Read more
Câu hỏi 1: Mối quan hệ guru / môn đệ
là gì?
Trước tiên, vị
guru không phải là thầy dạy; guru là con người đã đạt tới lối sống tôn giáo.
Tôn giáo không phải là thông tin, nó không thể được dạy bởi vì tôn giáo là cách
sống. Sự hiện diện thực sự của vị guru là sự đồng cảm. Và đối với người sống
trong mối quan hệ với vị đó, có một cái gì đó được giao tiếp - mặc dù không
thông qua lời nói. Mối quan hệ thân mật đến mức nó ít giống mối quan hệ giữa
người rao giảng và người nghe mà giống nhiều hơn với mối quan hệ giữa người yêu
và người được yêu.
Chính vị guru
phải là người giác ngộ, chính vị đó phải đạt được, bởi vì người ta không thể
giao tiếp với người chưa thực chứng. Trải nghiệm tôn giáo có thể được giao tiếp
chỉ khi nó là trực tiếp. Người rao giảng không cần là người đã tự thực chứng,
nhưng vị guru thì phải như vậy. Người rao giảng có thể trao thông tin cũ từ những
kinh sách hoặc từ những truyền thống, nhưng vị guru thì không thể. Guru là người
đã thực chứng sự thật. Bây giờ người đó là suối nguồn nguyên thủy; chính người
đó đã đối mặt với thực tại, mặt đối mặt với nó. Người môn đệ xuất hiện trong mối
liên hệ bởi nhận biết trực tiếp, bởi vì bất kỳ điều gì được nói hoặc được giao
tiếp thì cũng bằng chính thẩm quyền của vị guru.
Điều thứ hai, vị
guru không nhận biết tính guru của mình; vị đó không thể. Vị guru không thể
tuyên bố rằng mình là một guru - không có kiểu tuyên bố như thế. Người ta chỉ
có thể biết vị đó đã đáp ứng trạng thái vô ngã hay không; nếu không vị đó không
thể đối mặt với sự thật. Sự thật được trực diện chỉ khi bản ngã tuyệt đối vắng
mặt.
Tôi luôn nói rằng
trong tôn giáo, trong vấn đề tâm linh, chỉ có các môn đệ tồn tại - bởi vì vị
guru không có mặt, ông ấy chỉ là sự hiện diện. Chính thái độ không tuyên bố, vô
ngã, không thuyết giảng và cuộc sống thực sự của vị đó, là sự giao cảm. Cho nên
người nào tuyên bố mình là guru thì chỉ là một người rao giảng, người đó không
phải là một vị guru.
Không có từ nào
trong tiếng Anh để dịch từ guru, bởi vì mối quan hệ giữa vị guru và người môn đệ
về cơ bản mang tính phương Đông. Không có mối quan hệ như vậy tồn tại trong văn
hóa và truyền thống phương Tây, cho nên không ai ở phương Tây có thể hiểu guru
là gì. Nhiều nhất thì họ cũng chỉ hiểu người thuyết giảng là gì.
Mối quan hệ giữa
vị guru và môn đệ là rất thân mật... nó giống như tình yêu. Lòng sùng kính được
cảm nhận như tình yêu, nhưng có một khác biệt: tình yêu là song song, lòng sùng
kính là cho người ở bên trên, người cao cả hơn. Tình yêu tạo ra mối quan hệ bạn
bè bởi vì người yêu và người được yêu cùng đẳng cấp. Lòng sùng kính cũng là một
dạng tình yêu nhưng có sự khác biệt lớn: nó không cùng đẳng cấp; một người cao
hơn. Nếu có tình thân mật yêu thương với cá nhân cao cả hơn thì lòng sùng kính
được tạo ra quanh vị guru một cách tự động. Nhưng không được mong chờ, không được
đòi hỏi.
Chỉ các môn đệ
tồn tại - bởi vì họ cố ý là môn đệ, họ chọn là môn đệ. Vị guru không chọn, vị
đó hành động. Cuộc sống của vị đó và hành động là một, và vì thế vị đó có thể
thuyết giảng bởi chính hành động của mình. Thuyết giảng của vị đó và cuộc sống
của vị đó là hai khía cạnh của một tồn tại. Chính việc đi, đứng, ngồi, nói, sự
tĩnh lặng của vị đó - mọi thứ đều là dấu hiệu. Một cái gì đó xuất hiện thông
qua sự tồn tại của vị guru, và người môn đệ phải luôn luôn đón nhận nó. Người
môn đệ có nghĩa là người có tâm trí cởi mở, đón nhận cho nên anh ta không chỉ học
hỏi mà còn đón nhận. Chính vì vậy mà sự tin cậy là nền tảng cơ bản để trở thành
một người môn đệ.
