Read more
Thuật giả kim mới hướng bạn vào trong
Bài giảng về Thiền
Chương 17. Tiếng
nói vô âm
Điều được viết là với người đang ở trên ngưỡng của tính thiêng liêng không luật nào có thể bị đóng khung, không hướng dẫn nào có thể tồn tại. Vậy mà để làm chứng ngộ đệ tử, cuộc vật lộn cuối cùng vậy có thể được diễn đạt: Giữ chắc cái không chất liệu không sự tồn tại.
Điều được viết là với người
đang ở trên ngưỡng của tính thiêng liêng không luật nào có thể bị đóng khung,
không hướng dẫn nào có thể tồn tại. Điều tối thượng là không được thăm dò.
Không cái gì có thể được nói về nó vì không cái gì có thể được nói ra sẽ là
đúng. Nó vẫn còn không định nghĩa được, không thăm dò được, không biết được, bởi
nhiều lí do. Không chỉ không biết, mà, theo một nghĩa nào đó, không thể biết được.
Lí do thứ nhất là ở chỗ những
người đi vào nó đều bị tan biến vào trong nó. Họ không thể vẫn còn là bản thân
họ được. Họ bị phá huỷ toàn bộ bởi nó. Họ được tái sinh, họ là người mới toàn bộ.
Và chỉ người cũ mới có thể định nghĩa.
Cố hiểu điều này đi. Chỉ người
cũ mới có thể định nghĩa được. Nếu tôi thấy bạn và tôi đã thấy bạn trước đây,
tôi nhận ra bạn ngay lập tức. Ai nhận ra bạn? Quá khứ. Vì tôi đã biết bạn trước
đây, tôi nhớ mặt bạn; tôi nhận ra bạn. Việc nhận ra tới từ quá khứ. Nhưng nếu
tâm trí tôi bị tẩy sạch toàn bộ và tôi đã hoàn toàn quên mất quá khứ, hay nếu
trí nhớ của tôi bị loại bỏ và không có kết nối với quá khứ, tôi không thể nhận
ra bạn được. Người đi vào điều tối thượng đánh mất quá khứ của mình hoàn toàn
cho nên người đó không thể nhận ra cái gì đang xảy ra bây giờ. Không có tham
chiếu.
Thứ hai, bạn có thể nhận ra chỉ
cái bạn đã biết trước đây. Và hiện tượng này của điều thiêng liêng là tuyệt đối
không được biết. Bạn chưa bao giờ biết nó trước đây. Dùng thuật ngữ nào để diễn
giải nó, để định nghĩa nó? Bạn không có bất kì tham chiếu nào, bạn không có bất
kì thuật ngữ nào, bạn không có bất kì định nghĩa nào. Kinh nghiệm nào là tuyệt
đối mới thế - làm sao dịch nó vào ngôn ngữ được?
Thứ ba, khi bạn đi vào trong điều
tối thượng, ngôn ngữ trở thành không thể được, vì mọi ngôn ngữ đều dựa trên nhị
nguyên. Bạn định nghĩa sống bởi chết. Bạn có thể không nhận biết về điều ngớ ngẩn
này. Bạn định nghĩa vật chất bởi tinh thần, bạn định nghĩa tinh thần bởi vật chất.
Nếu ai đó hỏi, "Vật chất là gì?" bạn nói, "Cái mà không phải là
tinh thần." Nhưng bạn có chắc không? Tinh thần là gì? Thế rồi bạn định
nghĩa tinh thần là cái không phải là vật chất. Bạn đang đi theo vòng tròn.
Khi bạn được hỏi về vật chất bạn
nói về tinh thần dường như bạn biết về tinh thần. Bạn nói, "Cái không phải
là tinh thần." Nhưng nếu ai đó hỏi bạn, "Tinh thần là gì?" bạn bắt
đầu định nghĩa nó dưới dạng vật chất: "Cái không phải là vật chất." Cả
hai đều không được biết.
