Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Osho Tự Truyện
(Cuộc Đời Luận Sư Osho)
Chương 19. Phật Zorba - Hữu Thể Người Toàn Bộ
Nghe hoặc Tải MP3 'Osho Tự Truyện' ê
Hãy nhìn đời bằng ánh
mắt đùa vui – rồi bạn có thể có cả hai thế giới một lượt. Bạn vừa có cái bánh
cake, lại vừa ăn nó. Và đó là một nghệ thuật thực thụ! Thế giới này và thế giới
kia, âm thanh và sự im lặng, tình yêu và thiền định, có mặt với mọi người, ở
trong tương quan, và ở một mình. Tất cả những điều này phải được sống cùng nhau
trong một loại đồng thời; chỉ lúc đó, bạn mới sẽ biết cái chiều sâu nhất của bản
thể bạn và chiều cao tận cùng của bản thể bạn.
Một người luật sư đi
tới bờ mép của cái hầm mỏ, nơi mà một tốp thợ đang làm việc và gọi tên của
Timothy O' Toole.
"Ai đang cần gặp
tôi?" một giọng nói ồ ồ dò hỏi.
"Ông Toole ạ,"
người luật sư hỏi, "có phải ông đến từ Castlebar, quận Mayo?"
"Đúng vậy."
"Và mẹ ông tên
là Bridget và cha ông, Michael?"
"Đúng."
"Vậy thì nhiệm vụ
của tôi," người luật sư nói, "là thông báo cho ông, O' Toole ạ, rằng bà cô Mary của ông đã mất tại Iowa, để lại
cho ông một bất động sản trị giá hai trăm ngàn Mỹ kim."
Có một khoảng im lặng
ngắn bên dưới, và rồi một sự rung chuyển náo loạn.
"Ông đến chưa vậy,
hả ông O' Toole ?" người luật sư gọi xuống.
"Đợi một
phút," một giọng trả lời rống lên. "Tôi vừa mới ngừng lại để cho đo
ván gã đốc công."
Chỉ cần sáu tháng ăn
chơi phóng đãng, cũng đủ để O' Toole xài hết hai trăm ngàn Mỹ kim. Nỗ lực chủ yếu
của anh ta là, thỏa mãn một cơn khát to lớn, cơn khát thừa kế. Rồi anh ta trở lại
công việc của mình. Và ở đó, chẳng bao lâu sau, người luật sư lại tìm kiếm anh
ta.
"Lần này là Bác
Patric của ông, O' Toole ạ," người luật sư giải thích. "Ông ta đã chết
tại Texas và để lại cho ông bốn trăm ngàn Mỹ kim."
O' Toole tựa một cách
nặng nề lên cái cuốc chim của anh ta và lắc đầu một cách chán nản.
"Tôi không nghĩ
rằng tôi có thể nhận nó," anh ta tuyên bố. "Tôi không còn khỏe như
trước đây, và tôi không tin rằng tôi có thể xài hết món tiền ấy mà vẫn còn sống."
Đó là cái đã xảy ra tại
phương Tây. Con người tại phương Tây đã thành công trong việc đạt tới tất cả
cái sự giàu có mà toàn nhân loại đã từng khao khát qua nhiều nhiều thời đại.
Phương Tây đã thành công về mặt vật chất, đã trở nên giàu có và bây giờ nó đang
quá chán chường, quá mệt mỏi. Cuộc hành trình đã tước mất toàn bộ linh hồn nó.
Cuộc hành trình đã "kết thúc" con người phương Tây. Bề ngoài, mọi thứ
đều có thể đạt được, nhưng sự tiếp xúc với cái bên trong bị đánh mất. Bây giờ mọi
thứ mà con người cần đều có thể đạt được, nhưng chính con người thì không còn ở
đó. Những vật sở hữu thì ở đó, nhưng con người không đang cảm thấy giàu có chút
nào; trái lại, con người đang cảm thấy bị bần cùng hóa, rất nghèo nàn.
Hãy nghĩ về sự nghịch
lý này: Khi bạn giàu có bên ngoài, thì chỉ lúc đó bạn mới trở nên nhận biết về
sự nghèo nàn bên trong – qua sự tương phản. Khi bạn nghèo bên ngoài, bạn không
bao giờ trở nên nhận biết về sự nghèo nàn bên trong, bởi vì không có sự tương
phản nào. Bạn viết với phấn trắng trên bảng đen, không phải trên tấm bảng trắng.
Tại sao? Bởi vì chỉ trên bảng đen nó mới hiện ra rõ ràng. Sự tương phản được cần
đến.
Khi bạn giàu có bên
ngoài, thì bỗng nhiên một sự nhận biết sâu sắc xảy ra, rằng: "Bên trong
tôi nghèo, tôi là một kẻ ăn xin." Và bây giờ, một trạng thái vô hy vọng đến
như một cái bóng: "Mọi cái mà chúng ta nghĩ về đều đã được đạt tới – mọi
tưởng tượng và "mơ tưởng" đều được thực hiện – và không có gì xảy ra
từ nó, không có sự hài lòng, không có phúc lạc nào cả."
Phương Tây hoang
mang. Từ sự hoang mang này, một ước vọng lớn khởi lên: làm thế nào để một lần nữa
tiếp xúc với bản ngã của mình.
Thiền định không là
gì khác hơn ngoài việc cắm rễ một lần nữa vào trong đời sống nội tâm, vào trong
tính nội tại của bạn. Do vậy, phương Tây đang trở nên rất quan tâm đến thiền định
và rất quan tâm đến những kho báu của phương Đông.
