Chương 15. Con đường được tìm ra

Chương 15. Con đường được tìm ra

Price:

Read more

Thuật giả kim mới hướng bạn vào trong
Bài giảng về Thiền
Chương 15. Con đường được tìm ra

Thu được việc dùng giác quan bên trong, chinh phục ham muốn của giác quan bên ngoài, chinh phục ham muốn của riêng linh hồn cá nhân, và thu được tri thức, bây giờ chuẩn bị đi, hỡi đệ tử, để đi vào con đường trong thực tại. Con đường được tìm ra: làm bản thân ông sẵn sàng bước trên nó.
Thu được việc dùng giác quan bên trong... Chúng ta biết về các giác quan bên ngoài của chúng ta, nhưng từng giác quan này đều có chiều kép. Chẳng hạn, mắt. Chúng có thể nhìn ra ngoài. Đây chỉ là một chiều của chức năng của chúng. Chúng có thể nhìn vào trong nữa. Đó là chức năng khác của chúng. Hay, tai. Bạn có thể nghe điều đang xảy ra bên ngoài. Đó là một chức năng, một chiều. Bạn cũng có thể nghe điều đang xảy ra bên trong. Đó là chức năng khác, chiều khác.
Mọi giác quan đều có hai cửa. Một cửa mở ra thế giới bên ngoài; cửa kia mở vào thế giới bên trong. Từng giác quan đều là cả hai bên ngoài và bên trong, nhưng chúng ta dùng các giác quan của mình chỉ theo một chiều. Chúng ta đã trở nên bị cố định; chúng ta đã quên mất rằng cùng những giác quan này có thể được dùng để đạt tới bên trong.
Thu được việc dùng giác quan bên trong... Thu được các chiều ẩn của các giác quan đi, nhiều điều có thể trở thành có thể. Một thế giới mới mở ra trước bạn. Cái bên trong cũng bao la như cái bên ngoài, cái bên trong là vĩ đại như cái bên ngoài. Bạn chỉ đang đứng ở giữa: bạn đang đứng ở giữa vũ trụ bên trong và vũ trụ bên ngoài.
Cái bên ngoài là bao la. Họ nói nó là vô hạn, vô tận, vô thuỷ; không có biên giới cho nó. Cùng điều này là đúng cho cái bên trong nữa. Không biên giới - không gian bên trong lại là vô hạn. Cái bên ngoài được tìm kiếm bằng các phương pháp khoa học. Cái bên trong có thể được tìm kiếm qua phương pháp yoga.
Khoa học đã phát triển nhiều và đã đi tới biết nhiều về thế giới bên ngoài. Nhưng cái bên trong đã trở nên bị quên lãng; nó không còn được nhớ tới. Chúng ta giầu có bây giờ khi có liên quan tới thế giới bên ngoài, liên quan tới kinh nghiệm bên ngoài, và chúng ta đã trở nên tuyệt đối nghèo, kẻ ăn xin, khi có liên quan tới cái bên trong. Nhưng hữu dụng gì của việc thu được toàn thế giới nếu, trong việc thu được nó, bạn đánh mất bản thân bạn? Nếu cái ta bị mất, cái gì là thu được? Cho dù bạn thu được toàn thế giới, chẳng cái gì là thu được cả. Nếu bạn đánh mất bản thân bạn thế thì chính nghĩa của sự sống, chính ý nghĩa của sự sống - cái đẹp, chân lí, cái thiện, mọi thứ - đều bị mất. Con người có thể tích luỹ đồ vật, có thể tíchluỹ quyền lực, với cái giá đánh mất bản thân mình. Thế thì, toàn thể vấn đề bị bỏ lỡ.
Khoa học cố gắng khuếch đại các giác quan bên ngoài. Bây giờ, qua thiết bị máy móc, chúng ta có thể nhìn xa vào không gian. Mắt được khuếch đại bởi phương pháp khoa học. Bây giờ chúng ta có thể nghe được từ khoảng cách xa. Công nghệ khoa học khuếch đại tai của bạn.
Cùng điều đó là có thể cho các giác quan bên trong nữa. Qua thiền, qua yoga, qua mật tông - công nghệ bên trong - các giác quan bên trong của bạn được khuếch đại lên. Và một khi chúng được khuếch đại lên, nhiều thứ được hiển lộ ra cho bạn.
