Chương 3: Đi trên dây - Hai dạng người tôn giáo

Chương 3: Đi trên dây - Hai dạng người tôn giáo

Price:

Read more

Osho – Nghệ thuật Cân bằng Sự sống và Cái chết
Chương 3: Đi trên dây (tiếp theo)
13 tháng 10 năm 1976, buổi sáng tại thính đường Phật

Hai dạng người tôn giáo

Có hai dạng người tôn giáo. Dạng đầu tiên là trẻ con: nó đang tìm kiếm hình ảnh người cha. Dạng thứ hai là chưa trưởng thành: nó không thể tự tin vào chính nó; do vậy nó cần Thượng đế hoặc cái gì đó khác. Thượng đế có thể tồn tại hoặc không – không vấn đề gì – nhưng Thượng đế là cần thiết. Thậm chí nếu Thượng đế không có mặt thì đầu óc chưa trưởng thành cũng sẽ phát minh ra ngài, bởi vì đầu óc chưa trưởng thành có nhu cầu tâm lí – đó không phải là vấn đề về sự thật cho dù Thượng đế có hay không; đó là nhu cầu tâm lí.
Kinh Thánh nói Thượng đế tạo ra con người bằng chính hình ảnh của mình, nhưng điều ngược lại còn thật hơn: Con người tạo ra Thượng đế bằng chính hình ảnh của mình. Bất kì nhu cầu của bạn là gì thì bạn cũng tạo ra dạng đó về Thượng đế. Tại sao khái niệm về Thượng đế lại liên tục thay đổi ở mỗi thời đại. Mọi quốc gia đều có khái niệm riêng bởi vì mọi quốc gia đều có nhu cầu riêng của mình. Thực tế, mọi người đều tự mình có khái niệm riêng về Thượng đế bởi vì họ đều có những nhu cầu và những nhu cầu đó phải được thỏa mãn.
Cho nên dạng người tôn giáo đầu tiên – cái gọi là người mộ đạo – chỉ đơn giản là chưa trưởng thành. Tôn giáo của họ không phải là tôn giáo mà là tâm lí. Và khi tôn giáo là tâm lí thì nó chỉ là giấc mơ, ước mơ để mãn nguyện. Nó không có gì liên quan tới thực tại.
Tôi đã đọc…
Một cậu bé đang nói lời cầu nguyện của mình và kết luận với  chú ý, “Kính thưa Thượng đế, xin hãy quan tâm mẹ con, xin hãy quan tâm cha con, xin hãy quan tâm em gái bé nhỏ, mợ Emma, cậu John, ông, bà – và cũng xin Thượng đế hãy quan tâm đến chính ngài; nếu không tất cả chúng ta sẽ chìm xuồng!”
Đây là Thượng đế của đa số. Chín mươi chín phần trăm những người được gọi là tôn giáo là chưa trưởng thành. Họ tin bởi vì họ không thể sống mà không có niềm tin; họ tin bởi vì niềm tin cho họ một dạng an toàn nào đó; họ tin bởi vì niềm tin giúp họ cảm thấy được bảo vệ. Đó là giấc mơ của họ nhưng nó hữu ích. Trong đêm đen của cuộc đời, trong xung đột ghê gớm của tồn tại, không có niềm tin như vậy thì họ sẽ cảm thấy cô đơn. Nhưng Thượng đế của họ là Thượng đế của họ, không phải là Thượng đế của thực tại. Và khi họ rũ bỏ sự chưa trưởng thành của họ thì Thượng đế sẽ biến mất.
Đó là điều đã xuất hiện với nhiều người. Trong thế kỉ này nhiều người đã trở nên phi tôn giáo – không phải họ đã tình cờ biết Thượng đế không tồn tại mà chỉ bởi vì thời đại này đã làm cho con người trưởng thành hơn một chút. Cho nên Thượng đế của trẻ con, Thượng đế của người chưa trưởng thành đơn giản là trở thành vớ vẩn.
Đó là ý nghĩa của tuyên bố của Friedrich Nietzsche rằng “Thượng đế đã chết.” Đó không phải là Thượng đế mà đó là sự tê liệt. Thượng đế của đầu óc chưa trưởng thành là chết. Thực tế, nói Thượng đế chết là không đúng bởi vì Thượng đế chưa bao giờ sống. Sự biểu cảm duy nhất đúng sẽ là nói rằng, “Thượng đế không còn liên quan nữa.” Con người có thể tin vào chính mình nhiều hơn – họ không cần niềm tin, họ không cần cái nạng chống là niềm tin.
