ bố nói đã có mười con.'
Mulla nói, 'Ừ, bố biết.
Bố đã bảo con năm ngoái rằng đã có năm con vì con còn chưa đủ lớn để tin nhiều
hơn. Năm sau bố sẽ bảo con rằng có mười lăm con sư tử vì bố chỉ bảo con đến chừng
con có thể tin được.'
Vâng, tôi đã nói với
bạn điều đó chỉ ngay trước mắt bạn, nhưng chỉ vì nói nhiều hơn sẽ là rất khó
cho bạn tin.
Thực ra, nó không ở
trước mắt bạn đâu, nó ở đằng sau mắt bạn. Thực ra, bạn không thể thấy được nó
vì nó là người thấy. Thượng đế không thể được thấy, Thượng đế là người thấy
trong bạn, Thượng đế là người đang nhìn qua bạn - làm sai bạn có thể thấy được
Thượng đế? Nó không ở trước mắt bạn, nó ở ngay sau mắt bạn.
Nhưng điều đó sẽ là
quá khó ngay bây giờ cho nên tôi đi chậm, tôi thuyết phục bạn, tôi nói nó chỉ ở
ngay trước mắt bạn. Không, nó thậm chí không xa đến thế. Không có khoảnh cách
giữa bạn và nó. Tattwamasi - cái đó là ngươi.
Câu hỏi thứ sáu:
Tại sao Thiền là nghịch lí?
Vì sự sống là nghịch
lí và Thiền đơn giản là phản chiếu gương của sự sống. Thiền không là triết lí.
Triết lí không bao giờ
là nghịch lí, triết lí rất logic - vì triết lí là công trình xây dựng của tâm
trí. Con người làm ra chúng. Chúng được con người chế tạo ra. Chúng do con người
làm ra, được thích ứng, được thu xếp về logic, được thu xếp thuận tiện để cho bạn
có thể tin vào chúng. Mọi phần đi ngược lại công trình xây dựng này phải bị bỏ
đi, phải bị nhổ bật rễ ra, vứt đi. Triết lí không phản ánh sự sống như nó vậy;
chúng được chọn ra từ sự sống. Chúng không thô, chúng là những công trình xây dựng
có văn hoá.
Thiền là nghịch lí vì
Thiền không là triết học. Thiền không quan tâm về sự sống là gì, Thiền quan tâm
rằng bất kì cái gì cũng phải được phản chiếu như nó vậy. Người ta phải không chọn,
vì khoảnh khắc bạn chọn nó trở thành không thực. Chọn mang tới phi chân lí.
Không chọn, vẫn còn vô chọn lựa đi - và bạn vẫn còn thực.
Nhưng đó là điều bạn
làm: bạn rơi vào yêu người đàn bà và bạn bắt đầu chọn. Bạn sẽ sớm lâm vào rắc rối.
Bạn không thấy người đàn bà này như cô ấy vậy, bạn chỉ thấy cái là tốt và bạn
không chú ý tới mọi cái không tốt. Có cả nghìn lẻ một điều trong cô ấy - vài điều
là tốt, vài điều là xấu, đó là cách mọi người được làm ra. Thượng đế không bao
giờ làm ra người tốt chung chung - họ sẽ rất đờ đẫn và chết, họ sẽ không có bất
kì xương sống nào, họ sẽ lạnh lùng. Ông ấy làm ra người sống động. Và từng người
có cái gì đó mà bạn thích và cái gì đó mà bạn không thích - vì người đó đã
không được điều chỉnh đặc biệt cho bạn, người đó đã không được làm ra cho bạn,
người đó đã không bắt nguồn từ dây chuyền lắp ráp trong cơ xưởng. Người đó là
duy nhất. Người đó là bản thân người đó.
Khi bạn rơi vào yêu
người đàn bà, bạn bắt đầu chọn. Bạn không để ý tới nhiều thứ. Vâng, đôi khi bạn
cảm thấy cô ấy giận nhưng bạn không nhận thấy điều đó, bạn không chú ý gì tới
điều đó. Bạn chỉ thấy nữ Thượng đế, bạn không thấy mụ phù thuỷ. Mụ phù thuỷ có
đó. Không nữ Thượng đế nào có thể tồn tại mà không là mụ phù thuỷ bằng không
thì nữ Thượng đế chắc sẽ không đáng gì. Cô ấy sẽ quá tốt không thể được tận hưởng,
quá tốt không được yêu. Và bạn không muốn tôn thờ đàn bà, bạn muốn yêu đàn bà.
Bạn muốn đàn bà là con người chứ không là nữ Thượng đế.
Nhưng đó là điều bạn
làm. Bạn giả vờ, bạn không thấy bất kì nhân tố phủ định nào. Bạn bắt đầu chọn.
Bạn tạo ra hình ảnh về người đàn bà mà là giả, mà là không thực. Sớm hay muộn bạn
sẽ bắt đầu cảm thấy thất vọng vì sớm hay muộn thực tại của người đàn bà sẽ đi
ngược lại hình ảnh mà bạn đã tạo ra. Và thế thì bạn bắt đầu cảm thấy dường như
bạn đã bị lừa và bị gian dối, dường như người đàn bà này đã cố ý lừa bạn. Không
ai đã lừa bạn. Bản thân bạn là người viết ra toàn thể vở kịch của bạn. Bạn đã
xoay xở để lừa dối bản thân bạn vì bạn bắt đầu chọn. Bạn đã không thấy người
đàn bà này như cô ấy vậy, theo cách gương phản chiếu cô ấy. Vâng, đã có những
điều đẹp nhưng đã có cả những điều xấu nữa - vì đẹp không bao giờ tồn tại mà
không có xấu và xấu không bao giờ tồn tại mà không có đẹp. Chúng tồn tại cùng
nhau. Chúng là hai mặt của cùng một đồng tiền.