Chừng nào chúng chưa hiển lộ ra cho bạn, chúng dường như giống thần thoại, mê tín. Chúng ta nghe, chúng ta đọc, nhiều điều về Phật, Jesus, Krishna mà không thể tin được. Mohammed, Zarathustra, Moses - bây giờ họ có vẻ huyền thoại vì bất kì cái gì họ nói chúng ta không thể đích thân trải nghiệm được. Chúng ta đã mất tiếp xúc. Moses nói rằng ông ấy đã nghe tiếng nói của Thượng đế trên núi Sinai. Làm sao chúng ta có thể tin được điều đó? Chúng ta chưa bao giờ nghe bất kì cái gì như điều đó.
Nếu bạn đi tới bộ lạc nguyên thuỷ và bảo họ rằng trên radio chúng ta nghe tiếng nói truyền đi khoảng cách xa, họ sẽ không có khả năng tin vào điều đó. Hay, nếu bạn nói rằng trên máy thu truyền hình chúng ta thấy ảnh truyền đi xa, khoảng cách xa, họ sẽ không tin điều đó, vì họ không có kinh nghiệm về điều đó.
Theo cùng cách, chúng ta đã trở thành người nguyên thuỷ khi có liên quan tới cái bên trong. Moses nói ông ấy nghe thấy Thượng đế. Jesus nói với bố ông ấy ở trên cõitrời. Họ có vẻ thần kinh với chúng ta. Họ phải điên. Có nhiều khảo cứu về Jesus, khảo cứu tâm lí, nói rằng ông ấy phải đã từng mất trí. "Ông ấy ngụ ý gì, nói chuyện với Thượng đế sao? Thượng đế ở đâu? Làm sao bạn có thể nói chuyện với ngài được? Và làm sao Thượng đế có thể nói chuyện với bạn được? Jesus phải đã mất trí. Ảo tưởng phải đã xảy ra cho ông ấy và ông ấy đã tin vào ảo tưởng của ông ấy. Ông ấy bị thần kinh." Ông ấy có vẻ thần kinh vì chúng ta đã trở thành người nguyên thuỷ khi có liên quan tới thế giới bên trong.
Nếu các giác quan bên trong của bạn thấu suốt, nếu các giác quan bên trong của bạn sống động, nếu bạn đã đi tới biết cách dùng chúng, bạn cũng có thể làm bản thân bạn hoà hợp với điều thiêng liêng. Bạn có thể nghe thấy, bạn có thể lắng nghe, bạn có thể thấy, bạn có thể chạm tới điều bí ẩn. Chúng bao giờ cũng có đó. Moses không thần kinh - chúng ta đã trở thành người nguyên thuỷ. Jesus không điên - chúng ta đã mất tiếp xúc với cái bên trong.
Thu được việc dùng giác quan bên trong, chinh phục ham muốn của giác quan bên ngoài... Vì nếu ham muốn của giác quan bên ngoài vẫn còn sống động, bạn không thể đi vào bên trong được. Ham muốn nghĩa là cách đi ra ngoài; ham muốn là con đường dẫn bạn đi ra ngoài. Nếu tâm trí bạn vẫn còn ham muốn, bạn không thể đi vào bên trong được.
Đó là lí do tại sao có nhiều hứng thú về vô ham muốn. Nó không phải là khái niệm đạo đức. Vô ham muốn là khái niệm rất khoa học. Nếu bạn muốn đi vào trong, tâm trí bạn phải mất đi mọi ham muốn đi ra ngoài. Bằng không, làm sao bạn có thể đi vào bên trong được? Nó là toán học đơn giản. Nếu bạn muốn đi sang trái, bạn phải bỏ ham muốn đi sang phải. Bằng không, chân này đi sang phải; chân kia đi sang trái. Bạn sẽ trở nên điên; bạnsẽ mất trí. Bạn không thể đi theo hai hướng đồng thời được. Ham muốn dẫn ra bên ngoài. Vô ham muốn, vào bên trong.