Nhưng bạn đang giở thủ đoạn với
bản thân bạn. Khi cái này được hỏi, bạn định nghĩa nó bằng cái kia. Khi cái kia
được hỏi, bạn định nghĩa nó bằng cái thứ nhất. Cả hai đều là không thể định
nghĩa được.
Khi có liên quan tới các hoạt động
trần tục làm điều này là được. Nó là tiện dụng, giúp ích. Không đúng, nhưng tiện
dụng. Nhưng khi bạn đi vào điều tối thượng, nhị nguyên này không thể giúp được
gì. Bạn không thể định nghĩa điều thiêng liêng bằng bất kì cái gì tương phản nó
vì không cái gì tương phản nó. Nó là cái toàn thể.
Bạn có thể nói vật chất không
phải là tinh thần, hay bạn có thể nói tinh thần không phải là vật chất, vì tinh
thần không phải là thứ toàn thể; vật chất tồn tại như cái đối lập. Bạn có thể định
nghĩa bằng cái đối lập của nó. Bạn có thể nói sống không phải là chết; bạn có
thể nói chết không phải là sống. Bạn có thể nói tối không phải là sáng và sáng
không phải là tối. Bạn có thể nói đàn ông không phải là đàn bà và đàn bà không
phải là đàn ông. Bạn có thể liên tục định nghĩa bằng cái đối lập.
Nhưng cái gì là đối lập với điều
thiêng liêng? Không có gì đối lập với nó. 'Thiêng liêng' nghĩa là cái toàn thể,
tính toàn bộ, cho nên làm sao định nghĩa được nó? Nó là không thể định nghĩa được,
vì mọi định nghĩa đều dựa trên các cái đối lập và không cái gì đối lập với nó.
Ngôn ngữ ngã sóng xoài. Nó nói, "Tôi không thể đi vào trong chiều hướng
này." Ngôn ngữ tồn tại trong tính nhị nguyên và không thể xuyên thấu vào bất
nhị được.
Điều thiêng liêng là không được
thăm dò vì nó cũng giống như bầu trời. Nó không giống đất. Nếu bạn bước đi trên
đất, dấu chân để lại sau; người khác có thể đi theo. Bạn đã đi qua điểm nào đó
- người khác có thể đi theo bạn. Đi theo dấu chân bạn, họ có thể đạt tới cùng mụcđích.
Nhưng tính toàn bộ - điều thiêng liêng hay Thượng đế hay bất kì cái gì bạn muốn
gọi nó: X, Y, Z, cái toàn bộ - là giống như bầu trời. Chim đã bay trong nó
nhưng không dấu chân nào để lại. Bạn không thể đi theo được. Bạn phải bắt đầu từ
A-B-C.
Bất kì khi nào bạn đi vào điều
thiêng liêng... Phật đã đi vào trước bạn rồi, Jesus đã đi vào trước bạn rồi,
Krishna đã đi vào trước bạn rồi, nhưng không có dấu chân. Khi bạn đi vào điều
thiêng liêng điều đó dường như con người đang đi vào lần đầu tiên. Bầu trời vẫn
còn trinh nguyên, không được chạm tới, không bị sẹo. Nhưng điều này là tốt.
Tính trinh nguyên tuyệt đối này là tốt vì thế thì kinh nghiệm này là duy nhất của
bạn.
Bằng không, nếu bạn thấy dấu
chân của Phật, dấu chân của Krishna - bản đồ, định nghĩa, sách hướng dẫn - mọi
thứ sẽ là gián tiếp. Nhiều người đã biết điều này, nhiều người đã tới trước bạn.
Họ đã nói mọi thứ mà bạn có thể đi tới biết. Mọi thứ sẽ là gián tiếp.
Nhưng điều thiêng liêng không
phải là gián tiếp; nó bao giờ cũng trực tiếp. Bất kì khi nào bạn đi vào nó, dường
như là ai đó đang đi vào lần đầu tiên. Không người nào đã đi vào trước bạn và
không người nào sẽ đi vào sau bạn vì không dấu chân nào có thể được bỏ lại; mọi
người là duy nhất.