Đôi khi người đàn bà
này thực sự ngọt ngào và đôi khi cô ấy thực sự cay đắng. Nếu bạn mà nhìn vào cả
hai chắc điều đó sẽ là khó cho bạn vì đây là điều nghịch lí, điều này không khớp
với logic Aristotel, điều này dường như phi logic - làm sao người đàn bà có thể
là cả hai? Lúc thì cô ấy yêu bạn và lúc thì cô ấy ghét bạn; thực ra, yêu của cô
ấy càng sâu, ghét của cô ấy cũng đi càng sâu. Đôi khi cô ấy sẵn sàng chết vì bạn
và đôi khi cô ấy sẵn sàng giết bạn nữa. Đàn bà là năng lượng dữ dội, cùng như
đàn ông vậy.
Nhưng bạn làm ra chuyện
cổ tích. Bạn chọn vài phần và bạn bỏ vài phần và bạn tạo ra hình ảnh. Hình ảnh
đó sẽ không kéo dài. Một khi tuần trăng mật qua rồi, thực tại sẽ bắt đầu khẳng
định bản thân nó. Thực tại không thể bị đánh bại bởi tưởng tượng của bạn và bởi
việc mơ của bạn, thực tại phải được chú ý tới sớm hay muộn. Vâng, bạn có thể
trì hoãn nó trong thời gian hiện tại nhưng không mãi mãi được. Và khi thực tại
khẳng định bản thân nó...
Nó sẽ khẳng định bản
thân nó trong cuộc sống hàng ngày. Khi bạn gặp người đàn bà một ngày nào đó
trên bãi biển cô ấy là con vật khác toàn bộ. Bạn là một loại con vật nữa. Việc
gặp gỡ trong một giờ, cô ấy được chuẩn bị cho điều đó, cô ấy sẵn sàng cho điều
đó, cô ấy đã diễn tập cho điều đó, cô ấy đã từng đứng trước gương trong hàng giờ
cho điều đó. Bạn sẽ không tìm thấy cùng người đàn bà đó nếu bạn bắt đầu sống
cùng cô ấy hai mươi bốn giờ một ngày; điều không thể được vì cô ấy sẽ cứ phải sẵn
sàng và được diễn tập mãi thế. Dần dần cô ấy sẽ bắt đầu quên bạn. Cô ấy sẽ sẵn
sàng chỉ khi các bạn đi xem phim, bằng không cô ấy sẽ không bận tâm đâu.
Thế thì bạn sẽ thấy
cái gì đó khác mà không bao giờ đã có trước đây. Thế thì những điều nhỏ nhặt
trong cuộc sống, điều tầm thường, khẳng định bản thân chúng. Qua những thứ nhỏ
bé cô ấy bắt đầu tranh cãi - và bạn bắt đầu cãi nữa. Qua những thứ nhỏ bé có giận
dữ và chì chiết và đánh nhau - bạn không bao giờ thấy những điều này trên bãi
biển. Trên bãi biển bạn thấy trăng tròn và sóng. Trên bãi biển người đàn bà
không tranh cãi với bạn; bất kì cái gì cô ấy nói bạn đều nói có, bất kì cái gì
bạn nói cô ấy đều nói có. Bạn đã sẵn sàng để nói có tới mức nói không là không
thể được vào khoảnh khắc đó.
Nhưng cái không không
thể đợi mãi mãi được, nó sẽ trồi ra, nó sẽ nổi lên bề mặt. Khoảng khắc cái
không nổi lên bề mặt, hình ảnh của bạn bắt đầu vỡ tan thành từng mảnh. Thế thì
bạn nghĩ rằng người đàn bà này đã làm cái gì đó sai với bạn.
Ví dụ này không chỉ về
đàn và đàn bà, ví dụ này đã là toàn thể câu chuyện của triết lí. Từng triết lí
đều làm điều đó. Từng triết lí chọn vài thứ từ thực tại và cố vẫn còn quên đi
các thứ khác. Vì điều này, từng triết lí có các lỗ hở, từng triết lí có chỗ dò
rỉ, từng triết lí có thể bị phê phán - và phải bị phê phán. Những người tin vào
nó có thể giả vờ không thấy các lỗ hở, nhưng những người không tin vào nó chỉ
thấy các lỗ hở - họ chọn từ đầu kia. Từng triết lí đã từng bị phê phán và người
phê phán đã không sai. Nó là đúng như ý tưởng của người đề xuất về nó.
Và điều đó không chỉ
xảy ra trong triết lí, nó xảy ra trong khoa học nữa. Chúng ta tạo ra lí thuyết
nào đó và thế rồi có tuần trăng mật với lí thuyết này. Trong vài năm mọi thứ diễn
ra tốt hoàn hảo. Thế rồi thực tại khẳng định bản thân nó. Thực tại mang tới vài
điều và lí thuyết này lâm vào khó khăn vì chúng ta đã loại trừ vài sự kiện. Những
sự kiện đó sẽ phản đối, chúng sẽ phá hoại lí thuyết của bạn, chúng sẽ khẳng định
bản thân chúng. Trong thế kỉ mười tám khoa học đã tuyệt đối chắc chắn, bây giờ
nó không còn chắc chắn nữa. Bây giờ một lí thuyết mới đã tới: thuyết bất định.