Bất kỳ khi nào
chúng ta đối mặt với cái chưa biết thì không có logic nào, không sự giải thích
lý lẽ nào là khả dĩ. Bất kỳ khi nào chúng ta đối mặt với cái chưa biết thì chỉ
có sự tin tưởng mới có thể dẫn lối chúng ta. Nếu tôi nói điều gì đó về cái đã
biết thì bạn có thể tranh luận điều đó
với tôi, bởi vì bạn cũng biết nó. Chúng ta có thể lý lẽ về điều đó, chúng ta có
thể tranh luận về điều đó - đối thoại là điều có thể. Nhưng nếu tôi nói về điều
gì đó tuyệt đối không biết đối với bạn, thì không cuộc đối thoại nào là có thể
và không thể có tranh luận. Không thể có sự tiếp cận lý trí về điều đó bởi vì
lý trí chỉ có thể tác dụng xung quanh cái đã biết.
Thời điểm cái
chưa biết xuất hiện thì lý trí là vô dụng: nó trở nên vô nghĩa. Nghĩ là vớ vẩn
bởi vì bạn không thể nghĩ về cái chưa biết. Giống như bạn bị mù và tôi nói với
bạn về ánh sáng. Bạn chỉ có thể coi những gì tôi nói là niềm tin; không có cách
nào khác.
Mối quan hệ giữa
người môn đệ và vị guru là một mối quan hệ tin cậy, mật thiết. Đó không có
nghĩa là niềm tin mù quáng, bởi vì vị guru không bao giờ mong chờ bạn tin vị đó
- đó không phải là một sự mong chờ. Nhưng chính bản chất của cái chưa biết như
vậy mà bạn không thể bước nổi một bước về phía trước mà không có sự tin cậy. Sự
tin cậy đòi hỏi nơi người môn đệ, bởi vì anh ta sẽ không thể thực hiện nổi một
bước vào vùng chưa biết mà không có sự tin cậy vào vị guru. Vùng chưa biết là
bóng tối, là miền chưa được thám hiểm - đó không phải là phúc lạc, không phải
là điều tối thượng - và vị guru luôn nói, “Hãy nhảy vào đó! Hãy thực hiện!”
Nhưng trước khi bạn có thể nhảy, sự tin cậy là cần thiết hoặc bạn sẽ không nhảy.
Và kiến thức chỉ có thể xuất hiện thông qua cú nhảy.
Trong khoa học,
giả thuyết là cần thiết trước khi có những thử nghiệm. Giả thuyết có nghĩa là
tin mà không chắc chắn. Nếu thử nghiệm chứng minh được giả thuyết thì nó trở
thành một sự thật, nhưng nếu thử nghiệm không chứng minh được thì giả thuyết trở
thành giả. Nhưng không có giả thuyết, không có niềm tin tạm thời thì không thể
có thử nghiệm.
Với tôn giáo điều
đó cũng chính xác như vậy: sự tin cậy là cần thiết giống như giả thuyết là cần
thiết trong khoa học. Nhưng có một sự khác biệt lớn giữa thái độ khoa học và
thái độ tin. Về mặt giả thuyết, con người có thể tin vào một đề xuất khoa học
và cũng còn hoài nghi về điều đó. Lòng sùng kính là không cần đến bởi vì khoa học
liên quan đến hiện tượng khách quan - bạn có thể thử nghiệm nó và có thể nhìn
thấy nó xuất hiện như thế nào. Nhưng trong tôn giáo, niềm tin giả thuyết là
không đủ bởi vì bạn không giải quyết vấn đề khách quan bên ngoài bạn. Bạn sẽ phải
xử trí chính bạn; đó là hiện tượng chủ quan. Bạn sẽ phải liên quan, phải cam kết.
Bạn sẽ không thực hiện thử nghiệm từ bên ngoài, bạn sẽ là sự thử nghiệm. Bạn sẽ
phải nhảy vào và trở thành một phần của nó. Sự tin cậy sâu sắc là cần thiết.
Cho nên mối
quan hệ giữa vị guru và người môn đệ là một trong những sự tin cậy sâu sắc nhất,
tình yêu thân mật, lòng sùng kính. Nhưng những điều đó không được yêu cầu. Thời
điểm chúng được yêu cầu thì chúng trở thành sự lợi dụng; thời điểm chúng bị ép
buộc thì chúng trở thành bạo lực, bởi vì không ai sẽ tự ép buộc lên bất kỳ ai. Đó không phải là sự ép buộc
lên phía vị guru, đó là sự sẵn lòng từ phía
môn đệ cho phép vị guru thể hiện.
