Read more
Osho - Thuyền rỗng
Chương 7. Ba người bạn
Ba người bạn đang bàn luận về cuộc sống. Một
người nói:
“Người ta có thể sống cùng mà chẳng biết điều
đó,
Làm việc cùng nhau mà chẳng tạo ra cái gì?
Liệu họ có thể bay trong không trung và
quên hết việc tồn tại, thế giới không mục đích không?
Ba người bạn nhìn nhau và buột cười phá
lên.
Họ không có lời giải thích
Do vậy họ là những người bạn thân thiết hơn
trước đây.
Thế rồi một người chết
Khổng Tử cử một đệ tử tới để giúp hai người
kia tụng niệm trong đám ma
Đệ tử này thấy rằng một người bạn đã soạn
xong một bài thơ trong khi người kia chơi đàn
Họ hát:
“Này, Sung Hu, anh đi đâu?
Này, Sung Hu, anh đi đâu?
Anh đã đi tới nơi anh thực sự hiện hữu, còn
chúng tôi ở đây - chê trách nó, chúng tôi ở đây!”
Thế rồi đệ tử của Khổng Tử thình lình xuất
hiện trong họ và than:
“Xin hỏi các vị có thấy điều này trong mục
đám ma không, những tiếng hát vô tích sự này trong sự hiện diện của người đã
khuất?”
Hai người bạn nhìn nhau và cười to:
“Anh bạn đáng thương ơi, anh ấy không biết
nghi thức tế lễ!”
Điều đầu tiên về cuộc sống là ở
chỗ nó không có giải thích. Nó có đó trong vinh quang tuyệt đối, nhưng nó không
có giải thích. Nó có đó như một bí ẩn và nếu bạn định giải thích nó, bạn sẽ lỡ
nó. Nó sẽ không được giải thích, nhưng bạn sẽ trở thành mù quáng qua việc giải
thích của mình.
Triết lí là kẻ thù của cuộc sống.
Điều thù nghịch nhất có thể xẩy ra cho một người là bị cố định và ám ảnh với những
giải thích. Khoảnh khắc bạn nghĩ bạn có lời giải thích, cuộc sống đã rời bỏ bạn,
bạn đã chết.
Điều này dường như là nghịch
lí. Cái chết có thể được giải thích, nhưng cuộc sống không thể được giải thích
- bởi vì cái chết là cái gì đó đã kết thúc, hoàn chỉnh, còn cuộc sống bao giờ
cũng là vấn đề đang tiếp diễn; cuộc sống bao giờ cũng trên hành trình, cái chết
đã tới nơi. Khi cái gì đó đã đạt tới và kết thúc, bạn có thể giải thích nó, bạn
có thể định nghĩa nó. Khi cái gì đó vẫn còn đang tiếp diễn, điều đó có nghĩa là
cái chưa biết vẫn còn phải được du hành qua.
Bạn có thể biết quá khứ nhưng bạn
không thể biết được tương lai. Bạn có thể đẩy quá khứ vào trong lí thuyết,
nhưng làm sao bạn có thể đẩy tương lai vào lí thuyết được? Tương lai bao giờ
cũng là lối mở, lối mở vô hạn, và nó cứ mở và mở ra mãi. Cho nên khi bạn giải
thích, việc giải thích bao giờ cũng chỉ ra cái đã chết.
Triết học có những lời giải
thích cho nên nó không thể sống động được, và bạn không thể nào tìm ra được những
người nhiều tính chết hơn là các triết gia. Cuộc sống đã tàn tạ, cuộc sống đã
tiêu tan khỏi họ. Họ là những cái đầu quắt lại, giống như đá chết. Họ làm ầm ĩ
lắm nhưng không có âm nhạc của cuộc sống. Họ có nhiều giải thích, nhưng họ đã
hoàn toàn quên lãng rằng họ chỉ có giải thích trong tay mình.
Giải thích cũng giống như nắm
tay bóp chặt. Cuộc sống giống như bàn tay để mở. Chúng hoàn toàn khác nhau. Và
khi nắm tay đã hoàn toàn nắm lại, không có bầu trời trong nó, không có không
khí trong nó, không có không gian để thở. Bạn không thể nắm lấy bầu trời trong
nắm tay bóp chặt của mình được. Nắm tay sẽ làm lỡ nó. Bầu trời vẫn có đó, bàn tay
để mở, nó có sẵn đấy. Giải thích là nắm giữ, đóng kín, xác định - cuộc sống
tiêu tan đi.
Thậm chí tiếng cười cũng còn lớn
lao hơn bất kì triết lí nào, và khi ai đó cười về cuộc sống, người đó hiểu nó.
Cho nên tất cả những người đã chứng ngộ đều cười to cả. Và tiếng cười của họ vẫn
có thể được nghe thấy được thậm chí sau nhiều thế kỉ. Nhìn Phật cầm đoá hoa
trong tay, Mahakashyapa cười to. Tiếng cười của ông ấy thậm chí ngày nay vẫn
còn có thể nghe thấy được, giống như dòng sông liên tục chảy đi qua hàng thế kỉ.
Trong các thiền viện ở Nhật,
các đệ tử vẫn hỏi thầy, “Thưa thầy, xin thầy nói cho chúng tôi, tại sao
Mahakashyapa đã cười?” Và những người tỉnh táo hơn nói, “Thưa thầy, xin thầy
nói cho chúng tôi tại sao Mahakashyapa vẫn còn cười?” Họ dùng thời hiện tại,
không phải là thời quá khứ. Và tương truyền rằng thầy sẽ đáp lại chỉ khi ông ấy
cảm thấy rằng bạn có thể nghe thấy tiếng cười của Mahakashyapa. Nếu bạn không
thể nghe thấy nó, chẳng thể nói gì cho bạn về nó cả.
Chư Phật bao giờ cũng cười to.
Bạn có thể đã không nghe nói về họ bởi vì cánh cửa của bạn đóng kín. Bạn có thể
đã nhìn vào vị phật và bạn có thể cảm thấy rằng ông ấy nghiêm trang, nhưng
nghiêm trang này là bị phóng chiếu. Nó chính là nghiêm trang của riêng bạn - bạn
đã dùng vị phật làm màn ảnh. Do đó, người Ki tô giáo nói Jesus chưa bao giờ cười.
Điều này dường như hoàn toàn ngu xuẩn. Jesus phải đã cười to và ông ấy phải đã
cười to toàn bộ đến mức toàn thể con người ông ấy phải đã trở thành tiếng cười
- nhưng các đệ tử không thể nghe được nó, điều đó đúng. Họ phải vẫn còn đóng
kín, cái nghiêm trang riêng của họ được phóng chiếu ra.
Họ có thể thấy Jesus trên cây
thập tự bởi vì tất cả các bạn đều đang sống trong đau khổ đến mức bạn chỉ có thể
thấy đau khổ. Nếu họ nghe thấy Jesus cười, họ sẽ bỏ qua điều đó. Điều đó quá
mâu thuẫn với cuộc sống của họ, nó không khớp. Một Jesus cười không khớp với bạn,
ông ấy trở thành người xa lạ.
Nhưng ở phương Đông lại khác,
và trong Thiền, trong Đạo, tiếng cười đạt tới đỉnh của nó. Nó trở thành cái đối
lập phổ biến của triết lí.
Triết gia nghiêm trang bởi vì
ông ta nghĩ cuộc sống là câu đố và giải pháp có thể được tìm thấy. Ông ấy làm
việc với cuộc sống bằng tâm trí mình, và ông ấy ngày càng nghiêm trang hơn. Ông
ấy càng bỏ lỡ cuộc sống, ông ấy càng thành nghiêm trang và chết hơn.
Những người theo Đạo, Lão Tử và
Trang Tử, nói rằng nếu bạn có thể cười, nếu bạn có thể cảm thấy tiếng cười bụng,
cái tới từ chính cốt lõi của bản thể bạn, cái không phải chỉ là được tô vẽ trên
bề mặt, nếu bạn có thể cảm thấy tiếng cười, cái tới từ trung tâm sâu sắc nhất của
bản thể bạn, lan toả khắp bạn, tràn ngập vào vũ trụ, tiếng cười đó sẽ cho bạn
thoáng nhìn đầu tiên về cuộc sống là gì. Nó là bí ẩn.
Trong Trang Tử tiếng cười như vậy
mang tính cầu nguyện, bởi vì bây giờ bạn chấp nhận cuộc sống, bạn không khao
khát giải thích. Làm sao người ta có thể tìm được giải thích? Chúng ta là bộ phận
của nó. Làm sao bộ phận có thể tìm thấy giải thích cho cái toàn thể? Làm sao bộ
phận có thể nhìn vào cái toàn thể được? Làm sao bộ phận có thể mổ xẻ, phân chia
cái toàn thể được? Làm sao bộ phận có thể đi trước cái toàn thể được?