Do vậy mọi người đã trở nên ít quan tâm đến tôn giáo. Họ trở nên thờ ơ với những gì diễn ra trong nhà thờ. Họ đã trở nên quá thờ ơ với những gì họ không có lí lẽ để chống lại. Nếu bạn hỏi, “Bạn có tin Thượng đế không?” họ sẽ nói, “Tốt thôi, cho dù ngài có tồn tại hay không, điều đó không tạo ra bất kì khác biệt nào, chẳng vấn đề gì.” Chỉ cần lịch sự, nếu bạn tin họ sẽ nói, “Đúng, ngài như vậy.” Nếu bạn không tin, họ sẽ nói, “Không, ngài không phải như vậy.” Nhưng đó không còn là mối quan tâm nồng nhiệt nữa.
Đây là dạng đầu tiên của tôn giáo: nó tồn tại trong nhiều thế kỉ, nhiều thời đại, và nó trở nên ngày càng cổ lỗ hơn, lỗi thời hơn. Thời của nó đã kết thúc. Thượng đế mới là cần đến – ngài không phải là nhà tâm lí; Thượng đế mới là cần đến – ngài là tồn tại, Thượng đế của thực tại, Thượng đế như là thực tại. Thậm chí chúng ta có thể bỏ rơi từ ‘Thượng đế’ – thay vào đó từ ‘Sự thực’ sẽ được dùng, từ ‘Tồn tại’ sẽ được dùng.
Thế thì có dạng người tôn giáo thứ hai mà đối với họ, tôn giáo không phải vì nỗi sợ. Dạng đầu tiên của tôn giáo là vì nỗi sợ, dạng thứ hai – cũng không thật, cũng giả, cũng được gọi là – không phải vì nỗi sợ, mà đó chỉ là sự thông minh. Có những người rất thông minh, họ không ngừng phát minh ra những lí thuyết, những người thấm nhuần logic, siêu hình, triết lí. Họ tạo ra tôn giáo mà tôn giáo đó chỉ là sự trừu tượng: Một phần vẻ đẹp của nghệ thuật, của trí thông minh, của trí tuệ, của triết lí. Nhưng nó chưa bao giờ thấm vào cuộc sống, nó chưa bao giờ chạm tới bất kì đâu, nó chỉ đơn giản là giữ nguyên như là khái niệm trừu tượng.
Có một lần Mulla Nasrudin đã nói với tôi, “Chưa bao giờ tôi phải là như vậy. Tôi đã lấy cắp những con gà và dưa hấu, bị say xỉn, dùng tay choảng nhau trong lúc ẩu đả, nhưng có một thứ tôi chưa bao giờ thực hiện: bất chấp mọi tính bần tiện của mình, tôi vẫn không bỏ tôn giáo của mình.”
Bấy giờ đó là loại tôn giáo gì vậy? Nó không có chút ảnh hưởng nào đến cuộc sống.
Bạn tin, nhưng niềm tin đó chưa bao giờ thấm vào cuộc sống của bạn, chưa bao giờ chuyển hóa cuộc sống đó. Nó chưa bao giờ trở thành một phần nội tại của bạn, nó chưa bao giờ tuần hoàn trong máu bạn, bạn chưa bao giờ thở nó ra và hít nó vào, nó chưa bao giờ đập trong trái tim bạn – nó đơn giản là một cái gì đó vô dụng. Nhiều nhất thì cũng dùng để trang trí; nhưng với bạn, nó không có công dụng gì. Một ngày nào đó bạn đến nhà thờ; đó là nghi lễ, là nhu cầu xã hội. Bạn có thể chơi với Thượng đế, đọc mọi kinh sách, nhưng bạn không có ý định, bạn không thành thực về điều đó, cuộc sống của bạn diễn ra theo cách hoàn toàn khác – nó không có gì liên quan tới tôn giáo. Hãy quan sát xem… một người nào đó nói anh ta là tôn giáo A, một người khác nói là tôn giáo B, người khác nữa nói mình là tôn giáo C, D – niềm tin của họ là khác nhau. Nhưng quan sát cuộc đời họ, bạn sẽ không tìm ra bất kì sự khác biệt nào, tất cả họ đều sống cuộc đời như nhau. Cuộc sống của họ không liên quan gì tới niềm tin của họ. Thực tế, hệ thống niềm tin không thể chạm vào cuộc sống của bạn, hệ thống niềm tin là phương tiện. Hệ thống niềm tin là những phương tiện ranh mãnh; thông qua chúng, bạn nói, “Tôi biết cuộc sống là gì.” – và bạn có thể thoải mái, bạn không bị cuộc sống làm cho rắc rối. Bạn ôm lấy khái niệm và khái niệm đó giúp bạn hợp lí hóa. Thế thì cuộc sống không làm vướng bận bạn nhiều bởi vì bạn có tất cả những câu trả lời đối với những câu hỏi.

Nhưng nên nhớ… trừ khi tôn giáo là cá nhân, trừ khi tôn giáo không phải là trừu tượng mà là thực tế, sâu trong cốt lõi bạn, sâu trong ruột gan bạn, trừ khi nó giống như máu xương, thì nó chỉ là điều phù phiếm, không tác dụng gì. Đó là tôn giáo của các triết gia chứ không phải là tôn giáo của các hiền nhân.

0 Đánh giá

Ads Belove Post