Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Thiền – Con Đường Của Nghịch Lý – Osho
Bài nói về Thiền
Tập 3
Chương 1. Giờ ngồi xuống và nghe
Những bài nói của thầy
Bàn Khuê được không chỉ có các thiền sinh mà còn cả những người ở mọi đẳng cấp
và giáo phái khác tham dự. Ông ấy không bao giờ trích dẫn kinh mà cũng không mê
say trong các luận đàm kinh viện. Thay vì thế, lời của ông ấy được nói thẳng từ
tim ông ấy qua tim của người nghe.
Số đông khán giả của
ông ấy giận một tu sĩ của tông phái Nhật Liên vì những người trung thành tông
phái đã bỏ nghe về Thiền. Tu sĩ tông phái Nhật Liên đã tới đền, quyết tranh cãi
với Bàn Khuê.
"Này, thầy giáo
Thiền!" Ông ấy gọi. "Đợi một phút. Bất kì ai kính trọng ông sẽ vâng
theo điều ông nói, nhưng người như bản thân tôi không trọng ông. Ông có thể làm
cho tôi vâng theo ông không?"
"Tới bên cạnh ta
và ta sẽ chỉ cho ông, " Bàn Khuê nói. Một cách ngạo nghễ tu sĩ này xô đẩy
dọn đường đi qua đám đông tới thầy giáo.
Bàn Khuê mỉm cười.
"Qua bên trái ta đây." Tu sĩ vâng theo.
"Không," Bàn
Khuê nói, "chúng ta có thể nói tốt hơn nếu ông ở bên phải. Bước qua đây
đi."
Tu sĩ ngạo nghễ bước
qua bên phải.
"Ông thấy
chưa," Bàn Khuê theo dõi, "Ông đang vâng lời ta và ta nghĩ ông là người
rất lịch thiệp. Giờ ngồi xuống và nghe.
Một chuyện ngụ ngôn cổ...
Ngày xưa một thiên thần
định trở lại cõi trời sau khi hoàn thành mục đích mà ông ấy đã được phái xuống
thế gian. Lúc đó là đêm tối, không trăng trên trời, thậm chí không sao. Thế
gian bị bao bọc bởi mây tối. Nhưng khoảnh khắc thiên thần vừa đi vào trong mây
tối đó, ông ấy thấy phép màu xảy ra ngay bên dưới ông ấy. Ông ấy thấy một khu rừng
đầy ánh sáng. Ông ấy đâm ra phân vân. Ông ấy đã từng ở vùng này nhiều lần rồi,
ông ấy đã rất quen thuộc với thế gian. Ông ấy chưa bao giờ thấy điều như vậy
trước đây. Và ánh sáng này không phải là ánh sáng thường. Nó có phẩm chất của
phúc lạc, phúc lành trong nó.
Ngay khi thấy ánh sáng
đó, thiên thần cảm thấy phúc lạc hơn là ông ấy đã bao giờ cảm thấy trước đây,
ngay cả trong toán các thần, ngay cả trong cõi trời ông ấy cũng đã không thấy
hiện tượng chói sáng thế.
Ánh sáng này nảy sinh
ra từ một rừng xoài nhỏ và lan toả khắp khu rừng. Và nó mạnh tới mức ông ấy có
thể thấy tán lá cây, hoa của cây, và một cái hồ nhỏ ở ngay bên cạnh khu rừng.
Ông ấy trở nên mê say. Ông ấy hạ xuống thế giới.
Khi ông ấy hạ xuống ông
ấy thậm chí còn ngạc nhiên hơn. Có âm thanh vô âm thấm đẫm toàn thể bầu không
khí - âm thanh vô âm này được biết tới ở phương Đông là pranava, omkar - dường
như toàn thể rừng đang tụng 'om'.
Nó đã là phúc lành thế.
Và không chỉ điều đó; nhiều ngạc nhiên hơn còn đang đợi ông ấy. Khoảnh khắc ông
ấy hạ xuống gần khu rừng, ông ấy cảm thấy hương thơm tuyệt đối không được biết
tới, không được nghe tới, ngay cả trên cõi trời. Điều này đã không có tính trần
gian. Nó thậm chí không có tính cõi trời. Nó ở bên ngoài.
Ông ấy đi vào khu rừng.
Ông ấy không thể hình dung được ra nó - cái gì đang xảy ra ở đó? Lại ngạc nhiên
khác: một người đang ngồi đó dưới một cây cổ đại, thiền. Thế thì mọi sự là
không khó hiểu thế.
Thế là ông ấy nghĩ,
"Người này đã trở thành Phật. Người này đã về nhà... ánh sáng, hương thơm,
âm thanh, đang tới từ người này." Khi ông ấy lại gần người này hơn, ông ấy
càng được trút đầy bởi sự hiện diện của người này. Toàn thể khu rừng đang xôn
xao - rung động mới, sự sống mới. Ông ấy có thể thấy cây nở hoa trái vụ. Và có
im lặng thế, im lặng tuyệt đối. Và trong im lặng tuyệt đối đó đã có âm thanh vô
âm. Toàn thể khu rừng - cây và hồ và núi - tất cả đều đang tụng. Ông ấy sụp xuống
chân của người này, mở con mắt thứ ba ra - thiên thần này - và cố xem người này
đang làm gì bên trong.
Người ta nói rằng các
thiên thần có năng lực nhìn vào trong tâm trí con người. Họ có thể tìm ra những
ý nghĩ nào đang di chuyển ở đó. Nhưng ông ấy càng cố gắng, ông ấy càng cảm thấy
điều đó là không thể được - không có ý nghĩ nào di chuyển bên trong. Đã có trống
rỗng hoàn toàn, chỉ hư không. Ông ấy bắt đầu cảm thấy sợ. Ông ấy biết hư không
của bầu trời, ông ấy biết cái vô hạn của bầu trời, nhưng điều này còn sâu hơn
cái đó. Nó có chiều sâu không biết tới với ông ấy. Nó là vực thẳm. Ông ấy bắt đầu
cảm thấy sợ ông ấy có thể bị lạc trong nó, ông ấy có thể không có khả năng trở
lại.
Nhưng hấp dẫn này là
quá nhiều. Thậm chí ông ấy đã sẵn sàng bị lạc. Ông ấy đã cố gắng, ông ấy đã kéo
bản thân mình mỗi lúc một sâu hơn vào trong im lặng này. Ông ấy chạy vào trong
tâm thức của người này, nhưng ông ấy không thể tìm ra một chút ý nghĩ nào. Cho
nên ông ấy không thể hình dung được ra người này đang làm gì.
Ông ấy đi ra, quay mình
vào người này, cúi lạy, chạm chân người này, và nói, "Thưa ông, xin ông ra
khỏi samadhi và làm sáng tỏ cho tôi cái gì đang xảy ra bên trong, vì tôi không
thấy một ý nghĩ nào. Ngay cả các thần cũng đầy các ý nghĩ thế! Cái gì đã xảy ra
cho ông? Ông đã trở nên im lặng hoàn toàn thế, ngay cả xác chết cũng không im lặng
được như vậy! - các ý nghĩ cũ trôi đi như bụi cũ nổi trong tâm trí - cho dù người
này chết ý nghĩ vẫn tiếp tục một thời gian. Tâm trí liên tục nhoáng lên chỉ từ
thói quen cũ. Cái gì đã xảy ra cho ông? Ông vẫn đang sống mà!"
Người này ngước nhìn
thiên thần, không nói một lời, nhưng mỉm cười. Nụ cười đó giống như việc lây
nhiễm, thôi miên. Và thiên thần cảm thấy sức kéo của nụ cười này. Nụ cười đó đã
biến đổi, nụ cười đó đã là thách thức lớn, nụ cười đó đã là lời khơi gợi, nụ cười
đó đã là sự cám dỗ. Nụ cười đó đã mời ông ấy vào thế giới bên trong của người
này. Và lần nữa người này nhắm mắt lại, nhưng bằng cách nào đó thiên thần cũng
cảm thấy nhắm mắt của mình. Ông ấy đã nhận được hướng dẫn.
Người này đã nói,
"Tôi không thể nói cho ông nó là gì, nhưng tôi có thể chỉ cho ông con đường.
Cứ ngồi như tôi, chỉ là như tôi. Ông đã nhìn vào trống rỗng của tôi, chỉ là trống
rỗng. Chỉ bằng việc hiện hữu ở đó có cách để hiểu."
Và ông này đã không thốt
ra một lời, nhưng nụ cười đó đã là bài giảng của ông này. Ông này đã nói mọi điều
được chứa trong Vedas và Koran và Kinh Thánh và Dhammapada và Gita. Ông này đã
nói mọi điều mà không nói ra một lời. Ông này đã nói cái không thể được nói.
Và thiên thần nhắm mắt
lại, ngồi im lặng, và bắt đầu biến mất.
Đó là điều xảy ra quanh
Thầy. Bạn không cần vâng lời Thầy. Bạn chỉ phải ở quanh, sẵn có, có vậy thôi. Sự
hiện diện của thầy là đủ để tạo ra quyến rũ.
Sự hiện diện của Thầy
mang tính quyến rũ. Nó không có lời răn. Nó không nói với bạn "Làm cái
này," và "Không làm cái kia." Những người nói như điều đó, họ
không phải là Thầy. Họ có thể là thầy giáo là nhiều nhất. Thầy không bao giờ
nói "Làm cái này," và "Không làm cái kia." Thầy không quan
tâm tới hành động của bạn chút nào. Quan tâm của thầy là sâu hơn, quan tâm của
thầy là với con người của bạn.
Thầy làm lây lan... như
bệnh sởi. Trong sự hiện diện của thầy bạn bắt đầu lây rung động khác - nếu bạn
sẵn có, nếu bạn sẵn sàng lắng nghe, nếu bạn sẵn sàng nhìn - thế thì mọi thứ bắt
đầu chuyển động theo cách riêng của chúng. Đó là nghĩa của Thầy.
Khác biệt gì giữa thầy
giáo và Thầy? Thầy giáo dạy bạn, ông ấy có học thuyết, ông ấy có triết lí. Ông ấy
tranh cãi, thảo luận, chứng minh. Bản thân Thầy là bằng chứng. Thầy không tranh
cãi, thầy không đề xuất bất kì triết lí nào, thầy không cho bạn bất kì đặc tính
nào. Thầy không có lời răn. Thầy không tạo ra bất kì cái phải nào, thầy không
cho bạn bất kì lí tưởng nào. Thực ra, thầy lấy đi mọi lí tưởng. Thầy không cho
bạn kinh sách. Thầy dạy bạn cách đốt mọi kinh sách, cách là tự do với lời, cách
là tự do với lí thuyết - vì một khi bạn được tự do với lời và lí thuyết và kinh
sách, bạn được tự do hiện hữu. Bằng không, các ý nghĩ liên tục la hét bên
trong, các ý nghĩ liên tục che mờ bên trong. Và ý nghĩ liên tục làm sao lãng bạn
khỏi trung tâm của bạn.
Ý nghĩ là việc làm sao
lãng, bất kì ý nghĩ nào - trần gian, thế giới khác. Ý nghĩ như vậy là việc làm
sao lãng, nó đem bạn đi xa khỏi bản thân bạn. Ý nghĩ dẫn bạn đi vào trong thế
giới mơ, ảo vọng, trừu tượng. Nó không cho phép bạn nhìn và cảm và hiện hữu.