Phương Đông cũng quan
tâm đến thiền định khi phương Đông giàu có; điều này phải được hiểu. Đó là lý
do tại sao tôi không chống lại của cải và tôi không nghĩ rằng sự nghèo nàn có một
chút tính tâm linh nào trong nó. Tôi hoàn toàn chống lại sự nghèo nàn, bởi vì bất
cứ khi nào một đất nước trở nên nghèo, nó đánh mất tất cả thiền định, tất cả những
nỗ lực tâm linh. Bất cứ khi nào một đất nước trở nên nghèo bên ngoài, nó không
thể nhận biết về sự nghèo nàn bên trong.
Đó là lý do tại sao
trên những khuôn mặt Ấn Độ, bạn có thể thấy một loại mãn nguyện mà không được
tìm thấy tại phương Tây. Nó không phải là sự mãn nguyện thực thụ; nó chỉ là trạng
thái bất thức về sự nghèo nàn nội tâm. Những người Ấn Độ nghĩ, "Hãy nhìn
vào sự lo âu, sự thống khổ, và sự căng thẳng trên những khuôn mặt phương Tây. Mặc
dù chúng ta nghèo, chúng ta rất mãn nguyện bên trong." Đó là sự ngây ngô,
vớ vẩn cực kỳ; thực ra, họ không mãn nguyện. Tôi đã từng quan sát hằng ngàn người
– họ không mãn nguyện. Một điều chắc chắn đúng, là họ không nhận biết về sự bất
mãn, bởi vì để nhận biết sự bất mãn, thì phải cần đến sự giàu có bên ngoài.
Không có sự giàu có bên ngoài, thì không ai trở nên nhận biết sự bất mãn bên
trong của họ – và có thừa những chứng cớ về điều đó.
Tất cả những avatar của
những người Hindu đều là vua hay là con trai của vua. Tất cả những tirtankara của
đạo Jaina, những đạo sư Jaina, đều là vua; Đức Phật cũng vậy. Tất cả ba truyền
thống lớn của Ấn Độ đã cung cấp đầy đủ chứng cứ. Tại sao Đức Phật trở nên bất
mãn, tại sao Ngài bắt đầu một cuộc tìm kiếm thiền định? Bởi vì Ngài giàu có.
Ngài sống trong xa hoa; Ngài sống với tất cả mọi tiện nghi vật chất. Bỗng nhiên
Ngài trở nên nhận biết. Và Ngài còn khá trẻ khi nó xảy ra; Ngài chỉ mới 29 tuổi
khi Ngài trở nên nhận biết rằng có một lỗ hổng đen bên trong. Ánh sáng ở bên
ngoài; do vậy, nó cho thấy bóng tối bên trong của bạn. Chỉ một chút bẩn trên một
sơ mi trắng, và nó hiện rõ. Đó là cái đã xảy ra. Ngài trốn thoát khỏi cung điện.
Đó là cái đã xảy ra
cho Mahavira; Ngài cũng trốn khỏi một cung điện. Nó không đang xảy ra cho một kẻ
hành khất. Cũng có những kẻ hành khất trong thời của Đức Phật. Thật ra, theo truyền
thuyết, Đức Phật từ bỏ thế gian khi Ngài thấy một kẻ hành khất lần đầu tiên, và
một ông già, một tử thi, và mộtsannyasin. Những người ăn xin có mặt ở đó.
Đức Phật, thái tử
Siddartha, sắp tham dự vào một lễ hội dành cho giới trẻ, chàng phải khánh thành
nó. Từ chiếc kim xa của mình, chàng thấy một kẻ hành khất – lần đầu tiên, bởi
vì phụ vương chàng đã xoay xở suốt đời ông, sao cho Thái tử sẽ không bao giờ thấy
một kẻ hành khất, hay một người bệnh, hay một người chết. Bởi vì khi Ngài đản
sanh, những nhà chiêm tinh đã nói với vua cha: "Nếu thái tử thấy những người
này, ngay lập tức thái tử sẽ từ bỏ thế gian, cho nên, đừng cho phép thái tử thấy
họ." Do vậy, bất cứ nơi nào Thái tử thường đi tới, những kẻ hành khất được
di chuyển đi nơi khác. Những người già sẽ bị di chuyển, hay bị buộc phải ở
trong nhà họ, không được ra ngoài. Ngay trong khu vườn của Thái tử, không chiếc
lá chết nào được cho phép. Mọi lá chết đều được thu dọn trong đêm, do vậy, vào
buổi sáng khi Thái tử đi ra vườn, chàng chỉ có thể thấy sự trẻ trung, những chiếc
lá non, những bông hoa mơn mởn. Chàng chưa bao giờ thấy một bông hoa héo tàn.
Khi chàng thấy một kẻ
hành khất lần đầu tiên… Và câu chuyện ngụ ngôn này thật đẹp; nó nói rằng, chư
thiên trở nên lo lắng; "Vua cha đang quá thành công. 29 năm đã trôi qua và
Thái tử có năng lực trở nên một trong những kẻ chứng ngộ nhất trên thế
gian." Chư thiên trở nên lo lắng: "Phụ vương chàng xoay xở quá thành
công, đến mức có thể chàng sẽ không bao giờ gặp một kẻ hành khất hay một người
già; chàng có thể bỏ lỡ." Do vậy, một vị thần hóa thành một kẻ hành khất,
một vị khác, một ông già, một vị khác, một người chết, và một vị khác, một
sannyasin.
Do vậy, trong thời của
Đức Phật, những người hành khất có mặt ở đó – nhưng họ không từ bỏ thế gian. Họ
không có gì để từ bỏ; họ mãn nguyện. Nhưng Thái tử Siddharta trở nên bất mãn.