Mới một trăm năm mươi
năm trước Immanuel Kant đã bắt gặp sự kiện này ở Đức. Ông ấy nói rằng lí trí là
rất giới hạn; nó dường như chỉ một phần nào đó của thực tại và bắt đầu tin rằng
đây là cái toàn thể. Điều này đã là rắc rối. Sớm hay muộn chúng ta khám phá
thêm thực tại và cái toàn thể cũ trong xung đột với cái nhìn mới. Immanuel Kant
đã nỗ lực chỉ ra rằng đã có những giới hạn không tránh khỏi cho lí trí, rằng lí
trí là rất giới hạn. Nhưng không ai dường như đã nghe, không ai đã quan tâm về
Immanuel Kant. Không ai quan tâm gì mấy về các triết gia.
Nhưng khoa học trong
thế kỉ này cuối cùng đã bắt kịp với Kant. Bây giờ Heinsenberg, trong vật lí, và
Godel, trong toán học, đã chỉ ra những giới hạn không tránh khỏi cho lí trí con
người. Họ mở ra cho chúng ta một thoáng nhìn về tự nhiên mà là phi lí và nghịch
lí tới chính cốt lõi. Bất kì cái gì chúng ta đã từng nói về tự nhiên tất cả đã
đi sai. Mọi nguyên lí đi sai vì tự nhiên không đồng nghĩa với lí trí, tự nhiên
là lớn hơn lí trí.
Và Thiền không là triết
lí; Thiền là gương, nó là việc phản chiếu của cái đang đó. Như nó vậy, Thiền
nói cùng điều. Nó không mang triết lí người làm vào trong nó, nó không có chọn
lựa, nó không thêm vào, nó không xoá đi. Đó là lí do tại sao Thiền là nghịch lí
- vì sự sống là nghịch lí. Bạn chỉ thấy và bạn sẽ hiểu.
Bạn yêu người đàn ông
và bạn ghét cùng người đàn ông đó nữa. Bây giờ, tâm trí của chúng ta nói điều
này là không tốt, chúng ta không nên làm điều đó. Cho nên bạn giả vờ rằng bạn
không làm điều đó. Nhưng việc đó là không thể được. Nếu bạn thực sự muốn bỏ phần
ghét, bạn sẽ phải bỏ cả phần yêu nữa - nhưng thế thì cả hai biến mất và trung lập
nảy sinh.
Sự nghịch lí này là ở
trong chính bản tính của nó - ngày và đêm, mùa hè và mùa đông, Thượng đế và Quỉ
là cùng nhau. Thiền nói rằng nếu bạn nói rằng Thượng đế là tốt thế thì vấn đề nảy
sinh: thế thì cái xấu tới từ đâu, quỉ tới từ đâu? Đó là điều các tôn giáo đã từng
làm - Ki tô giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo, đã tách rời Thượng đế và Quỉ. Cái ác
tới từ Quỉ và mọi cái thiện tới từ Thượng đế. Thượng đế ngụ ý cái thiện. Nhưng
Quỉ này tới từ đâu? Thế thì họ lâm vào rắc rối và thế thì chung cuộc họ phải
nhân nhượng rằng Thượng đế đã tạo ra Quỉ nữa - nhưng phỏng có ích gì mà đi theo
cách vòng vo thế? Nếu Quỉ cũng được tạo ra bởi Thượng đế thế thì Thượng đế vẫn
còn là chữ kí duy nhất lên sự tồn tại, thế thì Thượng đế vẫn còn là tác giả duy
nhất. Cho nên bất kì cái gì đang xảy ra là đang xảy ra qua ông ấy - và ông ấy là
nghịch lí. Đó là điều Thiền nói. Thượng đế là nghịch lí, nghịch lí như bản thân
sự tồn tại. Thượng đế không là gì ngoài cái tên khác cho sự tồn tại, cho tính
toàn bộ của sự tồn tại.
Một khi bạn hiểu tính
nghịch lí này, im lặng lớn nảy sinh trong bạn. Thế thì không có chọn lựa - chẳng
có vấn đề gì trong nó - thế thì mọi sự là cùng nhau. Bạn không thể trở thành
thánh nhân vì nếu bạn muốn trở thành thánh nhân bạn sẽ phải phủ nhận quỉ của bạn;
bạn sẽ phải chẻ bản thân bạn thành hai phần. Bạn sẽ phải buộc quỉ của bạn ở đâu
đó trong bụng bạn và quỉ sẽ vẫn còn ở đó và sẽ liên tục phá hoại tính thánh thiện
của bạn.
Thiền mang tới lành mạnh
lớn cho nhân loại. Nó nói bạn là cả hai. Chấp nhận cả hai đi. Đừng phủ nhận, đừng
chọn lựa; chấp nhận cả hai đi. Trong việc chấp nhận đó có siêu việt, trong
chính việc chấp nhận đó bạn không là thánh nhân không là quỉ. Đó là điều người
linh thiêng là gì - không tốt không xấu, hay cả hai. Và khi một người là cả
hai, một cách chủ ý là cả hai, những cái đối lập đó xoá bỏ lẫn nhau.
Cố hiểu điều này đi;
nó là một trong những chìa khoá nền tảng nhất. Khi bạn chấp nhận cả hai cả tốt
và xấu và bạn không chọn, cái xấu và cái tốt xoá bỏ lẫn nhau, cái phủ định và
cái khẳng định xoá bỏ lẫn nhau. Đột nhiên có im lặng, không có tốt không có xấu;
chỉ có sự tồn tại, không có phán xét. Thiền là không phán xét, nó là không kết
án, nó là không đánh giá. Nó cho bạn tự do hoàn toàn để hiện hữu.
Câu hỏi thứ sáu:
Tôi là người ngu. Tôi phải làm gì?
Bạn có thể làm được
gì? Bất kì người nào có thể làm được gì? Vẫn còn là người ngu đi, trở thành ngu
hoàn hảo.