Toàn thể công việc của Thầy là giúp bạn bỏ tâm trí của bạn. Và mọi lời răn đi
vào trong tâm trí, trở thành kí ức của bạn.
Cho nên Thầy không có
thông điệp khi có liên quan tới hành động của bạn. Thầy chắc chắn có thông điệp
khi có liên quan tới con người của bạn. Thầy dạy bạn là cái gì. Và thầy dạy bạn
theo cả nghìn lẻ một cách.
Một Thiền sư lớn được một
trong những đệ tử của ông ấy hỏi, "Tôi đã ở cùng thầy ba năm và thầy đã chẳng
dạy tôi bất kì cái gì, thưa thầy. Khi nào việc dạy cho tôi bắt đầu?"
Thầy cười và thầy nói,
"Ông nói gì vậy? Trong ba năm liên tục, hết ngày nọ tới ngày kia, ta đã dạy
ông rồi. Khi ông mang trà cho ta buổi sáng, chẳng phải ta đã cám ơn ông đó sao?
Khi ông tới và cúi lạy, chẳng phải ta đã chạm đầu ông sao? Khi ta đi dạo buổi
sáng và ông tới và đi theo ta, chẳng phải ông đã thấy cách ta bước đi sao? Chẳng
phải ông đã quan sát rằng chân ta không chạm đất sao? - chúng trên đất mét tám.
Chẳng phải ông đã nhìn vào mắt ta trong ba năm này đó sao? - đôi mắt này là mắt
của người say. Ông còn muốn cái gì khác? Ông đang nói về việc dạy gì vậy? Ta đã
từng dạy hết ngày nọ tới ngày kia, hết năm nọ tới năm kia. Đôi khi ông phải đã
đi vào trong phòng của ta khi ta ngủ, ông đã không nhìn ta sao? Vị Phật thảnh
thơi thế nào? - như trẻ nhỏ. Ông còn muốn cái gì khác? Ông đang đợi lời sao? Thế
thì đi tới thầy giáo đi."
Thầy về căn bản là sự
hiện diện. Cho dù thầy nói, thầy nói chỉ để dẫn bạn tới vô lời. Cho dù thầy
nói, thầy nói cho bạn bên ngoài ngôn ngữ. Thầy cố nói để cho bạn có thể được dẫn
vào trong thế giới của vô ý nghĩ. Việc dạy của Thầy là không dạy. Thầy không đề
xuất bất kì ý tưởng nào để cho bạn có thể bám vào chúng. Thầy có tính phá huỷ
hoàn toàn; Thầy tạo ra hỗn độn. Thầy đưa bạn tới điên khùng khi có liên quan tới
tâm trí của bạn - vì khi tâm trí đã bị đưa tới điên khùng, nó dừng lại... và đột
nhiên tâm thức mới nảy sinh.
Cho nên điều đầu tiên cần
được hiểu: Thầy tạo ra tin cậy, không phải vâng lời. Thầy không bao giờ đòi hỏi
vâng lời. Và nếu ai đó đòi hỏi vâng lời, trốn khỏi người đó đi. Người đó đang
đi tìm nô lệ. Người đó sẽ giết bạn, người đó sẽ phá huỷ tự do của bạn, người đó
sẽ ước định tâm trí của bạn. Người đó sẽ cho bạn hình mẫu để sống. Người đó sẽ
không làm bạn thành sẵn có cho thượng đế; người đó sẽ không làm bạn thành thượng
đế - thượng đế ngụ ý tự do, tự do tuyệt đối. Vâng lời là nô lệ; vâng lời là cái
tên hay cho sự nô lệ. Bất kì người nào tạo ra vâng lời trong bạn đều là nguy hiểm,
là kẻ thù của bạn. Thầy không tạo ra vâng lời, thầy tạo ra tin cậy - và đó là
điều khác toàn bộ, khác hoàn toàn.
Tin cậy là gì? Nó là việc
cảm, nó chẳng liên quan gì tới việc tin của bạn. Tin cậy là việc cảm. Tin cậy
là việc cảm rằng người này đã đi vào chỗ nào đó, chúng ta không biết chỗ nào...
người này đã đi vào trong chiều hướng mới nào đó, chúng ta không biết cái gì.
Việc cảm rằng người này có cánh bay vào trong cái không biết, việc cảm rằng sẽ
là tốt nếu đi cùng người này trên cuộc hành hương này.
Thầy tạo ra tin cậy
trong bạn để cho bạn có thể thu lấy dũng cảm. Bằng việc nhìn thầy, bằng việc hiện
hữu cùng thầy, bằng việc sẵn có cho rung động của thầy, dao động của thầy, dần
dần bạn thu lấy dũng cảm - không phải vâng lời mà là dũng cảm. Người vâng lời
là người đờ đẫn. Người vâng lời trở thành không thông minh, người đó trở thành
người phụ thuộc. Người đó bao giờ cũng tìm mệnh lệnh; người đó bao giờ cũng chờ
đợi - ai đó phải bảo cho người đó làm cái gì.
Không, Thầy không thể
làm bạn thành què quặt, thầy không thể cho bạn chiếc nạng để dựa vào.
Khi bạn tới Thầy bạn đã
có quá nhiều nạng rồi. Thầy rút chúng đi. Thầy giúp bạn đứng trên chân của bạn.
Thầy tạo ra bạn như bạn phải vậy trong tính đích thực của bạn. Thầy giúp bạn chỉ
là bản thân bạn và không gì khác. Cho nên Thầy không thể có hình mẫu và không
thể có phát biểu tổng quát. Với từng cá nhân nó sẽ xảy ra theo cách khác nhau.
Điều thứ nhất: vâng lời
là một phần của chính trị, không của tôn giáo. Tu sĩ yêu cầu vâng lời, chính
khách yêu cầu vâng lời: "Đi theo tôi, vâng lời tôi! Không bao giờ làm bất
kì cái gì ngược lại lời răn của tôi. Vẫn còn bị giới hạn trong lãnh thổ mà tôi
cho ông, không bao giờ đi ra ngoài nó." Người đó đang phá huỷ chính hồn bạn.
Đó là điều các tu sĩ đã làm suốt nhiều thời đại, họ đã giết mọi người! Mọi người
không còn sống động. Ai đó là người Hồi giáo và ai đó là người Hindu và ai đó
là người Sikh và ai đó là người Jain và ai đó là Phật tử và ai đó là người Ki
tô giáo - nhưng người thực ở đâu? Đây toàn là những cái tên giả. Người tôn giáo
ở đâu?
Nanak ở đâu? Bạn có thể
tìm thấy người Sikh, nhưng Nanak ở đâu? Bạn có thể tìm thấy người Ki tô giáo,
nhưng Jesus ở đâu? Và bạn có thể tìm thấy các Phật tử, nhưng Phật ở đâu? Nhiều
người tôn giáo thế và bạn sẽ không tìm thấy một người tôn giáo nào. Đám đông la
hét quanh đền chùa và giáo đường Do Thái và nhà thờ và nhà thờ Hồi giáo, nhưng
toàn nô lệ - nô lệ của quá khứ chết.
Thầy giải phóng bạn khỏi
quá khứ, vì Thầy giải phóng bạn khỏi kí ức. Thầy không cho bạn bất kì cái gì để
học: thầy đề xuất tiến trình dỡ bỏ. Thầy nói, "Dỡ bỏ bất kì cái gì ông đã
học. Bỏ nó đi, nó toàn là bụi thôi. Lau sạch gương của ông hoàn toàn khỏi mọi bụi.
Khi gương sạch sẽ, Thượng đế được phản xạ. Nếu gương của ông mang quá nhiều
kinh sách, Thượng đế sẽ không được phản xạ."
Người Hindu không thể
thấy được Thượng đế. Làm sao người Hindu có thể thấy được Thượng đế? Chỉ bởi việc
là người Hindu người đó đang tạo ra cản trở. Làm sao người Mô ha mét giáo có thể
thấy được Thượng đế? Chỉ là người Mô ha mét giáo người đó đang tạo ra bức tường
giữa bản thân người đó và Thượng đế. Ít nhất khi bạn đi tới Thượng đế đừng mang
những cái nhãn, những phân loại. Ít nhất khi bạn đi tới Thượng đế, đi trần trụi
và khoả thân. Đi chỉ như con người, chỉ như người thuần khiết, tấm gương sẵn
sàng phản xạ... sẵn sàng phản xạ bất kì cái gì là hoàn cảnh. Đừng liên tục
phóng chiếu ý tưởng.
Người Hindu tìm Thượng
đế Hindu, người Ki tô giáo tìm Thượng đế Ki tô giáo. Và khi bạn đang tìm Thượng
đế bạn đang mang một ý tưởng trong bạn. Và bất kì ý tưởng nào bên trong đều
không cho phép bạn rơi vào trong dhyan, samadhi, thiền. Mọi ý tưởng phải bị bỏ
đi. Tâm trí phải dừng lại để Thượng đế hiện hữu. Khi bạn không hiện hữu, Thượng
đế hiện hữu.
Thầy dạy bạn cách trở
thành vắng mặt. Sự hiện diện của thầy dần dần dạy bạn trở thành vắng mặt. Bạn
đã không quan sát một hiện tượng cực kì quan trọng đó sao? - rằng cách hiện diện
trong thế giới của Thượng đế là sự vắng mặt của ngài. Ngài không hiện diện bằng
việc là hiện diện. Thượng đế là hiện diện bởi việc là vắng mặt. Đó là cách của
ngài hiện diện trong thế giới. Bạn không thể chỉ rõ ra được: đây là Thượng đế.
Và bất kì chỗ nào bạn có thể chỉ rõ ra, Ngài không hiện hữu. Ngài ở mọi nơi và
không nơi nào. Bạn không thể định vị, bạn không thể nói "ở phương bắc, hay
ở phương nam, hay ở đền chùa này, hay ở đền thờ hồi giáo kia" - bạn không
thể chỉ rõ Thượng đế. Nếu bạn chỉ rõ ra, nó sẽ là cái gì đó khác, không phải
Thượng đế - tượng, kinh sách, tín ngưỡng, đạo đức, nhưng không phải tôn giáo,
không phải Thượng đế. Thượng đế ở mọi nơi! Cách hiện diện của ngài là vắng mặt,
và đây là điều Thầy dạy bạn. Sự hiện diện của ngài cũng là cách thức vắng mặt.
Thầy đã biến mất, thầy
không còn nữa - chỉ có hư không hoàn toàn trong thầy. Nếu bạn đi vào bên trong
Thầy, bạn sẽ thấy cùng điều mà đã được thiên thần trong chuyện ngụ ngôn kia tìm
thấy. Người đang ngồi trong rừng xoài đã trở thành phật.
Phật không phải là tên
riêng. Nó chẳng liên quan gì tới Gautam Siddhartha. Gautam Siddhartha là một
trong các chư phật. Christ cũng là Phật; Mahavir cũng vậy, Krishna cũng vậy,
Nanak cũng vậy, Kabir cũng vậy, Rabiya cũng vậy, Meera cũng vậy, Mohammed cũng
vậy.
Một hôm một Thiền sư đi
vào trong vườn, và một sư đang dọn lá khô, lá chết từ vườn. Thiền sư hỏi sư
này, người là đệ tử của ông ấy, "Ông đang làm gì?"
Đệ tử nói, "Thưa
thầy, dọn sạch ạ."
Và Thầy hỏi một câu hỏi
rất kì lạ: "Dọn sạch à? Ông đang làm điều đó trước Phật hay sau Phật?"