Xưa kia, khi Ấn Độ
giàu có, nhiều người quan tâm đến thiền định; thật vậy, tất cả mọi người đều
quan tâm đến thiền định. Chẳng sớm thì muộn, họ buộc phải bắt đầu nghĩ về mặt
trăng, về cái "bên kia", về cái bên trong. Bây giờ đất nước nghèo,
quá nghèo đến mức không có sự tương phản nào giữa cái bên trong và cái bên
ngoài. Cái bên trong nghèo, cái bên ngoài cũng nghèo. Cái bên trong và cái bên
ngoài ở trong sự hòa điệu hoàn hảo – cả hai đều nghèo! Đó là lý do tại sao bạn
thấy một loại mãn nguyện trên khuôn mặt người Ấn, đó không phải là sự mãn nguyện
thực thụ. Và do vậy, người ta đã trở nên quen với việc nghĩ rằng sự nghèo nàn
có cái gì tâm linh trong nó.
Sự nghèo nàn được thờ
phụng tại Ấn Độ. Đó là một trong những lý do tại sao tôi bị kết án một cách
liên tục, bởi vì tôi không ủng hộ bất cứ sự nghèo nàn nào. Sự nghèo nàn không
phải là tính tâm linh, sự nghèo nàn là nguyên nhân gây ra sự biến mất của tính
tâm linh.
Tôi muốn toàn thế giới
trở nên giàu có càng nhiều càng tốt. Người ta càng giàu có, họ càng trở nên tâm
linh. Họ sẽ phải trở nên tâm linh, họ sẽ không thể tránh nó. Và chỉ khi đó sự
mãn nguyện thực thụ mới có thể khởi lên.
Khi bạn có thể tạo ra
sự giàu có bên trong, thì sự hòa điệu lại xuất hiện – sự giàu có bên ngoài gặp
sự giàu có bên trong – rồi, có sự mãn nguyện thực thụ. Khi sự nghèo nàn bên
ngoài gặp sự nghèo nàn bên trong, thì có sự mãn nguyện giả dối. Sự hòa điệu là
khả dĩ trong hai cách này. Cái bên ngoài và cái bên trong hòa điệu, và người ta
cảm thấy mãn nguyện. Ấn Độ có vẻ mãn nguyện bởi vì có sự nghèo nàn ở hai phía của
hàng rào. Có sự hòa điệu hoàn hảo, cái bên trong hòa điệu với cái bên ngoài;
nhưng đây là sự mãn nguyện xấu xa, nó thực sự thiếu sự sống, thiếu sinh khí.
Đây là một loại mãn nguyện nhạt phèo, chán ngắt.
Phương Tây bị buộc phải
trở nên quan tâm đến thiền định, không có cách nào để tránh nó. Đó là lý do tại
sao Kytô giáo đang đánh mất ảnh hưởng của nó trên tâm trí phương Tây, bởi vì
Kytô giáo chưa phát triển khoa học thiền định trên bất cứ phương diện nào. Nó vẫn
còn là một tôn giáo rất tầm thường; Do Thái giáo cũng vậy.
Phương Tây nghèo nàn
khi những tôn giáo này được sinh ra, đó là lý do. Cho tới lúc đó, phương Tây đã
sống trong nghèo nàn. Khi phương Đông giàu có, thì phương Tây nghèo nàn. Do
Thái giáo, Kytô giáo, và Hồi giáo – tất cả ba tôn giáo phi Ấn Độ này, đều được
sinh ra trong sự nghèo nàn. Chúng không thể phát triển những kỹ thuật thiền định,
không có nhu cầu. Chúng vẫn còn là những tôn giáo của người nghèo.
Bây giờ phương Tây đã
trở nên giàu và có một chênh lệch, cách biệt.
Những tôn giáo phương Tây đều được sinh ra trong sự nghèo khó; chúng không có gì để tặng cho những người giàu. Đối với những người giàu, chúng nom có vẻ trẻ con, chúng không mang lại thỏa mãn. Chúng không thể làm thỏa mãn. Những tôn giáo phương Đông được sinh ra trong sự giàu có; đó là lý do tại sao tâm trí phương Tây đang trở nên ngày càng quan tâm đến những tôn giáo phương Đông. Vâng, tôn giáo của Đức Phật đang có ảnh hưởng lớn; Zen đang lan tràn như lửa cháy rừng. Tại sao? Nó được sinh ra từ sự giàu có.
Có một sự tương đồng to lớn giữa tâm lý học phương Tây của con người hiện đại và tâm lý học của Phật giáo. Phương Tây ở trong trạng thái tương tự như Đức Phật khi Ngài trở nên quan tâm đến thiền định. Đó là cuộc tìm kiếm của một người giàu. Và cũng là trường hợp của Ấn Độ giáo, cũng là trường hợp của Jaina giáo. Ba tôn giáo lớn này của Ấn Độ đều được sinh ra từ sự giàu có; do vậy, phương Tây nhất thiết phải bị hấp dẫn bởi những tôn giáo phương Đông này.
OSHO
Phương Đông đang mất
liên hệ với những tôn giáo của chính mình. Ấn Độ không thể nào hiểu được Đức Phật
– nó là một đất nước nghèo. Thực ra, những người Ấn nghèo đang cải đạo sang
Kytô giáo. Những người Mỹ giàu đang cải đạo sang Phật giáo, Ấn Độ giáo, Vedanta
– và những người "tiện dân", những người nghèo nhất của Ấn Độ, đang
trở thành những người Kytô. Bạn có thấy cái điểm then chốt này không? Những tôn
giáo này có một hấp dẫn nào đó đối với người nghèo. Nhưng chúng không có tương
lai nào cả, bởi vì không sớm thì muộn, toàn thế giới sẽ trở nên giàu có.
Tôi không ca ngợi sự
nghèo nàn, tôi không kính trọng sự nghèo nàn. Con người phải được hưởng cả hai
loại giàu có. Tại sao không cả hai? Khoa học đã phát triển kỹ thuật làm cho bạn
giàu có bên trong: đó là Yoga, Mật tông, Lão giáo, đạo Sufi, đạo Hassidi – có
những kỹ thuật về cái bên trong.