Giải thích có nghĩa là bạn phải
siêu việt lên cái bạn đang cố gắng giải thích - bạn phải có đó trước khi nó tồn
tại, bạn phải có đó khi nó đã dừng việc tồn tại. Bạn phải đi quanh nó để bạn có
thể định nghĩa nó, và bạn phải mổ xẻ để cho bạn có thể đạt tới tâm điểm. Nhà giải
phẫu có thể tìm ra việc giải thích, không phải cho cuộc sống, mà là cho xác chết.
Tất cả các định nghĩa y học về cuộc sống đều ngu xuẩn bởi vì bác sĩ giải phẫu mổ
xẻ, và khi ông ấy đưa ra kết luận thì cuộc sống không còn nữa rồi, đấy chỉ còn
là cái xác chết. Tất cả mọi việc giải thích đều là sau cái chết, cuộc sống
không có đó.
Bây giờ thậm chí các nhà khoa học
cũng trở nên nhận biết về hiện tượng là khi bạn xét nghiệm máu người, máu không
thể nào như nó lúc đang chuyển động trong mạch của người sống. Thế thì nó sống
động, nó có phẩm chất khác; bây giờ khi nó trong ống nghiệm, nó chết. Nó không
phải là cùng máu ấy, bởi vì phẩm chất cơ bản - cuộc sống - không còn trong nó nữa.
Mọi giải thích đều cùng kiểu đó.
Đoá hoa trên cây là khác bởi vì
cuộc sống, hình hài của cuộc sống, đang tuôn chảy trong nó. Khi bạn cắt nó khỏi
cây, đem nó vào phòng thí nghiệm, xem xét nó, nó là đoá hoa khác. Bạn chớ có bị
lừa dối bởi dáng vẻ của nó. Bây giờ cuộc sống không còn tuôn chảy trong nó nữa.
Bạn có thể đi tới biết được các hợp thành hoá học của đoá hoa này, nhưng cái đó
không phải là giải thích.
Nhà thơ có cách tiếp cận khác,
không phải thông qua mổ xẻ, mà thông qua tình yêu, không phải thông qua ngắt
hoa khỏi cây mà thay vào đó là qua việc hội nhập với hoa, hiện hữu với nó trong
tình yêu sâu sắc, trong sự tham dự huyền nhiệm. Ông ấy tham dự với nó, thế rồi
ông ấy đi tới biết điều gì đó, và điều đó không phải là giải thích. Thơ ca
không thể là giải thích, nhưng nó có thoáng nhìn về chân lí. Nó còn đúng hơn bất
kì khoa học nào.
Quan sát: khi bạn đang trong
tình yêu với ai đó, trái tim bạn đập khác. Người yêu của bạn, người được yêu, sẽ
lắng nghe trái tim bạn: nó đập khác. Người yêu của bạn sẽ cầm tay bạn… hơi ấm
cũng khác. Máu chuyển động theo vũ điệu khác, nó đập khác.
Khi bác sĩ cầm tay bạn trong
tay ông ấy, mạch đập không như nhau. Ông ấy có thể nghe tiếng tim đập nhưng cái
đập này lại khác. Khi trái tim đang đập vì người yêu, nó có bài ca của riêng
nó, nhưng chỉ người yêu mới có thể biết tới cái đập đó, chỉ người yêu mới có thể
biết tới xung đập đó, máu đó, hơi ấm cuộc đời. Bác sĩ không thể nào biết được.
Cái gì đã thay đổi? Bác sĩ đã
trở thành người quan sát còn bạn là vật quan sát - các bạn không là một. Bác sĩ
điều trị bạn như một đối thể. Ông ấy nhìn bạn như là ông ấy nhìn vào một vật -
điều đó tạo nên khác biệt. Người yêu không nhìn vào bạn như một đối thể - người
đó trở thành một với bạn, người đó hội nhập và tan chảy. Người đó đi tới biết cốt
lõi sâu xa nhất của bản thể bạn, nhưng người đó không có giải thích. Người đó cảm
thấy nó, nhưng việc cảm này lại khác. Người đó không thể nghĩ về nó được.
Bất kì cái gì có thể được nghĩ
tới đều sẽ không sống. Ý nghĩ giải quyết với cái chết, nó bao giờ cũng giải quyết
với các đối tượng chết; đó là lí do tại sao trong khoa học không có chỗ cho cảm
giác. Cảm giác đem lại chiều hướng khác cho sự tồn tại, chiều hướng của sự sống
động.
Câu chuyện hay này có nhiều điều
nói với bạn. Bước dần vào trong nó đi, và nếu bạn đạt tới kết luận, thế thì hiểu
rằng bạn đã bỏ lỡ nó rồi. Nếu bạn đạt tới tiếng cười, thế thì bạn đã hiểu.
Trang Tử là người rất vắn tắt.
Bao giờ cũng vậy, những người đã chứng ngộ sẽ không thốt ra lời không cần thiết.
Họ sống với điều tinh tuý.
---------------------------------------------------
Ba người bạn đang bàn luận về cuộc sống.
Ba người bạn đang bàn luận về cuộc sống.
Điều đầu tiên cần phải hiểu là ở
chỗ chỉ bạn bè mới có thể bàn luận về cuộc sống. Bất kì khi nào thảo luận trở
thành đối kháng, bất kì khi nào thảo luận trở thành tranh luận, đối thoại đã bị
tan vỡ. Cuộc sống không thể được bàn thảo theo cách đó. Chỉ bạn bè mới có thể
thảo luận, bởi vì thế thì bàn luận không phải là tranh luận, nó là đối thoại.
Và đâu là khác biệt giữa tranh
luận và đối thoại? Trong tranh luận bạn không sẵn sàng lắng nghe người khác;
cho dù bạn có nghe, bạn nghe sai. Bạn không thực sự lắng nghe, bạn đơn giản chuẩn
bị luận cứ của mình. Trong khi người khác đang nói, bạn sẵn sàng để cãi lại.
Trong khi người khác đang nói, bạn đơn giản chờ đợi cho tới cơ hội của mình để
cãi lí lại. Bạn mang định kiến đã có sẵn trong mình, bạn có lí thuyết. Bạn
không trong tìm kiếm, bạn không dốt nát, bạn không hồn nhiên; bạn đã chất đầy,
con thuyền của bạn không rỗng. Bạn mang lí thuyết nào đó với mình và bạn đang cố
gắng để chứng minh chúng là đúng.
Người tìm kiếm chân lí không
mang lí thuyết nào theo mình cả. Người đó bao giờ cũng cởi mở, mong manh. Người
đó có thể lắng nghe. Người Hindu không thể lắng nghe được, người Mô ha mét giáo
không thể lắng nghe được. Làm sao người Hindu có thể lắng nghe được? Người đó
đã biết chân lí, không cần phải nghe nữa. Bạn cố gắng làm cho người đó lắng
nghe nhưng người đó không thể lắng nghe được; tâm trí người đó đã quá tràn đầy
đến mức chẳng cái gì có thể thấm vào được. Người Ki tô giáo không thể lắng nghe
được, người đó đã biết chân lí. Người đó đã đóng cánh cửa của mình với những luồng
gió mới, người đó đã nhắm mắt lại vì mặt trời mới sắp lên, người đó đã đạt tới,
người đó đã tới nơi.
Tất cả những người cảm thấy rằng
họ đã tới nơi đều có thể tranh luận, nhưng họ không thể đi vào trong đối thoại
được. Họ chỉ có thể đụng chạm. Thế thì xung đột nảy sinh và họ đối lập lẫn
nhau. Trong thảo luận như vậy bạn có thể chứng minh điều gì đó, nhưng chẳng cái
gì được chứng minh cả. Bạn có thể làm người khác im lặng, nhưng người khác chẳng
bao giờ được chuyển đổi. Bạn không thể nào thuyết phục được, bởi vì đây là một
loại chiến tranh, một cuộc nội chiến - bạn không đánh nhau bằng vũ khí, bạn
đánh nhau bằng lời nói.
Trang Tử nói: ba người bạn đang
bàn luận về cuộc sống - đó là lí do tại sao họ có thể đạt tới tiếng cười; nếu
không thì sẽ có kết luận. Lí thuyết này có thể đã đánh bại lí thuyết khác, triết
lí này có thể đã làm im lặng triết lí khác, thế thì sẽ có kết luận - và kết luận
là chết.
Cuộc sống không có kết luận. Cuộc
sống không có ý nghĩ ngu xuẩn về nó. Nó cứ diễn ra vô tận; nó bao giờ cũng là
việc đang tiếp diễn, vĩnh hằng. Làm sao bạn có thể kết luận điều gì về nó được?
Khoảnh khắc bạn kết luận, bạn đã bước ra khỏi nó rồi. Cuộc sống cứ diễn ra và bạn
đã bước ra khỏi con đường. Bạn có thể níu bám lấy kết luận của mình nhưng cuộc
sống sẽ không đợi bạn.