Nhưng thường
thì người môn đệ không sẵn lòng còn vị guru thì ép buộc. Nếu vậy, mọi thứ sẽ trở
nên vô nghĩa. Thời điểm mà vị guru cố ép buộc một cái gì đó lên một người nào
đó thì đó là hủy hoại, là kết liễu, bởi vì đó là hành động bạo lực chống lại bản
ngã của một ai đó. Nhưng nếu người môn đệ sẵn lòng, nếu anh ta dâng lên vị guru
sự tin tưởng tuyệt đối của mình - nếu đó không phải là ép buộc, nếu đó là sự sẵn
sàng buông bỏ của anh ta - vậy thì sự chuyển hóa lớn lao sẽ xuất hiện: môn đệ
được chuyển hóa bởi chính sự buông bỏ của mình.
Đây là một hành
động quan trọng nhất: buông bỏ hoàn toàn, tự buông bỏ toàn bộ với một người nào đó khác. Đó không chỉ là sự
tin cậy vào một người nào đó khác mà cơ bản là tin chính mình. Bạn không thể tự
buông bỏ nếu bạn không đủ tự tin về quyết định của mình, bởi vì đó là quyết định
quan trọng - tuyệt đối và vô điều kiện. Bất kỳ khi nào người môn đệ buông bỏ
chính mình thì ý chí của người đó cũng sẽ liên quan, và từ ý chí đó mà quyết định
nảy sinh. Người môn đệ trở thành một tính cách kết tinh thông qua sự buông bỏ,
bởi vì quyết định quá lớn lao, quá toàn bộ, quá tuyệt đối và vô điều kiện.
Không sự buông
bỏ nào có thể trở thành điều kiện; không thể có điều kiện với vị guru. Bạn
không thể nói, “Nếu thầy thực hiện điều này thì tôi sẽ buông bỏ”. Thế thì đó sẽ
không là buông bỏ. Không có “nếu” - bạn buông bỏ toàn bộ. Bạn nói, “Xin hãy thực
hiện bất kỳ điều gì thầy muốn. Tôi đang trong tay thầy. Hãy yêu cầu tôi nhảy
vào bức tường và tôi sẽ nhảy!”
Chính quyết định
quan trọng để buông bỏ hoàn toàn này là sự chuyển hóa và kết tinh. Thái độc của
người môn đệ luôn là một sự buông bỏ toàn bộ. Thế rồi vị guru có thể thực hiện
bất kỳ điều gì, bởi vì thông qua sự đón nhận toàn bộ của bạn đối với vị đó mà bạn
có thể giao cảm với vị đó. Thế rồi dần dần bạn thay đổi.
Vấn đề rất tinh
tế, nó rất nhạy cảm. Thay đổi một thực thể sống, thay đổi tính cách con người
là điều lớn lao nhất, gian khổ nhất và tinh tế nhất. Tính cách con người rất phức
tạp và xung đột, rất nhiều điều bị kìm nén và bị xuyên tạc đến mức để biến đổi
nó và làm cho nó nở hoa, biến nó thành một món quà giá trị đối với điều linh
thiêng, là một khả năng nghệ thuật hay khoa học kỳ diệu.
Nhưng bạn phải
nhớ rằng những gì tôi đã nói luôn xuất phát từ người môn đệ, mà không bao giờ từ
vị guru. Nếu điều đó xuất hiện từ vị guru thì Krishnamurti đúng: vậy thì tính guru
là một trong những sự lợi dụng tinh vi nhất và hủy hoại nhất. Nhưng
Krishnamurti không thực sự đúng, bởi vì buông bỏ chưa bao giờ là một yêu cầu của
vị guru; nó là điều kiện cơ bản của tính môn đệ. Không có vị guru hoặc không có
mối quan hệ tin cậy thì sự phát triển tâm linh là rất khó. Thực tế, đó là điều
không thể.
Có mọi khả năng
rằng con người có thể nở hoa mà không có vị guru nào, nhưng người đó cũng sẽ phải
buông bỏ, anh ta sẽ phải tin - nếu không tin vào người cụ thể thì cũng tin vào
cái toàn bộ. Những yêu cầu cơ bản phải được thực hiện. Cho dù chúng được thực
hiện trong mối liên hệ với một người hoặc không thì cũng là thứ yếu.
Tin vào một người
dễ hơn tin vào cái toàn bộ. Nếu bạn không tin vào một người thì bạn không bao
giờ có thể tin vào tồn tại như vậy. Nếu bạn không thể buông bỏ trong mối quan hệ
có tính cách thì bạn không bao giờ có thể buông bỏ với đấng linh thiêng phi
tính cách. Cho nên vị guru là một bước đi tới trạng thái mất tính cách, là một
cách giúp con người buông bỏ với cái toàn bộ, với chính tồn tại.