Chấp nhận điều đó đi.
Tại sao bạn phải hỏi về làm cái gì đó? Cái gì sai trong việc là người ngu? Thảnh
thơi cùng nó đi. Tận hưởng nó. Tiếp tục tồn tại trong nó đi.
Có một phát biểu của
William Blake: Người ngu cứ tồn tại trong cái ngu của mình sẽ trở thành khôn.
Cho nên cứ tồn tại trong nó đi. Còn lại với nó. Đừng cố làm bất kì cái gì khác
vì nếu người ngu cố làm cái gì đó điều đó sẽ là ngu, nó sẽ bắt nguồn từ cái ngu
của bạn và bạn sẽ làm cái gì đó sai. Tốt hơn cả là giữ yên tĩnh. Đó là lí do tại
sao Thiền nhân nói 'Ngồi im'.
Xin đừng làm bất kì
cái gì vì bất kì cái gì bạn làm đều sẽ là sai. Bạn có thể làm gì từ cái ngu của
bạn? Người ngu cố trở thành khôn - điều đó có thể được không? Làm sao điều đó
là có thể? Người ngu cố trở thành khôn - trong chính khôn của người đó, người
đó sẽ vẫn còn là người ngu.
Bạn có thể thấy những
người ngu như thế trên khắp thế giới, và thậm chí nhiều hơn thế ở Ấn Độ. Ở đây
có những học giả lớn, bác học lớn, và nếu bạn nhìn chỉ sâu hơn chút ít bạn sẽ
thấy chỉ người ngu đang phí hoài cuộc sống của họ trong sự uyên bác vô dụng,
phí hoài năng lượng vô cùng vào chặt chẻ logic, trong ngôn ngữ, trong văn phạm,
trong cái này và cái nọ. Họ bốc mùi dầu hoả, từ việc đọc muộn trong đêm. Họ bốc
mùi của chết; sống không có đó. Những người ham đọc sách đã đánh mất mọi dấu vết
của nhựa sống của sự sống. Họ là kẻ ngu lớn với một cái ngu mới được thêm vào:
họ nghĩ rằng họ là khôn.
Không, tôi sẽ không
nói rằng bạn phải làm bất kì cái gì. Đừng làm bất kì cái gì. Bạn là người ngu -
vậy bạn là người ngu. Thượng đế muốn bạn là người ngu - tận hưởng nó đi. Cúng
dường cái ngu của bạn cho Thượng đế, đó là món quà của bạn cho ngài. Bạn có thể
cho lại ngài cái gì khác? - bất kì cái gì ngài cho, chúng ta có thể trả lại
ngài. Thảnh thơi trong cái ngu của bạn đi. Lời khuyên của tôi sẽ có vẻ kì lạ
nhưng đó là cách duy nhất để khôn nảy sinh một ngày nào đó.
Vâng, William Blake
là đúng. 'Người ngu cứ tồn tại trong cái ngu của mình sẽ trở thành khôn.'
Và tại sao bạn muốn
trở thành ai đó khác? Tại sao? Cạnh tranh này, tham vọng này, đem bản ngã vào.
So sánh này là có tính bản ngã. 'Ai đó là khôn cho nên mình phải trở thành
khôn.' Tại sao? Để ai đó là khôn đi, đó là định mệnh của người đó. Cái gì sai
trong cách thức bạn đang là vậy? Thế thì có sự đa dạng và có sự giầu có trong sự
sống vì sự đa dạng.
Trong cảnh quan mùa xuân
không có tốt hơn hay xấu hơn.
Cành nở hoa mọc tự nhiên
cái dài, cái ngắn.
Đó là quan điểm Thiền.
Bạn nhìn quanh: cây nào đó là cao, cây nào đó là thấp, cây nào đó là cây và cây
nào đó chỉ là bụi cây. Nhưng không có ganh đua ở bất kì chỗ nào. Cây vô ưu
không cố trở thành cây bách, cây bách không lo nghĩ về cây vô ưu. Cây bách
không cảm thấy thấp kém vì cây vô ưu có lá to thế. Và chẳng cây nào lo nghĩ về
cây phượng vĩ đang nở ra với nhiều hoa thế. Không ai lo nghĩ, không ai nghĩ về
kẻ khác, mọi người ở trong hiện hữu riêng của mình một cách đích thực - cây vô
ưu là cây vô ưu, cây bách là cây bách, cây phượng vĩ là cây phượng vĩ.
Bạn là bất kì cái gì
bạn đang là, bất kì cái gì bạn đang là. Thảnh thơi ở đó. Để điều đó là thiền của
bạn.
Và khôn sẽ nảy sinh.
Khôn tới từ việc chấp nhận. Khôn không phải là việc kiếm được, khôn không là
tri thức, khôn không là thông minh, khôn là phẩm chấp này của việc chấp nhận vô
cùng - rằng bạn là hạnh phúc, rằng bạn mãn nguyện.
Nghĩ về cái đẹp của
người hạnh phúc và mãn nguyện ngay cả với cái ngu của người đó. Người đó đã trở
nên khôn. Bạn cần khôn thêm gì nữa? Một người được mãn nguyện với cái ngu của
mình - bạn cần khôn thêm gì và khôn có thể làm được cái gì hơn?