Bây giờ Phật đã là cổ đại
- hai mươi nhăm thế kỉ đã trôi qua, câu hỏi này là hoàn toàn vô nghĩa. Nhưng
các Thiền sư thích điều vô nghĩa lắm. Thiền là nghĩa của vô nghĩa. Nếu nó mà được
hỏi với bạn, bạn chắc đã bị phân vân. Nhưng đệ tử này biết Thầy của mình. Anh
ta đã sống cùng thầy, anh ta biết thầy hay dùng loại câu hỏi nào để hỏi. Từng
câu hỏi là một tình huống, từng câu hỏi là một hướng dẫn - càng ngớ ngẩn càng
tiềm năng, vì bạn không thể trả lời nó qua tâm trí. Bây giờ tâm trí sẽ đơn giản
cảm thấy chùn lại. "Ông đang dọn sạch," Thầy nói, "nhưng nói cho
ta: trước Phật hay sau Phật?"
Và đệ tử cười, và anh
ta nói, "Cả hai, thưa thầy - trước và sau."
Thầy vỗ nhẹ anh ta và
nói, "Đúng." Thầy đi mất.
Một người làm vườn
khác, một đệ tử khác đã làm việc trong vườn, đang tưới cây, đã rất phân vân.
Anh ta là người mới. Anh ta hỏi đệ tử này, "Tôi không hiểu kịp. Cái gì tiếp
sau giữa ông và Thầy? Tôi đã nghe rất chăm chú. Câu hỏi của Thầy là ngớ ngẩn,
và câu trả lời của ông thậm chí còn ngớ ngẩn hơn thế. Ông ngụ ý gì khi ông nói
'trước và sau Phật'?"
Và đệ tử này nói,
"Nó là sau Phật vì nhiều vị Phật đã xảy ra trong quá khứ, nhiều. Và nó là
trước Phật vì nhiều người sẽ xảy ra trong tương lai. Nó bao giờ cũng ở giữa.
Trong quá khứ đã từng có nhiều Phật. Trong tương lai sẽ có nhiều Phật. Tôi chỉ
đang đứng ở giữa và dọn sạch nền đất - dọn sạch cho chư Phật tới, dọn sạch mọi
thứ bẩn mà chư Phật cũ đã bỏ lại, và chuẩn bị nền đất cho Phật mới tới."
Đó là điều Thầy làm -
đích xác, một cách chính xác - tạo ra sự sạch sẽ khỏi chư Phật quá khứ, vì mọi
người bám víu, mọi người bám lấy lời chết, chữ chết, và nhiều thứ bẩn được tạo
ra. Thầy dọn sạch tâm trí bạn khỏi quá khứ, khỏi tác động của quá khứ, và thầy
chuẩn bị gương của bạn cho tương lai.
Và đấy không chỉ là chư
Phật sẽ xảy ra trong tương lai
- bạn cũng sẽ trở thành
Phật ngày nào đó này khác. Vấn đề chỉ là thời gian, và điều đó là tuỳ vào bạn.
Nếu bạn quyết định trở thành Phật ngay khoảnh khắc này, không ai cản con đường
của bạn. Chỉ quyết định bị thiếu, chỉ cam kết với Phật tính bị thiếu. Không ai
cản trở, không ai đứng trên đường của bạn. Không có khối chắn. Bạn chỉ đang bám
lấy quá khứ, và bạn không bỏ quá khứ. Bằng không, bạn tự do đi trong thế giới.
Chính khoảnh khắc này bạn có thể trở thành Phật.
Kinh Thiền nói: Chính đất
này là mảnh đất hoa sen, chính thân này là Phật.
Từng thân thể là mảnh đất
hoa sen, và từng thân là ngôi chùa của vị Phật có thể, của vị Phật tiềm năng.
Phật không phải là cái tên riêng cho Phật Gautam. Mọi người đã trở nên nhận biết,
họ được gọi là chư Phật.
Khi bản thân Phật
Gautam đã trở nên chứng ngộ, một người tới ông ấy. Người này không thể tin được
vào mắt mình - thanh nhã thế, nữ tính thế, đẹp thế! Anh ta hỏi Phật, "Ông
là ai? Ông là thần giáng trần từ cõi trời sao? Tôi chưa bao giờ thấy cái đẹp thế,
cái đẹp của thế giới khác, cái đẹp phi trần gian."
Và Phật nói,
"Không, ta không là thần."
Thế rồi người này nói,
"Thế thì ông là ai? Ông là thánh sao?"
Và Phật nói,
"Không, ta không là thánh."
Người này phân vân. Anh
ta nói, "Thế thì ông là ai?" Và Phật nói một điều sâu lắng thế. Ông ấy
nói, "Ta là nhận biết. Ta không là thần không là thánh - Ta chỉ là nhận biết."
Phật tính thậm chí là
cao hơn việc là thần. Phật tính là cao hơn rất nhiều so với việc là thánh.
Thánh nhân thường xuyên tranh đấu với tội nhân của ông ta. Thánh nhân còn chưa
về tới nhà; ông ấy vẫn còn ở chiến trường. Thánh nhân không thể thảnh thơi,
thánh nhân không thể đi ngày nghỉ. Hai mươi bốn giờ ông ấy phải giữ việc theo
dõi, vì mọi thứ ông ấy đã đè nén bên trong đang sẵn sàng; bất kì khoảnh khắc
nào của yếu đuối và nó sẽ chiếm quyền. Dục ông ấy đã đè nén? - thế thì dục có
đó chờ đợi, đợi tới khoảnh khắc đúng khi thánh nhân được thảnh thơi chút ít,
không tranh đấu vất vả thế, thế thì nó nhảy lên ông ấy. Tham, giận, ghen, sở hữu
- mọi thứ đang đợi đó. Thánh nhân ở trong trạng thái rối loạn thường xuyên.
Thánh nhân không thể được thảnh thơi. Làm sao chiến binh có thể được thảnh
thơi? Ông ta bao giờ cũng phải quan sát; kẻ thù bao giờ cũng vây quanh.
Đó là lí do tại sao cái
gọi là thánh nhân là căng thẳng thế, sợ những thứ nhỏ bé - sợ vì họ biết rằng nếu
họ cho chút ít thảnh thơi, thế thì họ sẽ phải cho nhiều hơn. Họ đã kìm nén một
nửa con người của họ. Nửa đó của con người của họ sẵn sàng nổi dậy. Nửa đó của
con người của họ đang trở nên rất, rất điên khùng bên trong bản thân họ.
Thánh nhân sống cuộc sống
gần như đạo đức giả. Không có an bình. Thánh nhân sống trong cuộc sống gần như
điên khùng, ác mộng. Bất kì cái gì bạn đè nén liên tục báo thù. Nó trồi lên lặp
đi lặp lại và với việc báo thù.
Phật là đúng khi ông ấy
nói, "Ta không là thánh." Và Phật nói, "Ta cũng không là thần."
Tại sao? Vì thần là người vẫn còn khao khát vui thú. Nhớ, mục đích tối thượng
không phải là cõi trời - ít nhất không là vậy ở phương Đông.
Có hai loại tôn giáo:
tôn giáo hướng cõi trời - Ki tô giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo. Họ không đi cao
hơn cõi trời. Cõi trời là mục đích. Cõi trời ngụ ý trạng thái vui thú thường
xuyên, vui vẻ. Nó là ngược với địa ngục; nó vẫn là một phần của nhị nguyên -
cõi trời và địa ngục. Địa ngục là toàn khổ và cõi trời là toàn vui thú. Nó là
tưởng tượng vì bạn không thể tách rời khổ với vui thú, và bạn không thể tách
vui thú khỏi khổ. Điều đó là không thể được.
Với mọi vui thú bên
tương ứng của nó bám dính vào - khổ. Không thể nào phân tách chúng được vì
chúng không phải là tách rời. Bạn không thể nhận thành công mà không nhận thất
bại. Thất bại theo ngay sau thành công. Nó giống như thung lũng và đỉnh núi. Bạn
không thể tạo ra được núi mà không tạo ra thung lũng, và bạn không thể tạo ra
được thung lũng mà không tạo ra núi - chúng đi cùng nhau. Đích xác giống điều
đó, mọi vui thú có khổ của nó và mọi khổ có vui thú của nó. Cõi trời và địa ngục
là tưởng tượng; bạn không thể phân tách được chúng ra. Điều đó là không thể được.
Nghĩ mà xem: nếu trong
cõi trời chỉ có thành công, thế thì sẽ không có vui thú, vì sẽ không có người
nào thất bại. Làm sao có thể có vui thú và thành công khi không ai thất bại?
Khi bạn không thể thất bại bởi chính bản tính của mọi sự, làm sao bạn có thể hạnh
phúc khi bạn thành công? Không thể được. Vui thú xuất phát từ thành công tới từ
khả năng về thất bại. Nếu không ai nghèo trên cõi trời, thế thì không ai có thể
giầu. Vui thú của việc là giầu xuất phát từ nhiều người quanh bạn là nghèo, và
khả năng rằng bạn cũng có thể nghèo một ngày nào đó. Chính nỗi sợ đó cho bạn
vui thú. Nếu tất cả đều hạnh phúc thế thì không ai có thể hạnh phúc.
Và nếu chỉ hạnh phúc xảy
ra, thế thì sớm hay muộn bạn sẽ phát chán với nó. Nếu cõi trời này của cái gọi
là các thánh nhân của bạn mà tồn tại ở bất kì chỗ nó, nó sẽ hoàn toàn chán. Cứ
nghĩ về các thánh nhân của bạn ngồi trong cõi trời mà xem - họ đã ở đó bao lâu
rồi? Cùng vui thú, cùng vui thú
Họ thậm chí không thể
có thay đổi dù chỉ vì thay đổi; họ thậm chí không thể có được điều đó. Tất cả họ
phải khao khát vào địa ngục - bằng bất kì cách nào. Họ phải khao khát quay lại
thế gian. Đó là điều nhiều kinh sách cổ nói: rằng các thần khao khát lại trở
thành người. Có những câu chuyện rằng đôi khi vài thần đi vào thế gian dưới dạng
trá hình và trở thành con người để có hương vị, hương vị khác.
Phật đề xuất một cái
nhìn mới toàn bộ. Ông ấy nói: Không cõi trời, không địa ngục. Tội nhân xuống địa
ngục, nhưng không bao giờ có tội nhân hoàn hảo. Tội nhân không thể là hoàn hảo.
Ngay cả tội nhân cũng có nhiều tính thánh thiện trong họ.
Bạn có thể đi và quan
sát các kẻ tội phạm. Đôi khi điều xảy ra là những kẻ tội phạm, trong số họ, là
thân thiện hơn, chân thành hơn cái gọi là công dân tốt, người đáng kính. Bạn có
thể tin cậy vào kẻ trộm nếu bạn cho anh ta chút tiền. Nếu anh ta vay chút tiền
từ bạn, bạn có thể tin cậy vào kẻ buôn lậu, nhưng bạn không thể tin cậy vào
chính khách. Kẻ buôn lậu sẽ hoàn thành lời hứa của người đó, nhưng chính khách
thì không.
Không bao giờ có người
là kẻ tội phạm hoàn hảo, tội nhân hoàn hảo, cho nên làm sao bạn có thể tống một
người vào địa ngục chừng nào người đó chưa là tội nhân hoàn hảo? Cái gì đó tốt
bao giờ cũng có đó. Con người là tổ hợp của tốt và xấu. Và chưa bao giờ có
thánh nhân hoàn hảo, không thể có được. Không thể được.