Bạn bè có thể bàn luận. Tại
sao? Bạn có thể yêu một người, bạn không thể yêu một triết lí. Các triết gia
không thể là bạn bè được. Bạn có thể hoặc là đệ tử của họ hoặc là kẻ thù của họ
nhưng bạn không thể là bạn bè của họ được. Hoặc bạn bị họ thuyết phục hoặc
không bị thuyết phục, hoặc bạn theo họ hay không theo họ, nhưng bạn không thể
là bạn bè được. Tình bạn chỉ có thể có giữa hai thuyền rỗng. Thế thì bạn cởi mở
với người khác, mời chào người khác, thế thì bạn thường xuyên là lời mời, tới
tôi đi, đi vào tôi đi, ở cùng tôi đi.
Bạn có thể vứt bỏ các lí thuyết
và triết lí nhưng bạn không thể vứt bỏ tình bạn được. Và khi bạn đang trong
tình bạn, đối thoại trở thành có thể. Trong đối thoại bạn lắng nghe, và nếu bạn
phải nói, bạn nói không để phủ nhận người khác, bạn nói chỉ để tìm kiếm, để hỏi.
Bạn nói, không với kết luận đã đạt tới, mà với tìm tòi, tìm tòi tiếp diễn. Bạn
không cố gắng chứng minh điều gì đó: bạn nói từ sự hồn nhiên, không từ triết
lí. Triết lí chẳng bao giờ hồn nhiên cả, nó bao giờ cũng tinh ranh, nó là
phương tiện của tâm trí.
Ba người bạn đang bàn luận về
cuộc sống - bởi vì giữa bạn bè đối thoại là có thể. Cho nên ở phương Đông đã có
truyền thống là chừng nào bạn còn chưa tìm ra được tình bạn, tình yêu, tôn
kính, tin cậy, không câu hỏi nào là có thể. Nếu bạn tới thầy và con thuyền của
bạn còn tràn đầy những ý tưởng của mình, không thể có tiếp xúc được, không thể
có đối thoại được. Trước hết bạn phải làm trống rỗng để cho tình bạn trở thành
có thể, để cho bạn có thể nhìn không có ý tưởng nào nổi lên qua mắt bạn, để cho
bạn có thể nhìn không có kết luận nào. Và bất kì khi nào bạn có thể nhìn không
kết luận gì, cảnh quan của bạn thành bao la, nó không bị hàm chứa.
Người Hindu có thể đọc Kinh
Thánh, nhưng người đó chẳng bao giờ hiểu được nó. Thực sự, người đó chẳng bao
giờ đọc nó, người đó không thể nào lắng nghe nó được. Người Ki tô giáo có thể đọc
Gita, nhưng người đó vẫn còn là người ngoài. Người đó chưa bao giờ thấm nhuần
vào bản thể bên trong nhất của nó, người đó chưa bao giờ đạt tới cõi giới bên
trong, người đó di chuyển lòng vòng quanh nó. Người đó đã biết rằng chỉ Christ
mới là chân lí, người đó đã biết rằng chỉ qua Christ thì mới có cứu rỗi; người
đó đã biết rằng chỉ Christ mới là đứa con duy nhất của Thượng đế. Làm sao người
đó có thể lắng nghe Krishna được? Chỉ Christ mới là chân lí. Krishna nhất định
là giả dối, nhiều nhất thì đó cũng là giả dối đẹp, nhưng không bao giờ là chân
lí cả. Hay nếu người đó nhân nhượng nhiều, người đó sẽ nói, chân lí xấp xỉ.
Nhưng bạn ngụ ý gì khi bạn nói
chân lí xấp xỉ? Nó là giả dối! Chân lí thì hoặc có hoặc không. Không cái gì có
thể là chân lí xấp xỉ được. Chân lí hiện hữu, hoặc chân lí không hiện hữu. Nó
bao giờ cũng là toàn bộ. Bạn không thể phân chia nó. Bạn không thể nói nó là
chân lí tới mức độ nào đó. Không, chân lí không biết tới mức độ. Hoặc nó có hoặc
nó không có.
Cho nên khi tâm trí chứa kết luận
rằng Christ là chân lí duy nhất, thế thì không thể nào lắng nghe Krishna được.
Cho dù bạn có bắt gặp ông ấy trên đường, bạn sẽ không thể nào lắng nghe ông ấy
được. Cho dù bạn có gặp Phật, bạn sẽ không gặp ông ấy.
Và toàn bộ thế giới tràn đầy với
các kết luận. Ai đó là người Ki tô giáo, ai đó là người Hindu, ai đó là người
Jaina, ai đó là Phật tử - đó là lí do tại sao chân lí đang bị bỏ lỡ! Người tôn
giáo không thể là người Ki tô giáo, người Hindu hay Phật tử, người tôn giáo chỉ
có thể là người tìm tòi chân thành. Người đó tìm tòi và người đó vẫn còn cởi mở
không có kết luận gì. Con thuyền của người đó trống rỗng.
Ba người bạn bàn luận về cuộc sống…
Chỉ bạn bè mới có thể bàn luận được bởi vì thế thì điều đó trở thành cuộc đối
thoại, thế thì mối quan hệ là giữa tôi và bạn. Khi bạn tranh luận, mối quan hệ
là giữa tôi và nó. Người khác là vật cần được chuyển đổi, thuyết phục, người
khác không phải là bạn; người khác không có ý nghĩa gì, người khác chỉ là con số.
Trong tình bạn người khác là có
ý nghĩa, người khác có giá trị nội tại, người khác là mục đích trong bản thân
anh ta, bạn không cố gắng để chuyển đổi anh ta. Làm sao bạn có thể chuyển đổi
được một người? Ngu xuẩn làm sao! Chính nỗ lực để chuyển đổi một người là ngu
xuẩn. Con người không phải là vật. Con người lớn lao và bao la đến độ không lí
thuyết nào có thể quan trọng hơn con người. Không Kinh Thánh nào quan trọng hơn
con người, không Gita nào quan trọng hơn con người. Con người có nghĩa là chính
niềm vinh quang của cuộc sống. Bạn có thể yêu một người nhưng bạn không bao giờ
có thể chuyển đổi được một người. Nếu bạn cố gắng chuyển đổi, bạn đang cố gắng
thao túng. Thế thì người đó đã trở thành phương tiện và bạn đang khai thác.
Đối thoại là có thể khi người khác được yêu, khi không có ý thức hệ đằng sau nó.
Người khác đơn giản được yêu, và dù cho người đó có là người Ki tô giáo hay
Hindu thì cũng chẳng thành vấn đề. Đây chính là điều tình bạn nghĩa là gì - và
bạn bè thì có thể bàn luận về cuộc sống bởi vì đối thoại là có thể.
Một người nói:
“Người ta có thể sống cùng chẳng biết điều
đó không,
Làm việc cùng nhau chẳng tạo ra cái gì
không?
Liệu họ có thể bay trong không trung và
quên hết việc tồn tại, thế giới không mục đích không?
Người đó không đề nghị lí thuyết,
người đó đơn giản nêu ra câu hỏi. Và nhớ lấy, bạn có thể đưa ra câu hỏi theo
hai cách. Đôi khi bạn đưa ra một câu hỏi chỉ bởi vì bạn phải đưa ra một câu trả
lời và câu trả lời thì đã có đó rồi - bạn đưa ra câu hỏi chỉ để trả lời cho nó.
Thế thì câu hỏi này là không thực, nó là giả. Câu trả lời đã có đó rồi. Câu hỏi
chỉ là mẹo, khoa trương; nó không thật, không chân thực.
Câu hỏi là chân thực khi không
có câu trả lời trong bạn, khi bạn hỏi nhưng bạn không hỏi từ câu trả lời, khi bạn
hỏi đơn giản để nhìn; câu hỏi để cho bạn trống rỗng, chỉ cởi mở, mời chào, hỏi.
Một người nói:
“Người ta có thể sống cùng chẳng biết điều
đó không…?”
Chúng ta sống cùng nhau và
chúng ta chẳng bao giờ biết cái cùng nhau đó là gì cả. Bạn có thể sống cùng
nhau nhiều năm chẳng biết sự cùng nhau là gì cả. Nhìn khắp thế giới mà xem - mọi
người đều sống cùng nhau, không ai sống một mình: chồng với vợ, vợ với chồng,
trẻ con với bố mẹ, bố mẹ với bạn bè; mọi người đều sống cùng nhau. Cuộc sống tồn
tại trong sự cùng nhau, nhưng bạn có biết sự cùng nhau đó là gì không?
Sống với vợ trong bốn mươi năm,
bạn có thể vẫn chưa sống với cô ấy cho dù một khoảnh khắc. Thậm chí khi làm
tình với cô ấy bạn có thể vẫn đang nghĩ tới những thứ khác. Thế thì bạn không
có đó, việc làm tình chỉ là máy móc.
Tôi đã từng nghe rằng có lần
Mulla Nasruddin đi xem phim với vợ. Họ đã cưới nhau ít nhất cũng hai mươi năm rồi.