Sau đây là một câu
chuyện:
Nhân vật trung tâm của
câu chuyện này là một trong những người chấp nhận mọi sự xảy ra như là sự biểu
hiện của quyền lực thiêng liêng.
Ông ta nói, việc tra
vấn những hành động của "thiên ý" không phải là việc của ông.
Suốt đời mình, ông gặp
toàn bất hạnh, nhưng ông chưa một lần than van. Ông kết hôn, và vợ ông chạy
theo người làm mướn. Ông có một con gái, và đứa con gái bị một tên vô lại lường
gạt. Ông có một đứa con trai, và nó bị hành hình. Một trận hỏa hoạn thiêu cháy
vựa lúa của ông, một trận cuồng phong thổi bay ngôi nhà của ông, một trận bão
tuyết hủy hoại mùa màng của ông, và người chủ ngân hàng tịch biên mọi tài sản cầm
cố của ông, lấy đi nông trại của ông. Thế nhưng, cứ mỗi cú đánh của bất hạnh,
ông quỳ xuống và tạ ơn "Thượng đế Toàn Năng về lòng xót thương vô hạn của
Ngài."
Sau một thời gian,
không đồng xu dính túi, nhưng vẫn tuân phục những "sắc lệnh" từ trên
cao, ông vào tá túc trong một trại tế bần vùng quê. Một hôm người giám thị phái
ông ra ngoài để cày một cánh đồng khoai tây. Một cơn bão sấm nổi lên, nhưng khi
nó đi ngang qua ông, thì, không báo trước, một lưỡi sét bổ xuống từ bầu trời.
Nó làm chảy cái lưỡi cày, lột hết quần áo của ông, làm râu ông cháy xém, và khắc
vào tấm lưng trần của ông với những chữ đầu tên của một người chăn bò vùng lân
cận, và ném ông băng qua một hàng rào kẽm gai.
Ông tự mình khẳng định:
"Lạy Chúa,"
ông nói, "điều này đang trở nên hoàn toàn lố bịch!"
Đây là tình huống của
phương Đông: "Điều này đang đi tới chỗ hoàn toàn lố bịch!" Nhưng
phương Đông vẫn tiếp tục cám ơn Thượng đế, tiếp tục cảm thấy biết ơn. Không có
gì để cảm thấy biết ơn nữa! Phương Đông đang cực kỳ nghèo nàn, bệnh hoạn, đói
khát; không có gì để biết ơn. Nhưng phương Đông đã quên cái cách để đòi hỏi quyền
lợi của mình, phương Đông đã quên cái cách để làm bất cứ cái gì để cải thiện
tình trạng của nó.
Do vậy, phương Đông
không thể thiền định. Phương Đông hầu như đang sống trong một loại "vô ý
thức". Nó quá đói để mà thiền định, quá nghèo để mà cầu nguyện. Mối quan
tâm duy nhất của nó là bánh mì, chỗ ở, y phục; cho nên, khi nhà truyền giáo
Kytô đến và mở một bệnh viện hay một trường học, thì những người Ấn Độ rất cảm
kích – đây là "tính tâm linh." Khi tôi khởi sự dạy về thiền định, họ
không quan tâm – không những không quan tâm, mà họ còn chống lại nó: "Đây
là loại tâm linh tính gì thế?" Và tôi hiểu – họ cần bánh mì, họ cần chỗ ở,
họ cần y phục. Nhưng họ đang khổ bởi vì tâm trí họ. Một mặt, họ cần bánh mì, chỗ
ở, y phục, những ngôi nhà tốt hơn, đường sá tốt hơn; và mặt khác, họ tiếp tục
thờ phụng sự nghèo nàn. Họ ở trong cái tình trạng "một cổ hai tròng."
Phương Đông chưa thể
thiền định. Trước hết, nó cần khoa học kỹ thuật để làm cho nó khá hơn một chút
về vật chất. Y như phương Tây cần kỹ thuật về tôn giáo, phương Đông cần kỹ thuật
về khoa học.
Và tôi hoàn toàn ủng
hộ một thế giới, nơi mà phương Tây có thể thỏa mãn những nhu cầu của phương
Đông, và phương Đông có thể thỏa mãn những nhu cầu của phương Tây. Phương Đông
và phương Tây đã sống tách biệt khá lâu; không còn cần như vậy nữa. Phương Đông
không còn nên là phương Đông, và phương Tây không còn nên là phương Tây nữa.
Chúng ta đã đi tới cái khoảnh khắc "sinh tử" khi mà mà toàn bộ trái đất
có thể trở thành một – nên trở thành một – bởi vì nó chỉ có thể sống sót nếu nó
trở thành một.
Những tháng ngày khi
mà thế giới phân chia ra thành những dân tộc đã qua, những ngày của sự phân
chia đã qua, những ngày của những nhà chính trị đã qua. Chúng ta đang di chuyển
trong một thế giới hết sức mới, một giai đoạn mới của nhân loại – trong cái
giai đoạn mới này, chỉ có một thế giới độc nhất, chỉ có một nhân loại độc nhất.
Và rồi, sẽ có một sự phóng thích năng lượng cực kỳ lớn.
Phương Đông có những
kho báu, những kỹ thuật tôn giáo, và phương Tây có những kho báu, những kỹ thuật
khoa học. Và nếu chúng có thể gặp gỡ, thì chính thế giới này sẽ có thể trở
thành một thiên đường. Bây giờ không cần cầu xin một thế giới khác; chúng ta có
khả năng tạo ra thiên đường trên trái đất này, lần đầu tiên. Và nếu chúng ta
không tạo ra nó, thì ngoài chúng ta, không ai khác chịu trách nhiệm.
Tôi ủng hộ một thế giới
độc nhất, một nhân loại độc nhất, và cuối cùng, một khoa học độc nhất mà sẽ
chăm sóc cái bên ngoài và cái bên trong, cả hai.