Thế thì khác biệt gì giữa
thánh nhân và tội nhân? Khác biệt là rất đơn giản. Khác biệt là ở chỗ tội nhân
đè nén thánh nhân của người đó còn thánh nhân đè nén tội nhân của người đó. Đó
là lí do tại sao các tội nhân liên tục ham muốn làm sao trở thành thánh nhân,
và mọi thánh nhân sâu bên dưới đều mong mỏi trở thành tội nhân. Nếu bạn đi vào
trong các giấc mơ của thánh nhân, bạn sẽ phân vân rất nhiều. Mơ của họ rất có
tính dục, rất trần tục. Và nếu bạn đi vào trong mơ của tội nhân bạn sẽ ngạc
nhiên - trong mơ người đó nghĩ rằng người đó đã từ bỏ thế giới, đang thiền, đã
trở thành sannyasin, sắp trở thành Phật.
Tội nhân mơ những giấc
mơ đẹp. Mơ là cái thay thế. Bất kì cái gì bạn đang làm trong ngày - và không
làm trong ngày - sẽ tới trong đêm. Cân bằng phải được tạo ra bởi sự sống. Đó là
lí do tại sao các thánh nhân rất sợ giấc ngủ.
Phật nói, "Ta
không là thánh nhân, ta không là tội nhân, ta thậm chí không là thần." Thế
thì ông là ai? Phật nói, "Ta chỉ là nhận biết. Ta là nhận biết."
Đây là định nghĩa về Phật.
Bạn học từ Thầy cái mà không thể được học theo bất kì cách nào, cái mà không
không thể được dạy theo bất kì cách nào, ngoài việc tin cậy, ngoài việc yêu,
ngoài việc ở trong sự hiện diện.
Thầy không ra lệnh cho
bạn làm bất kì cái gì, nhưng sự hiện diện của thầy ra lệnh cho bạn. Chính sự hiện
diện của thầy tạo ra việc vâng lời tinh tế, kỉ luật tinh tế - không bị ép buộc,
không bị điều khiển, thao túng chút nào. Thầy không là người thao túng. Nó là rất
im lặng. Bạn không bao giờ đi tới biết khi nào bạn đã bắt đầu theo thầy. Bạn
không thể đánh dấu được đường mà bạn rơi vào yêu thầy, và mọi sự bắt đầu xảy ra
cho bạn.
Thiền nói: Thiền giống
như tìm kính đang đeo trên mũi bạn.
Đôi khi điều xảy ra cho
mọi người là họ đang vội - họ phải bắt chuyến tầu hoả hay cái gì đó - và họ bắt
đầu tìm kính. Và họ tìm kính khắp người họ. Kính vẫn ở trên mũi họ. Nhưng họ
đang vội thế họ đã quên mất.
Thiền nói: Phật tính
không ở đâu đó xa xôi. Bạn đang ngồi trên đỉnh nó. Bạn là nó! Cho nên không có
nhu cầu đi bất kì chỗ nào; bạn chỉ phải trở nên tỉnh táo về bạn là ai. Nó đã xảy
ra rồi! Không cái gì phải được đạt tới, không cái gì phải được thực hành! Duy
nhất một điều: bạn phải trở nên tỉnh táo hơn chút ít về bạn là ai.
Do đó, Thiền dạy không
bằng lời. Do đó, Thiền dạy không bằng mục đích. Thiền dạy bằng chỉ thẳng. Nó
đánh thẳng vào bạn. Nó tạo ra tình huống, nó tạo ra phương cách.
Một người tới một Thiền
sư và hỏi, "Tôi muốn trở thành Phật." Và Thiền sư đánh đau anh ta.
Người này phân vân. Người
này đi ra và hỏi đệ tử già nào đó, "Đây là loại người gì vậy? Tôi hỏi câu
hỏi đơn giản thế mà ông ấy nổi giận thế. Ông ấy đánh đau tôi! Má tôi vẫn còn
rát. Hỏi cách trở thành Phật là sai sao? Người này dường như rất ác và bạo
hành!"
Và đệ tử này cười. Ông ấy
nói, "Ông không hiểu từ bi của thầy. Chính là từ từ bi của thầy mà thầy
đánh đau ông đấy. Và thầy già rồi, chín mươi tuổi; cứ nghĩ về tay thầy mà xem -
Nó sẽ còn rát nhiều hơn má ông! Ông còn trẻ. Nghĩ về từ bi của thầy đi, ông ngu!
Quay lại đi!"
Như người này hỏi,
"Nhưng thông điệp trong điều đó là gì?"
Và đệ tử này nói.
"Thông điệp là đơn giản. Nếu vị Phật tới và hỏi cách trở thành vị Phật,
cái gì khác có đó để làm? Ông có thể đánh người đó và làm cho người đó nhận biết
rằng ông là nó. Ông đang nói điều vô nghĩa gì vậy!"
Nếu bụi hồng bắt đầu cố
trở thành bụi hồng, nó sẽ phát điên. Nó đã là bụi hồng rồi. Bạn có thể quên mất.
Thiền nói bạn ở trong trạng thái ngủ, bạn đã quên mất bạn là ai, có vậy thôi.
Không cái gì phải được làm, chỉ việc nhớ lại. Đó là điều Nanak gọi là surati,
Kabir gọi là surati - chỉ là việc nhớ lại. Bạn chỉ phải nhớ bạn là ai!
Cho nên Thiền dạy không
bằng lời, không bằng kinh sách, không bằng lí thuyết, nhưng bằng việc chỉ thẳng,
bằng việc đưa chúng ta vào trong trò chơi mà câu trả lời duy nhất là mức độ tâm
thức mới.
Lắng nghe câu chuyện
này và bạn sẽ hiểu cách Thiền tạo ra tình huống. Thiền rất tâm lí. Vấn đề là
tâm lí - bạn đã đơn giản quên mất; không phải là bạn đã đi bất kì chỗ nào. Bạn
đã rơi vào giấc ngủ. Thiền vận hành như còi báo động. Nó đánh bạn, đánh vào
tim, làm bạn thức dậy. Lắng nghe chuyện ngụ ngôn hay này:
Một thanh niên, người
đã có thất vọng cay đắng trong cuộc sống, đi tới một tu viện xa xôi và nói với
Thầy, "Tôi đã vỡ mộng với cuộc sống và ước ao đạt tới chứng ngộ để được tự
do khỏi những đau khổ này. Nhưng tôi không có năng lực bám lâu vào bất kì cái
gì. Tôi không bao giờ có thể hành thiền lâu nhiều năm và thực hành khổ hạnh.
Tôi sẽ trở lại và quay lại thế giới lần nữa, dù tôi biết điều đó là đau đớn. Có
con đường ngắn nào cho những người như tôi không?"
"Có đấy," Thầy
nói, "nếu ông thực sự quyết tâm. Nói cho ta, ông đã học cái gì? Ông đã tập
trung vào cái gì nhiều nhất trong đời ông?"
"Sao vậy, thực sự
chẳng có gì. Chúng tôi nhà giầu và tôi đã không phải làm việc. Tôi cho rằng thứ
mà tôi thực sự quan tâm là cờ vua; tôi đã dành phần lớn thời gian của tôi cho
nó."
Thầy nghĩ một chốc và
thế rồi nói với người hầu của mình, "Gọi sư như thế như thế vào, và bảo
ông ấy mang bàn cờ và quân cờ vào."
Nhưng người hầu nói,
"Thưa thầy, sư đó không biết cách chơi cờ."
Thầy nói, "Đừng lo
nghĩ. Ông đơn giản gọi ông ấy vào."
Sư này tới với bàn cờ
và quân cờ. Thầy đưa ra một chiếc kiếm và giơ nó ra cho hai người xem.
"Này sư," thầy nói, "ông đã nguyện vâng theo lời ta như Thầy của
ông, và giờ ta yêu cầu điều đó với ông. Ông sẽ chơi cờ với anh thanh niên này,
và nếu ông thua ta sẽ chặt đầu ông bằng chiếc kiếm này."
Và người này không biết
gì mấy về cờ vua. May ra anh ta có thể nhận được bàn cờ, hay may ra anh ta đã chơi
một hay hai lần khi anh ta còn trẻ. Nhưng để người này đấu với anh thanh niên,
nhà giầu này, người không bao giờ làm bất kì cái gì ngoài chơi cờ, đơn giản là
cái chết có đảm bảo.
Và thế rồi Thầy nói,
"Ông đã buông xuôi theo ta, và ông đã bảo ta là ta có thể làm bất kì cái
gì ta muốn với mạng sống của ông hay với cái chết của ông. Giờ khoảnh khắc đó
đã tới. Nếu ông thua ta sẽ chặt đầu ông bằng chiếc kiếm này."
Và kiếm tuốt trần có đó
trong tay của Thầy, và Thầy đang đứng ngay cạnh. "Nhưng ta hứa rằng nếu
ông chết bởi tay ta, ông sẽ được sinh ra trong thiên đường. Nếu ông thắng, ta sẽ
chặt đầu người này. Cở vua là điều duy nhất anh ta đã thử rất chăm chỉ, và nếu
anh ta thua anh ta xứng đáng mất đầu nữa."
Họ nhìn vào mặt Thầy và
thấy rằng Thầy ngụ ý điều đó: thầy sẽ chặt đầu người thua.
Họ bắt đầu chơi. Với nước
đi khai cuộc chàng thanh niên cảm thấy mồ hôi chảy dài tới gót chân vì anh ta
đang chơi vì mạng mình. Bàn cờ trở thành toàn thế giới; anh ta đã hoàn toàn tập
trung vào nó. Ban đầu anh ta đã hơi nghĩ điều tồi tệ nhất về nó, nhưng thế rồi
người kia đi một nước kém và anh ta nắm lấy cơ hội để tung ra cuộc tấn công mạnh.
Khi thế cờ của đối thủ sụp đổ, anh ta lén nhìn sang đối thủ. Anh ta thấy bộ mặt
thông minh và chân thành, có vẻ mệt mỏi với nhiều năm khổ hạnh và nỗ lực.
Người kia là người ăn
xin - khất sĩ - mắt anh ta im lặng và bình thản. Anh ta không bị rối trí ngay cả
với ý tưởng về chết. Anh ta đang chơi vì yêu cầu của thầy, và anh ta đã buông
xuôi bản thân mình cho nên không có vấn đề gì trong nó. Ngay cả thiên đường
không được hứa hẹn, thế nữa, anh ta chắc phải tuân theo. Anh ta đang chơi bình
thản và yên tĩnh. Mắt anh ta rất im lặng và rất thông minh - và anh thanh niên
này đang thắng! và nước đi của sư này toàn sai!
Anh thanh niên nhìn sư
này - thanh nhã, khổ hạnh, cái đẹp, im lặng, thông minh. Anh ta nghĩ về cuộc sống
không giá trị của riêng mình, và một con sóng từ bi trào lên anh ta. Anh ta quyết
định: "Để người này chết là không cần thiết. Nếu mình chết, chẳng cái gì bị
mất trên thế gian. Mình là người ngu, mình đã phí hoài cuộc sống của mình, mình
chẳng có gì. Người này đã làm việc chăm chỉ, tạo kỉ luật cho cuộc sống của anh
ta, đã sống cuộc sống khổ hạnh, cuộc sống của thiền và cầu nguyện. Nếu anh ta bị
giết điều đó sẽ là tổn thất."