...Chinh phục ham muốn của giác quan bên ngoài, chinh phục ham muốn của riêng linh hồn cá nhân... Nếu bạn vẫn định tâm vào cái ta, bạn bao giờ cũng nghĩ dưới dạng bản ngã riêng của bạn; bạn bao giờ cũng nghĩ dưới dạng tính cá thể riêng của bạn, bản ngã riêng của bạn. Thế thì chân lí sâu hơn của sự tồn tại không thể được để lộ cho bạn. Bạn chưa có năng lực của nó; bạn không xứng đáng với nó. Và, nó là nguy hiểm nữa. Cố hiểu điều đó đi.
Chẳng hạn, khoa học bây giờ đã đi tới hiểu những bí ẩn rất cơ bản của vật chất. Khoa học đã buộc vật chấp phải tiết lộ các bí mật nào đó về năng lượng nguyên tử. Nó đã trở nên có tính phá huỷ. Con người còn chưa có năng lực, chưa đáng biết bí mật lớn thế. Khoa học ép buộc vật chất. Khoa học là hung hăng.
Einstein tương truyền đã nói, "Nếu tôi được sinh ra lần nữa, tôi sẽ không muốn là nhà khoa học. Thay vì thế, tôi muốn là thợ đường ống nước. Bất kì cái gì tôi đã làm đều mang tính phá huỷ. Bất kì cái gì tôi đã làm lộ ra, cả đời tôi đã bị phí hoài. Dường như là tôi có thể là một trong những người chịu trách nhiệm cho việc phá huỷ toàn thể nhân loại."
Những ngày cuối cùng của ông ấy đã là của đau khổ sâu sắc. Một bí mật đã được tiết lộ ra, nhưng con người còn chưa sẵn sàng, chưa xứng đáng với việc làm lộ ra này. Con người vẫn còn ấu trĩ, ngu, xuẩn. Sức mạnh lớn thế - năng lượng nguyên tử - không thể được trao vào tay con người.
Và bây giờ, các chính khách đã chiếm giữ bí mật này. Và chính khách nhất định là ngu xuẩn, họ không thểlà bất kì cái gì khác được, vì bất kì người nào có tham vọng chính trị đều là kẻ bản ngã. Ham muốn nắm giữ sức mạnh là ham muốn của bản ngã. Và bản ngã là thứ ngu xuẩn nhất có thể có. Nó có thể buộc bạn làm bất kì cái gì; nó là điên. Tham vọng chính trị là ám ảnh với bản ngã.
Các nhà khoa học đã làm hé lộ những bí mật nào đó và các chính khách đã thâu tóm các bí mật đó. Thế rồi họ đã phá huỷ Hiroshima và Nagasaki. Và bây giờ, họ sẵn sàng phá huỷ toàn thể hành tinh này. Vào bất kì lúc nào, toàn thể trái đất đều có thể bị phá huỷ. Bây giờ chúng ta có nhiều lực phá huỷ hơn được cần để phá huỷ trái đất này bẩy lần. Chúng ta có thể phá huỷ bẩy trái đất như thế này; điều này không là gì. Và chúng ta đang phát triển ngày càng nhiều các sức mạnh huỷ diệt. Để làm gì? Tại sao có nhiều khao khát theo cái chết và huỷ diệt thế? Einstein nói rằng chính ngu xuẩn về phần các nhà khoa học là buộc tự nhiên phải tiết lộ những bí mật nào đó mà với nó con người còn chưa xứng đáng biết. Nhưng bạn có thể làm điều đó, vì vật chất có thể bị ép buộc.
Bạn không thể làm được điều đó ở bên trong. Tâm thức không thể bị ép buộc. Không bí mật bên trong nào có thể được tiết lộ cho bạn chừng nào bạn chưa sẵn sàng cho nó. Chừng nào nó còn chưa ích lợi cho bạn và người khác, nó không thể được tiết lộ ra. Cho nên kinh này nói Chinh phục ham muốn của riêng linh hồn cá nhân - tham vọng, bản ngã, thèm khát quyền lực, nghĩ bản thân mình là trung tâm của vũ trụ - chừng nào bạn chưa chinh phục được những điều này, các bí mật bên trong nhất của tâm thức không thể được để lộ ra cho bạn.