Đó là cái mà tôi đang
cố làm ở đây. Nó là một cuộc gặp gỡ giữa Đông và Tây; nó là cái tử cung nơi mà
một nhân loại mới có thể được thai nghén, được sinh ra đời.
Đây là những "đối
cực" trong cuộc sống, thiền định và tình yêu – đây là cái "đối cực"
tối hậu.
Cái toàn bộ của cuộc
sống gồm có những đối cực: cái tích cực và cái tiêu cực, sự ra đời và sự chết,
đàn ông và đàn bà, ngày và đêm, mùa hạ và mùa đông. Cái toàn bộ của cuộc sống
bao gồm những đối cực. Nhưng những đối cực
đó không chỉ là những đối cực, chúng còn là những cái bổ sung cho nhau. Chúng
đang giúp nhau, chúng đang hỗ trợ nhau.
Chúng giống như những
viên gạch của một cổng vòm cung. Trong một vòm cung, những viên gạch phải được
sắp xếp dựa vào nhau. Chúng nom có vẻ chống lại nhau, nhưng nhờ đối nghịch với
nhau mà cái vòm cung được xây lên, đứng vững được. Sức mạnh của cái vòm cung
tùy thuộc vào cái đối cực của những viên gạch được xếp đối nghịch nhau.
Đây là cái đối cực tối
hậu: thiền định có nghĩa là nghệ thuật ở một mình, và tình yêu có nghĩa là nghệ
thuật ở cùng nhau. Con người toàn bộ là người có khả năng di chuyển từ cái này
sang cái kia càng dễ dàng càng tốt. Nó hệt như việc thở vào và thở ra – không
có khó khăn nào. Chúng đối nghịch nhau – khi bạn thở vào có một tiến trình, và
khi bạn thở ra, cái tiến trình thì ngược lại. Nhưng việc thở vào và thở ra làm
thành một hơi thở hoàn chỉnh.
Trong thiền định, bạn
thở vào, trong tình yêu bạn thở ra. Và với tình yêu và thiền định cùng nhau,
hơi thở của bạn là hoàn chỉnh, trọn vẹn, toàn bộ.
Trong nhiều thế kỷ,
những tôn giáo đã cố đạt tới một cực, loại trừ cực kia. Có những tôn giáo của thiền
định, thí dụ, Jaina giáo, Phật giáo – chúng là những tôn giáo thiền định, chúng
có gốc rễ trong thiền định. Và có những tôn giáo bhakti, những tôn giáo của
sùng kính: đạo Sufi, Hassidi – chúng có gốc rễ trong tình yêu. Một tôn giáo có
gốc rễ trong tình yêu cần Thượng đế như là "tha thể" để yêu, để cầu
nguyện. Không có một Thượng Đế, một tôn giáo của tình yêu không thể tồn tại, nó
là không thể quan niệm được – bạn cần một đối tượng của tình yêu. Nhưng một tôn
giáo của thiền định thì có thể tồn tại mà không có khái niệm về Thượng đế; cái
giả thiết đó có thể được bỏ đi. Do vậy, Phật giáo và Jaina giáo không tin vào bất
cứ Thượng đế nào. Không cần một "tha thể". Bạn chỉ cần biết cách ở một
mình, biết cách im lặng, tĩnh lặng, hoàn toàn bình thản, và lặng lẽ bên trong
chính bạn. "Tha thể" phải hoàn toàn được bỏ đi, quên đi. Do vậy, đây
là những tôn giáo không Thượng đế.
Khi lần đầu tiên những
nhà thần học phương Tây tình cờ gặp Phật giáo và Jaina giáo, họ hết sức thắc mắc:
làm thế nào gọi những triết học phi Thượng đế này là những tôn giáo? Chúng có
thể được gọi là những triết học, nhưng làm sao gọi chúng là tôn giáo được? Thật
khó quan niệm được với họ, bởi vì truyền thống Do Thái giáo và Kytô giáo nghĩ rằng
muốn có tính tôn giáo, thì Thượng đế là giả thiết cốt yếu nhất. Con người tôn
giáo là người "sợ-Thượng đế" và những người này nói rằng không có Thượng
đế, do vậy, không có vấn đề sợ Thượng đế.
Tại phương Tây, trong
hằng ngàn năm, người ta vẫn nghĩ rằng, người nào không tin vào Thượng đế, là một
kẻ vô thần, y không phải là một người tôn giáo. Nhưng Đức Phật thì vô thần và
tôn giáo. Điều đó rất kỳ lạ đối với những người phương Tây, bởi vì họ không hề
nhận biết rằng, có những tôn giáo có gốc rễ trong thiền định.
Và điều tương tự cũng
đúng về những người theo Phật và Mahavira. Họ cười nhạo sự ngu xuẩn của những
tôn giáo khác vốn tin vào Thượng đế, bởi vì toàn bộ ý tưởng đó là phi lý. Nó chỉ
là sự hão huyền, tưởng tượng, không có gì khác; nó là một sự phóng chiếu. Nhưng
đối với tôi, cả hai đều cùng đúng.
Sự hiểu biết của tôi
thì không có gốc rễ trong một cực; sự hiểu biết của tôi thì lỏng, uyển chuyển.
Tôi đã nếm chân lý từ cả hai phía: tôi đã yêu một cách toàn bộ và tôi đã thiền
định một cách toàn bộ. Và đây là kinh nghiệm của tôi: rằng một người chỉ toàn bộ
khi y đã biết cả hai. Nếu không thế, y vẫn còn một nửa, một cái gì đó còn thiếu
bên trong y.