Từ bi lớn nổi lên trong
anh ta. Anh ta quyết định đi nước cờ sai và thế rồi lại nước cờ sai nữa, phá hỏng
thế cờ của mình và để cho bản thân mình không được phòng thủ.
Thầy đột nhiên dướn người
tới và lật đổ bàn cờ. Hai đấu thủ ngồi chưng hửng. "Không có người thắng
và không có người thua," Thầy nói chậm rãi. "Không cần hi sinh ở đây.
Chỉ hai điều được yêu cầu," và thầy quay sang anh thanh niên, "tập
trung hoàn toàn và từ bi. Hôm nay cả hai ông đã học được. Các ông đã hoàn toàn
được tập trung vào trò chơi, nhưng thế thì trong việc tập trung đó các ông có
thể cảm thấy từ bi và hi sinh mạng sống của các ông cho nó. Bây giờ, ở đây vài
tháng và theo đuổi huấn luyện của chúng ta theo tinh thần này và chứng ngộ của
ông là chắc chắn."
Anh ta đã làm như vậy
và đã có được điều đó.
Câu chuyện hay vô cùng.
Thầy đã tạo ra tình huống và đã chỉ ra toàn thể con đường. Điều này là trực tiếp
- chỉ ra con đường. Thầy đã chỉ ra mọi điều có thể được chỉ ra! Chỉ có hai điều
- thiền và từ bi. Thiền ngụ ý hoàn toàn bị cuốn hút vào trong cái gì đó, bị cuốn
hút toàn bộ trong cái gì đó, bị mất hút toàn bộ. Nếu bạn đang múa và chỉ điệu
múa còn lại và người múa bị quên đi, thế thì đó là thiền. Nếu bạn đang đánh bạc
và chỉ việc đánh bạc còn lại và con bạc biến mất, thế thì nó là thiền. Điều đó
có thể là bất kì hoạt động nào. Thiền không phải là chống đối bất kì hoạt động
nào. Thiền yêu cầu chỉ một điều: bị cuốn hút trong nó một cách toàn bộ, dù nó
là bất kì cái gì.
Nếu bạn là kẻ cắp và bạn
sắp ăn cắp, và trong khi ăn cắp nếu bạn bị cuốn hút một cách hoàn toàn và toàn
bộ, đó là thiền. Bạn là ai, bạn làm gì, không thành vấn đề! Với Thiền mọi thứ
thành vấn đề là tính toàn bộ, hoàn toàn tập trung, bị cuốn hút, bị mất hút, bị
say sưa trong nó. Nhiều tới mức bạn không đứng đằng sau tách rời. Đây là điều nền
tảng - thiền. Và thế thì việc chảy ra tự nhiên của nó, sản phẩm phụ của nó - là
từ bi. Từ bi không thể được thực hành. Nó tới như cái bóng của thiền.
Bây giờ, đây là toàn thể
Phật pháp, đây là tất cả. Và Thầy này, người mà cái tên không được biết tới, phải
đã là một người phát minh phương cách lớn. Qua trò chơi cờ ông ấy đã diễn đạt
toàn thể Phật pháp. Ông ấy đã diễn đạt mọi điều nền tảng, mọi điều được cần.
Không cái gì thêm là được cần. Điều này là đủ cho toàn thể cuộc hành trình của
bạn. Phương tiện và mục đích - mọi thứ được bao hàm trong tình huống nhỏ này.
Và bây giờ anh thanh
niên này biết rằng nó đã xảy ra, anh ta đã có nếm trải về nó. Nó đã xảy ra, nó
không còn là lí thuyết. Nó đã là trải nghiệm. Anh ta đã thấy nó xảy ra. Anh ta
chưa bao giờ nghĩ về bất kì người nào trong đời mình. Anh ta chưa bao giờ có bất
kì thoáng nhìn nào về từ bi. Nó là tuyệt đối không được biết tới, không quen
thuộc. Nhưng nó đã xảy ra.
Mạng sống riêng của anh
ta lâm nguy. Đầu tiên anh ta trở nên sợ và bắt đầu vã mồ hôi, phải đã trở nên bồn
chồn và bắt đầu chơi. Vì bồn chồn đó và vì sợ anh ta phải đã đi nước đi sai.
Cho nên chỉ ngẫu nhiên mà sư này đã thắng thế. Không có khả năng nào cho sư thắng.
Chính là vì sự bồn chồn của anh thanh niên này mà sư này đã thắng. Nhưng, dần dần,
anh ta phải đã bình tĩnh lại. Và thế rồi anh ta bắt đầu đi đúng. Và sư này bắt
đầu thua.
Một khoảnh khắc tới khi
anh thanh niên này là tuyệt đối chắc chắn: "Mình sẽ thắng. Thêm một nước nữa
và trò chơi kết thúc, và sư này bị kết thúc." Trong khoảnh khắc đó, một
cách tự nhiên, anh ta đã nhìn vào mặt sư đáng thương này. Và sư này đã không
làm bất kì cái gì sai. Tại sao sư phải mất mạng? Và vào khoảnh khắc đó anh ta
thấy sự bình thản, phẩm chất, phẩm chất khác biệt, thanh bình, cân bằng, an
bình, ngay cả trước chết - và anh ta được tràn ngập. Và cái gì đó mà anh ta
chưa bao giờ thấy nảy sinh trong tim anh ta đã nảy sinh. Cái gì đó rung động
trong anh ta, bài ca mới được sinh ra, cái nhìn sâu mới. Và cái nhìn sâu lớn
lao tới mức anh ta sẵn sàng mất mạng cho người ăn xin này người đã không ngụ ý
điều gì với anh ta.
Cái gì đã xảy ra? Phép
màu này thế nào? Làm sao nó tới?
Phép màu đã xảy ra qua
khoa học cơ bản, nền tảng. Anh ta đã trở nên được tập trung, anh ta đã trở nên
bị cuốn hút, anh ta đã trở nên hoàn toàn mất hút. Bản ngã của anh ta đã biến mất.
Khi bạn hoàn toàn bị mất hút trong bất kì cái gì, bản ngã biến mất. Đó là mọi
điều có đó để thiền, đó là mọi điều thiền là gì: việc biến mất của bản ngã. Nó
có thể là âm nhạc, nó có thể là điệu vũ, nó có thể là cung thuật, nó có thể là
đấu vật, nó có thể là bất kì cái gì. Làm bất kì cái gì bạn thích và tạo ra năng
lượng thiền quanh nó. Nếu bạn là bà nội trợ, nấu ăn có thể là thiền của bạn. Nếu
bạn là chủ tiệm, thế thì khách hàng của bạn là thiền của bạn.
Đó là lí do tại sao tôi
không bảo các sannyasin của tôi rời bỏ thế giới. Biến đổi thế giới đi - tại sao
rời bỏ nó? Đem thiền vào trong thế giới. Dù bạn ở bất kì chỗ nào, bắt đầu sống
trên bình diện tâm thức khác. Và bạn sẽ dần dần đi tới thấy từ bi nảy sinh
trong bạn. Và khi từ bi nảy sinh, nó sẽ tới từ đâu? Nó tới qua đam mê của bạn.
Thế giới là đẹp; 'từ
bi' là từ hay. Nó được làm từ 'đam mê'. Từ bi thu lấy năng lượng từ đam mê. Mọi
năng lượng mà đã chuyển vào trong đam mê bắt đầu chuyển vào trong từ bi. Một
khi chiếc cầu thiền được tạo ra, đam mê bắt đầu được tôn lên từ bi. Mọi điều bạn
đã từng tranh đấu, không có nhu cầu tranh đấu - nó có thể được biến đổi. Mọi điều
bạn bao giờ cũng nghĩ là sai, lại không sai! Nó chỉ cần chiếc cầu được biến đổi.
Thượng đế không bao giờ cho bất kì cái gì sai cho bất kì người nào. Làm sao
ngài có thể vậy? Ngài chỉ cho mọi thứ là đúng. Chỉ việc dùng đúng phải được học.
Có thời tôi đã có một
khu vườn - một ông già, nhưng thực sự là người làm vườn, đã hoàn toàn bị cuốn
hút. Tôi đã chọn ông ấy chỉ bởi vì ông ấy có tính thiền thế trong công việc.
Ông ấy sẽ không thấy ngày, ông ấy sẽ không thấy đêm. Thậm chí đôi khi vào nửa
đêm tôi thấy ông ấy cùng với thực vật. Ông ấy không được trả tiền nhiều cho
công việc đó, nhưng ông ấy liên tục quanh quẩn với thực vật. Ông ấy có từ bi lớn.
Chỉ công việc của ông ấy đã là sự cuốn hút thế với ông ấy. Từ bi nảy sinh. Ông ấy
đã không có cuộc sống khác. Ông ấy không quan tâm tới bất kì cái gì. Toàn thể
thế giới của ông ấy là thực vật. Thực vật đã là những người duy nhất ông ấy sống
cùng.
Ngay cả cỏ dại ông ấy sẽ
không vứt đi. Cỏ dại! Ông ấy sẽ nhổ cỏ dại - nhưng rất cẩn thận, rất yêu
thương. Chúng cũng là thực vật. Và ông ấy sẽ để những cỏ dại đó quanh bụi hồng,
dưới đất, gần rễ của bụi hồng.
Tôi hỏi ông ấy, "Ông
đang làm gì vậy?"
Ông ấy nói, "Cỏ dại
mang năng lượng lớn. Không cần vứt chúng đi, và chúng là người nữa. Chúng phải
được lấy ra, bằng không hoa hồng của tôi sẽ bị hỏng. Tôi phải lấy chúng, nhưng
cho chúng lời tạm biệt hay. Đây là nghĩa địa của chúng. Và tôi để chúng gần rễ
của hoa hồng. Sớm hay muộn chúng sẽ trở thành hoa hồng. Chúng trở thành phân.
Tôi biến đổi chúng, tôi không giết chúng."
Đó là nghệ thuật, đó là
kĩ năng. Đó là điều Thiền là gì. Thiền không nói với bạn, "Tranh đấu với dục,
tranh đấu với đam mê và thèm khát!" Nó nói: "Không có nhu cầu tranh đấu,
tạo ra chiếc cầu đi." Và thèm khát trở thành yêu, đam mê trở thành từ bi.
Nó là bản thân ham muốn, được giải phóng khỏi các đối thể, cái đó trở thành vô
ham muốn.
Chính thế giới này, mảnh
đất hoa sen. Chính thân này, vị phật.
Thiền không giải quyết
vấn đề, nó làm tan biến vấn đề.
Có lần một triết gia lớn
phương Tây, Ludwig Wittgenstein, được hỏi ông ấy đã làm gì với triết học. Đây
là câu trả lời của ông ấy nữa: "Tôi không giải quyết vấn đề, tôi làm tan
biến chúng." Và ông ấy có phẩm chất nào đó của Thiền trong ông ấy. Ông ấy
là triết gia phương Tây duy nhất của thời hiện đại, người có cái gì đó của Thiền.
Có lần ông ấy được hỏi,
"Ý định của ông trong triết học là gì?"
Ông ấy nói: "Để chỉ
cho ruồi lối ra khỏi chai."
Đó đích xác là định
nghĩa của Thiền: chỉ cho ruồi lối ra khỏi chai. Lối có đó!