Đó là lí do tại sao mọi kinh
nghiệm trần thế đều trở thành chán. Người ta phát ngán bởi vì mọi thứ đều trở
thành gián tiếp; mọi thứ trở thành được vay mượn. Ai đó khác đã biết nó; không cái
gì là trinh nguyên.
Điều thiêng liêng bao giờ cũng
trinh nguyên, tuyệt đối trinh nguyên. Bạn không thể làm biến chất nó, bạn không
thể làm nó thành cũ, bạn không thể làm nó thành lặp lại. Đó là lí do tại sao
không cái gì có thể được địnhnghĩa, không cái gì có thể được lập bản đồ, không
hướng dẫn nào có thể được cung cấp.
Vậy mà để làm chứng ngộ đệ tử,
cuộc vật lộn cuối cùng vậy có thể được diễn đạt. Nhưng chỉ để làm chứng ngộ đệ
tử - người còn chưa đi vào nhưng đang trên mép, sẵn sàng lấy cú nhảy - cái gì
đó có thể được nói một cách có chủ định, chỉ dẫn nào đó có thể được cho. Nhưng
đừng hiểu chúng theo nghĩa tuyệt đối. Chúng chỉ là sự giúp đỡ, giúp đỡ cuối
cùng có thể được cho. Đây là chỉ dẫn cuối cùng từ Thầy:
Giữ chắc cái không chất liệu
không sự tồn tại.
Giữ chắc cái không chất liệu
không sự tồn tại. Hai điều có đó. Vật chất có chất liệu; nó là chất liệu. Nếu
tôi ném hòn đá vào bạn nó có chất liệu trong nó, khối lượng. Nó sẽ đập vào bạn;
vật chất là chất liệu. Nhưng tinh thần là gì? Bạn là gì trong bản thể bên trong
nhất của bạn, trong ý thức của bạn?
Ý thức không phải là chất liệu.
Nó tồn tại, nó có sự tồn tại, nhưng nó không phải là chất liệu. Tôi không thể
ném ý thức vào bạn. Và cho dù tôi ném nó, bạn sẽ không bị đập vào. Ý thức tồn tại;
vật chất sống. Vật chất có chất liệu; ý thức có sự tồn tại.
Lời kinh này nói Giữ chắc cái
không chất liệu không sự tồn tại. Điều thiêng liêng không có cả hai. Nó không
giống như vật chất, nó không giống chất liệu. Nó không giống tâm trí hay ý thức.
Bạn không thể nói Thượng đế là chất liệu và bạn không thể nói Thượng đế tồn tại.
Có nhiều lí do cho điều đó. Khi
bạn nói Thượng đế tồn tại, bạn đang nói cái gì đó thừa không cần thiết, sự lặplại.
Khi tôi nói cái bàn này tồn tại, nó có nghĩa vì cái bàn có thể đi ra ngoài sự tồn
tại; chúng ta có thể phá huỷ nó. Nhưng khi tôi nói Thượng đế tồn tại, điều đó
là vô nghĩa, vì Thượng đế không thể đi ra ngoài sự tồn tại được và không thể bị
phá huỷ. Sự tồn tại có nghĩa chỉ nến không tồn tại là có thể. Nếu không tồn tại
là không thể có, sự tồn tại là vô nghĩa.
Khi bạn nói Thượng đế tồn tại,
bạn ngụ ý gì? Thượng đế có thể không tồn tại chứ? Thế thì, nó có nghĩa. Nhưng nếu
bạn nói ngài không thể trong trạng thái không tồn tại, thế thì điều bạn thực sự
ngụ ý là ở chỗ Thượng đế là sự tồn tại, không phải Thượng đế tồn tại.