Phim này là một trong những phim ngoại khá gợi tình! Khi họ rời khỏi rạp chiếu
bóng, cô vợ nói, “Nasruddin, anh chưa bao giờ yêu em như các diễn viên đó đã
yêu trong phim. Sao vậy?”
Nasruddin nói, “Em có điên
không đấy? Em có biết họ được trả bao nhiêu tiền để làm những điều như vậy
không?”
Mọi người cứ sống với nhau mà
chẳng có tình yêu gì cả bởi vì bạn chỉ yêu khi điều đó được trả tiền. Và làm
sao bạn có thể yêu được nếu bạn chỉ yêu khi được trả tiền? Thế thì tình yêu
cũng đã trở thành thứ hàng hoá trong chợ: thế thì nó không phải là mối quan hệ
nữa, nó không phải là việc cùng nhau nữa, nó không phải là lễ hội nữa. Bạn
không hạnh phúc được ở cùng với người khác, nhiều nhất thì bạn cũng chỉ tha thứ
cho người khác.
Vợ của Mulla Nasruddin đang
trên giường chết và bác sĩ nói, “Nasruddin, tôi phải nói thẳng với anh, trong
những khoảnh khắc như thế này tốt hơn cả là hãy thành thật. Vợ anh không thể cứu
được nữa. Bệnh tật đã vượt ra ngoài khả năng của chúng tôi, và anh phải tự chuẩn
bị. Đừng để mình phải đau khổ, chấp nhận điều đó, đấy là định mệnh của anh. Vợ
anh sắp chết rồi.”
Nasruddin nói, “Bác sĩ đừng lo.
Nếu tôi có thể chịu đựng cô ấy sau bao nhiêu năm thì tôi cũng có thể chịu đựng
được thêm vài giờ nữa!”
Nhiều nhất thì chúng ta tha thứ.
Và bất kì khi nào bạn nghĩ dưới dạng tha thứ, bạn cũng đang chịu đựng, sự cùng
nhau của bạn là chịu đựng. Đó là lí do tại sao Jean-Paul Sartre nói, “Người
khác là địa ngục”… bởi vì với người khác bạn đơn giản chịu đựng, người khác trở
thành cảnh tù túng, người khác trở thành sự chi phối. Người khác bắt đầu tạo ra
rắc rối, còn tự do của bạn bị mất, hạnh phúc của bạn bị mất. Thế rồi điều đó trở
thành thường lệ, dung thứ. Nếu bạn dung thứ cho người khác làm sao bạn có thể
biết tới cái đẹp của sự cùng nhau? Thực sự, điều đó chưa bao giờ xảy ra.
-----------------------------
Hôn nhân gần như bao giờ cũng không xảy ra, bởi vì hôn nhân có nghĩa là mở hội việc cùng nhau. Đấy không phải là giấy phép. Không văn phòng đăng kí nào có thể trao cho bạn hôn nhân, không linh mục nào có thể trao nó cho bạn như món quà. Nó là cuộc cách mạng vô cùng trong bản thể, nó là biến chuyển lớn lao trong chính phong cách sống của bạn, và nó chỉ có thể xảy ra khi bạn mở hội sự cùng nhau, khi người kia không còn bị cảm thấy là người kia nữa, khi bạn không còn cảm thấy bản thân mình là mình nữa. Khi hai không thực sự là hai, một cây cầu đã xảy ra, họ đã trở thành một theo một nghĩa nào đó. Về mặt thể chất họ vẫn còn là hai, nhưng khi có liên quan tới bản thể bên trong nhất, họ trở thành một. Họ có thể là hai cực của một sự tồn tại nhưng họ không phải là hai. Cây cầu tồn tại. Cây cầu đó cho bạn những thoáng nhìn về sự cùng nhau.
Hôn nhân gần như bao giờ cũng không xảy ra, bởi vì hôn nhân có nghĩa là mở hội việc cùng nhau. Đấy không phải là giấy phép. Không văn phòng đăng kí nào có thể trao cho bạn hôn nhân, không linh mục nào có thể trao nó cho bạn như món quà. Nó là cuộc cách mạng vô cùng trong bản thể, nó là biến chuyển lớn lao trong chính phong cách sống của bạn, và nó chỉ có thể xảy ra khi bạn mở hội sự cùng nhau, khi người kia không còn bị cảm thấy là người kia nữa, khi bạn không còn cảm thấy bản thân mình là mình nữa. Khi hai không thực sự là hai, một cây cầu đã xảy ra, họ đã trở thành một theo một nghĩa nào đó. Về mặt thể chất họ vẫn còn là hai, nhưng khi có liên quan tới bản thể bên trong nhất, họ trở thành một. Họ có thể là hai cực của một sự tồn tại nhưng họ không phải là hai. Cây cầu tồn tại. Cây cầu đó cho bạn những thoáng nhìn về sự cùng nhau.
Đó là một trong những điều hiếm
hoi nhất tình cờ xảy ra cho hôn nhân. Mọi người sống cùng nhau bởi vì họ không
thể sống đơn độc. Nhớ điều này: bởi vì họ không thể sống đơn độc, đó là lí do tại
sao họ sống cùng nhau. Sống đơn độc là không thoải mái, sống đơn độc là không
kinh tế, sống đơn độc là khó khăn, đó là lí do tại sao họ sống cùng nhau. Các
lí do này là phủ định.
Một người định xây dựng gia
đình, ai đó hỏi anh ta, “Anh bao giờ cũng chống lại hôn nhân, sao anh bỗng
nhiên thay đổi ý kiến thế?”
Anh ta nói, “Mùa đông sắp tới rồi
và mọi người nói rằng trời sẽ lạnh lắm. Lò sưởi là quá đắt so với tôi còn vợ
thì rẻ hơn!”
Đây là logic. Bạn sống với ai
đó bởi vì điều đó là thoải mái, thuận tiện, kinh tế, rẻ. Sống đơn độc thực sự
khó khăn: vợ kiêm nhiều thứ, người nội trợ, người nấu ăn, người phục vụ, người
bảo mẫu - nhiều thứ thế. Cô ấy là lao động rẻ nhất trên thế giới, làm biết bao
nhiêu việc không được trả công gì cả. Đấy là bóc lột.
Hôn nhân tồn tại như một thể chế
bóc lột, đấy không phải là việc cùng nhau. Đó là lí do tại sao hạnh phúc không
tới từ nó như việc nở hoa. Nó không thể thế được. Từ gốc rễ của bóc lột làm sao
cực lạc có thể được sinh ra?
Có cái gọi là những vị thánh của
bạn, người thường nói rằng bạn khổ bởi vì bạn sống trong gia đình, bởi vì bạn sống
trong thế giới. Họ nói, “Bỏ mọi thứ đi, từ bỏ đi!” Và logic của họ dường như là
phải, không phải bởi vì nó là phải, mà bởi vì bạn đã bỏ lỡ sự cùng nhau. Nếu
không thì tất cả các vị thánh đó dường như sẽ là hoàn toàn sai. Người đã biết tới
sự cùng nhau thì đã biết tới điều thiêng liêng; người thực sự có gia đình đã biết
tới điều thiêng liêng, bởi vì tình yêu là cánh cửa lớn nhất.
Nhưng việc cùng nhau không có
đó và bạn sống cùng nhau không biết việc cùng nhau là gì; bạn sống theo cách đó
bẩy mươi năm, tám mươi năm chẳng biết cuộc sống là gì. Bạn trôi giạt chẳng có gốc
rễ gì trong cuộc sống. Bạn chỉ di chuyển từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc
khác không nếm trải cái mà cuộc sống đem lại cho bạn. Và điều đó không được
trao cho bạn vào lúc sinh. Việc biết cuộc sống không phải là việc cha truyền
con nối.
Cuộc sống tới qua việc sinh
nhưng trí huệ, kinh nghiệm, cực lạc, thì phải học. Do đó mới có ý nghĩa của thiền.
Bạn phải giành lấy nó, bạn phải trưởng thành hướng tới nó, bạn phải đạt tới một
độ chín chắn nào đó; chỉ thế thì bạn mới có thể biết tới nó.
Cuộc sống có thể mở ra cho bạn
chỉ trong khoảnh khắc chín chắn nào đó. Nhưng mọi người vẫn sống và chết một
cách ngây thơ. Họ chưa bao giờ thực sự trưởng thành, họ chưa bao giờ đạt tới
chín chắn.
Chín chắn là gì? Chỉ trở nên
chín muồi về dục không có nghĩa là bạn đã chín chắn. Hỏi các nhà tâm lí mà xem:
họ nói rằng tuổi tinh thần của người lớn trung bình vẫn còn gần quãng mười ba
hay mười bốn. Thân thể vật lí của bạn cứ trưởng thành nhưng tâm trí bạn thì dừng
lại quãng tuổi mười ba. Cũng không có gì ngạc nhiên là bạn hành xử ngu xuẩn thế,
tại sao cuộc sống của bạn trở thành sự ngu xuẩn liên tục! Một tâm trí chưa trưởng
thành nhất định sẽ làm điều gì đó sai vào mọi khoảnh khắc.