Bạn phải đã thấy điều
đó xảy ra nhiều lần. Đôi khi một con bướm bay vào phòng. Nó biết nó đã vào bằng
cửa ra vào; nó biết có lối vào, cho nên nó biết một cách ngầm ẩn rằng bằng cùng
cửa đó nó có thể bay ra. Nhưng thế rồi nó bắt đầu bay tới cửa sổ, liên tục vùng
vẫy với cửa kính. Và nó càng vùng vẫy với cửa sổ đóng, nó càng trở nên thần
kinh hơn. Nó càng trở nên thần kinh, càng vô ý, sợ chết, sợ bao giờ cũng bị nhốt
trong căn phòng này mãi mãi. Nó mất ý thức! Trong trạng thái vô ý thức đó nó bắt
đầu tranh đầu nhiều hơn, ngay cả với tường. Và cửa ra vào có đó! Và cửa ra vào
đã từng ở đó. Và nó biết một cách ngầm ẩn. Làm sao nó có thể quên được? Điều đó
dường như là phép màu. Nó đã tới bằng cửa ra vào. Tại sao nó không bay ra bằng
cửa đó?
Cùng cửa ra vào mang bạn
vào thế giới lại đem bạn ra khỏi nó. Nhớ, đó là cùng cửa ra vào! Ở phía này ‘Lối
vào’' được viết lên, ở phía kia ‘Lối ra’ được viết lên. Nó là cùng một cửa ra
vào. Có hai phía của cùng một cửa ra vào. Đam mê mang bạn vào trong thế giới,
đam mê mang bạn ra ngoài nó. Ham muốn mang bạn vào trong thế gới, ham muốn đưa
bạn ra khỏi nó. Tham đem bạn vào trong thế giới, tham đem bạn ra khỏi nó. Đừng
bao giờ tranh đấu! Cái thấp kém không chỉ là lối vào, cái thấp kém là lối ra nữa.
Đây là cái gì đó để được
hiểu. Để điều đó chìm vào trong tim bạn: Không bao giờ tranh đấu! Không bao giờ
tạo ra bất kì xung đột nào! Bằng không bạn sẽ tạo ra phiền não, bằng không bạn
sẽ trở nên khổ hơn. Đó là điều đã xảy ra cho bạn. Mọi người là khổ giống như
con bướm này. Nghe câu chuyện này:
Thiền sư Thần Tán được
chứng ngộ qua Bách Trượng. Thế rồi ông ấy trở về thiền viện mà ông ấy đã được
nuôi dạy bởi ‘thầy giáo đầu tiên’ của ông ấy, sư đã nuôi dưỡng ông ấy từ thời
thơ ấu và sư này vào lúc đó, đã là người rất già...
Nhớ: ông ấy đã là thầy
giáo, không phải Thầy. Cho nên Thần Tán đã không đạt tới chứng ngộ qua ông ấy.
Anh ta phải đi tới Thầy khác nào đó, tới Bách Trượng. Khi anh ta đạt tới chứng
ngộ anh ta quay về với thầy già của mình. Thầy là người từ bi, người tốt. Thầy
đã nuôi dưỡng Thần Tán từ chính thời thơ ấu của anh ta. Thầy gần như người bố.
Một hôm Thần Tán giúp
thầy giáo già của mình tắm. Khi cọ lưng ông già, anh ta nói với ông ấy,
"Chỗ điện Phật đẹp mà Phật chẳng thánh!" Thầy già xoay đầu ngó lại
anh ta, và rồi Thần Tán bình luận, "Phật tuy chẳng thánh, vẫn hay phóng
quang."
Ông già cảm thấy hơi bối
rối, nhưng ông ấy không nói bất kì cái gì. Điều này là tuyệt đối mới: "Anh
thanh niên này đã kiếm được cái gì đó mới bây giờ vì anh ta đã quay lại. Phẩm
chất của anh ta đã thay đổi. Và đôi khi anh ta thốt ra những phát biểu mà có thể
ngụ ý nhiều điều, mà có thể không ngụ ý bất kì cái gì. Anh ta có thể đã chỉ học
chúng ở đâu đó. Hay, ai biết liệu anh ta có cái nhìn sâu nào đó, tỏ ngộ nào đó
chăng?" Ông già quan sát và chờ đợi.
Lần nữa, một hôm, khi
ông già đang đọc kinh gần cửa sổ bọc giấy, một con ong đã cố gắng một cách tuyệt
vọng, với mọi sức mạnh của nó, để bay ra khỏi phòng qua giấy nhưng đã không thể
nào bay qua được.
Thần Tán, thấy điều
này, nói, "Thế giới thênh thang như thế mà chẳng chịu ra, vùi đầu vào giấy
cũ biết năm nào ra được?"
Bây giờ, điều này là rất
có nghĩa. Nó có hai nghĩa. Ông già đang đọc cuốn sách cũ, và con ong đang cố
thoát ra cửa sổ bọc giấy - ở Nhật Bản họ làm các bức màn giấy. Và Thần Tán nói,
“Thế giới thênh thang như thế mà chẳng chịu ra, vùi đầu vào giấy cũ biết năm
nào ra được?" Và anh ta đọc bài thơ gatha:
“Cửa không chẳng chịu ra Quá ngu chui cửa sổ
Giấy cũ trăm năm dùi
Ngày nào dùi được không?”
Và ông già này sắp gần
trăm tuổi. Bây giờ điều này là quá nhiều.
Nghe thấy nhận xét này,
ông già đặt sách xuống và nói với Thần Tán, "Ngươi đi hành cước gặp người
nào, ta trước sau nghe ngươi nói lời dị thường?”
Thần Tán đáp, "Tôi
nhờ ơn Hòa thượng Bá Trượng chỉ dạy được chỗ thôi dứt. Nay muốn đáp lại đức từ
bi."
Thế rồi thầy giáo già
chuẩn bị một buổi lễ lớn tôn vinh đệ tử trẻ này, mời các sư trong tu viện tới
phương trượng, và cầu xin Thần Tán giảng pháp cho mọi người. Thế là Thần Tán đi
lên chỗ ngồi cao, và, theo truyền thống của Bách Trượng, đã giảng như sau:
Linh quang riêng chiếu, Vượt khỏi căn trần,
Bày hiện chân thường, Chẳng nệ văn tự.
Tâm tánh không nhiễm, Vốn tự viên thành,
Chỉ lìa vọng duyên, Tức như như Phật.
Khi nghe những lời này,
khi thấy đệ tử riêng của mình được toả sáng, khi lần đầu tiên cảm thấy anh ta
đã trở thành ai, ông già chạm chân đệ tử riêng của mình. Và khi ông ấy cúi lạy
và chạm chân đệ tử riêng của mình, ông ấy đã trở nên chứng ngộ, sáng suốt đã mở
ra.
Vâng, cửa bao giờ cũng
mở. Thiền không giảng bất kì cái gì mới cho bạn; nó đơn giản làm cho bạn nhận
biết rằng cửa là mở. Và bạn đã đi vào bởi cùng cửa! Liên tục đi tìm cách ra khỏi
nó đơn giản là ngu xuẩn.
Mọi người tới tôi và họ
hỏi - đặc biệt là người Ấn Độ - họ hỏi, "Làm sao thoát ra khỏi samsara
này, thế giới này?" Và tôi hỏi họ, "Bạn đã đi vào thế nào? Trước hết
nói cho tôi điều đó." Chừng nào điều đó chưa được biết tới làm sao bạn đã
đi vào, sẽ rất khó thoát ra khỏi nó - vì đường vào là đường ra!
Thiền để mọi thứ như nó
vậy, nhưng với khác biệt sâu lắng làm sao! Nó để mọi thứ như chúng vậy. Nó
không thay đổi bất kì cái gì, nó đơn giản thay đổi nhận biết của bạn về mọi sự.
Nhưng có lẽ lần đầu tiên chúng ta đi tới thấy chúng như chúng vậy. Nó không
thay đổi một chút nào... căn phòng vẫn còn như cũ. Cửa sổ vẫn còn được bọc giấy.
Cửa ra vào vẫn còn như nó bao giờ cũng vậy - để mở. Chỉ con ong trở nên nhận biết
rằng cửa là mở và không có nhu cầu cố gắng, không có nhu cầu làm bất kì nỗ lực
nào và vật lộn vất vả.
Thiền nói: Coi nó là dễ.
Mọi thứ là sẵn có. Mọi thứ đã được làm thành sẵn có từ chính lúc bắt đầu. Không
cái gì bị thiếu, ngoại trừ một điều: rằng bạn không nhìn quanh. Thấy, giận của
bạn có thể được biến đổi thành yêu vĩ đại. Tham của bạn có thể trở thành việc
chia sẻ. Chính tính sở hữu của bạn một ngày nào đó trở thành từ bỏ. Cho nên Thiền
không có kết án. Thiền đơn giản nói, tìm Thầy sống và ở trong sự hiện diện của
Thầy. Ngồi im lặng bên cạnh thầy - cửa của thầy đang mở. Cửa của bạn cũng mở.
Khác biệt là: thầy biết cửa của thầy đang mở, bạn không biết rằng cửa của bạn
đang mở. Khi nhìn qua thầy - cửa của thầy, tính mở của thầy, không gian bên
trong của thầy - một ngày nào đó, đột nhiên việc nhận ra nảy sinh rằng "Cửa
riêng của mình đang mở và bao giờ cũng mở!" Thiền nói: Không cái gì đã bị
giấu từ chính lúc bắt đầu.
Điều gì xảy ra cùng Thầy
khi bạn ở trong sự hiện diện của thầy?
Khi nước được múc lên
trong tay, Trăng được phản xạ trong chúng. Khi hoa được cầm
Hương thấm vào trong áo
choàng...
Khi hoa được cầm, hương
thấm vào trong áo choàng...
Khi bạn tới quanh người
chứng ngộ, cái gì đó của chứng ngộ của người đó thấm vào áo choàng của bạn, cái
gì đó của hương thơm của người đó bắt đầu truyền vào bạn. Nó là nhịp đập rộn
ràng, rung động - nhưng mắt được cần tới.
Thiên thần kia có thể
thấy rừng xoài toả sáng bên dưới ông ấy. Nếu như bạn đi qua rừng xoài này bạn
có thể đã không thấy, vì việc toả sáng đó cần việc mở nào đó trong bạn. Thiên
thần nghe thấy pranava - âm thanh vô âm, omkar - toàn thể khu rừng hát bài ca,
mở hội cái gì đó. "Cái gì đó cực kì quan trọng đã xảy ra. Cây đã nở hoa
trái vụ!" Ông ấy có thể thấy, nhưng bạn có thể đã đi qua cạnh rừng xoài và
bạn có thể đã không thấy - vì để thấy những điều như vậy, tin cậy lớn được cần.
Để thấy những điều như vậy, tính mở được cần. Để thấy và nghe những điều như vậy
bạn phải ném rác rưởi của bạn mà bạn liên tục mang trong đầu bạn.
Việc cảm của tôi là ở
chỗ từng người trong các bạn ở đây đã nhiều lần đi qua khu rừng xoài như vậy -
lúc thì một Phật, lúc thì một Mansoor, lúc thì một Ali, và đôi khi một
Ramakrishna, một Raman, đôi khi một Mahavir, một Zarathustra. Bạn đã đi qua! Điều
không thể được là suốt nhiều thời đại bạn đã không bao giờ bắt gặp một rừng
xoài toả sáng - bạn phải đã bắt gặp. Khả năng lớn hơn là ở chỗ không chỉ một lần,
mà nhiều lần bạn có thể đã bắt gặp rừng xoài toả sáng - nhưng bạn đã bỏ lỡ. Đừng
bỏ lỡ lần này!
