Read more
Osho – Nhịp đập của Tuyệt đối – Trích dẫn
“Cái đó là toàn thể, và cái này cũng là toàn thể. Và chỉ cái
toàn thể mới được sinh ra từ toàn thể; và khi cái toàn thể được lấy ra từ cái
toàn thể, thì phần còn lại cũng là toàn thể”. (Upanishad)
…Bất kỳ cái gì rơi vào bên trong kinh nghiệm của chúng ta
thì bao giờ cũng đến từ cái nằm ngoài kinh nghiệm của chúng ta. Bất kỳ cái gì
chúng ta thấy được cũng đều nổi lên từ cái không thấy được. Điều ta biết bắt
nguồn từ cái chưa biết, và bất kỳ cái gì quen thuộc với chúng ta thì cũng đều dẫn
ra từ cái chưa quen biết. mọi khoảnh khắc cái vô hình đang được biến đổi thành
cái hữu hình, và cái hữu hình đang mất đi vào cái vô hình. Mọi khoảnh khắc cái
vô hạn đều đi vào trong cái hữu hạn, rồi mọi khoảnh khắc lại đi ra từ nó. Cũng
hệt như việc thở vậy- hít vào và thở ra. Toàn bộ sự tồn tại là việc hít vào và
thở ra liên tục. Những người biết đến bí mật của tiến trình thở của sự tồn tại
đều gọi nó là sáng tạo và phá hủy. Sáng tạo xảy ra khi sự tồn tại hít vào, và
phá hủy xảy ra khi sự tồn tại thở ra, và giữa hai hơi thở này chúng ta trải qua
vô hạn kiếp sống.
…Với sự tồn tại, luân hồi- bánh xe cuộc đời- chẳng gì nhiều
hơn một giấc mơ. Nếu nó trở thành một giấc mơ với bạn nữa, thế thì bạn trở
thành không tách biệt với sự tồn tại. Bạn là sự tồn tại trong toàn bộ. Từng cá
nhân đều là sự tồn tại trong toàn bộ. Mỗi nguyên tử đều là vũ trụ mênh mông này
trong toàn bộ; không một chút xíu khác biệt nào giữa nó và cái toàn thể. Bạn
hãy cố gắng sống theo tinh thần của những lời tuyên bố này hai mươi bốn giờ một
ngày và chỉ thế thì bí mật của chúng, cánh cửa của chúng mới bắt đầu mở ra cho
bạn. Tất cả mọi khốn khổ của người đã hiểu chân lý đều kết thúc. Tất cả nỗi ưu
phiền của thân thể, tâm trí và linh hồn họ đều biến mất. Người như thế vượt ra
ngoài mọi ưu phiền. Và chỉ có một loại ưu phiền thôi, đó là bản ngã. “Tôi đang
làm điều này” là nỗi ưu phiền duy nhất, chướng ngại duy nhất. “Sự xúc phạm này
là vào tôi- tôi bị nói xấu”. Tất cả những sự kiện này tích lũy trong cái tôi
này. Nhưng khi một vũ trụ bao la như thế lại chẳng tạo ra khác biệt gì với sự tồn
tại, và vấn đề nó không bị đụng chạm tới., thì tôi có phải để cho những điều vô
nghĩa như vậy ảnh hưởng đến mình hay không? Chẳng lẽ tôi không thể vẫn còn
không bị đụng chạm được sao? Chẳng lẽ tôi không thể đứng sang bên mà nói: “Sự
xúc phạm này không phải là nhằm vào tôi” sao, và, “Bất kỳ điều gì tôi đã làm
thì đều đã được làm rồi. Tôi không làm nó”. Nếu cái tôi trở thành một nhân chứng
cho những hành động xảy đến với tôi và tiến hành qua tôi- nếu tôi dừng là người
làm- thế thì những bí mật kỳ diệu bắt đầu lộ ra.
…Chúng ta dựng lên một cây cầu cuộc sống dài giữa hai đầu
này, giống như chiếc cầu bắc qua con sông; nhưng chẳng bờ sông nào là của chúng
ta cả. Ngay cả mố cầu ở hai đầu cũng chẳng phải là của chúng ta. Vậy làm sao
cây cầu trải dài từ bờ nọ sang bờ kia ngang qua con sông lại có thể là của
chúng ta khi nền tảng của nó không phải là của chúng ta? Chúng ta cố gắng quên
đi việc sinh thành và việc chết- những nền tảng của chúng ta. Chân lý có đấy,
nó bảo chúng ta rằng chúng ta không phải là bản thân mình thực sự. Chúng ta bị
phụ thuộc đến thế, cứ dường như đâu đó mọi thứ đều cố định và tất định. Tất cả
mọi cảm giác và xúc động của cuộc đời đều đến từ một góc chưa biết nào đó-
chúng tới hệt như sự sinh thành của bạn tới. Bạn chẳng thể làm được điều gì cả.
Bạn không thể là người làm. Điều này là một bí mật của một tư tưởng lớn được gọi
là định mệnh. Khái niệm về định mệnh hoàn toàn có nghĩa là chúng ta không có.
Không có cách nào để làm bất kỳ cái gì. Đó là sự tồn tại.