Đối với tâm trí
con người, mọi mối quan hệ là cá nhân. Đó có thể là tình yêu, có thể là sự kính
trọng, có thể là bất kỳ điều gì, nhưng đó là cá nhân. Cho nên bước đầu tiên đi
tới sự thực chứng về sự thật, hay sự thực chứng về thực tại vũ trụ cũng buộc phải
mang tính cá nhân. Một người nào đó sẽ phải được sử dụng như một là bục nhảy.
Và cũng còn những
thứ khác…
Liên quan đến
tâm linh thì những lời nói không thể giao tiếp lại rất ý nghĩa. Chính hiện tượng
như vậy lại không thể biểu cảm. Nếu bạn nghe nhạc cụ nào đó, bạn không thể truyền
đạt ý nghĩa của nó thông qua lời nói. Bạn có thể dùng những từ để đánh giá - tốt,
xấu - nhưng chúng không chứa đựng bất kỳ điều gì. Bạn chỉ có thể truyền đạt những
cảm nhận của bạn, nhưng điều này cũng rất không thỏa đáng.
Nếu bạn đã nhìn
thấy một bông hoa, bạn có thể nói nó đẹp. Nhưng điều đó không truyền đạt bất kỳ
điều gì. Những lời nói của bạn không bao giờ truyền đạt nhận biết thực của thời
điểm, bởi vì chúng có thể có bất kỳ ý nghĩa nào đối với người được chúng truyền
đạt. Con người chưa bao giờ nhìn thấy vẻ đẹp của bất kỳ bông hoa nào thì sẽ
nghe những lời nói của bạn và hiểu ý nghĩa của chúng, nhưng lại không hiểu bất
kỳ điều gì, bởi vì lời nói đẹp không mang ý nghĩa gì đến cho người đó.
Ngay cả những
khái niệm như là vẻ đẹp cũng không thể biểu cảm toàn bộ - chúng ta chỉ có thể cố
để biểu đạt chúng. Những vấn đề tâm linh quá hoàn hảo, quá tĩnh lặng, quá vô hạn
đến mức ngôn ngữ làm hủy hoại chúng. Lời nói hạn chế chúng trong một cái vỏ quá
hạn hẹp đến mức ý nghĩa không thể được truyền đạt. Chính vì vậy mà tôi đã nói rằng
tôn giáo không thể được thuyết giảng.
Tuy nhiên đó là
khó khăn, toán học có thể được dạy bởi vì đó là biểu tượng, những biểu tượng có
thể được truyền đạt. Vật lý có thể được dạy, bởi vì không có gì không thể biểu
đạt về nó. Nhưng bạn càng đến gần hơn với trái tim con người - ví dụ, trong thơ
ca - bạn càng cảm thấy rằng những lời nói của bạn đã không chuyển tải được vấn
đề, một cái gì đó đã bị để lại phía sau. Cái vỏ có đó nhưng cái thứ bên trong
đã bị để lại phía sau. Những lời nói đã chạm tới nhưng ý nghĩa đã ở lại phía
sau. Bông hoa đã được nhận, nhưng hương thơm đã không còn ngay lúc nó được
trao.
Ngôn ngữ là điểm
ở giữa khoa học và tôn giáo. Trong khoa học mọi thứ đều có thể được truyền đạt;
trong tôn giáo không gì có thể được truyền đạt. Có ba con đường: khoa học, có
nghĩa là lý luận, và có thể biểu đạt; thơ ca và nghệ thuật, nó là xúc cảm, và
có thể biểu đạt tới điểm nào đó, mà nếu vượt qua điểm đó thì chúng không thể biểu
đạt; và tôn giáo, tâm linh là tuyệt đối không thể biểu đạt. Chính vì vậy mà mối
quan hệ giữa người môn đệ và vị guru không phải là mối quan hệ thầy trò.
Tôn giáo không
thể được dạy.
Vậy thì làm
cách nào có thể truyền đạt? Có hai phương pháp.