Đức Phật là một nửa –
Jesus cũng vậy. Jesus biết tình yêu là gì, Phật biết thiền định là gì, nhưng nếu
họ gặp nhau, họ sẽ không thể nào truyền thông với nhau. Họ sẽ không hiểu ngôn
ngữ của nhau. Jesus sẽ nói về vương quốc của Thượng đế, và Đức Phật sẽ bắt đầu
cười: "Bạn đang nói về cái vớ vẩn gì thế? Vương quốc của Thượng đế?"
Đức Phật sẽ chỉ nói, "Sự chấm dứt của cái tôi, sự biến mất của cái
tôi." Và Jesus sẽ nói, "Sự biến mất của cái tôi? Sự chấm dứt của cái
tôi? Cái đó là tự vẫn, sự tự vẫn tối hậu. Đây là loại tôn giáo gì vậy? Hãy nói
về cái tôi tối cao!"
Họ sẽ không hiểu những
lời nói của nhau. Nếu họ từng gặp nhau, họ sẽ cần một người giống như tôi để
thông dịch; nếu không thế, không thể có sự truyền thông nào giữa họ. Và tôi sẽ
phải thông dịch sao cho tôi sẽ "không trung thực" với cả hai! Jesus sẽ
nói, "vương quốc của Thượng đế" và tôi sẽ dịch nó như là "niết
bàn" – rồi Đức Phật sẽ hiểu. Phật sẽ nói "niết bàn", và tôi sẽ dịch
cho Jesus là "vương quốc của Thượng đế" – rồi thì Ngài sẽ hiểu.
Bây giờ nhân loại cần
một cái nhìn toàn bộ. Chúng ta đã sống với tầm nhìn một nửa quá lâu. Nó là một
sự cần thiết tất yếu của quá khứ, nhưng bây giờ con người đã tới tuổi thành
niên. Những sannyasin của tôi phải chứng minh rằng, họ có thể thiền định và cầu
nguyện cùng một lúc, rằng họ có thể thiền định và yêu cùng một lúc, rằng họ có
thể im lặng như có thể và họ có thể nhảy múa và lễ hội nhiều như có thể. Sự im
lặng của họ phải trở thành lễ hội của họ, và lễ hội của họ phải trở thành sự im
lặng của họ. Tôi đang giao cho họ nhiệm vụ khó khăn nhất đã từng được giao cho
bất cứ đệ tử nào, bởi vì đây là cuộc gặp gỡ của những đối nghịch.
Và trong cuộc gặp gỡ
đó, tất cả mọi đối nghịch khác sẽ chảy tan và trở thành một: Đông và Tây, đàn
ông và đàn bà, vật chất và ý thức, thế giới này và thế giới kia, cuộc sống và
cái chết. Mọi đối nghịch sẽ gặp gỡ và hợp nhất thông qua cuộc gặp gỡ này, bởi
vì đây là đối cực tối hậu; nó chứa đựng tất cả mọi đối nghịch.
Cuộc gặp gỡ này sẽ tạo
ra một hữu thể người mới – Phật Zorba. Đó là cái tên mà tôi dành cho con người
mới. Và mỗi trong số những sannyasin của tôi phải làm mọi nỗ lực có thể được, để
trở thành một "chất lỏng" như thế, một sự tuôn chảy, để cho cả hai cực
đều thuộc về bạn.
Rồi bạn sẽ phải nếm
được "hương vị" của sự toàn bộ. Và biết sự toàn bộ là cách duy nhất để
biết cái gì là "linh thánh". Không có cách nào khác.
Thông điệp của tôi rất
đơn giản. Thông điệp của tôi là một con người mới, Homo Novus. Khái niệm cũ về
con người là hoặc là / hoặc là: duy vật hoặc duy tâm, đạo đức hoặc vô đạo đức,
kẻ tội lỗi hoặc vị thánh. Nó được đặt nền trên sự chia chẻ, chia cắt. Nó tạo ra
một nhân loại phân lập. Toàn bộ quá khứ của nhân loại vẫn bệnh hoạn, không mạnh
khỏe, "điên rồ"… Trong ba ngàn năm, năm ngàn năm, những cuộc chiến
tranh đã được tiến hành. Cái này là cực kỳ điên khùng; nó là không thể tin được.
Nó ngu xuẩn, phi nhân, không thông minh.
Một khi bạn chia con
người thành hai, bạn tạo ra sự khốn khổ và địa ngục cho y. Y không bao giờ có
thể mạnh khỏe, và không bao giờ có thể toàn bộ; nửa kia – đã bị phủ nhận – sẽ
tiếp tục tìm những cách thức và phương tiện để "khắc phục " cái phần
mà bạn đã áp đặt lên chính mình. Bạn sẽ trở thành một bãi chiến trường, một nội
chiến. Đó là trường hợp đã xảy ra trong quá khứ.
Trong quá khứ, chúng
ta đã không có khả năng tạo ra những hữu thể người thực thụ, mà chỉ là những
humanoids. Một humanoid là một kẻ trông giống như một con người người, nhưng
hoàn toàn tàn phế, tê liệt. Y đã không được phép nở hoa trong tính toàn thể của
mình. Y là một nửa, và bởi vì y là một nửa, y luôn ở trong sự thống khổ, và
căng thẳng; y không thể "vui chơi" lễ hội. Chỉ một con người toàn bộ mới có thể vui
chơi. Sự vui chơi là hương thơm của trạng thái toàn bộ, không bị phân mảnh.
Chỉ cái cây nào mà đã
sống toàn bộ thì mới nở hoa. Con người chưa nở hoa.
Quá khứ vẫn luôn tối
tăm và ảm đạm. Nó vẫn luôn là một đêm đen của linh hồn. Và bởi vì nó có tính đè
nén, nó buộc phải trở nên gây hấn. Nếu một cái gì đó bị đè nén, thì nó trở nên
gây hấn, nó đánh mất tất cả những phẩm chất mềm mại của nó. Cho tới nay, nó vẫn
luôn luôn là như vậy. Chúng ta đã tới một
điểm mà ở đó cái cũ phải được bỏ đi, và cái mới phải được báo hiệu.