Thượng đế không thể tồn tại được;
Thượng đế chỉ có thể là sự tồn tại. Khi tôi nói cái bàn tồn tại, cái bàn không
phải là sự tồn tại. Nó không thể đi ra ngoài sự tồn tại, cho nên câu này là có
nghĩa. Khi tôi nói Thượng đế tồn tại, nó là vô nghĩa, vì ngài không thể đi ra
ngoài sự tồn tại được. Khi tôi nói Thượng đế tồn tại tôi ngụ ý rằng sự tồn tại
tồn tại. Việc nói thừa, việc lặp lại, vô dụng. Ngay cả nói Thượng đế hiện hữu,
cũng là vô nghĩa vì ngài là chính tính hiện hữu. Không cần nói hiện hữu. Thượng
đế đây, không có hiện hữu; ngài là tính hiện hữu.
Bạn không thể nói Thượng đế là
chất liệu mà bạn cũng không thể nói ngài tồn tại. Ngài ở bên ngoài cả hai: bên
ngoài vật chất và bên ngoài tâm trí. Hay, ngài là cả hai. Theo cách nào, ngài
cũng siêu việt lên.
Cho nên đây là hướng dẫn cuối
cùng cho đệ tử khi người đó sẵn sàng đi vào ngôi đền của điều thiêng liêng.
Không cái gì hơn có thể được nói.
Nhớ lấy, Thượng đế không phải
là vật chất. Chúng ta có khái niệm về Thượng đế như vật chất. Đó là lí do tạisao
chúng ta tạo ra các thần tượng, chúng ta tạo ra đền chùa, chúng ta làm tranh ảnh.
Toàn chất liệu!
Đạo Hồi không cho phép thần tượng
được làm cho Thượng đế chỉ bởi vì điều này: để cho Thượng đế sẽ không được làm
thành đồng nhất với vật chất theo bất kì cách nào. Không thần tượng, không hình
ảnh nào được làm về Thượng đế vì hình ảnh cho cảm giác về chất liệu, và ngài
không phải là chất liệu.
Nhưng thế rồi chúng ta nghĩ Thượng
đế như tâm trí: đấng kiểm soát, đấng sáng tạo, đấng nâng đỡ. Chúng ta có ý tưởng
mơ hồ nào đó về Thượng đế như tâm trí tối cao đang ngồi đâu đó trên trời kiểm
soát mọi thứ. Nhưng thế thì Thượng đế trở thành tâm trí. Ngài có thể là kĩ sư lớn,
hay như Plato nói, nhà toán học lớn, nhưng quan niệm này là ở chỗ ngài là tâm
trí. Ngài không là tâm trí không là vật chất. Ngài ở ngoài cả hai.
Kinh này nói, nhớ sự siêu việt
này. Ngài không là cái bên ngoài không là cái bên trong. Ngài không là thân thể
không là tâm trí. Ngài không là bất kì vật nào không là bất kì ý nghĩ nào. Trước
khi bạn đi vào ngôi đền tối thượng từ đó không việc quay lại nào là có thể, nhớ
điều này: Giữ chắc cái không chất liệu không sự tồn tại.
Chỉ lắng nghe tiếng nói vô âm.
Chỉ lắng nghe tiếng nói vô âm.
Mọi âm thanh đều được tạo ra. Mọi âm thanh mà chúng ta biết đều được tạo ra
theo cách nào nào đó hay cách khác. Gió thổi và âm thanh được tạo ra. Bạn vỗ
lòng bàn tay và âm thanh được tạo ra. Tôi nói và âm thanh được tạo ra. Nhưng tất
cả những điều này đều là âm thanh được tạo ra. Chúng sẽchết đi vì cái được sinh
ra nhất định chết đi, cái được tạo ra sẽ bị phá huỷ.
Có âm thanh nào mà không được tạo
ra không? Nếu có âm thanh không được tạo ra, chân lí có thể được diễn đạt chỉ
qua cái đó - vì cái có thể chết không thể diễn đạt được chân lí. Đó là lí do tại
sao điều được nói đi nói lại mãi là chân lí có thể được diễn đạt chỉ trong im lặng;
nó không thể được nói qua lời.