Đừng cố kéo bản thân
bạn bằng dây giầy của bạn. Chỉ hiện hữu. Khoảnh khắc bạn bắt đầu nói cái gì đó
- rằng tôi muốn là cái này và tôi muốn là cái nọ - bạn đang phàn nàn, bạn đang
nói cái gì đó chống lại Thượng đế. Bạn đang nói, 'Tại sao ngài đã làm tôi theo
cách này?' Bạn đang nói với cái toàn thể, 'Đây không phải là cách tôi muốn hiện
hữu. Tại sao tôi bị buộc hiện hữu theo cách này? Làm tôi đẹp đi, làm tôi mạnh
đi, làm tôi giầu đi, làm tôi khôn đi, làm tôi thế này, làm tôi thế nọ.'
Thiền nhân nói rằng mọi
nỗ lực này là giống như muỗi cố đốt trâu sắt. Muỗi cố đốt vào trâu sắt sao? Điều
đó sẽ không xảy ra.
Nhưng dầu vậy tôi nói
rằng khôn xảy ra - không qua nỗ lực của bạn mà qua sự chấp nhận vô nỗ lực của bạn.
Không qua bạn, nhưng khi bạn không còn nữa thế thì nó xảy ra. Khôn không phải
là cái gì đó bạn có thể sở hữu, khôn là khi bạn không hiện hữu.
Dùng ngu như tình huống
để thảnh thơi. Nếu người xấu thảnh thơi và chấp nhận cái xấu của mình, cái đẹp
tinh tế nảy sinh trong người đó - cái đẹp của chấp nhận, duyên dáng tới một
cách tự nhiên. Và như vậy là hoàn cảnh với người ngu, như vậy là hoàn cảnh với
mọi vấn đề.
Sau chứng ngộ một đệ
tử đã tát vào mặt Thầy Ubako của mình, 'Sau rốt, chẳng có gì mấy trong chứng ngộ
này.'
Và Thầy hài lòng thế,
thầy múa.
Đệ tử đã tát ông ấy!
Khi các Thiền sư và đệ tử Thiền tát, họ tát thực sự đau! Nhưng Thầy hài lòng tới
mức thầy nhảy múa. Thầy đã nhảy múa vì đệ tử đã đạt tới.
Không có gì đặc biệt
trong chứng ngộ, nó chỉ là việc chấp nhận mọi cái đang vậy, chỉ là thảnh thơi
hoàn toàn trong thực tại. Nó chẳng là gì mấy, chẳng cái gì để ba hoa; chẳng có
gì để nói. Đệ tử này là đúng. Anh ta nói, 'Sau rốt, chẳng có gì mấy trong chứng
ngộ này.' Anh ta đã về tới nhà và giờ anh ta hiểu rằng anh ta bao giờ cũng ở
đây. Trí huệ này bao giờ cũng có đó nhưng anh ta đã bỏ lỡ nó vì anh ta đã đi
tìm nó. Ánh sáng này bao giờ cũng có đó nhưng anh ta đã lo nghĩ về ánh sáng tới
mức cái nhìn của anh ta đã trở thành rất, rất hẹp và anh ta đã không thể thấy
được nó. Anh ta đã tạo ra khổ riêng của mình. Phúc lạc bao giờ cũng tuôn chảy,
nước cam lồ bao giờ cũng tuôn chảy, nhưng anh ta đang làm cho bản thân anh ta
chết vì khát không cần thiết. Là không chứng ngộ chỉ là không cần thiết; được
chứng ngộ chỉ là tự nhiên. Nó không phải là việc đạt tới, nó không phải là
thành tựu.
Và thế rồi Thầy Ubako
nói với đệ tử này, 'Ông có ngửi thấy cây nguyệt quế núi không?
'Dạ có, thưa thầy.'
'Đó, Thầy nói, 'ta đã
không giữ lại bất kì cái gì từ ông.'
Nó đơn giản thế. Bạn
có nghe thấy tiếng chim hót không? Bạn có thấy những cây xanh này xung quanh
không? Vâng, nó giống điều đó, đơn giản thế.
Và Thầy nói, 'Ông có
ngửi thấy cây nguyệt quế núi không?'
'Dạ có, thưa thầy.'
'Đó,' Thầy nói, 'ta
đã không giữ lại bất kì cái gì từ ông.'
Thầy đã cho anh ta mọi
điều thầy có thể cho. Thực ra, chẳng có gì để cho. Thực ra, bạn chỉ được thức tỉnh
với điều bạn đã có. Bạn phải được thức tỉnh tới điều đó.
Câu hỏi thứ bẩy:
'Có "lực thứ tư" mới trong tâm lí
- tâm lí học xuyên nhân - điều tìm kiếm thám hiểm nhu cầu và hứng khởi đi ra
ngoài việc tự nhận ra và tâm lí nhân văn.' Assagioli nói vậy. 'Tâm lí học xuyên
nhân' và 'tâm lí học của chư phật' của thầy có đồng nghĩa không?
Chúng không thể đồng
nghĩa được.
Tâm lí học xuyên nhân
vẫn còn là tâm lí học, vẫn còn liên quan tới đối thể, nhưng tâm lí học của chư
phật không thực sự là tâm lí học vì vị phật được sinh ra khi tâm lí biến mất,
khi tâm trí biến mất.
Và tâm lí của chư phật
không mang tính đối thể, nó tuyệt đối là tính chủ thể. Nó có thể xảy ra cho bạn
nhưng bạn không thể quan sát được nó xảy ra cho ai đó khác, không có cách nào.
Bạn có thể trở thành phật nhưng bạn không thể hiểu được phật. Cho dù Assagioli
ngồi bên cạnh vị phật trong hàng nghìn năm, ông ấy sẽ không hiểu bất kì cái gì
chừng nào ông ấy chưa trở thành phật. Bạn không thể quan sát được nó, bạn không
thể theo dõi được nó từ bên ngoài vì nó hiện tượng nội bộ thế, nó sâu thế bên
trong, Nó là chính cái bên trong của con người. Mọi điều bạn thấy sẽ không là
gì ngoài quan điểm hành vi. Vâng, bạn có thể thấy rằng Phật im lặng, rằng ông ấy
dường như rất duyên dáng; bạn có thể thấy rằng ông ấy ít giận, hay không giận
chút nào; bạn có thể thấy cả nghìn lẻ một điều - nhưng dầu vậy bạn sẽ không thấy
bản thân Phật tính.