Và một tâm trí chưa chín chắn
bao giờ cũng đổ trách nhiệm vào người khác. Bạn cảm thấy bất hạnh và nghĩ rằng
đấy là vì mọi người khác đang tạo ra địa ngục cho bạn. “Người khác là địa ngục.”
Tôi nói khẳng định này của Sartre là rất không chín chắn. Nếu bạn chín chắn,
người khác cũng có thể trở thành thiên đường. Người khác là bất kì cái gì bạn
đang là bởi vì người khác chỉ là tấm gương, người đó phản xạ bạn.
Khi tôi nói chín chắn, tôi ngụ
ý sự toàn vẹn bên trong. Và sự toàn vẹn bên trong này chỉ tới khi bạn chấm dứt
việc đổ trách nhiệm cho người khác, khi bạn chấm dứt việc nói rằng người khác
đang tạo ra khổ của bạn, khi bạn bắt đầu hiểu rằng bạn là người tạo ra khổ của
mình. Đây là bước đầu tiên hướng tới chín chắn: tôi chịu trách nhiệm. Bất kì
cái gì đang xảy ra, đấy là việc làm của tôi.
Bạn cảm thấy buồn. Đây có phải
là việc làm của bạn không? Bạn sẽ cảm thấy rất bối rối, nhưng nếu bạn có thể vẫn
còn lại với cảm giác này, chẳng chóng thì chầy bạn sẽ có khả năng chấm dứt việc
làm nhiều thứ. Đây là điều lí thuyết về nghiệp tất cả là gì. Bạn chịu trách nhiệm.
Chớ nói xã hội chịu trách nhiệm, chớ nói rằng bố mẹ chịu trách nhiệm, chớ nói
điều kiện kinh tế chịu trách nhiệm, đừng đổ trách nhiệm lên bất kì ai. Bạn chịu
trách nhiệm.
Ngay từ đầu, điều này có vẻ sẽ giống
như một gánh nặng bởi vì bạn không thể đổ trách nhiệm lên bất kì ai khác được.
Nhưng nhận lấy nó đi…
Ai đó hỏi Mulla Nasruddin, “Sao
anh trông buồn thế?”
Anh ta nói, “Vợ tôi cứ khăng
khăng rằng tôi phải bỏ cờ bạc, rượu chè, hút hít. Mà tôi đã bỏ tất cả những thứ
đó rồi.”
Thế là người này hỏi, “Vợ anh
bây giờ chắc phải hạnh phúc lắm nhỉ.”
Nasruddin nói, “Đấy mới là vấn
đề. Bây giờ thì cô ấy không thể tìm ra được bất kì cái gì phàn nàn nữa, cho nên
cô ấy rất bất hạnh. Cô ấy bắt đầu nói, nhưng cô ấy không thể tìm ra cái gì để
phàn nàn cả. Bây giờ cô ấy không thể cho tôi là người chịu trách nhiệm về mọi
thứ và tôi chưa bao giờ thấy cô ấy bất hạnh đến thế. Tôi cứ nghĩ rằng khi tôi
đã từ bỏ tất cả những thứ đó thì cô ấy phải vui mừng hớn hở, nhưng cô ấy trở
thành bất hạnh hơn bao giờ hết.”
Nếu bạn cứ đổ trách nhiệm lên
người khác và họ tất cả đều làm bất kì cái gì bạn bảo họ làm, bạn sẽ kết thúc với
việc tự tử thôi. Cuối cùng sẽ chẳng còn chỗ nào để đổ trách nhiệm của bạn cả.
Cho nên có vài khuyết điểm cũng
là điều hay; nó giúp cho người khác được hạnh phúc. Nếu có một người chồng hoàn
hảo thực sự, người vợ sẽ bỏ anh ta. Làm sao bạn có thể chi phối được một người
hoàn hảo? Cho nên dù bạn không muốn, cứ làm điều gì đó sai đi để cho vợ có thể
chi phối bạn và cảm thấy hạnh phúc!
Nơi có người chồng hoàn hảo thì
nhất định sẽ có li dị. Tìm một người hoàn hảo đi và tất cả các bạn sẽ chống lại
anh ta, bởi vì bạn không thể nào kết án, bạn không thể nói điều gì sai về anh
ta cả. Tâm trí chúng ta thích đổ trách nhiệm lên ai đó khác. Tâm trí chúng ta
muốn phàn nàn. Nó làm cho chúng ta cảm thấy thoải mái, bởi vì thế thì chúng ta
không chịu trách nhiệm, chúng ta đỡ bị nặng gánh. Nhưng việc đỡ nặng gánh này rất
đắt. Bạn không thực sự đỡ nặng gánh đâu, bạn ngày càng nặng gánh hơn đấy. Chỉ bạn
không tỉnh táo thôi.
Mọi người đã sống bẩy mươi năm,
và trong nhiều nhiều kiếp sống, mà chẳng biết cuộc sống là gì. Họ vẫn chưa chín
chắn, họ vẫn không toàn vẹn, họ vẫn không định tâm. Họ sống ở ngoại vi.
Nếu ngoại vi của bạn gặp ngoại
vi của người khác, đụng chạm xảy ra, và nếu bạn cứ bận tâm rằng người khác là
sai, bạn vẫn còn ở phần ngoại vi. Một khi bạn hiểu ra, “Mình chịu trách nhiệm
cho bản thể mình, bất kì điều gì xảy ra, mình đều là nguyên nhân, mình đã làm
điều đó,” bỗng nhiên tâm thức bạn dịch chuyển từ ngoại vi vào trung tâm. Bây giờ
lần đầu tiên, bạn trở thành trung tâm thế giới của mình.
Bây giờ nhiều điều có thể được
làm… bởi vì bất kì điều gì bạn không thích, bạn có thể bỏ; bất kì điều gì bạn
thích, bạn có thể chấp nhận; bất kì điều gì bạn cảm thấy là đúng, bạn có thể
theo, còn bất kì điều gì bạn cảm thấy không đúng, bạn không cần phải theo, bởi
vì bây giờ bạn định tâm và bắt rễ trong bản thân mình.
Một người bạn hỏi:
“Người ta có thể sống cùng chẳng biết điều
đó không,
Làm việc cùng nhau chẳng tạo ra cái gì
không?
Liệu họ có thể bay trong không trung và
quên hết việc tồn tại, thế giới không mục đích không?
Ba người bạn nhìn nhau…
Chỉ bạn bè mới nhìn vào nhau.
Khi có ai đó bạn cảm thấy đối kháng, bạn chẳng bao giờ nhìn vào người đó cả. Bạn
tránh con mắt người đó. Thậm chí nếu bạn phải nhìn vào người đó, cái nhìn của bạn
trống vắng, bạn không cho phép mắt mình thu hút người đó; người đó là cái gì đó
ngoại lai, bị bác bỏ.
Đôi mắt là cánh cửa. Bạn chỉ cần
nhìn vào một người và bạn có thể thu hút người đó, để cho người đó tan trong bạn.
Ba người bạn nhìn nhau…
Một người bạn đưa ra câu hỏi,
hai người kia không vội vã trả lời. Họ chờ đợi, họ kiên nhẫn. Nếu có bất kì kết
luận nào trong tâm trí họ, họ sẽ nói ngay lập tức. Nhưng họ nhìn lẫn nhau. Họ cảm
thấy tình huống này, câu hỏi này, tâm điểm của câu hỏi này, ý nghĩa của câu hỏi
này, chiều sâu của câu hỏi này. Nhớ lấy, nếu bạn có thể cảm thấy chiều sâu của
một câu hỏi, câu trả lời gần như đã được tìm ra. Nhưng chẳng ai có kiên nhẫn,
chẳng ai sẵn sàng đi sâu vào trong câu hỏi cả. Bạn hỏi, nhưng bạn chưa hề thực
sự đi vào trong việc hỏi. Bạn yêu cầu có câu trả lời ngay lập tức.
Ba người bạn nhìn nhau và buột cười phá
lên.
Sự kiện, câu hỏi, việc thấm nhuần
của nó, chiều sâu, thực tại, sự kiện về nó, chỉ ra một cách hiển nhiên là không
cần câu trả lời nào cả. Bất kì câu trả lời nào cũng đều sẽ ngu xuẩn, bất kì câu
trả lời nào cũng đều hời hợt cả.
Người ta nói về Phật rằng hàng
triệu lần mọi người hay hỏi ông ấy những câu hỏi còn ông ấy thì không trả lời.
Nếu câu hỏi yêu cầu một câu trả lời hời hợt, ông ấy sẽ không trả lời; nếu ai đó
hỏi, “Có Thượng đế hay không?” ông ấy vẫn còn im lặng. Và mọi người đều ngu xuẩn
cả. Họ bắt đầu nghĩ rằng ông ấy không tin vào Thượng đế, nếu không thì ông ấy sẽ
nói có; hay họ nghĩ ông ấy dốt nát, ông ấy không biết, nếu không thì ông ấy sẽ
nói hoặc có hoặc không!