Lời có thể dẫn bạn tới im lặng,
nhưng chúng không thể nói ra được chân lí. Lời sẽ chết, và cái là bất tử không
thể được nói qua lời hữu tử. Làm sao nó có thể vậy được? Điều đó là không thể
được. Làm sao cái là vĩnh hằng có thể được đặt vào trong cái nhất thời? Làm sao
cái là vô thời gian có thể được mang vào trong thời gian? Làm sao cái ở ngoài
không gian có thể được đặt đâu đó trong đền chùa, trong không gian? Chân lí có
thể được hiển lộ chỉ qua cái gì đó là vĩnh hằng.
Qua thiền, nhiều người tìm kiếm
đã đi tới biết âm thanh vô âm bên trong, âm thanh im lặng. Từ này là mâu thuẫn:
âm thanh vô âm. Nó là vô âm vì bạn không thể nghe được nó bằng tai. Nó là vô âm
vì âm thanh bao giờ cũng được tạo ra qua xung đột và không có xung đột. Âm
thanh bao giờ cũng được tạo ra qua nhị nguyên, hai thứ trong xung đột, nhưng
không có hai thứ trong tâm. Nó là vô âm vì nó không thể được nghe thấy; nó chỉ
có thể được trải nghiệm.
Nhớ lấy, Chỉ lắng nghe tiếng
nói vô âm. Làm sao người ta có thể nghe được tiếng nói vô âm? Trong Thiền họ có
công án: nghe tiếng vỗ tay của một bàn tay. Họ gọi điều này là thiền sâu nhất:
cố gắng lắng nghe âm thanh nào đó mà không được tạo ra. Nếu bạn liên tục thiền,
liên tục thiền - chỉ ngồi và thiền, cố lắng nghe - bạn sẽ nghethấy nhiều thứ.
Đây là một trong những kĩ thuật hay nhất. Cứ nhắm mắt lại, ngồi dưới cây và bắt
đầu lắng nghe. Bạn sẽ nghe thấy nhiều âm thanh mới mà bạn chưa bao giờ nhận biết
trước đây. Chim, sâu... Dần dần, rất chậm rãi, bạn sẽ trở nên nhận biết về nhiều
âm thanh quanh bạn. Tiếp tục tìm ra âm thanh nào không được tạo ra.
Mọi âm thanh sẽ được tạo ra.
Con chim bắt đầu hót và thế rồi nó dừng lại. Cái đã được tạo ra bây giờ đi vào
trong không tồn tại. Tiếp tục lắng nghe, tiếp tục lắng nghe. Tiếp tục cố gắng
tìm ra cái gì là âm thanh không được tạo ra. Dần dần, nhiều âm thanh tinh tế
hơn sẽ được nghe thấy. Bạn sẽ bắt đầu nghe thấy nhịp tim riêng của bạn, bạn sẽ
bắt đầu nghe thấy hơi thở riêng của bạn. Nhưng điều đó nữa cũng được tạo ra.
Tim bạn sẽ dừng, việc thở của bạn không thể tiếp tục mãi mãi được. Nó không phải
bao giờ cũng có đó. Khi đứa trẻ được sinh ra không có việc thở. Thế rồi đột
nhiên đứa trẻ bắt đầu khóc và việc thở bắt đầu.
Tiếp tục lắng nghe sâu sắc. Đây
không phải là âm thanh vô âm. Vứt chúng đi, loại chúng ra. Bạn sẽ bắt đầu lắng
nghe âm thanh của việc tuần hoàn máu của bạn. Tinh tế hơn. Bình thường bạn
không nhận biết về việc tuần hoàn máu của bạn. Bạn sẽ nghe nó tuần hoàn, bạn sẽ
nghe âm thanh này. Nhưng nó cũng là âm thanh được tạo ra, được tạo ra qua việc
tuần hoàn, qua xung đột. Tiếp tục loại bỏ. Nếu bạn kiên trì đủ lâu, chung cuộc
một khoảnh khắc sẽ tới khi mọi âm thanh đã biến mất; bạn không thể nghe thấy bất
kì cái gì. Một kẽ hở được tạo ra; mọi âm thanh đã biến mất. Và với những âm
thanh này, toàn thể vũ trụ đã biến mất với bạn, dường như bạn đã rơi vào trong
sự trống rỗng.