Và ngày Guru Purnima là
ngày của mọi vị Phật, mọi người đã trở nên nhận biết. Trong việc nhớ về họ, trở
nên nhận biết đi. Rừng xoài là ở đây ngay trước bạn. Bạn có thể thấy ánh sáng
chói sáng đó. Nó là ở đây! Bạn có thể nghe âm thanh bầu trời đó; âm nhạc đó
đang xảy ra. Và bạn có thể soải cánh bay vào trong hương thơm của tôi. Điều đó
là tuỳ vào bạn - bạn sẵn sàng thế nào để nhận, bạn sẵn lòng thế nào để nhận, bạn
sẽ đi cùng tôi bao nhiêu, sâu bao nhiêu.
Bạn có thể tới đây chỉ
để nghe lời của tôi; thế thì bạn sẽ bỏ lỡ thông điệp thực. Bạn có thể tới đây đầy
những điều vô nghĩa của bạn, tính tranh cãi của bạn; thế thì bạn sẽ không có khả
năng nghe thấy điều tôi đang cố truyền đạt. Bạn có thể tới đây như người Mô ha
mét giáo, người Hindu, người Jain, và bạn sẽ bỏ lỡ tôi - nhưng chỉ bạn sẽ chịu
trách nhiệm, không người nào khác.
Cố hiểu trách nhiệm của
bạn hướng tới bản thân bạn đi. Bạn đã dò dẫm trong bóng tối đủ rồi! Khi ánh
sáng trở thành sẵn có, đừng bỏ lỡ cơ hội này. Lấy cú nhảy đi...
Có một phát biểu nổi tiếng
của Jalaluddin Rumi: "Tôi đã chết như khoáng thạch và đã trở thành thực vật.
Tôi đã chết như thực vật và vươn lên thành con vật. Tôi đã chết như con vật và
tôi đã là người. Tại sao tôi phải sợ? Khi nào tôi kém hơn bởi việc chết?"
Và chính nỗi sợ tới khi
bạn tới quanh Thầy - sợ chết. Nhưng nghe phát biểu này của Rumi: "Tại sao
tôi phải sợ? Khi nào tôi kém hơn bởi việc chết? Tôi đã chết như thực vật và đã
trở thành con vật. Tôi đã chết như con vật và đã trở thành người."
Khi bạn chết trong Thầy
như một người, bạn trở thành điều thiêng liêng. Thầy là cái chết và phục sinh.
Ngày này của Guru Purnima là ngày của chết và phục sinh. Nó không phải là ngày
bình thường - nó là rất biểu tượng. Nếu bạn tới tôi, bạn chỉ tới theo một cách:
nếu bạn đi tới chết trong tôi. Và và bạn sẽ không kém hơn bởi việc chết của bạn
- bạn sẽ là nhiều hơn, bạn sẽ là nhiều hơn vô hạn. Bạn sẽ không mất bất kì cái
gì và bạn sẽ thu được tất cả.
Cái chết này trong Thầy
là điều làm cho một người thành đệ tử. Nó không phải là mối quan hệ bình thường;
nó là quan hệ phi thường duy nhất trong thế giới. Mọi mối quan hệ khác là bình
thường. Mọi mối quan hệ khác là một phần của thế giới. Chỉ quan hệ này không phải
là một phần của thế giới - nó đưa bạn ra bên ngoài. Nó là chiếc cầu vàng từ cái
hữu hình sang cái vô hình, từ vật chất sang điều thiêng liêng, từ cái biết sang
cái không biết, từ tử sang bất tử. Nhưng... trước hết bạn sẽ phải chết.
Ở cùng Thầy là mang cây
chữ thập của bạn trên vai bạn. Đó là lí do tại sao chỉ những người rất dũng cảm
có thể trở thành đệ tử. Tôi không ở đây cho các học trò, tôi không quan tâm tới
học trò chút nào. Tôi chỉ quan tâm tới đệ tử, những người đủ dũng cảm để đi vào
cuộc hành trình vĩnh hằng này.
Ba điều bạn cần: thứ nhất
- lắng nghe trong tâm trí; thứ hai - trầm tư trong tim; thứ ba - thực hành
trong thân.
Lắng nghe trong tâm
trí. Khi bạn nghe tôi - những lời này không phải là của tôi, đây là lời của mọi
chư Phật. Những lời này chẳng liên quan gì tới tôi. Tôi không còn ở đây. Tôi
đang vận hành chỉ như cây trúc hổng. Những lời này là của mọi chư Phật - quá khứ,
hiện tại và tương lai nữa. Vì thông điệp là cùng một, nó bao giờ cũng là cùng một,
nó là thông điệp vĩnh hằng - sanatan dharma. Nó là thông điệp vĩnh hằng.
Lắng nghe trong tâm trí
mà không tranh cãi. Nếu bạn đang tranh cãi với tôi, bạn sẽ bỏ lỡ. Và tôi không
bối rối khi bạn bỏ lỡ. Tôi không mất bất kì cái gì. Nếu bạn bỏ lỡ, bạn bỏ lỡ. Lắng
nghe trong tâm trí mà không tranh cãi. Và tôi không nói tin vào điều tôi nói. Đừng
hiểu lầm tôi. Tôi không nói tin tưởng. Chỉ không tranh cãi, không có nhu cầu
tin. Đầu tiên chỉ lắng nghe một cách im lặng như tấm gương.
Khi bạn tới trước
gương, gương không tin vào bạn, nhưng gương phản xạ bạn một cách hoàn hảo như bạn
vậy. Gương không có thái độ về bạn, tốt hay tồi, đẹp hay xấu - không, không có
thái độ nào. Gương không tranh cãi. Nó đơn giản phản xạ. Lắng nghe trong tâm
trí ngụ ý: lắng nghe điều tôi đang nói. Không có vội vàng để tin. Và không có vội
vàng để không tin. Đó là điều tôi ngụ ý: không lắng nghe với việc tranh cãi.
Đơn giản lắng nghe.
Thứ hai: trầm tư trong
tim. Lắng nghe, và để nó chìm vào trong tim bạn. Đừng vội vàng nghĩ về nó. Nếu
bạn nghĩ trong vội vàng, nó sẽ vẫn còn trong đầu. Trước hết để nó đi sâu. Để nó
đến mai, để nó thấm đẫm, để nó đi sâu hơn chút ít. Để nó lắng vào trong tim. Do
đó, trầm tư trong tim. Thế rồi đừng vội vàng thực hành nó. Để nó thấm đẫm sâu
hơn chút ít. Để nó đạt tới thân thể, vào trong tâm can của bạn, và thế thì nó
trở thành việc thực hành theo cách riêng của nó.
Đây là ba giai đoạn của
việc ở cùng Thầy.
Bây giờ tới câu chuyện
này, câu chuyện của hôm nay.
Nó là câu chuyện đơn giản
nhưng hay.
Những bài nói của thầy
Bàn Khuê được không chỉ có các thiền sinh mà còn cả những người ở mọi đẳng cấp
và giáo phái khác tham dự. Ông ấy không bao giờ trích dẫn kinh mà cũng không mê
say trong các luận đàm kinh viện. Thay vì thế, lời của ông ấy được nó thẳng từ
tim ông ấy qua tim của người nghe.
Thầy bao giờ cũng nói từ
tim qua tim. Thầy không nói từ đầu tới đầu. Từ đầu tới đầu không có liên lạc
trao đổi bao giờ. Đầu tới đầu, bao giờ cũng có tranh đấu, tranh luận; bao giờ
cũng có xung đột. Chỉ từ tim qua tim là có giao cảm, trao đổi. Chỉ tim qua tim
việc hiểu là có thể.
Cho nên, nhiều người tới
tôi, nhưng chỉ vài người hiểu. Nhiều người sẽ tới tôi, và chỉ vài người sẽ thu
được lợi. Những người đó sẽ là những người nghe từ tim. Những lời này không tới
với bạn từ cái đầu. Đầu của tôi hoàn toàn trống rỗng. Tôi không nói vì tôi muốn
tạo ra hệ thống, hay triết lí, hay tôn giáo. Tôi nói bởi vì cái gì đó đã xảy ra
cho tôi, tôi muốn chia sẻ nó với bạn. Đó là việc chia sẻ.
Số đông khán giả của
ông ấy giận một tu sĩ của tông phái Nhật Liên vì những người trung thành tông
phái đã bỏ nghe về Thiền.
Các tu sĩ bao giờ cũng
trong lo lắng. Họ bao giờ cũng tức giận. Bất kì khi nàoThầy nảy sinh, bất kì chỗ
nào, các tu sĩ bao giờ cũng tức giận, vì khi ai đó bắt đầu nói từ tim, những người
sống trong đầu bắt đầu mất khách hàng của họ. Một cách tự nhiên, tu sĩ này đang
trong kinh doanh, ông ta trở nên rất tức giận.
Bạn sẽ thấy hàng triệu
người giận tôi. Và là phép màu! Tu sĩ Mô ha mét giáo giận, tu sĩ Hindu giận, tu
sĩ Phật giáo giận, tu sĩ Jain giận, linh mục Ki tô giáo giận. Đây là phép màu!
Ít nhất trên một điều họ đồng ý: rằng tôi sai. Đó là đồng ý duy nhất của họ. Bằng
không họ không đồng ý về bất kì cái gì. Tại sao họ phải giận nhiều thế? - vì bất
kì khi nào đồng tiền thực có đó, đồng tiền giả bắt đầu cảm thấy lúng túng.
Số đông khán giả của
ông ấy giận một tu sĩ của tông phái Nhật Liên vì những người trung thành tông
phái đã bỏ nghe về Thiền. Tu sĩ tông phái Nhật Liên đã tới đền, quyết tranh cãi
với Bàn Khuê.
Bây giờ bạn không thể
tranh cãi với Thầy. Điều đó là không thể được. Thầy không có bản ngã. Làm sao bạn
có thể tranh cãi với Thầy? Bạn có bản ngã, do đó có ý tưởng về tranh cãi -
tranh cãi là một loại vật lộn, việc vật lộn, tranh đấu rất tinh tế. Nó không là
gì ngoài bạo hành dưới dạng rất văn minh.
"Này, Thiền
sư!" Ông ấy gọi. "Đợi một phút. Bất kì ai kính trọng ông sẽ vâng theo
điều ông nói, nhưng người như bản thân tôi không trọng ông. Ông có thể làm cho
tôi vâng theo ông không?"
"Tới bên cạnh ta
và ta sẽ chỉ cho ông, " Bàn Khuê nói.
Bây giờ, Thầy quan tâm
nhiều tới việc chỉ ra hơn là nói bất kì cái gì. Thầy làm các cử chỉ để truyền đạt.
Với tình yêu lớn thầy phải đã nói, "Tới bên ta đi, tới gần vào. Tới ngay ở
mức của ta." Đó là nghĩa của 'bên cạnh ta'.
Tu sĩ này giận. Ông ta
nói, "Này, Thiền sư! Đợi một phút." Và Thầy đang nói, và chỉ ngay giữa
chừng ông ta đã can thiệp vào. "Bất kì ai kính trọng ông sẽ vâng theo điều
ông nói, điều đó là được. Nhưng tôi không trọng ông. Ông có thể làm cho tôi
vâng theo ông nữa không?"
Bây giờ Thầy không
tranh cãi. Thầy tạo ra tình huống, thầy phát minh ra phương pháp. Nó là tức khắc,
không một khoảnh khắc bị mất. Thầy đáp ứng.