Khi bạn hỏi một câu hỏi như,
“Thượng đế có tồn tại không?” bạn không biết bạn đang hỏi gì. Bạn có cho là câu
hỏi này cần được trả lời không? Thế thì bạn ngốc nghếch. Những câu hỏi quan trọng
như vậy có thể được trả lời không? Thế thì bạn chẳng biết tới chiều sâu của nó;
thế thì đây là tò mò, không phải là tìm hỏi.
Nếu người tới hỏi Phật là người
tìm kiếm đích thực, thế thì người đó sẽ vẫn còn với cái im lặng của Phật - bởi
vì im lặng là câu trả lời rồi. Trong im lặng đó người đó đã cảm thấy câu hỏi,
trong im lặng đó câu hỏi đã tự khẳng định nó một cách mạnh mẽ. Tương phản với nền
tảng im lặng đó, câu hỏi đã trở nên rõ ràng. Sáng tỏ sẽ tới với người đó.
Bất kì khi nào bạn hỏi một câu
hỏi sâu sắc, không cần câu trả lời nào cả. Tất cả những gì cần thiết là còn lại
với câu hỏi đó. Bạn đừng đi đây đó, cứ còn lại với câu hỏi và chờ đợi. Chính
câu hỏi sẽ trở thành câu trả lời. Câu hỏi, nếu bạn đi sâu vào trong nó, sẽ dẫn
tới chính ngọn nguồn từ đó câu trả lời cũng tuôn ra. Nó ở trong bạn.
Phật đã không trả lời bất kì
câu hỏi thật nào - và nhớ rằng tôi cũng thế đấy. Tôi cứ trả lời câu hỏi của bạn,
nhưng tôi cũng không thể trả lời câu hỏi thực sự của bạn được - bạn vẫn còn
chưa hỏi đâu. Bất kì khi nào bạn hỏi câu hỏi thực, tôi không định trả lời, bởi
vì không câu hỏi thực nào có thể được trả lời cả, nó không phải là việc trí tuệ.
Chỉ từ tâm qua tâm, việc truyền trao mới xảy ra, không phải từ đầu sang đầu.
-----------------------------------
Ba người bạn nhìn nhau…
Ba người bạn nhìn nhau…
Điều gì đã xảy ra trong cái
nhìn đó? Họ không có cái đầu trong cái nhìn đó, họ trở thành trái tim. Họ nhìn
lẫn nhau, họ cảm, họ nếm trải câu hỏi này - và nó thật đến mức không có câu trả
lời nào cho nó cả.
Vâng, chúng ta sống mà chẳng biết
cuộc sống là gì cả. Vâng, chúng ta sống cùng nhau mà chẳng biết việc cùng nhau
là gì cả. Vâng, chúng ta sống, quên hoàn toàn rằng chúng ta tồn tại. Chúng ta
đã bay quanh bầu trời mà chẳng biết chúng ta đang đi đâu hay tại sao.
Câu hỏi là thực đến mức nếu bất
kì câu trả lời nào được nêu ra, câu trả lời đó sẽ là ngu ngốc. Chỉ kẻ ngu mới
trả lời câu hỏi như vậy. Họ nhìn lẫn nhau, họ thực sự nhìn vào nhau, và buột cười
phá lên. Tại sao buột cười phá lên? Toàn bộ tình huống này là ngớ ngẩn thế. Thực
sự, chúng ta sống chẳng biết cuộc sống là gì; chúng ta tồn tại mà chẳng biết trở
nên nhận biết về sự tồn tại, chúng ta cứ lên đường không biết đi từ đâu hay tới
cái gì hay tại sao.
Cuộc sống là bí ẩn. Bất kì khi
nào bạn đương đầu với bí ẩn thì tiếng cười sẽ phát sinh, vì làm sao bạn có thể
trả lời cho bí ẩn được?
Cái gì là điều bí ẩn nhất trong
bạn? Tiếng cười là điều bí ẩn nhất trong bạn. Không con vật nào có thể cười được,
chỉ con người mới cười thôi. Đó là niềm vinh quang tối cao của con người. Không
con vật nào cười cả, không cây cối nào cười cả - chỉ con người cười. Tiếng cười
là yếu tố bí ẩn nhất trong con người.
Aristotle đã định nghĩa con người
là sinh linh hợp lí. Đấy không phải là định nghĩa tốt bởi vì lập luận có cả
trong con vật nữa. Khác biệt chỉ là ở mức độ, và điều đó cũng không nhiều lắm.
Con người chỉ có thể được định nghĩa là con vật cười và khóc, không định nghĩa
nào khác có tác dụng, bởi vì không con vật nào khác có thể khóc, không con vật
nào khác có thể cười. Tính cực này chỉ tồn tại trong loài người. Đây là điều gì
đó bí ẩn, bí ẩn nhất, trong con người.
Giận dữ tồn tại khắp mọi nơi,
nó không là gì cả. Dục tồn tại khắp nơi, nó không là gì cả, nó không bí ẩn đến
thế. Nếu bạn muốn hiểu dục, bạn có thể hiểu dục của con vật, và tất cả những điều
áp dụng được cho dục của con vật thì sẽ áp dụng được cho con người. Theo cách
đó con người chẳng là gì hơn con vật.
Giận dữ, bạo hành, hung hăng, sở
hữu, ghen tị, mọi thứ đều tồn tại và tồn tại thuần khiết và đơn giản trong con
vật hơn là trong bạn. Mọi thứ đều bị lẫn trong bạn. Đó là lí do tại sao các nhà
tâm lí phải nghiên cứu chuột cốt để nghiên cứu con người. Chúng đơn giản, rõ
ràng, ít lẫn lộn, và bất kì điều gì họ kết luận về chuột thì cũng đúng cho bạn.
Tất cả các phòng thí nghiệm tâm lí đều đầy những chuột. Nó đã trở thành con vật
quan trọng nhất cho các nhà tâm lí bởi vì nó giống con người theo biết bao
nhiêu cách.
Chuột là con vật duy nhất đi
theo nhân loại dù nhân loại đi đâu. Nó là phổ biến. Nếu bạn tìm thấy một người ở
Siberia, sẽ có chuột ở đâu đó gần đấy. Bất kì nơi đâu con người tới, chuột cũng
theo tới - tôi ngờ rằng chuột cũng đã lên tới mặt trăng rồi. Không con vật nào
khác có thể tồn tại ở mọi nơi giống như chuột. Và hành vi của nó hoàn toàn như
người. Hiểu hành vi của chuột và bạn đã hiểu hành vi của nhân loại.
Nhưng chuột không thể cười được,
chuột không thể khóc được. Cười và khóc là hai khía cạnh của cái gì đó chỉ tồn
tại trong con người. Nếu bạn muốn hiểu cười và khóc bạn phải nghiên cứu nhân loại;
không có cách nào khác để nghiên cứu điều đó cả. Đó là lí do tại sao tôi gọi nó
là phẩm chất phân biệt nhất của tâm trí con người.
Bất kì khi nào bạn cảm thấy bí ẩn,
bạn đều có hai khả năng: hoặc là bạn khóc hoặc là bạn cười. Điều đó tuỳ thuộc
vào căn cước của bạn, kiểu người bạn. Có thể là, nếu họ là những kiểu căn cước
khác nhau, ba người bạn này sẽ khóc. Khi bí ẩn như vậy bao quanh bạn, khi bạn gặp
phải một bí ẩn không thể biết được đến như vậy không lời giải thích nào là có
thể, bạn có thể làm được gì? Làm sao bạn có thể đáp ứng lại được?
Nhưng cười thì tốt hơn là khóc
bởi vì khóc tới khi bí ẩn về cái chết bao quanh bạn. Thế thì bạn khóc. Và câu hỏi
về cuộc sống thì liên quan đến thế tới cười. Bất kì khi nào bạn gặp phải bí ẩn
của cái chết, bạn khóc, bạn cảm thấy có liên quan bất kì khi nào cái chết có
đó.
Câu hỏi này là về cuộc sống,
không phải về cái chết. Cho nên dường như là nó có liên quan tới việc họ nhìn lẫn
nhau, nhìn vào cuộc sống trong nhau - cuộc sống đập rộn ràng, cuộc sống nhảy
múa cả xung quanh và chẳng lời giải thích nào, chẳng sách bí mật nào để lộ ra
chìa khoá; cuộc sống trong bí ẩn toàn bộ, trong cái không biết được toàn bộ.
Cái gì có đó mà làm? Họ không
phải là các triết gia, họ là những người chân thật, các nhà huyền môn. Họ cười,
họ không có lời giải thích. Do vậy họ là những người bạn thân thiết hơn trước
đây.