Khi tôi nói về tâm lí
của chư phật một điều phải được nhớ là ở chỗ nó không thực là tâm lí. Tôi phải
dùng lời. Không lời nào là thích hợp cho nó nhưng tôi phải dùng cùng lời -
nhưng bao giờ cũng lấy chúng với nhúm muối. Nó không thể thực sự được gọi là
tâm lí. Tâm lí hàm ý tâm trí và Phật là vô trí. Tâm lí hàm ý rằng tâm trí đang
vận hành, suy nghĩ, lập kế hoạch, lo nghĩ, tưởng tượng, mơ - và vị phật không
có mơ, không lập kế hoạch, không lo nghĩ, không suy nghĩ. Ông ấy đơn giản tồn tại.
Ông ấy tồn tại như đá, như cây, như sông - chỉ với một khác biệt, khác biệt rất
mênh mông. Khác biệt là ở chỗ ông ấy tồn tại không có tâm trí nhưng đầy nhận biết.
Nhận biết này không
thể được hiểu từ bên ngoài. Nếu bạn cố hiểu nó bạn sẽ chỉ hiểu lầm nó. Không có
cách nào kiểm nó bằng công cụ, không có cách nào. Nó sẽ không xuất hiện trên bất
kì đồ thị nào. Mọi cái có thể xuất hiện trên đồ thị vẫn còn là của tâm trí, nó
không của cõi bên kia. Cõi bên kia là bên ngoài việc hiểu thấu. Người ta phải
trở thành phật, người ta phải trở thành hồn thức tỉnh, người ta phải tự mình đi
tới nhận biết này.
Tâm lí của chư phật
là yoga, kỉ luật, cuộc hành trình bên trong, khoa học - hay bất kì cái gì bạn
muốn gọi nó - của việc biết rằng có cái gì đó bên trong bạn mà chỉ có thể được
biết qua việc đi tới đó, qua việc hiện diện ở đó. Không cách khác, không cách
tiếp cận khác nào là có thể.
Assagioli liên tục
nói... Ông ấy giỏi hơn Freud nhiều vì ít nhất ông ấy đem vào cái nhìn nào đó về
tổng hợp cho tâm lí. Freud là phân tích, phân tích là phương pháp của ông ấy.
Assagioli đem vào tổng hợp. Nhưng tổng hợp này không phải là điều Phật nói tới.
Tổng hợp này là tổng hợp đặt cạnh nhau. Cứ nghĩ về cái gì đó... Tôi chỉ cho bạn
đoá hoa hồng. Bạn lấy nó tách ra, bạn muốn biết cách nó hình thành. Bạn bứt mọi
cánh của nó rời ra. Đây là điều Freud đã làm với tâm trí con người - ông ấy đã
cắt nó rời ra. Ông ấy muốn dán nhãn cho mọi thứ, phân lớp, phân loại; ông ấy muốn
nhét vào ngăn ô mọi thứ.
Tất nhiên, khi bạn cắt
mọi phần rời ra, cái gì đó biến mất, vì cái gì đó đã có đó - cái đẹp của hoa hồng
- cái chỉ tồn tại cùng với cái toàn thể. Khi bạn cắt riêng hoa hồng ra, cái gì
đó huyền bí biến mất. Hoa biến mất vì hoa không chỉ là tổng của các bộ phận, nó
là cái gì đó nhiều hơn tổng toàn bộ các bộ phận. Cái 'nhiều hơn' đó là điều tôn
giáo là gì, cái 'nhiều hơn' đó là điều thơ ca là gì, và cái 'nhiều hơn' đó
không thể bị lấy riêng ra. Một khi bạn cắt các bộ phận rời ra, cái gì đó biến mất,
đi vào vô tồn tại, trở thành không biểu hiện.
Bây giờ Assagioli đã
làm gì? Ông ấy đã gắn hoa đó lại cùng nhau. Hoa đó mà đã bị bứt rời ra bởi
Freud đã được Assagioli gắn lại với nhau - ông ấy gọi là tổng hợp tâm lí. Nhưng
hoa này là chết, nó không phải là đơn vị thống nhất đã tồn tại trước khi Freud
phân tích nó. Assagioli bao hàm Freud - không có Freud không thể có Assagioli,
nhớ điều này. Nếu Freud mà không tồn tại chắc đã không có Assagioli. Freud làm
một nửa công việc và nửa kia được làm bởi Assagioli. Freud mổ xẻ, Assagioli hợp
nhất.
Nhưng trong mổ xẻ sự
thống nhất nguyên thuỷ đã biến mất. Không, bạn có thể gắn nó lại cùng nhau
nhưng nó sẽ không bao giờ là cùng thứ đó lần nữa. Hoa không thể trở nên sống động
lần nữa. Chỉ bởi việc gắn nó lại với nhau - bạn có thể gắn nó lại cùng nhau rất
láu lỉnh, bạn có thể dán nó lại với nhau bằng keo dán tốt nhất, keo dán vô hình
- nhưng dầu vậy nó sẽ không là cùng hoa đó lần nữa. Bạn sẽ không có khả năng tạo
lại cái đẹp đó mà đã tồn tại trước việc phân tích.