Khi bạn đang
yêu một người nào đó thì lần đầu tiên những điệu bộ trở nên ý nghĩa. Nỗi đau thầm
kín trên nét mặt được phát hiện, nỗi thổn thức mong manh trong đôi mắt được nhận
ra và được đoán ra. Trừ khi bạn đang yêu, bạn không bao giờ chú ý tới những điều
tinh tế như vậy; bạn nhìn thấy khuôn mặt, nhưng bạn không nhìn thấy toàn bộ sự
phức tạp của nó, bạn không nhìn thấy sự thay đổi hình thái liên tục của nó. Bạn
nhìn thấy khuôn mặt như là ngoại vi, bạn chưa bao giờ thấy nội dung bên trong
nó. Nhưng khi bạn yêu ai đó thì nét mặt không như là một hình ảnh mà là một
hình thái sống động. Những chi tiết nhỏ và những thay đổi tinh tế khi biểu cảm
được phát hiện và đoán ra. Thậm chí trước khi người yêu nói điều gì đó thì bạn
đã biết nó là gì rồi. Thậm chí trước khi người yêu biết rằng chàng (hay nàng)
đã cảm nhận một cái gì đó thì bạn có thể đã đoán ra.
Và lòng sùng
kính thậm chí còn tinh tế hơn tình yêu. Chính sự tồn tại của vị guru là sự giao
tiếp. Những điều nà vị đó liên tục gửi đi là những thông điệp, chúng phải được
nắm bắt, được biết, được giải mã và được hiểu bởi ý thức sùng kính. Những cử chỉ
đó, những điệu bộ sống động đó là một loại ngôn ngữ.
Khi mối quan hệ
trở nên chín chắn thì sự giao tiếp còn sâu sắc hơn. Khi môn đệ đã nở hoa thành
tính môn đệ, và anh ta hoàn toàn hiểu ý nghĩa những lời nói và cử chỉ của vị
guru thì anh ta trở nên trưởng thành. Thế rồi không có những cử chỉ, không có
những biểu hiện ngôn mà vẫn có thể có sự giao tiếp thầm lặng. Sự giao tiếp ngoại cảm này là bí mật của mối quan hệ. Đó
là chìa khóa bí mật nhất của mối giao cảm giữa vị guru và người môn đệ. Chỉ khi
điều này trở thành điều có thể thì người môn đệ mới được chấp nhận. Thế rồi
không có vấn đề về thời gian và không gian. Thế rồi dù người môn đệ ở bất kỳ
đâu thì nhiều điều cũng có thể được giao tiếp với anh ta.
Tất cả những điều
đó phải được chờ đợi trong kiên nhẫn. Đó là sự chờ đợi sâu sắc. Về việc thụ
giáo tâm linh thì bạn không bao giờ phải vội vã, bởi vì tâm trí vội vã không thể
đi quá sâu, nó không thể tĩnh lặng như vậy được. Người môn đệ không nên vội vã
biết, anh ta nên chờ đợi thời điểm thích hợp - tin tưởng, chờ đợi và chuẩn bị
chính mình.
Ở phương Tây họ
không bao giờ hiểu tại sao người môn đệ nên phục vụ vị guru. “Tại sao anh ta lại
là người phục vụ?” Họ không biết rằng phục vụ là một cách để giao cảm. Khi người
môn đệ phục vụ vị guru, khi anh ta chờ đợi và phục vụ thì sự phân chia bị bỏ
rơi - anh ta trở thành một với vị guru. Bây giờ cơ thể của vị guru và cơ thể của
anh ta không phải là hai. Anh ta cảm nhận cái đau của vị guru, cảm nhận bệnh tật
của vị guru. Anh ta cũng cảm nhận niềm vui, sự nhập định của vị guru. Dần dần
anh ta trở nên hoàn toàn thu hút tới vị guru. Thông qua sự thu hút tới cơ thể của
vị guru mà anh ta trở thành một với vị đó. Về mặt tâm linh, bạn không thể trở
thành một nếu bạn không thể trở nên thân mật và là một với cơ thể; cơ thể là nền
tảng.
Người môn đệ
liên tục phục vụ vị guru và không bao giờ hỏi bất kỳ câu hỏi nào. Đây là điều kỳ
diệu! Anh ta sẽ không nói, “Dạy cho tôi điều này hoặc điều kia”, bởi vì thậm
chí nói điều này cũng là không tin tưởng vào vị guru. Khi có thời điểm thích hợp
anh ta sẽ được nói cho biết; khi thời điểm thích hợp anh ta sẽ được dạy. Nếu thời
điểm chưa thích hợp thì anh ta sẽ phải chờ. Đôi khi anh ta sẽ phải chờ đợi
trong nhiều năm - thậm chí là ở thời nay. Hai mươi năm có thể trôi qua và anh
ta sẽ vẫn chờ. Có thể anh ta ra đi lúc còn thanh xuân và bây giờ đã về già -
nhưng vẫn chờ! Chính sự chờ đợi này, sự kiên nhẫn này lại tạo ra hoàn cảnh để
người môn đệ và vị guru không phải là hai; họ là một. Ở thời điểm họ trở thành
một, những gì không thể biểu đạt cũng có thể được biểu đạt.