Điều này thật tuyệt vời! Bất kì
khi nào có lời giải thích, thù hằn phát sinh, bất kì khi nào bạn tin vào cái gì
đó, bạn bị phân chia. Niềm tin tạo ra xung đột. Toàn bộ thế giới này bị phân
chia bởi vì niềm tin. Bạn là người Hindu và ai đó là người Mô ha mét giáo, và
các bạn là kẻ thù. Tại sao các bạn là kẻ thù? - bởi vì niềm tin của bạn. Niềm
tin tạo ra xung đột; lời giải thích ngu ngốc, các ý thức hệ tạo ra xung đột,
chiến tranh.
Nhìn vào điều này đi: nếu không
có giải thích, ai là người Hindu và ai là người Mô ha mét giáo? Và làm sao bạn
có thể đánh nhau được? Để làm gì? Con người bao giờ cũng đánh nhau vì các triết
lí, đổ máu, giết hại người khác, chỉ vì những niềm tin ngu xuẩn - không phải là
niềm tin của bạn, vì niềm tin của người khác! Niềm tin của bạn là cái gì đó
thiêng liêng, nhưng niềm tin của ai đó khác lại có vẻ ngu xuẩn!
Mọi niềm tin đều ngu xuẩn. Bạn
không thể nào thấy được niềm tin của riêng mình bởi vì nó gần quá. Thực sự, việc
giải thích là ngu xuẩn, ngốc nghếch.
Tôi đã từng nghe rằng một đàn
chim đang bay về phương nam để tránh mùa đông. Một con chim bay ở phía sau hỏi
con khác, “Làm sao chúng mình bao giờ cũng cứ phải bay theo cái con chim lãnh đạo
ngốc nghếch này nhỉ?”
Con kia nói, “Ngay chỗ đầu
tiên, tất cả bọn lãnh đạo đều ngốc cả…” nếu không thì ai muốn lãnh đạo? Chỉ kẻ
ngu thì bao giờ cũng muốn dẫn dầu. Người trí huệ ngần ngại. Cuộc sống bí ẩn thế
- nó không phải là con đường làm sẵn. Làm sao bạn có thể dẫn đầu được? Người
trí huệ ngần ngại còn kẻ ngốc bao giờ cũng sẵn sàng dẫn đầu.
“… Và điểm thứ hai, nó có bản đồ,
cho nên hàng năm chúng ta phải theo nó.”
Cuộc sống không có bản đồ và
không có khả năng làm ra bản đồ. Nó là con đường vô lộ. Không có giải thích làm
sao bạn có thể bị phân chia? Nếu không có giải thích, thế giới này sẽ là một.
Nhưng có hàng triệu giải thích, hàng triệu phân đoạn.
Trang Tử nói một điều rất thấu
đáo:
Họ không có lời giải thích
Do vậy họ là những người bạn thân thiết hơn
trước đây.
Bây giờ không có gì để thù địch
với, không có gì để đánh nhau. Họ cười to, và tiếng cười làm họ thành một. Họ
cười, và tiếng cười đưa họ vào sự cùng nhau. Giải thích và bạn bị phân chia, trở
thành triết lí và bạn bị phân tách khỏi người khác, trở thành người Hindu, người
Mô ha mét giáo, Phật tử, thế thì tất cả mọi người khác đều là kẻ thù.
Nhìn vào bí ẩn này và cười đi,
và nhân loại là một. Và thế thì chẳng cần phải nói rằng người Ki tô giáo là anh
em của người Hindu, người Hindu là anh em của người Mô ha mét giáo. Trước hết
chia rẽ họ, làm cho họ thành ốm yếu bởi niềm tin, và thế rồi cấp cho họ phương
thuốc này: các bạn là tất cả đều là anh em. Và bạn đã từng thấy anh em chưa? Họ
đánh nhau còn hơn kẻ thù! Cho nên phỏng có ích gì làm họ thành anh em?
Con người đánh nhau vì lời giải
thích của mình. Tất cả mọi cuộc đánh nhau đều ngu xuẩn. Con người đánh nhau vì
mầu cờ của mình, và nhìn vào cờ xem! Kiểu ngu xuẩn gì, kiểu điên khùng gì tồn tại
trong thế giới này? Vì cờ, vì biểu tượng, vì niềm tin, vì ý thức hệ sao?
Trang Tử nói: Họ không có lời
giải thích… họ cười. Trong khoảnh khắc bí ẩn đó họ trở thành một, thành bạn bè
thân thiết hơn trước đây.
Nếu bạn thực sự muốn là một người
bạn, đừng có giải thích gì và đừng có kết luận gì, đừng tin vào bất kì cái gì.
Và thế thì bạn không bị phân chia, thế thì nhân loại là một, thế thì không có
rào chắn.
Và tình yêu tồn tại không qua
tâm trí, nó tồn tại qua cảm giác.
Họ cười to. Tiếng cười tới từ
trái tim, tiếng cười tới từ bụng, tiếng cười tới từ toàn bộ bản thể. Khi ba người
cười, họ trở thành bạn bè. Khi ba người khóc, họ trở thành bạn bè. Khi ba người
tranh luận, họ trở thành kẻ thù.
Thế rồi một người chết
Khổng Tử cử một môn đệ tới để giúp hai người
kia tụng niệm trong đám ma
------------------------
Khổng Tử là con người sở trường về phong tục tập quán. Không ai có thể vượt trội hơn ông ấy. Cho nên ông ấy bao giờ cũng là trò cười của Trang Tử và Lão Tử. Họ đem Khổng Tử vào trong các câu chuyện của mình chỉ để cười vào cái ngu xuẩn của ông ấy.
Khổng Tử là con người sở trường về phong tục tập quán. Không ai có thể vượt trội hơn ông ấy. Cho nên ông ấy bao giờ cũng là trò cười của Trang Tử và Lão Tử. Họ đem Khổng Tử vào trong các câu chuyện của mình chỉ để cười vào cái ngu xuẩn của ông ấy.
Cái ngu xuẩn của ông ấy là gì vậy?
Ông ấy đã sống theo hệ thống, ông ấy đã sống theo công thức, theo lí thuyết và
niềm tin. Ông ấy là con người văn minh hoàn hảo, nhà quí tộc hoàn hảo nhất thế
giới đã từng biết tới. Ông ấy đi, và ông ấy đi theo qui tắc. Ông ấy nhìn, và
ông ấy nhìn theo qui tắc. Ông ấy cười, và ông ấy cười theo qui tắc. Ông ấy chưa
hề vượt ra ngoài giới hạn, ông ấy sống trong sự tù túng thường xuyên của cách
thức riêng của mình. Cho nên ông ấy thành trò cười cho tiếng cười của họ, và
Trang Tử cùng Lão Tử rất thích đưa ông ấy vào trong câu chuyện của mình.
Thế rồi một người chết
Khổng Tử cử một đệ tử tới để giúp hai người
kia tụng niệm trong đám ma
Cả cuộc sống lẫn cái chết đều
không là bí ẩn với ông ấy. Nó là cái gì đó ở một chỗ trong hệ thống, và một
nghi lễ nào đó cần phải được tuân theo. Cho nên ông ấy cử các đệ tử của mình tới
xem liệu người chết có được thu xếp theo đúng qui tắc hay không, với lời cầu
nguyện đúng, việc tụng niệm đúng - như đã được viết trong sách. Người chết cần
phải được kính trọng.
Đây là khác biệt. Một người sống
theo phong tục tập quán bao giờ cũng nghĩ tới kính trọng, chẳng bao giờ nghĩ tới
tình yêu. Và kính trọng là gì nếu so sánh với tình yêu? Tình yêu là cái gì đó sống
động; kính trọng là cái hoàn toàn chết.
Đệ tử này thấy rằng một người bạn đã soạn
xong một bài thơ trong khi người kia chơi đàn
Điều này không thể nào tin nổi!
Đây là bất kính với người đã chết! Xác chết vẫn còn nằm kia, một người bạn soạn
thơ. Họ yêu người kia, và khi bạn yêu một người, bạn muốn trao cho người đó lời
vĩnh biệt cuối cùng qua tình yêu của bạn, không phải qua sách vở, không phải
qua bài thơ đã soạn sẵn mà biết bao nhiêu người đã đọc, biết bao nhiêu người đã
dùng, cái gì đó cũ rích và rác rưởi. Họ làm ra bài thơ của riêng mình, tươi tắn,
trẻ trung. Tất nhiên, nó là do con người tạo ra, không phải là được sản xuất
trong xưởng máy, không phải là được sản xuất số lượng lớn. Chỉ do người làm ra,
không bóng bẩy lắm dĩ nhiên, bởi vì họ không phải là nhà thơ, họ là bạn bè, và
họ không biết làm thơ thế nào. Nhịp phách có thể sai và văn phạm thì không chỉnh,
nhưng tình yêu chẳng bận tâm tới văn phạm, tình yêu chẳng bận tâm tới nhịp
phách, tình yêu chẳng bận tâm tới vần điệu, bởi vì tình yêu có nhịp sống của
riêng nó, nó chẳng bận tâm. Khi không có tình yêu, mọi thứ đều phải được quan
tâm tới bởi vì bạn phải thay thế sự quan tâm cho tình yêu.