... Chinh phục ham muốn của riêng linh hồn cá nhân, và thu được tri thức, bây giờ chuẩn bị đi, hỡi đệ tử , để đi vào con đường trong thực tại. Bất kì cái gì chúng ta đã đề cập tới mãi cho tới giờ là công việc trên tâm thức:tâm thức riêng của bạn, tâm thức chủ thể. Mọi lời kinh cho tới giờ đều được ngụ ý làm việc, hoạt động, thay đổi, biến đổi, chuyển hoá, tâm thức chủ thể. Khi người ta đi tới nhận biết toàn bộ trong thế giới chủ thể của mình, người đó có thể đi vào trong thực tại.'
Nhớ điều này: nếu bạn đi vào bên trong, bạn đi vào tính chủ thể; nếu bạn đi ra, bạn đi vào tính đối thể; nếu bạn đi ra ngoài cả hai, bạn đi vào trong thực tại. Tính đối thể không phải là thực tại; tính đối thể chỉ là một phần của thực tại. Tính chủ thể cũng không phải là thực tại. Nó lại là một phần của thực tại. Khi tính chủ thể và tính đối thể cả hai đã được siêu việt lên, bạn đi vào thực tại.
Nếu bạn dùng các giác quan của bạn cho cuộc hành trình bên ngoài, bạn sẽ đạt tới các đối thể. Nếu bạn dùng các giác quan của bạn cho cuộc hành trình bên trong, bạn sẽ đạt tới chủ thể, người biết. Qua cái bên ngoài, đối thể: cái được biết. Qua cái bên trong, người biết: chủ thể, cái ta. Nhưng cả hai chỉ là một phần. Thực tại bao gồm cả hai.
Trong thực tại, cả hai là một. Điều này chúng ta đã gọi là brahma: thực tại tối thượng. Bạn không thể đi vào trong thực tại tối thượng hoặc qua đối thể hoặc qua chủ thể. Bạn phải làm mất cả hai. Đó là lí do tại sao để biết linh hồn bạn phải dùng các giác quan bên trong và để biết vật chất bạn phải dùng các giác quan bên ngoài; nhưng để biết brahma bạn không phải dùng bất kì giác quan nào, không cái bên ngoài không cái bên trong. Nếu bạn muốn đi vào thực tại tối thượng, các giác quan phải bị bỏ đi hoàn toàn, cả bên ngoài và bên trong. Không có giác quan, cái một đi vào thực tại.
Đó là lí do tại sao Shankara không thể nhân nhượng rằng khoa học biết thực tại. Ông ấy nói rằng khoa học chỉbiết tới tính đối thể. Và ông ấy không thể nhân nhượng rằng những người nói không có brahma là biết thực tại, vì họ biết chỉ cái ta chủ thể. Chỉ những người đi ra ngoài cả hai - nhị nguyên này của đối thể và chủ thể - mới biết chân lí tối thượng.
…Bây giờ chuẩn bị đi, hỡi đệ tử, để đi vào con đường trong thực tại. Con đường được tìm ra: làm bản thân ông sẵn sàng bước trên nó.
Hỏi đất, khí và nước, về các bí mật chúng giữ cho ông.
Nếu bạn sẵn sàng đánh mất các phân biệt đối thể và chủ thể, bạn có thể hỏi một cách trực tiếp: Hỏi đất, khí và nước, về các bí mật chúng giữ cho ông. Bạn có thể hỏi các yếu tố này một cách trực tiếp. Nếu bạn sẵn sàng để mất phân chia giữa chủ thể và đối thể, nếu bạn sẵn sàng để mất đi mọi ý nghĩ, nếu bạn sẵn sàng để mất đi tâm trí bạn, tâm tính bạn, nếu bạn sẵn sàng để trống vắng và trống rỗng, bạn có thể hỏi các yếu tố này về những bí mật chúng giữ cho bạn.