Wittgenstein đã
nói ở đâu đó rằng những gì không thể được nói thì có thể được chỉ ra. Nói không
cần kiên nhẫn, nhưng sự chỉ ra cần rất kiên nhẫn. Nếu tôi muốn nói một cái gì
đó với bạn thì tôi có thể nói tại chính thời điểm này. Sự kiên nhẫn của bạn, sự
chuẩn bị của bạn là không cần thiết. Tôi có thể nói điều đó và bạn có thể nghe.
Tôi không thể chỉ nó cho bạn nếu bạn không có khả năng để nhìn.
Về cơ bản vị
guru đang không nói bất kỳ điều gì mà đang cố chỉ ra một cái gì đó; và nếu người
môn đệ nhận biết thì nhiều điều trở nên rõ ràng mà không có sự can thiệp nào.
Nhiều điều luôn rõ ràng nhưng tâm trí lại bối rối - và tâm trí bối rối lại làm
xáo trộn nhiều điều. Tâm trí bạn không thể làm méo mó những điều trần tục quá
nhiều, bởi vì chúng quá khách quan đến mức chúng không phụ thuộc vào tâm trí bạn.
Nhưng tâm linh lại rất chủ quan, nó phụ thuộc rất nhiều vào cách nhìn của bạn đến
mức tâm trí bối rối có thể hiểu sai và làm mọi thứ bị hủy hoại.
Sự hủy hoại xuất
hiện từ kiến thức chồng chất trong quá khứ của chúng ta. Tâm trí đã biết và đã
tích lũy quá nhiều đến mức nó xuất hiện và làm xáo trộn mọi thứ; cái cũ đã xen
vào giữa.
Những gì bạn
tình cờ biết phải không được diễn giải. Mọi thứ mới phải được nhìn bởi tâm trí
mới. Nếu con người có thể đặt kiến thức này sang một bên và nhìn trực tiếp,
nhìn tức thì vào mọi điều như vậy thì những điều đó luôn rõ ràng. Tồn tại quá
thanh khiết và rõ ràng, mọi thứ đều rõ ràng như pha lê, đó là một sự kỳ diệu,
làm sao tâm trí con người lại bối rối về nó. Sự bối rối này xuất hiện thông qua
sự diễn giải; nó xuất hiện từ việc sử dụng tất cả những thứ đã biết để hiểu cái
thứ còn chưa biết.
Nếu chúng ta có
thể hoàn toàn nhận biết bất kỳ điều gì mới được trình bày cho bạn, nếu chúng ta
có thể trở nên đón nhận và nhận biết sự hiện diện của nó, thì nó sẽ đi vào tim.
Những gì tôi đang nói có thể biểu hiện vô lý, nhưng đó là sự thật. Tâm trí
không bao giờ nhận biết, chỉ trái tim nhận biết. Trung tâm nhận biết không bao
giờ là tâm trí, nó luôn là trái tim. Trái tim luôn tinh khiết, tươi mới và
nguyên sơ; nó không bao giờ chịu đựng gánh nặng quá khứ. Nhưng tâm trí chưa bao
giờ là nguyên sơ, nó chưa bao giờ mới; nó luôn cũ. Nó luôn là của quá khứ, nó
luôn là vô nghĩa - sự chất đống những kinh nghiệm vô nghĩa. Cho nên bất kỳ khi
nào tâm trí vận hành thì bạn luôn hiểu sai - buộc phải là như vậy. Nhưng khi nó
không vận hành - khi nó yên lặng, khi nó tĩnh, tuyệt đối không tồn tại, chỉ khi
đó mới có nhận biết - khoảng trống được tạo ra và ô cửa tới trái tim được mở
ra.
Trái tim hiểu
mà không có bất kỳ sự diễn giải nào; sự hiểu của nó là trực tiếp và tức thì. Bạn
hiểu - bạn BIẾT, “điều này là như vậy”. Việc đặt tâm trí ra sang một bên này
tôi gọi là thiền. Nếu bạn có thể nhìn thấy nhiều điều bởi trái tim, nếu bạn có
thể liên hệ với tồn tại thông qua trái tim, thì bạn đang trong thiền; nhưng nếu
bạn đang luôn sống thông qua tâm trí thì bạn sẽ không bao giờ trong thiền.
Có thể nói rằng
trái tim là khả năng đặc biệt cho thiền, và tâm trí là khả năng hoạt động chống
lại thiền; và hai điều đó không thể hoạt động đồng thời. Nếu tâm trí đang hoạt
động thì trái tim không thể. Nó đi xa bởi
vì nó không được cần đến; nó đi ngủ. Chỉ khi tâm trí không hoạt động thì trái
tim mới xuất hiện trên bề mặt để thở, để nhìn. Nó xuất hiện chỉ khi tâm trí
không cần đến, khi tâm trí đã bị bỏ đi. Và thời điểm mà trái tim xuất hiện
trong mối liên hệ với tồn tại thì bạn cảm nhận được niềm vui, phúc lành. Mọi thứ
đều trở nên linh thiêng. Đó là điều linh thiêng, và bạn biết nó.