Một người thì chơi đàn - và tôi
cũng biết rằng anh ta không phải là nghệ sĩ đàn. Nhưng làm sao bạn nói lời tạm
biệt với người bạn được? Nó phải tới từ trái tim bạn, nó phải tự phát, nó không
thể làm sẵn được. Đó mới là vấn đề.
Họ hát:
“Này, Sung Hu, anh đi đâu?
Thật là bí ẩn! Họ không nói, “Bạn
đã lên cõi trời.” Họ không biết. Nếu không thì khi ai đó chết bạn nói, “Anh ấy
đã lên cõi trời rồi.” Thế thì ai sẽ xuống địa ngục? Dường như chẳng ai xuống địa
ngục cả.
Ở Ấn Độ, từ dành cho người chết
là swargiya. Nó có nghĩa là, người đã lên thiên đường. Thế thì ai xuống địa ngục?
Họ không biết, cho nên phỏng có ích gì mà thốt ra điều giả dối? Ai biết con người
này đã đi đâu, anh Sung Hu này - xuống địa ngục hay lên thiên đường? Ai biết được
địa ngục và thiên đường tồn tại ở đâu? Chẳng ai biết cả; đấy là bí ẩn, và người
ta không nên làm ô uế bí ẩn, người ta không nên làm cho nó thành phỉ báng, người
ta không nên khẳng định cái giả dối. Nó là điều thiêng liêng như vậy thì người
ta không nên nói điều gì không được biết một cách trực tiếp.
“Này, Sung Hu, anh đi đâu?
- đó là một dấu hỏi.
Này, Sung Hu, anh đi đâu?
Anh đã đi tới nơi anh thực sự hiện hữu,
còn chúng tôi ở đây - chê trách nó, chúng
tôi ở đây!”
Họ nói, “Anh đã tới nơi mà từ
đó anh đến.” Đây là luật bí mật: điều tối thượng chỉ có thể là cái bắt đầu.
Vòng tròn đi tròn và trở thành hoàn hảo, đầy đủ, và nó đạt tới cùng một điểm mà
nó đã bắt đầu từ đó. Kết thúc không thể là bất kì cái gì khác ngoài bắt đầu, tử
không thể là bất kì cái gì khác ngoài sinh. Cái cuối cùng phải là cái ngọn nguồn,
cái nguyên thuỷ. Người ta được sinh ra từ cái không và thế rồi người ta chết và
đi vào cái không. Thuyền rỗng khi bạn được sinh ra và khi bạn chết con thuyền sẽ
lại rỗng không lần nữa. Chỉ một chớp loé của tia sét thôi. Trong vài khoảnh khắc
bạn trong thân thể và thế rồi bạn biến mất. Chẳng ai biết từ đâu bạn tới và bạn
đi đâu cả.
Họ không công bố bất kì tri thức
nào. Họ nói, “Nhiều nhất chúng tôi cảm thấy: Sung Hu, anh đã đi tới nơi từ đó
anh đã đến, và chê trách nó, chúng tôi vẫn ở đây.” Cho nên họ không thương tiếc
cho Sung Hu, họ thương tiếc cho chính mình, rằng họ vẫn còn đang treo ở giữa
còn vòng tròn của anh bạn ấy thì hoàn hảo.
Bất kì khi nào ai đó chết, bạn
đã bao giờ cảm thấy điều này chưa? Bạn thương tiếc cho người đã chết hay thương
tiếc cho bản thân mình? Thực sự, khi ai đó chết, bạn buồn cho người đó hay buồn
cho bản thân mình? Mọi người đều thương tiếc cho bản thân mình bởi vì mọi cái
chết đều đem lại tin tức rằng bạn cũng sắp chết. Nhưng một người có thể cười
vào cái khổ của cuộc sống thì biết nó là gì, bởi vì chỉ người có tri thức, thực
sự trí huệ, mới có thể cười.
Nơi bạn thực sự hiện hữu thì bạn đã tới…
“Còn chúng tôi ở đây - chê trách nó, chúng
tôi ở đây!”
Và chúng tôi thì vẫn ở giữa. Cuộc
hành trình của chúng tôi vẫn chưa hoàn tất, nhưng vòng tròn của anh đã trở
thành hoàn hảo. Cho nên họ thương tiếc cho chính mình, và nếu họ khóc, họ đang
khóc về chính họ. Với người bạn đã ra đi họ chẳng có gì ngoài bài thơ, chẳng có
gì ngoài lễ hội của trái tim. Nếu họ thương tiếc, họ thương tiếc cho chính họ.
Đây là điều gì đó cần phải được
hiểu rất sâu sắc. Nếu bạn hiểu cuộc sống, nếu bạn có thể cười vào nó, thế thì
cái chết là việc làm đầy đủ, thế thì nó không phải là kết thúc. Nhớ lấy, cái chết
không phải là kết thúc của cuộc sống, nó là việc làm đầy đủ, nó là đỉnh cao nhất,
tuyệt đỉnh, cái đỉnh từ đó con sóng trở về với ngọn nguồn nguyên thuỷ.
Họ thương tiếc cho chính mình,
rằng con sóng của họ vẫn còn treo ở giữa. Họ vẫn còn chưa đạt tới tuyệt đỉnh,
thượng đỉnh, còn bạn của họ thì đã đạt tới nơi người đó đã ở trước đó. Anh bạn
đó đã về nhà. Những người đã hiểu cuộc sống, chỉ họ mới có thể hiểu cái chết, bởi
vì cuộc sống và cái chết không phải là hai. Cái chết là thượng đỉnh, là điều tối
thượng, việc nở hoa cuối cùng, hương thơm của cuộc sống.
Chết có vẻ xấu với bạn bởi vì bạn
chưa bao giờ biết tới sống, và chết tạo ra sợ trong bạn bởi vì bạn sợ sống. Nhớ
lấy, dù thái độ của bạn với sống là gì đi chăng nữa, thái độ của bạn với chết sẽ
hệt như thế. Nếu bạn sợ chết thì bạn cũng sợ sống; nếu bạn yêu sống, bạn sẽ yêu
chết, bởi vì chết không là gì ngoài đỉnh cao nhất, việc làm đầy đủ. Bài thơ đạt
tới điểm kết thúc của nó, dòng sông rơi vào trong đại dương. Ngay từ đầu, dòng
sông đã tới từ đại dương. Bây giờ vòng tròn là đầy đủ, dòng sông đã tới cái
toàn thể.
Thế rồi đệ tử của Khổng Tử thình lình xuất
hiện trong họ và than:
“Xin hỏi các vị có thấy điều này trong mục
đám ma không, những tiếng hát vô tích sự này trong sự hiện diện của người đã
khuất?”
Đệ tử của Khổng Tử không thể
nào hiểu được họ. Với anh ta họ có vẻ phù phiếm, bất kính. Kiểu bài thơ gì thế
này? Các anh lấy nó từ đâu ra vậy? Điều đó là không được phép, nó không phải là
từ Veda. “Xin hỏi các vị có thấy điều này trong mục đám ma…?
Mọi thứ đều phải được làm theo
sách, theo Kinh Thánh, theo Veda. Nhưng cuộc sống không thể tuân theo sách được
- cuộc sống bao giờ cũng siêu việt lên trên sách vở, nó bao giờ cũng đi ra
ngoài; cuộc sống bao giờ cũng gạt sách sang bên, đi lên trước.
Các vị tìm thấy điều này ở đâu,
cái bài hát mừng phù phiếm này, trong sự hiện diện của người đã khuất? Các vị
đáng phải kính trọng chứ. Ai đó đã ra đi, ai đó đã chết các vị làm cái gì thế
này? Điều này là phỉ báng!
Hai người bạn nhìn nhau và cười to:
“Anh bạn đáng thương ơi, anh ấy không biết
nghi thức tế lễ!”
Anh ấy không biết kinh sách mới,
anh ấy không biết tôn giáo mới. Và đó là điều đang xảy ra ở đây hàng ngày -
nghi lễ mới.
Một người vừa mới ở đây vài
ngày trước đây, một giáo sư lịch sử, và ông ấy hỏi tôi, “Thầy thuộc về tín ngưỡng
nào vậy?”
Tôi nói, “Chẳng tín ngưỡng nào
cả.”
Ông ta đã tới đây từ Mĩ để làm
phim về các kĩ thuật thiền, về trại thiền, về điều tôi nói, về điều đang xảy ra
ở đây. Khoảnh khắc ông ấy nghe nói rằng tôi không thuộc vào bất kì tín ngưỡng
nào, ông ấy đơn giản biến mất. Thế thì tôi không thuộc về lịch sử, điều đó là
hiển nhiên.
Anh bạn đáng thương ơi, anh chẳng biết về
nghi lễ mới gì cả!