"Tới bên cạnh ta
và ta sẽ chỉ cho ông," Bàn Khuê nói. Một cách ngạo nghễ tu sĩ này xô đẩy dọn
đường đi qua đám đông tới thầy giáo.
Bàn Khuê mỉm cười.
Khi Thầy mỉm cười với bạn,
cảnh giác. Thầy đã tung ra cái bẫy, sớm hay muộn bạn sẽ bị mắc bẫy. Mọi người bị
mắc bẫy trong nụ cười.
Bàn Khuê mỉm cười.
"Qua bên trái ta đây," ông ấy nói...
Lễ phép thế, nhã nhặn
thế. Và các Thiền sư không giống điều đó chút nào. Nhưng lúc ban đầu mọi Thầy đều
rất nhã nhặn, rất lễ phép. Một khi bạn bị mắc bẫy thầy bắt đầu đánh bạn, vì chỉ
thế thì bạn sẽ hiểu từ bi của thầy.
"Qua bên trái ta
đây."
Và tu sĩ này hoàn toàn
vô nhận biết về điều đang xảy ra. Vì ông ta chưa bao giờ nghĩ! Ông ta đang chờ
đợi tranh cãi. Ông ta đã sẵn sàng tới, được chuẩn bị. Ông ta phải đã diễn tập
trong nhiều ngày và nhiều đêm. Ông ta phải đã chuẩn bị toàn thể bài nói của
mình - ông ta sẽ nói gì với Thiền sư, và làm sao ông ta sẽ tranh cãi với Thiền
sư. Bây giờ ông ta hoàn
toàn vô nhận biết, ông
ta bị bận tâm. Bận tâm tạo ra vô nhận biết. Ông ta bị bận tâm, ông ta phải ở
bên trong tâm trí của ông ta, nghĩ, "Giờ mình sẽ nói cái này, và ông ấy sẽ
nói cái kia, và mình sẽ nói ngược lại ông ấy bằng cái kia." Ông ta hoàn
toàn vô nhận biết rằng Thầy đã bắt đầu làm việc. Ông ta là vô ý thức.
Bàn Khuê mỉm cười.
"Qua bên trái ta đây." Tu sĩ vâng theo.
"Không," Bàn
Khuê nói, "chúng ta có thể nói tốt hơn nếu ông ở bên phải. Bước qua đây đi."
Tu sĩ ngạo nghễ bước
qua bên phải.
"Ông thấy
chưa," Bàn Khuê theo dõi, "Ông đang vâng lời ta và ta nghĩ ông là người
rất lịch thiệp …"
"... Ta nói ông đi
sang bên trái, ông đi sang bên trái. Ta nói ông đi sang bên phải và ông đi sang
bên phải. Cái gì khác được cần...?"
Giờ ngồi xuống và
nghe."
Thực ra, không cái gì
thêm là được cần. Thiền là hiển nhiên thế. Nó chỉ giống thế này: Tới bên trái
ta, tới bên phải ta. Tu sĩ này đã không nghĩ rằng ông ta vâng theo. Đó là cái
hay của Thầy. Thầy không bao giờ ra lệnh và bạn bắt đầu vâng theo Thầy. Thầy
không bao giờ bảo bạn làm cái gì, và bạn bắt đầu làm mọi điều mà Thầy muốn bạn
làm. Đó là cái hay của Thầy. Đó là thông điệp bất bạo hành của Thầy. Từng cử chỉ
của Thầy, nụ cười của Thầy, việc giơ tay lên, bắt đầu tạo ra cái gì đó trong bạn.
Thầy là năng lượng vô cùng - năng lượng đó bắt đầu rung động trong bạn, làm
chuyển động bạn, làn thay đổi bạn, biến đổi bạn, chuyển bạn vào thế giới khác.
Bàn Khuê chỉ chỉ ra một
sự kiện rất đơn giản, rằng Thiền không có lời răn, Thiền là rất hiển nhiên. Nó
giống như nếu tôi nói, "Đây là cửa ra vào, xin đi ra bằng cửa này thay vì
đi ra qua tường." Bạn đang định làm gì? Bạn sẽ cố đi ra chỉ để không vâng
theo tôi sao? Thế thì bạn sẽ đơn giản là ngu xuẩn và bạn sẽ bị thương.
Thiền nói chân lí là
đơn giản và hiển nhiên thế; chúng ta không cần ép buộc bất kì người nào đi
theo. Điều đó giống như chỉ cho người đó: "Đây là cửa ra vào, thưa ông, và
đây là tường. Bây giờ điều đó là tuỳ ở ông. Nếu ông muốn đi ra ông có thể đi ra
qua cửa ra vào, nhưng nếu ông muốn tranh đấu, ông có thể cố đi qua tường - và
làm bị thương đầu ông! Điều này là tuỳ ở ông."
Đích xác giống điều đó,
tôn giáo thực là rất đơn giản. Nó không phức tạp. Nó rất dễ dàng. Bạn đơn giản
cần chút ít thông minh.
Đó là lí do tại sao Bàn
Khuê nói, "Ông đang vâng lời ta và ta nghĩ ông là người rất lịch thiệp
" Cái gì khác còn được cần nữa? Tin tưởng không được cần - chỉ lịch thiệp,
tỉnh táo, thông minh là được cần.
Bất kì khi nào tôi thấy
một người thông minh, tôi biết người đó sẽ ở cùng tôi. Bất kì khi nào tôi thấy
sự thông minh ở bất kì chỗ nào, tôi đột nhiên biết một sannyasin tiềm năng đã tới.
Người thông minh không thể thoát khỏi đây. Chỉ người không thông minh, người đần
độn, những người có cái đầu rất dầy, nhưng người thực sự rất xoàng - chỉ họ có
thể trốn thoát. Nếu bạn có chút ít thông minh, chỉ một tia sáng, điều đó sẽ có
tác dụng. Tôi ở đây để thay đổi nó thành toàn thể nguồn sáng. Chỉ một tia sáng
bạn sẽ cần, ít nhất lúc ban đầu, để bắt đầu.
Bàn Khuê nói, "Ông
thấy đấy, ông đã vâng theo rồi, và ta đã không ra lệnh. Ta không ra lệnh cho
các đệ tử, ta không yêu cầu sự kính trọng của họ. Nếu họ kính trọng, đó là chuyện
khác. Nếu họ tuân theo, đó là quyết định của họ. Họ không có nghĩa vụ phải tuân
theo bằng bất kì cách nào. Nếu họ buông xuôi, đó là cách thức riêng của họ, đó
là niềm vui của họ. Và ta nghĩ ông là người rất lịch thiệp, ông đang vâng theo
ta. Giờ ngồi xuống và lắng nghe đi."
Đơn giản là tôn giáo. Đừng
làm nó thành phức tạp. Đừng thêu dệt các lí thuyết quanh nó, và đừng làm nó
thành gian nan không cần thiết. Bản ngã muốn những thứ khó khăn. Bản ngã không
quan tâm tới thứ đơn giản. Khi tôi nói với bạn, "Chính khoảnh khắc này các
bạn có thể trở thành chư Phật!" cái gì đó bên trong bạn nói, "Làm sao
điều đó là có thể được? Đơn giản thế sao? Dễ thế sao?" Bạn sẽ muốn cái gì
đó rất khó, để cho nó có thể trở thành thách thức cho bản ngã của bạn. Thượng đế
không phải là thách thức: Thượng đế là chuyện tình. Thượng đế không phải là đỉnh
Everest bạn phải trèo lên: Thượng đế là vực thẳm - bạn không có chỗ nào để
trèo, bạn có thể đơn giản lấy cú nhảy chính khoảnh khắc này. Và bạn sẽ biến mất.
Thượng đế không phải là
cầu thang mà bạn phải đi chậm từng bậc một. Thượng đế là cú nhảy lượng tử. Bạn
có thể rơi vào trong Thượng đế cũng như bạn rơi vào yêu. Nó là dễ dàng. Coi nó
là dễ đi. Và khoảnh khắc bạn bắt đầu nghe chân lí dễ dàng, chân lí đơn giản, bản
ngã bắt đầu biến mất. Bản ngã bao giờ cũng quan tâm tới những thứ khó khăn. Đi
lên mặt trăng - bản ngã nói, "Được, điều này hấp dẫn. Điều này tôi sẽ trả
giá. Được, chúng ta đi lên mặt trăng."
Bây giờ có một người ở
Mĩ, Timothy Leary. Ngay bây giờ ông ta mới được thả ra khỏi tù. Đầu tiên ông ta
đã bán ý tưởng cho mọi người rằng ma tuý là cánh cửa tới samadhi. Do đó ông ta
bị tù. Bây giờ sau sáu năm trong tù ông ta đã được ra. Bây giờ ông ta đang bán
ý tưởng khác, thậm chí còn ngu hơn. Ý tưởng rằng ông ta đang chuẩn bị chuyến đi
lên mặt trăng. Ông ta đã bắt đầu bán vé. Và cùng những người ngu, người đã đi
vào trong ma tuý để đạt tới Thượng đế bây giờ sẽ đi lên mặt trăng - có thể Thượng
đế ở đó.
Nếu bạn đi lên mặt
trăng, bạn chẳng đi đâu cả. Bạn sẽ vẫn còn là cùng người. Nếu bạn dùng ma tuý,
bạn không thay đổi. Bạn sẽ vẫn còn là cùng người, bạn thậm chí có thể trở nên tồi
hơn. Ảo vọng không thể giúp đỡ. Nhưng con người bao giờ cũng trong việc tìm ảo
vọng nào đó, mục đích xa xôi, để cho người đó có thể xoay xở một chuyến đi tinh
thần, một phóng chiếu. Cho nên người đó có thể nghĩ về tương lai và quên đi hiện
tại.
Do đó nhấn mạnh của mọi
chư Phật là: Chính khoảnh khắc này là mọi điều có thể - bạn không cần đợi dù một
khoảnh khắc, không có nhu cầu trì hoãn! Coi sống là dễ dàng, coi sống là đơn giản
- sống là Thượng đế. Bị cuốn hút vào trong sống. Sống là chính điện thờ. Qua sống
bạn sẽ biết cái được ẩn kín trong nó.
Đừng bao giờ chống lại
sống, đừng bao giờ tranh đấu với sống. Đi cùng sống, chảy cùng sống. Đi cùng
dòng sông sự sống... và sông đã đi tới đại dương.
Người đạt tới việc
buông bỏ này với sự sống là một dự lưu srotaapanna - Phật đã gọi người đó là vậy.
Người đó đã đi vào trong dòng, giờ không có lo nghĩ. Tôi gọi một người là
'sannyasin' là người đã đi vào dòng. Bây giờ không có lo nghĩ, bây giờ không
cái gì phải được đạt tới - người đó đã thảnh thơi. Và bất kì khi nào Thượng đế
chọn, nó sẽ xảy ra. Người đó thậm chí không khao khát về nó. Người đó bình thản
và thanh bình; người đó có cân bằng, yên tĩnh; người đó không có ham muốn và
không căng thẳng và không lo âu. Người đó không đòi hỏi là ai đó khác - người
đó hạnh phúc như người đó vậy.
Sự mãn nguyện mênh mông đó là điều tính chất sannyas là gì. Và bạn có thể mở hội Guru Poornima chỉ nếu bạn là một sannyasin.
Xem tiếp Chương 2 – Quay về Mục Lục Tập 3 – Quay về Mục Lục Toàn Tập