Khi trái tim
trong mối liên hệ với thế gian thì thế gian là linh thiêng; khi tâm trí trong mối
liên hệ với thế gian thì thế gian là trần tục. Tâm trí không thể biết bất kỳ điều
gì trên vật chất, và trái tim không thể biết bất kỳ điều gì dưới tinh thần.
Chính vì vậy những người định hướng-trái tim đã từng nói rằng thế gian là không
thực, là ảo ảnh; nó là maya - chỉ là một sự biểu hiện kỳ diệu. Có một lý do cho
câu nói như vậy: bởi vì trái tim không thể xuống thấp hơn tinh thần, nó không
bao giờ có thể biết vật chất. Thế giới vật chất trở thành ảo ảnh, không thực,
mơ - dường như nó không tồn tại.
Người định hướng-tâm
trí đã từ chối tâm linh. Họ nói rằng đó là giấc mơ, là hư cấu, không thể tìm thấy
ở đâu. Với họ chỉ có vật chất tồn tại; không có gì là tâm linh: tâm linh là ảo ảnh,
hão huyền, ngớ ngẩn. Nietzsche đã nói ở đâu đó rằng, “Có những người đã nói rằng
Jesus là một thiên tài, một người thông thái. Nhưng tôi muốn nói rằng ông ấy là
một kể ngốc”.
Người phương
Đông có xu hướng tình cảm, nghiêng về trái tim; người phương Tây có xu hướng lý
trí, nghiêng về cái đầu. Tâm trí phương Tây đã có khả năng tạo ra dinh thự khoa
học vĩ đại nhưng tâm trí phương Đông thì không thể - làm sao bạn có thể sáng tạo
khoa học bởi tính hồn nhiên? Đó là điều không thể. Cho nên phương Đông đã sống
phi khoa học.
Nhưng phương
Tây chưa bao giờ có thể biết thiền là gì. Nhiều nhất họ chỉ có thể cầu nguyện.
Nhưng cầu nguyện thì không giá trị. Bạn chỉ có thể cầu nguyện bằng tâm trí; bạn
có thể không ngừng lặp lại các công thức. Nếu không có tâm trí thì người cầu
nguyện sẽ trở nên tĩnh lặng. Bạn sẽ không có khả năng cầu nguyện - sẽ không có
ngôn ngữ nào. Với trái tim bạn chỉ có thể là cầu nguyện.
Ở phương Tây, họ
không thể phát triển khoa học tâm linh, họ không thể phát triển thiền. Họ biến
thiền thành sự tập trung chú ý hoặc tư duy sâu lắng - cả hai đều không đúng -
và họ đã bị lỡ giá trị. Tập trung chú ý là quá trình tinh thần. Khi tâm trí cố
tập trung và toàn bộ quá trình nghĩ được hội tụ thì nó trở thành tư tưởng. Đó
không phải là vấn đề của trái tim.
Thiền không phải
là sự tập trung hoặc tư duy sâu lắng. Nó là sống phi tinh thần, phi tâm trí. Nó
trở thành mối liên hệ với thế gian mà không bị tâm trí xen vào. Thời điểm mà
tâm trí vắng mặt thì không còn rào cản giữa bạn và tồn tại, giữa bạn và điều
linh thiêng, bởi vì trái tim không thể vẽ nên những đường biên, nó không thể
xác định. Bằng việc xác định nhiều điều mà tâm trí tạo ra những rào cản, những
đường biên, những biên giới. Nhưng với trái tim tồn tại trở nên phi biên giới.
Bạn không kết thúc ở đâu, và không có ai bắt đầu ở nơi đâu. Bạn ở mọi nơi, cùng
với toàn bộ tồn tại.
Trái tim không
thể cảm nhận sự đối ngẫu - đối ngẫu là một sự sáng tạo tinh thần. Tâm trí thực
hiện chia, phân tích; nó không thể hoạt động mà không có sự chia. Chính vì vậy
mà khoa học không ngừng phân tích phân tử, nguyên tử, điện tử: chia tồn tại
thành những phần nhỏ hơn. Càng có nhiều phần chia nhỏ thì nó càng thoải mái
hơn, bởi vì sau đó tồn tại trở nên được xác định rõ hơn; nó có thể thao túng,
có thể biết dễ dàng hơn. Nhưng tồn tại càng trở nên mênh mông hơn, vô hạn hơn
và vĩ đại hơn thì tâm trí càng cảm nhận nỗi sợ hãi nhiều hơn. Tâm trí không thể
xác định tồn tại - tồn tại trở nên huyền bí.