Và chúng giữ những bí mật nào? Phật đã xảy ra trong thế giới này. Ông ấy được ghi lại bằng đất, bằng khí, bằng nước, bằng trời, bằng không gian, bằng mọi thứ. Việc xảy ra của vị phật là hiện tượng lớn tới mức vũ trụ ghi lại cách nó xảy ra. Krishna nhảy múa trên đất này. Ông ấy được ghi lại. Chính hiện tượng này là đỉnh cao tới mức đất không thể quên được nó, trời không thể quên được nó. Chúng ghi lại nó. Bất kì cái gì xảy ra với tầm lớn thế đều được ghi lại bởi các yếu tố.
Bạn có thể hỏi một cách trực tiếp. Nếu bạn là trống rỗng toàn bộ, bạn có thể hỏi thẳng và đất sẽ hiển lộ bí mật của nó. Nếu Krishna thực sự chuyển giao bài giảng về Gita trên chiến trường Kurukshetra nó phải được ẩn đâu đó trong khí, trong tâm của khí. Nếu bạn sẵn sàng, nếu bạn xứng đáng, khí có thể hiển lộ các học thuyết bí mật nhất cho bạn.
Bạn sẽ cảm thấy rất kì lạ khi nó được hiển lộ, bạn sẽ cảm thấy rất phân vân, vì Gita đã từng được ghi lại bởi con người thì chẳng là gì cả; nó sai sót sâu sắc. Nhiều thứ đã được phóng chiếu vào trong nó, nhiều thứ đã bị xoá bỏ khỏi nó. Nó không phải là thứ thực; nó chỉ là việc ghi lại của con người. Và điều tự nhiên cho tâm trí con người là phạm sai sót.
Nhưng các lực cơ bản của tự nhiên cũng ghi lại, và việc ghi lại của chúng là tuyệt đối đúng, vì không có tâm trí diễn giải, thay đổi, thêm vào hay xoá đi. Điều thuần khiết nhất được ghi lại ở đó. Nếu Mohammed đã nói, nếu Jesus đã nói, nó được ghi lại ở đó. Đất không thể đánh mất tiếp xúc với sinh linh tiến hoá cao, phát triển cao, được biến đổi như thế. Nó không thể làm mất tiếp xúc với họ; tiếp xúc này vẫn còn lại. Nó có thể được hiển lộ cho bạn. Việc phát triển các giác quan bên trong của bạn sẽ tạo khả năng cho bạn làm điều này.
Hỏi những người linh thiêng của đất về các bí mật họ giữ cho ông. Việc chinh phục các ham muốn của các giác quan bên ngoài sẽ cho ông điều đúng để làm việc này.
Hỏi những người linh thiêng của đất về các bí mật họ giữ cho ông. Chúng ta tồn tại trong thân thể, nhưng có nhiều người linh thiêng quanh bạn, người tồn tại trongtrạng thái vô thân thể. Linh hồn con người có thể tồn tại hoặc trong thân thể hoặc trong dạng vô thân. Dạng vô thân vẫn là một phần của vũ trụ; nó vẫn ở trong thế giới. Nó đã không thoát ra khỏi thế giới; việc giải thoát còn chưa xảy ra. Nó thiên về quay lại, nó có xu hướng quay lại. Nó đơn giản đợi đúng bụng mẹ.
Có nhiều thầy linh thiêng tồn tại trong dạng vô thân, người không tuyệt đối chứng ngộ. Khi một người là tuyệt đối chứng ngộ người đó biến mất khỏi thân thể và khỏi bản thân hình dạng. Người đó biến mất hoàn toàn; người đó tan biến vào trong cội nguồn của thế giới. Một Phật, một Jesus - họ tan biến trở lại vào cội nguồn nguyên thuỷ. Nhưng có nhiều người không tuyệt đối chứng ngộ mà là người đã đi tới biết nhiều điều, người đã nhận ra nhiều cái đẹp, người đã nhận ra nhiều chân lí (nhưng không là chân lí 'duy nhất'). Họ đã nhận ra nhiều, nhiều điều và đã đạt tới mức độ nào đó. Họ không chứng ngộ, nhưng họ đã đạt tới mức độ nào đó.
Đó là lí do tại sao họ được gọi là 'những người linh thiêng'. Họ có thể giúp nhiều cho bạn. Nếu bạn mở với họ, bạn có thể ở trong tiếp xúc với họ. Trong thượng đế học, họ được gọi là 'Các Thầy'.