Bây giờ đừng sợ. Bằng không bạn
sẽ rơi lại vào thế giới âm thanh. Vẫn còn không sợ hãi. Nó sẽ giống nhưcái chết.
Nó là vậy, vì khi mọi âm thanh đã mất đi, bạn cũng đã mất tâm trí. Tâm trí bạn
chỉ là cái hộp huyên thuyên. Bạn không còn có tâm trí. Không còn âm thanh nữa,
thế giới không còn đó. Bạn sẽ cảm thấy dường như bạn đã chết; bạn không còn nữa.
Bạn đã không là gì ngoài tổ hợp, tuyển tập, các âm thanh.
Kiên trì đi. Cái chết này là đẹp
vì nó là cánh cửa dẫn tới điều thiêng liêng. Tiếp tục cố gắng lắng nghe cái gì
bây giờ có đó. Sau kẽ hở, nếu bạn đã du hành nó mà không trở nên sợ hãi và hoảng
hốt...
Nếu bạn hoảng, bạn sẽ rơi lại lần
nữa; bạn sẽ lại chạy lui lại thế giới âm thanh. Tâm trí sẽ bắt đầu vận hành lại.
Nhưng nếu bạn không sợ và có thể kiên trì trong kẽ hở vô âm thanh này, bạn sẽ
trở nên nhận biết về âm thanh mới mà không được tạo ra. Âm thanh này người
Hindus đã gọi là omkar: aum. Aum chỉ là biểu tượng cho âm thanh bao giờ cũng có
trong cốt lõi bên trong nhất. Aum, aum, aum - điều này diễn ra bên trong, không
được tạo ra. Không ai thốt ra nó. Nó chỉ có đó.
Đây là âm thanh vô âm - không
được tạo ra. Và chỉ với âm thanh này bạn mới có thể đi vào điều linh thiêng của
các điều linh thiêng.
Chỉ nhìn cái là vô hình theo
cùng cách các giác quan bên trong và bên ngoài.
Chúng ta nhìn thế giới bằng các
giác quan bên ngoài. Vật chất được cảm nhận. Nhưng vật chất không thực sự có
đó. Bây giờ các nhà vật lí nói rằng vật chất không hiện hữu. Nó đơn giản là
năng lượng, năng lượng rung động. Vật chất là ảo tưởng. Điều này rất kì lạ. Ở
phương Đông, các nhà huyền môn bao giờ cũng nói rằngvật chất là ảo tưởng, maya.
Họ ngụ ý bởi điều này rằng bất kì cái gì xuất hiện đều không phải vậy. Bây giờ
các nhà vật lí đồng ý với Shankara, bây giờ Einstein đồng ý với Vedanta. Bây giờ
các nhà khoa học cũng nói rằng vật chất là ảo tưởng. Không ai đã bao giờ nghĩ
hay tưởng tượng rằng một ngày nào đó khoa học cũng sẽ nói rằng vật chất là ảo
tưởng.
Vật chất dường như là vậy,
nhưng nó không là vậy. Nó là năng lượng. Nhưng năng lượng di chuyển với tốc độ
cao, tốc độ lớn tới mức bạn không thể thấy được nó chuyển động. Đó là lí do tại
sao dường như là vật chất không chuyển động. Điện tử chuyển động với tốc độ cực
kì lớn tới mức bạn không thể thấy được chúng chuyển động. Chúng cho ảo tưởng về
tĩnh tại, chất liệu.
Vật chất không thực có đó nhưng
qua các giác quan bên ngoài của bạn, vật chất xuất hiện. Nó là diễn giải của bạn.
Tâm trí cũng không có đó, nhưng qua các giác quan bên trong của bạn nó dường
như có. Thế thì cái gì là thực? Nếu bạn nhìn qua các giác quan bên ngoài, vật
chất xuất hiện, cái là không thực, không có thực; và nếu bạn nhìn bằng các giác
quan bên trong của bạn tâm trí xuất hiện, điều cũng là không thực, điều cũng là
diễn giải của các giác quan. Huyền môn phương đông nói rằng cái thực có thể được
tìm thấy chỉ khi bạn đã thôi dùng cả các giác quan bên ngoài và bên trong. Khi
không giác quan nào được dùng, không có khả năng nào của việc bóp méo thực tại.