Phương pháp
khoa học để giải quyết một vấn đề huyền bí là phân tích - phân tích một vấn đề
và tháo gỡ điều huyền bí nữa. Nếu toàn bộ thế giới có thể được phân tích thì hẳn
không còn điều huyền bí nữa. Nhưng điều huyền bí vẫn giữ nguyên không được giải
quyết, bởi vì để làm sáng tỏ nó cần phải có sự tổng hợp.
Bỏ rơi mọi sự
xác định, bỏ rơi những đường biên, và mọi thứ trở nên huyền bí. Thế rồi bạn là
một với điều huyền bí; thế rồi mọi thứ đều linh thiêng. Đó là giải pháp duy nhất
và con đường duy nhất để nhận biết tồn tại. Hãy bỏ rơi những định nghĩa khoa học,
và một thế giới không những định nghĩa, không những đường biên, trở thành tồn tại:
cái toàn bộ được kết hợp, cái đồng nhất hữu cơ, cái nhất thể được kết tinh. Cái
nhất thể này - cảm nhận nó, nhận biết nó, sống với nó - đó là điều tôi ngụ ý về
Thượng Đế.
Thiền là con đường
để biết Thượng Đế. Tâm trí là con đường để biết vật chất. Tâm trí và thiền là
hoàn toàn đối nghịch - những bình diện khác nhau. Bạn không thể có cả hai con
đường. Bạn có thể chạm tới tâm trí nhưng thời điểm đó trái tim sẽ không hoạt động.
Bạn có thể chạm tới trái tim, nhưng thời điểm đó tâm trí sẽ không hoạt động. Bạn
có thể sử dụng cả hai, nhưng không đồng thời: chúng là những đối cực.
Không thiền, mọi
thứ là có lý và cũng là vô lý bởi vì nó là vô nghĩa. Với thiền, mọi thứ là vô
lý nhưng lại ý nghĩa. Thời điểm sống ý nghĩa, thì cuộc sống tồn tại. Khi nó vô
nghĩa, khi nó được hiểu một cách hợp lý nhưng vô nghĩa, thì nó không tồn tại.
Nó chỉ có thể như xác chết. Đây là nghịch lý: với tâm trí bạn có thể hiểu nhưng
lại mất ý nghĩa; với trái tim, bạn không thể hiểu nhưng ý nghĩa được nhận biết,
được cảm nhận, được nhận ra.
Với tâm trí mọi
thứ có thể được phân loại và kiểm soát, nhưng thông qua nó bạn trở nên bị vô hiệu,
và kết cục là không có gì huyền bí. Khi mà tâm trí đã hiểu mọi thứ thì không
còn gì ngoài tự sát, bởi vì không ai có thể sống mà không có điều huyền bí. Sự
sống càng huyền bí thì nó càng đáng sống.
Tôi giáo là biết
điều huyền bí và vẫn không hủy hoại nó. Con đường tôn giáo để là rất khác - đó
không phải là logic hoặc không phải là lý trí; nó tuyệt đối mới mẻ. Nhưng tâm
trí của chúng ta trở nên không thoải mái với nó bởi vì chúng ta quá ám ảnh với
lý trí. Phần rất nhỏ bé này của tâm trí, lý trí, đã trở thành toàn bộ của chúng
ta, của tất cả chúng ta.
Cuộc sống không
phải là lý trí; nó cơ bản là phi lý - và sự phi lý này của cuộc sống và tồn tại
là điều huyền bí. Nếu mọi thứ trở nên huyền bí với bạn, thì bạn ở đây và bây giờ
cùng đấng linh thiêng. Với thiền, điều huyền bí được làm sống lại: bạn lại có
được mối liên hệ với điều huyền bí.
Thiền thuộc về
trái tim, và trái tim có những phương pháp riêng để hiểu những gì là tuyệt đối
khác với lý trí, tuyệt đối khác với tâm trí. Tôi muốn tất cả các bạn biết nhiều
hơn về trái tim.
Mối quan hệ
guru / môn đệ là một sự thấu hiểu của trái tim. Phương Đông có quá nhiều chìa
khóa bí mật, nhưng thậm chí chỉ một chìa cũng đủ, bởi vì một chìa cũng có thể mở
hàng nghìn, hàng nghìn ổ khóa. Mối quan hệ giữa vị guru và người môn đệ là một
chìa như vậy.
0 Đánh giá