Đó là lí do tại sao
Thiền nói đi và có cái nhìn vào mặt mà bạn đã có trước khi bạn được sinh ra, sự
thống nhất nguyên thuỷ. Đi vào trong bản thân bạn tới sự tồn tại ở xa đó của
con người bạn khi bạn đã không được gắn lại cùng nhau, khi bạn đã là hồn thuần
khiết, trước khi mẹ và bố bạn đã gắn thân thể này lại, khi bạn còn chưa trở nên
được hiện thân. Đi tới đó đi. Bạn đã là vô hiện thân. Đi tới đó đi. Có cái nhìn
về cái đó. Hay, đi và có cái nhìn vào mặt bạn khi bạn chết và thân thể bạn đang
được thiêu. Mặt nguyên thuỷ này là cái gì đó đã không được phân tích.
Tâm lí học của chư phật
không phải là việc tổng hợp, nó là phi phân tích. Để nhấn mạnh của tôi được rõ
ràng. Assagioli là tổng hợp, Freud là phân tích, tâm lí của chư phật là phi
phân tích - không mổ xẻ, bằng không chúng ta sẽ liên tục thay đổi luận cứ nhưng
chúng ta sẽ vẫn còn trong cùng thuyền.
Chuyện xảy ra...
Người mới vào bệnh viện
tâm thần nói to công bố rằng anh ta đã là Tổng thống Ford. Điều này đặc biệt
thú vị vì viện này đã có một Tổng thống Ford. Bác sĩ tâm thần trưởng quyết định
để hai người này trong cùng phòng, cảm thấy rằng sự tương tự của ảo tưởng của họ
có thể thúc đẩy việc điều chỉnh giúp chữa cho họ. Họ được đưa vào và được bỏ lại
một mình. Không xáo trộn nào đã được nghe thấy từ căn phòng này đêm đó.
Sáng hôm sau bác sĩ
có cuộc nói chuyện với bệnh nhân mới của mình. 'Bác sĩ ơi, tôi đã khổ từ ảo tưởng,'
người bệnh mới nói. 'Tôi biết rằng tôi không phải là Tổng thống Ford.'
'Điều đó thật tuyệt vời,'
bác sĩ nói.
'Vâng,' người bệnh
nói, 'Tôi là bà Ford.'
Bây giờ lại ảo tưởng
khác. Từ ảo tưởng này sang ảo tưởng khác, nó chẳng mấy thay đổi.
Assagioli không cách
mạng gì mấy. Vâng, ông ấy đang tạo ra điều chỉnh, nhưng ông ấy vẫn còn là cái
bóng của Freud. Freud là hình dáng to lù lù, Assagioli vẫn còn chỉ là cái bóng
của ông ấy. Không có Freud ông ta chắc chẳng biết đi đâu và làm gì.
Tâm lí học của chư phật
là quan điểm triệt để toàn bộ. Người ta phải đi vào trong tâm thức riêng của
mình mà không phân chia nó, không phân tích nó, không phán xét nó, không đánh
giá nó, không kết án nó, không nói bất kì cái gì về nó. Cứ đi vào trong nó và
có cảm giác về nó - đích xác nó là gì. Toàn thể tâm trí phải biến mất, chỉ thế
thì bạn sẽ trở nên nhận biết về nó là gì - vì tâm trí liên tục tạo ra các gợn
sóng trên bề mặt, và gương vẫn còn bị nhiễu loạn và gương liên tục làm méo mó.
Khi gương biến mất hoàn toàn tâm trí biến mất hoàn toàn, và thế thì có im lặng
thuần khiết, kokoro, hư không, tỏ ngộ, đại ngộ - đại ngộ đó là trạng thái phi
phân tích của con người bạn. Đó là mặt nguyên thuỷ của bạn. Đó là điều Thượng đế
là gì.
Assagioli vẫn tới gần
Phật hơn Freud - nhưng không rất gần.
Một quí bà bước vào
quán ba với một con vẹt đậu trên vai. Nó liên tục nói, 'Đoán trọng lượng tôi,
đoán trọng lượng tôi.' Một anh chàng ngồi trên ghế cao hỏi quí bà điều đó có
nghĩa gì và bà ấy đáp, 'Đoán trọng lượng vẹt của tôi đi và anh có thể tới nhà
và ngủ cùng tôi.'
Người này nhìn con vẹt
và nói đùa, 'Năm mươi cân.' Quí bà nắm cánh tay anh ta và nói, 'Đi nào, người
yêu, điều đó là đủ gần rồi!'
Đó là cách Assagioli
lại gần với tâm lí của chư phật.
Và câu hỏi cuối cùng:
Tại sao Thiền chống lại
kinh sách nhiều thế? Tôi đã học nhiều thế từ Kinh Thánh và tôi bao giờ cũng biết
ơn nó - làm sao các Thiền nhân này có thể dám nói rằng những kinh sách này phải
bị đốt đi?
Chúa ơi! Người Ki tô
giáo chưa mất đi!
Thiền nhân không chống
lại kinh sách, họ chống lại tâm trí của bạn. Và khi họ nói 'đốt kinh sách' họ
đang nói 'đốt tâm trí bạn'. Thiền nhân không chống lại kinh sách - tại sao họ
phải chống lại kinh sách đáng thương? Họ chống lại tri thức, sự am tường. Họ chống
lại việc tích trữ kí ức thường xuyên. Họ muốn bạn được tự do khỏi kí ức, họ muốn
bạn được tự do khỏi tri thức, họ muốn bạn đi tới trạng thái dỡ bỏ.