Thế thì, ngay lập tức, bạn ở trong thực tại.
Giác quan phân chia. Tôi nhìn bạn.
Tôi không biết bạn là gì, bạn thế nào, nhưng mắt tôi nhìn vào bạn và cho tôi
thông tin nào đó. Tôi không thể đi thẳng tới bạn; mắt là trung gian. Bất kì cái
gì chúng nói tôi đều phải tin.
Bất kì cái gì các giác quan của
bạn nói bạn đều phải tin. Bạn không thể biết được liệu nó là thực tại hay
không. Các giác quan của bạn có thể khiếm khuyết, hay chúng có thể diễn giải thế
giới theo cách sai. Không có cách nào để biết liệu các giác quan của bạn đang
diễn giải sai hay đúng. Không có cách nào để biết, vì bất kì cái gì bạn biết, bạn
biết qua các giác quan. Không có cách nào để biết, để đánh giá và so sánh.
Vì điều này, Immanuel Kant đã
nói rằng không cái gì có thể được biết trong bản thân nó. Không có cách nào để
biết một thứ trong bản thân nó, vì bất kì cái gì bạn biết cũng đều được biết
qua các giác quan của bạn. Bạn không thể biết được cái gì một cách trực tiếp,
chỉ gián tiếp. Bạn phải tin vào các giác quan của bạn. Ai biết cái gì thực sự
có đó? Bạn chưa bao giờ ở đó. Các giác quan của bạn đi tới đó và chúng thông
tin về cho bạn. Bạn bao giờ cũng là một phần của nó, diễn giải.
Cùng điều đó xảy ra khi bạn bắt
đầu dùng các giác quan bên trong của bạn. Chúng thông tin cho bạn về điều ở bên
trong: linh hồn là gì, cái ta là gì. Nhưng điều đó nữa cũng chỉ là diễn giải của
các giác quan.
Kinh này nói Chỉ nhìn cái là vô
hình theo cùng cách các giác quan bên trong và bên ngoài. Cái thực là vô hình với
cả hai. Nó không thể được biết qua tâm trí; nó không thể được biết qua thiền.
Khi tâm trí và thiền cả hai bị vứt đi, chỉ thế thì bạn mới có thể đi vào thực tại.
Khi không có thiền, khi bạn đã tới thẳng nó, khi bạn đã đi vào nó, khi không
còn khoảng cách, khi bạn đã trở thành thực tại, chỉ thế thì bạn có thể biết nó.
Điều này có thể được nói theo
cách khác. Bạn không thể biết được Thượng đế chừng nào bạn chưa trở thành bản
thân Thượng đế. Nếu bạn nói rằng tôi có thểbiết Thượng đế mà không trở thành
Thượng đế, bạn đang nói cái gì đó không thể được. Bởi vì điều này, một điều rất
kì lạ đã xảy ra. Ki tô giáo và Mô ha mét giáo cả hai đều nghĩ rằng nói rằng bạn
có thể trở thành Thượng đế là báng bổ, xúc phạm, phi tôn giáo; nó không biểu lộ
kính trọng. Thái độ của người Mô ha mét giáo về điều đó đã là ương ngạnh tới mức
người Mô ha mét giáo giết Mansoor và những nhà huyền môn Sufi khác vì họ đã
tuyên bố rằng họ là Thượng đế.
Mansoor nói, "Ana'l haq.