Cuốn sách này, Ánh sáng trên đường, đã được Các Thầy đọc cho Mabel Collins. Các Thầy biết nhiều bí mật mà đã biến mất khỏi trái đất, khỏi các ghi chép của nhân loại, hay đã bị bóp méo. Hay, chúng ta chỉ không thể đọc được chúng vì ngôn ngữ bị quên lãng. Vẫn không thể nào biết được cái gì đã được viết trong văn hoá Harappa Mohenjo Daro. Nó vẫn còn là bí mật. Chúng ta biết cái gì đó được viết ra, nhưng cái gì được viết thì chúng ta không biết. Hình dạng còn lại nhưng chìa khoá bị mất. Chúng ta biết nhiều kinh sách từ nhiều nền văn hoá, nhưng ngôn ngữ bị mất.
Những người linh thiêng này có thể hiển lộ nhiều điều mà vẫn liên tục kéo dài. Họ có thể làm cho chúng ta nhớ. Bạn có thể có tiếp xúc với họ nếu bạn im lặng, hồn nhiên, đi vào bên trong. Nếu bạn đang dùng các giác quan bên trong của bạn, bạn có thể có tiếp xúc với họ và cuộc sống của bạn có thể rất dễ dàng trở nên được biến đổi. Bạn, một mình, có thể mất nhiều kiếp sống để đạt tới mục đích này, nhưng với những người linh thiêng này, bạn có thể được giúp đỡ rất dễ dàng.
Và có nhiều người trong số họ. Bạn chỉ cần mở, bạo dạn, sẵn sàng nhận hướng dẫn, và hướng dẫn này sẽ được trao cho bạn. Nhưng trước khi bạn có thể nhận được nó, bạn phải chuẩn bị cho bản thân bạn trong đón nhận, trong tính đón nhận sâu sắc. Qua thiền, tính đón nhận đó sẽ xảy ra cho bạn. Và không có cách khác. Chỉ qua im lặng mà bạn sẽ trở nên có khả năng nghe thấy cái gì đó tới từ cõi bên kia.
Nhớ một điều liên tục: rằng bạn phải ngày càng im lặng hơn, và ngày càng định tâm bên trong hơn. Bất kì khi nào bạn có thời gian, nhắm mắt lại và đi vào bên trong. Đừng bận rộn khi không có công việc, đừng vẫn còn bận bịu một cách không cần thiết.
Tôi thấy những người dính líu một cách không cần thiết. Tôi đã thấy những người đọc cùng tờ báo lặp đi lặp lại. Họ không có cái gì khác để làm cho nên họ đọc cùng tờ báo lật đi lật lại mãi. Họ không thể vẫn còn trống rỗng, họ không thể vẫn còn trống vắng. Có tính thiền nghĩa là học cách vẫn còn trống vắng, không bận bịu.
Đóng các giác quan bên ngoài của bạn lại và chỉ rơi vào bên trong. Dùng bất kì lúc nào bạn tìm thấy cho điều này và chẳng mấy chốc một ngày sẽ tới khi sự việc trở thành dễ dàng như đi vào và đi ra khỏi nhà bạn. Bạn đi rakhỏi nhà bạn mà không khó khăn gì; bạn quay lại trong nhà mà không khó khăn gì. Bạn thậm chí không cần nghĩ về cách đi vào và cách đi ra. Bạn đi ra khi bạn được cần ở bên ngoài; bạn đi vào khi bạn không được cần ở bên ngoài. Hiện tượng này trở thành đơn giản nếu bạn thực hành nó. Thế thì bạn có thể nhảy ra bất kì khoảnh khắc nào, và bạn có thể nhảy vào bất kì khoảnh khắc nào.
Và một khi bạn đã trở nên có khả năng với chuyển động dễ dàng này, bạn đã trở nên tự do. Thế thì thế giới không thể quấy rối bạn được. Không cái gì có thể quấy rối bạn được, vì không cái gì đạt tới bạn khi bạn ở trung tâm bên trong nhất của bạn. Khi bạn ở ngoại vi, thế giới đụng vào bạn. Khi bạn ở trung tâm, bạn ở bên ngoài thế giới.
Xem tiếp Chương 16Quay về Mục lục

Ads Belove Post