Con người mới sẽ
không hoặc là / hoặc là – y sẽ là vừa… vừa… Con người mới sẽ vừa trần thế vừa
"thiêng liêng", vừa "thế tục" vừa "siêu thế". Con
người mới sẽ chấp nhận tính toàn thể của mình, và y sẽ sống với nó mà không có
bất cứ sự chia chẻ nội tâm nào, y sẽ không bị chia chẻ. Vị Thượng đế của y sẽ
không chống đối với quỷ sứ, đạo đức tính của y sẽ không nghịch lại với vô đạo đức
tính; y sẽ không biết đến sự chống nghịch nào. Y sẽ siêu việt nhị nguyên tính,
y sẽ không bị tâm thần phân lập. Với con người mới, sẽ đến một thế giới mới, bởi
vì con người mới sẽ tri giác trong một cách khác, khác về chất lượng. Y sẽ sống
một cuộc sống hoàn toàn khác, mà trước đây chưa từng được sống. Y sẽ là một nhà
thần bí, một nhà thơ, một nhà khoa học, tất cả gộp lại. Y sẽ không chọn lựa: Y
sẽ là chính mình một cách không chọn lựa.
Đó là cái mà tôi dạy:
Homo Novus, một con người mới, không phải là một humanoid. Một humanoid không
phải là một hiện tượng tự nhiên. Humanoid được tạo ra bởi xã hội – bởi người
tăng sĩ, nhà chính trị, nhà mô phạm. Humanoid được tạo ra, được sản xuất ra. Mỗi
đứa trẻ chào đời như một hữu thể người – toàn vẹn, toàn bộ, sống động, không có
sự chia chẻ nào. Ngay lập tức, xã hội bắt đầu bóp nghẹt nó, làm nó ngộp thở, cắt
nó thành nhiều mảnh vụn. Bảo nó phải làm gì, và không làm gì, phải là gì và
không là gì. Tính toàn bộ của nó chẳng bao lâu bị đánh mất. Nó trở nên cảm thấy
tội lỗi về bản thể toàn bộ của mình. Nó phủ định nhiều cái tự nhiên, và ngay
trong sự phủ nhận đó, nó trở nên không sáng tạo. Bây giờ nó sẽ chỉ là một mảnh,
và một mảnh không thể nhảy múa, một mảnh không thể ca hát. Và một mảnh thì luôn
có tính tự vẫn, bởi vì một mảnh không thể biết cuộc sống là cái gì. Humanoid
không thể tự quyết định. Những người khác đã và đang quyết định thay cho y –
cha mẹ, thầy cô giáo, những lãnh tụ, giới tăng sĩ; tất cả họ nắm lấy quyền quyết
định của y. Họ quyết định, họ ra lệnh; y chỉ đơn giản đi theo. Humanoid là một
tên nô lệ.
Tôi dạy sự tự do. Bây
giờ, con người phải tiêu diệt mọi loại trói buộc và y phải ra khỏi tất cả mọi
nhà tù – không còn nô lệ nữa. Con người phải trở nên cá thể. Y phải trở nên nổi
loạn. Và bất cứ khi nào một người đã trở nên nổi loạn… Thỉnh thoảng một ít người
đã thoát khỏi sự độc đoán của quá khứ, nhưng chỉ thỉnh thoảng – một Jesus đó
đây, một Đức Phật đó đây. Họ là những ngoại lệ. Và ngay cả những người này,
Jesus và Phật, cũng không thể sống một cách toàn bộ. Họ cố, nhưng toàn xã hội
chống lại điều đó.
Khái niệm của tôi về
con người mới, là y sẽ trở thành Zorba người Hy Lạp và cũng sẽ là Phật Gautama.
Con người mới sẽ là Phật Zorba. Người ấy vừa "nhục cảm" vừa tâm linh
– nhục cảm, cực kỳ nhục cảm, trong thân
thể, trong cảm quan, thưởng thức thân thể và tất cả những gì mà thân thể làm
cho có thể, và vẫn là một ý thức vĩ đại, một sự chứng kiến vĩ đại sẽ ở đó. Người
ấy sẽ là một Christ và Epicurus một cách đồng thời.
Lý tưởng của con người
cũ là sự từ bỏ, lý tưởng của con người mới sẽ là vui hưởng. Và con người mới
này đang đến hằng ngày, y đang đến hằng ngày. Thế nhưng người ta vẫn cứ chưa trở
nên nhận biết y. Thật ra, y đã đã bắt đầu ló dạng rồi. Cái cũ đang chết, cái cũ
đang nằm trên giường chết của nó. Tôi không than khóc nó, và tôi nói nó chết là
tốt, bởi vì từ cái chết của nó, cái mới sẽ tự khẳng định chính mình. Cái chết của
cái cũ sẽ là sự khởi đầu của cái mới. Cái mới chỉ có thể đến khi cái cũ đã hoàn
toàn chết đi.
Hãy giúp con người cũ
chết đi và con người mới ra đời – và hãy nhớ, con người cũ có mọi sự khả kính, và toàn bộ quá khứ sẽ ủng
hộ y, và con người mới sẽ là một hiện tượng rất kỳ lạ. Con người mới sẽ quá mới,
đến nỗi y sẽ không được kính trọng. Mọi nỗ lực sẽ được làm để tiêu diệt con người
mới. Con người mới không thể khả kính, nhưng cùng với con người mới là tương
lai của toàn bộ nhân loại. Con người mới phải được trình diện.