Đốt kinh sách chỉ là
biểu tượng - và Thiền nhân rất thực tế. Khi họ muốn nó một điều họ nói nó rất
to vì họ biết bạn điếc thế nào. Họ hét lên. Họ không thì thào vì họ biết rằng
ngay cả tiếng hét sẽ không được nghe. Đây chỉ là việc hét. Thiền sư đốt kinh
sách chỉ đang hét cho bạn, chỉ cho bạn điều bạn phải đã làm với tri thức của bạn
và với kinh sách của bạn.
Và khi họ nói 'đốt
kinh sách' họ đang hỏi bạn làm sao bạn có thể hiểu được kinh sách, làm sao bạn
có thể hiểu được sách Phúc âm mà bản thân bạn không trở thành một Jesus? Nó là
điều đơn giản mà chút ít thông minh, rất ít thông minh được cần để hiểu nó. Làm
sao bạn có thể hiểu được sách Phúc âm? Làm sao bạn có thể hiểu được Bài giảng
trên núi mà không trở thành một Jesus? Điều đó là không thể được. Và bất kì cái
gì bạn hiểu sẽ là việc hiểu lầm. Không hiểu còn tốt hơn là mang hiểu lầm vì
chính việc hiểu lầm đó sẽ trở thành rào chắn cho bạn.
Làm sao bạn có thể đọc
được sách Phúc âm? Và bạn nói rằng bạn đã được ích lợi và rằng bạn biết ơn thế
với nó. Làm sao bạn có thể được ích lợi? Bạn sẽ hiểu cái gì? Khi bạn đọc một
phát biểu của Jesus bạn sẽ diễn giải nó. Một phát biểu được đưa ra bởi một người
có ý thức cao hơn được diễn giải bởi một tâm thức thấp hơn thì nhất định bị bóp
méo. Điều đó dường như Einstein đang cho bài nói về toán học cao hơn và bạn đi
tới trường tiểu học và bạn hỏi đứa trẻ nghĩ gì về điều đó. Nó sẽ nói cái gì đó...
Hoàn cảnh này không xa xôi thế vì có khả năng rằng học sinh tiểu học có thể hiểu
chút ít về toán học của Albert Einstein vì sự khác biệt là về lượng, nhưng
không thể nào hiểu được phát biểu của Jesus hay Phật vì khác biệt là về chất.
Chúng là những phát biểu của chiều hướng khác. Ngay cả với ngôn ngữ bình thường
bạn liên tục hiểu điều bạn diễn giải.
Lắng nghe vài câu
chuyện này.
Cô giáo lớp năm để ý
rằng bé Johnny buồn phiền và không làm bài tập về nhà. Thế là cô bảo nó ở lại
sau giờ học.
'Cái gì sai vậy,
Johnny?' cô hỏi một cách thông cảm.
Cuối cùng nó thốt ra,
'Con yêu cô,' nó nói, 'và con muốn lấy cô.'
'Ồ, Johnny,' cô mỉm
cười, 'Cô muốn lấy chồng một ngày nào đó, nhưng cô không muốn lấy cậu bé.'
'Điều đó được,' nó
nói, 'Con sẽ cẩn thận.'
Chuyện thứ hai.
Đảng viên đảng Dân chủ
Alabama tham gia chiến dịch bầu cử và giành được ghế ở Hạ viện. Trong việc ca
ngợi ông ấy đưa ra một dự thảo luật xây cầu qua Sông Calahassas về nhà.
Nghị sĩ đảng Cộng hoà
trở nên căm phẫn. 'Không cần chiếc cầu qua sông đó,' ông ta hét lên. 'Sông đó
nhỏ tới mức tôi có thể ở bên này nó và đái sang nửa sông.'
Chủ tịch Hạ viện gõ
búa và kêu lên, 'Ông làm không đúng thủ tục!'
'Ông đúng chết tiệt,
tôi không đúng thủ tục đấy!' nghị viên Cộng hoà vặn lại. 'Nếu như tôi mà không
đúng thủ tục tôi chắc đã có khả năng đái ngang qua cả con sống chết tiệt này!'
Điều đó là tuỳ ở bạn.
Chuyện thứ ba.
Cô hầu trẻ lanh lợi
và hiệu quả làm công cho một nghị sĩ và vợ ông ấy dường như thích thú công việc
của cô ta mãi cho tới một hôm, không báo trước, cô ấy xin nghỉ việc.
'Sao cô muốn ra đi?'
bà chủ nhà hỏi cô ấy. 'Có cái gì sai không?'
'Tôi chỉ không thể chịu
được tình trạng trong nhà này thêm một phút nào,' cô hầu đáp.
'Tình trạng sao?' bà
chủ nhà bối rối. 'Cô ngụ ý gì?'
'Chính là cái biển
trên giường tôi,' cô gái giải thích. 'Bà biết cái biển đó viết: "Quan sát
ngươi, vì ngươi không biết khi nào Chủ tới."'
Và chuyện cuối.
Một người bán rong
quyết định nghỉ đêm ở một thị trấn nhỏ bên ngoài West. Sau vài chầu rượu ở quán
rượu khách sạn, anh ta thư giãn và bắt đầu phun ra ý kiến chính trị của mình.
'Tôi đã bảo ông,' anh
ta hét lên, 'Tổng thống Ford là đít ngựa!'
Vào lúc này một cao bồi
cao mét tám hiên ngang bước qua anh ta và nói, 'Thưa ông, chúng là lời khiêu
chiến quanh đây!'
'Tôi lấy làm tiếc,
thưa ông,' người bán hàng lắp bắp, 'Tôi đã không nhận ra rằng đây là nước của
Ford.'
'Nó không phải thế,'
người khổng lồ gầm gừ. 'Đây là nước của ngựa.'
Xem tiếp Chương 5 - Quay về Mục Lục Tập 1