Ta là điều thiêng liêng: Aham brahmasmi." Ông ấy đã bị giết, vì điều này
là quá thể! Một con người nói rằng mình là Thượng đế sao? Nhưng điều Mansoor
đang nói là chân lí cơ bản, rất đơn giản. Ông ấy đang nói rằng bạn có thể hoặc
nói rằng Thượng đế không thể được biết tới hoặc bạn có thể nhân nhượng rằng con
người có thể trở thành Thượng đế. Vì làm sao Thượng đế có thể được biết tới chừng
nào bạn chưa ở trong ngài? Chừng nào bạn chưa đi vào trong ngài, và trở thành một
với ngài, làm sao bạn có thể biết ngài? Bạn có thể chỉ đi loanh quanh ngài
thôi. Nhưng bất kì cái gì bạn đi tới biết chỉ là thông tin được thu thập từ bên
ngoài; nó không phải là tri thức trực tiếp.
Mansoor nói rằng bạn có thể biết
Thượng đế chỉ nếu bạn đã trở thành bản thân Thượng đế. Bằng không thì không có
cách nào. Làm sao bạn có thể biết từ bên ngoài được? Làm sao bạn có thể biết được
chừng nào bạn chưa trở thành chính tâm của tính thiêng liêng, chừng nào bản
thân bạn chưa trở thành điều thiêng liêng?
Kinh này nói rằng thực tại
không thể được biết hoặc bởi các giác quan bên ngoài - các giác quan bên ngoài
diễn giải thực tại như vật chất - hoặc qua các giác quan bên trong - các giác
quan bên trong diễn giải thực tại như tâm trí. Thực tại có thể được biết chỉ
khi bạn đã lấy cúnhảy vào trong bản thân thực tại, không có bất kì trung gian
nào; khi bạn đã đánh mất tâm trí của bạn và thiền của bạn nữa.
Thiền là đầy đủ khi bạn có khả
năng vứt nó đi. Bạn đã đi vào samadhi, bạn đã đi vào thực tại, điều tối thượng.
An bình hiện hữu cùng ông.
Và chỉ thế thì an bình mới có
thể hiện hữu cùng bạn được; không trước đó. Trước điều đó, bạn sẽ vẫn còn trong
phiền não cách này cách khác; bạn sẽ vẫn còn căng thẳng theo cách này cách
khác. Bạn là căng thẳng, bạn là phiền não. Cảm giác của bạn rằng bạn hiện hữu
là vấn đề. Khi bạn không hiện hữu, vấn đề không có.
Làm sao bạn có thể ở trong trạng
thái vô tồn tại? Làm sao bạn có thể dừng hiện hữu? Đó là cách thức của an bình.
Nếu bạn có thể dừng hiện hữu, bạn đã đi vào thực tại; bạn đã đi vào an bình vô
hạn, an bình tuyệt đối.
Bản thể bạn, khi tách rời khỏi
cái toàn thể, là vấn đề. Bạn cảm thấy như người ngoài, người xa lạ, không quen
thuộc. Xa lạ này tạo ra rối loạn, xa lạ này tạo ra lo sợ, xa lạ này tạo ra chết.
Bạn không thể an bình được. Khi bạn đã vứt cái xa lạ của bạn đi hoàn toàn và bạn
đã hội nhập vào trong thực tại, bị tan chảy trong nó, bị mất trong nó - bạn
không còn nữa; chỉ thực tại hiện hữu - chỉ thế thì bạn mới có thể ở trong an
bình đó, cái mà không thể nào gây rối loạn, cái mà không cái gì có thể làm rối
loạn.
Nhớ rằng bạn là bệnh. Bạn không
thể được chữa vì bạn là bệnh. Nếu bệnh là cái gì đó khác nó có thể được chữa,
nhưng bạn là bệnh. Bạn không thể được chữa; bạn là bệnh nan y. Vứt bệnh đi. Vứt
bản thân bạn đi, cảm thấydường như bạn không có. Càng ngày càng tạo ra cảm giác
về việc là không ai cả, việc là tính không.
Di chuyển hướng tới vô hiện hữu,
vì vô hiện hữu là cánh cửa cho hiện hữu tối thượng. Khi bạn đã hoàn toàn dừng
hiện hữu, bạn sẽ là điều thiêng liêng. Khi bạn không có, bạn sẽ là bản thân Thượng
đế.
Xem Phụ lục 1 - Quay về Mục lục