Tin cậy - Tin tưởng - Đức tin

Tin cậy - Tin tưởng - Đức tin

Price:

Read more



Điều thứ hai: bất kì chỗ nào bạn bắt gặp từ 'tin tưởng', hãy thận trọng. Phật chưa bao giờ ngụ ý điều bạn ngụ ý bởi từ 'tin tưởng'. Từ của ông ấy là shraddha. Shraddha không có nghĩa tin tưởng, nó thậm chí không có nghĩa niềm tin; nó ngụ ý tin cậy, điều là hiện tượng hoàn toàn khác.
Shraddha nghĩa là trạng thái của tin cậy toàn bộ. Tin tưởng không phải là tin cậy toàn bộ; hoài nghi vẫn còn trong nó, bị kìm nén. Tin tưởng là cái vỏ che đậy. Bạn hoài nghi nhưng bạn đã che đậy nó bằng cái chăn, bằng tin tưởng. Bạn sợ hoài nghi. Hoài nghi quấy rối, cho nên bạn níu bám lấy tin tưởng, nhưng tin tưởng không bao giờ có thể đưa bạn vượt ra ngoài hoài nghi.
Tin tưởng là hoài nghi đứng trên đầu nó, đứng lộn ngược, có vậy thôi. Người hoài nghi hoài nghi, người tin tưởng tin tưởng, nhưng cả hai đều mù quáng. Họ ở trong cùng một con thuyền, có thể ngồi xoay lưng lại nhau, nhưng trong cùng một con thuyền. Do đó người tin tưởng bao giờ cũng sợ ai đó khêu cái hoài nghi của mình ra, còn người hoài nghi bao giờ cũng cảnh giác để không ai thuyết phục được mình về bất kì tin tưởng nào. Họ cả hai đều vướng víu vào nhau.
Tin cậy là gì? Tin cậy là đi vượt ra ngoài hoài nghi và tin tưởng. Tin tưởng bao giờ cũng ở trong một quan điểm nào đó; tin cậy bao giờ cũng ở trong cái đang hiện hữu - không ở trong quan điểm mà trong bản thân sự tồn tại, bên trong và bên ngoài. Và giữa tin tưởng và tin cậy có từ khác, 'đức tin' - hãy cảnh giác với từ đó nữa. Phật chưa bao giờ ngụ ý đức tin khi ông ấy dùng shraddha, và ông ấy bao giờ cũng dùng shraddha. Đức tin là ở giữa: tin tưởng vào một quan điểm, đức tin vào một người, còn tin cậy vào bản thân sự tồn tại. Phật chưa bao giờ muốn bạn mang đức tin bởi vì đức tin tạo ra cuồng tín, đức tin tạo ra thần kinh.
Mới đêm hôm nọ, một thanh nữ tới để nhận tính chất sannyas. Cách thức cô ấy tiếp cận tới tôi làm tôi trở nên nhận biết rằng cô ấy thần kinh. Nhưng tôi chẳng nói không với bất kì ai. Ai mà biết được, bao giờ cũng có khả năng - người ta không bao giờ có thể nói được - rằng người thần kinh có thể trở nên bình thường. Và ít nhất, nếu cô ấy sẵn lòng nhận tính chất sannyas, cô ấy vẫn có tri giác nào đó còn lại; có thể cô ấy được giúp đỡ.
Tôi có thể thấy điều đó sẽ là khó khăn - cách cô ấy tới, cách cô ấy ngồi... Và cuối cùng, khi tôi gọi cô ấy tới gần tôi, cô ấy từ chối tới gần. Cô ấy đứng dậy giơ hai tay lên và nói, "Tôi là Jesus Christ!" Tôi chẳng nói gì với cô ấy cả, mặc dầu tôi muốn nói, "Vậy, anh bạn già, anh quay lại sao! Anh đã quên điều đã xảy ra lần trước rồi sao? Có thể đó là lí do tại sao anh đã tới dưới dạng đàn bà lần này." Và với việc công bố rằng cô ấy là Jesus Christ, cô ấy đi mất.