Công trình của tôi gồm
có việc tạo ra một Phật trường, một trường năng lượng, nơi mà cái mới có thể được
sinh ra. Tôi chỉ là một bà đỡ giúp cái mới đi vào trong một thế giới mà sẽ
không đang chấp nhận nó. Cái mới sẽ cần nhiều hỗ trợ từ những ai có trí tuệ và
thức thời, từ những ai muốn cuộc cách mạng nào đó xảy ra. Và thời gian đã chín
muồi, và nó chưa bao giờ chín muồi như thế. Đây là thời điểm thích hợp, nó chưa
bao giờ thích hợp như thế. Cái mới có thể tự khẳng định mình, sự đột phá đã trở
nên có thể được.
Cái cũ thì quá thối
nát, đến mức ngay cả với tất cả sự ủng hộ, nó không thể sống sót; nó phải đến
ngày tận số! Chúng ta có thể trì hoãn, chúng ta có thể tiếp tục thờ phụng cái
cũ; đó chỉ là trì hoãn cái tiến trình.
Cái mới thì đang trên đường đi của nó. Tối đa, chúng ta có thể giúp nó đến sớm
hơn, hoặc chúng ta có thể ngăn trở, kìm hãm nó và trì hoãn sự xuất hiện của nó.
Trợ giúp nó là tốt. Nếu nó đến sớm hơn,
thì nhân loại sẽ vẫn còn có một tương lai, một tương lai lớn – một tương lai của
tự do, một tương lai của tình yêu, một tương lai của niềm vui.
Tôi dạy một tôn giáo
mới. Tôn giáo này sẽ không là Kytô giáo, không là Do thái giáo, và sẽ không là
Hindu giáo. Tôn giáo này sẽ không có bất cứ tính từ nào thêm vào nó. Tôn giáo
này sẽ tuyệt đối có tính toàn bộ.
Người của tôi sẽ phải
trở thành những tia nắng đầu tiên mà sắp hiện lên bầu trời. Đó là một nhiệm vụ
to lớn, đó là một nhiệm vụ hầu như bất khả, nhưng bởi vì nó là bất khả, nó sẽ
khuyến dụ tất cả những ai có một chút linh hồn nào còn sót lại trong họ. Nó sắp
tạo ra một hoài vọng lớn trong tất cả những người vốn có sự mạo hiểm ẩn giấu
trong bản thể của họ, người dũng cảm, gan dạ, bởi vì nó thực sự sẽ tạo ra một
thế giới diễm lệ mới.
Tôi nói về Đức Phật,
tôi nói về Christ, tôi nói về Krishna, tôi nói về Zarathustra, để cho tất cả những
gì tốt nhất và tất cả những gì tốt lành trong quá khứ có thể được bảo quản.
Nhưng đây chỉ là một ít ngoại lệ. Toàn bộ nhân loại đã sống trong sự nô lệ to lớn,
bị xiềng xích, bị chia chẻ, bị điên loạn.
Thông điệp của tôi
thì đơn giản nhưng sẽ rất khó khăn, rất gay go để làm cho nó xảy ra. Nhưng nó
càng khó khăn, nó càng bất khả, thì thách thức càng lớn. Và thời điểm đã đến, bởi
vì tôn giáo đã thất bại, khoa học đã thất bại. Thời điểm đã đến, bởi vì phương
Đông đã thất bại, phương Tây đã thất bại. Một cái gì đó của một tổng hợp cao
hơn được cần đến, trong đó Đông và Tây có thể có một cuộc gặp gỡ, trong đó tôn
giáo và khoa học có thể có một cuộc gặp gỡ.
Tôn giáo thất bại bởi
vì nó thuộc về thế giới bên kia, và nó bỏ bê thế giới này. Và bạn không thể bỏ
bê thế giới này; bỏ bê thế giới này là bỏ bê chính những gốc rễ của bạn. Khoa học
đã thất bại bởi vì nó bỏ bê thế giới kia, thế giới bên trong, và bạn không thể
bỏ bê những bông hoa. Một khi bạn bỏ bê những bông hoa, cái cốt lõi nội tại nhất
của tồn tại, thì cuộc sống mất hết ý nghĩa. Y như cái cây cần những gốc rễ, con
người cũng cần gốc rễ, và những gốc rễ chỉ có thể ở trong đất. Cái cây cần một
bầu trời rộng mở để phát triển, để đi tới chỗ trổ ra những tán lá, và có hằng
ngàn bông hoa. Lúc đó, và chỉ lúc đó, cái cây mới hoàn thiện, chỉ lúc đó, cái
cây mới cảm nhận tầm quan trọng và ý nghĩa, và sự sống trở nên thiết thân.
Con người cũng ví như
một cái cây. Tôn giáo đã thất bại bởi vì nó chỉ đang nói về những bông hoa. Những
bông hoa đó vẫn còn mang tính triết học, trừu tượng; chúng không bao giờ hiện
thực hóa. Chúng không thể trở thành hiện thực, bởi vì chúng không được hỗ trợ bởi
đất. Và khoa học đã thất bại, bởi vì nó chỉ lưu tâm đến những gốc rễ. Những gốc
rễ thì xấu xí, và có vẻ như không có sự nở hoa nào.
Phương Tây đang đau
khổ vì quá nhiều khoa học; phương Đông đã đau khổ vì quá nhiều tôn giáo. Bây giờ,
chúng ta cần một nhân loại mới mà trong đó tôn giáo và khoa học trở thành hai mặt
của một hữu thể người. Và cây cầu sẽ là nghệ thuật. Đó là lý do tại sao tôi nói
rằng con người mới sẽ là một nhà thần bí, một nhà thơ và nhà khoa học.
Giữa khoa học và tôn
giáo, chỉ nghệ thuật mới có thể là cây cầu – thi ca, âm nhạc, điêu khắc. Một
khi chúng ta đã đưa con người mới này ra đời, thì trái đất có thể, lần đầu
tiên, trở thành cái mà nó phải trở thành. Nó có thể trở thành một thiên đường:
chính cái thân thể này là Phật, chính trái đất này là thiên đường.