Đức tin tạo ra những kiểu thần kinh này. Ki tô giáo có nhiều người thần kinh, bởi vì toàn thể quan điểm lệ thuộc vào đức tin: "Hãy tin vào Jesus Christ, hãy có đức tin vào ngài! Ngài sẽ cứu ông!" - cứ dường như ông ấy chịu trách nhiệm cho sự tù túng của bạn! Ông ấy có thể cứu bạn chỉ nếu ông ấy đã đưa bạn vào tù; bằng không, làm sao ông ấy có thể cứu bạn được? Ông ấy là cứu tinh và bạn là kẻ được cứu; ông ấy là người chăn chiên và bạn là con chiên. Bạn không thấy cái vô nhân phẩm được bao hàm trong đó sao? Bạn trở thành cừu. Mọi tôn giáo, ít hay nhiều, đều đã làm điều này. Nếu bạn tin vào người, bạn sẽ bị qui giản thành cừu - bạn sẽ không là con người. Tính người của bạn bị phá huỷ. Bạn bị cầm tù trong những nhà tù rất tinh vi, vô hình. Bạn không thể thấy được chúng, chúng trong suốt.
Phật nói: Hãy là ánh sáng lên chính mình. Đừng tin vào người, đừng tin vào các ý thức hệ. Và khi bạn không tin vào bất kì ý thức hệ nào, và bạn không tin vào bất kì người nào, sự tin cậy lớn lao bùng nổ, sự tin cậy vào bản thân sự tồn tại - vào cây cối, vào tảng đá, vào mọi người, vào các vì sao, dòng sông, núi non, vào tất cả mọi thứ đang hiện hữu. Tất nhiên, chư phật là một phần của nó, nhưng bạn không tin vào Phật nói riêng. Bạn đơn giản tin cậy vào sự tồn tại. Bạn tin vào hương thơm của Jesus. Nhưng tin cậy này không bắt rễ vào bất kì quan niệm nào. Thực tế, nó là cái gì đó chủ thể, nó chẳng có liên quan gì tới bất kì đối thể nào.
Nếu bạn tin vào Jesus bạn không thể tin được vào Krishna. Nếu bạn tin vào Krishna bạn không thể tin được vào Mahavira. Một cách tự nhiên, nếu bạn tin vào người này bạn phải không tin vào tất cả những người khác. Đó là cách tin tưởng chia rẽ mọi người. Và toàn thể lịch sử đầy những tắm máu, sát hại, tàn sát. Nó đầy máu và bạo hành nhân danh tôn giáo, bởi vì bạn đã được bảo hãy tin vào người này chống lại tất cả những người khác.
Tin cậy là hoàn toàn khác. Nếu bạn tin cậy sự tồn tại... sự tồn tại bao hàm Jesus cũng nhiều như Krishna, như Phật, như Zarathustra. Họ tất cả đều là một phần của nó. Và bạn không tin cậy chỉ vào chư phật, bạn tin cậy vào người thường bao quanh nữa; không chỉ vào người mà cả con vật, cây cối, đất đá. Vấn đề không phải là điều bạn tin vào - đối thể trở thành không liên quan. Bạn đơn giản có trái tim tin cậy, sự tin cậy lớn lao rằng chúng ta thuộc vào sự tồn tại này, chúng ta là một phần của sự tồn tại huyền bí này, rằng sự tồn tại không thể không thân thiện với chúng ta được. Nó đã cho sinh thành ra chúng ta, và làm sao người mẹ có thể không thân thiện được?
Đây là nghĩa hoàn toàn khác của tin cậy. Nó không tin tưởng cũng không đức tin. Hãy nhớ hai từ này bởi vì chúng cứ bị dịch sai hoài.

0 Đánh giá

Ads Belove Post