…Bản ngã sẽ chấm dứt nếu bạn dừng việc gọi mọi thứ là của bạn.
Bạn hãy coi nó, tất cả, đều là của sự tồn tại. Đừng đi vào ham muốn về của cải
của bất kỳ ai. Khi không có cái gì của tôi, thế thì cũng chẳng có cái gì là của
bạn cả. Chúng ta không thể đánh cắp mà cũng chẳng thể giữ được cái gì. Ý tưởng
của chúng ta về quyền sở hữu là một ảo tưởng. Ngay cả bạn và người khác cũng là
của sự tồn tại. Chỉ những người từ chối làm người chủ thì mới trở thành người
chủ thật. Mọi thứ đều rơi vào tay những người không muốn ôm giữ thứ gì. Bao giờ
cũng có không khí trong bàn tay để mở, nhưng bàn tay nắm chặt thì nó trốn biệt.
Chỉ những người từ bỏ mới có khả năng hưởng thú. Đây là một nghịch lý- nhưng tất
cả các qui tắc của cuộc sống đều nghịch lý cả. Một người ao ước được tôn vinh
và kính trọng trên thế giới này thì chắc chắn tìm thấy sự ô nhục và bất kính. Một
người ham muốn được giàu có, nhưng khi anh ta bắt đầu tích lũy của cải, thì anh
ta trở thành nghèo nàn và hèn hạ bên trong, khi anh ta có vẻ giàu có bên ngoài.
Người hay nghĩ hoặc mơ về tính bất tử thì lại lo âu về nỗi sợ chết cả hai mươi
bốn tiếng một ngày. Cái chết chẳng bao giờ tới viếng thăm ngôi nhà của người
luôn sẵn lòng đón chào nó: người sẵn lòng gặp gỡ cái chết thì nếm trải những giọt
cam lồ, trong khi người sợ hãi cái chết thì lại chết đi từng giờ mỗi ngày. Người
ấy chết đi mọi lúc bởi vì người ấy không biết tí gì về cuộc sống là gì.
…Mọi thứ đều là của sự tồn tại; điều này bao hàm cả việc từ
bỏ. Cái gì còn lại đó để sở hữu và nắm giữ đối với một người đã hiểu rằng mọi
thứ đều thuộc vào sự tồn tại? Chẳng có gì còn lại cả. Từ bỏ là trọn vẹn. Và người
đã hiểu điều này, người đã từ bỏ mọi thứ và có bản ngã đã tan biến, là chính bản
thân sự tồn tại; và việc trở thành sự tồn tại là bắt đầu hưởng thú. Anh ta được
hội nhập vào trong niềm thích thú tột cùng, được hấp thụ vào trong niềm phúc lạc
tối cao.
…Dù sao thì bản chất cuộc sống cũng là từ bỏ. Cuộc sống là từ
bỏ. Thật là cực kỳ ngu đần mà ôm giữ bất kỳ cái gì trong cuộc sống. Sai lầm lớn
nhất là nắm giữ chặt; trong khi làm như vậy, người ta mất đi cái mà người ta đã
thu được. Trong khi công bố rằng “đó là của tôi”, người này cũng mất cái mà anh
ta đang là. Mọi thứ rơi rụng đi theo ý của nó từ người đã hiểu rằng: mọi thứ đều
là của sự tồn tại. Thế thì chẳng còn lại gì cho anh ta để từ bỏ cả. Thế thì việc
từ bỏ xảy ra- nó không cần phải thực hành. Người làm trống rỗng bản thân mình,
người buông xuôi ngay cả cái tôi của mình, thì trở thành người chủ của tài sản
vô tận.
Hãy sống bằng việc buông xuôi cho sự tồn tại, trao cho nó tất
cả, để mọi thứ dưới chân nó. Chỉ vứt bỏ khái niệm về bản thân bạn như người
làm, thì bạn có thể sống mà không bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện các nghĩa vụ
trần gian của mình. Đây là con đường duy nhất; không có con đường nào khác.
…Hành động có thể có hai loại: một loại trong đó có người
làm, và loại kia trong đó có diễn viên. Đóng vai trên sân khấu là kinh qua khả
năng về việc làm mà không là người làm. Nếu diễn viên thay thế cho người làm,
thì hành động sẽ tiếp diễn rên bề mặt, nhưng sẽ có sự biến đổi hoàn toàn bên
trong. Việc diễn tập không gắn bạn vào hành động, nó không có ảnh hưởng đến bạn.
Nó vẫn còn hoàn toàn ở bên ngoài, nó không đi vào bên trong, nó rung động trên
bề mặt và biến mất. Bức màn trong vở kịch được kéo lên chỉ một lần lúc sinh
thành và được hạ xuống chỉ vào lúc chết. Toàn bộ thế giới này là một vở kịch và
cuộc sống bản thân nó là một câu chuyện. Nhưng chúng ta lại biến việc đóng kịch
thành cuộc sống mà lại không biến cuộc sống thành việc đóng kịch. Nếu bạn trở
thành người làm, thì chắc chắn bạn mất trí. Hãy để cho sự tồn tại là người làm,
nó bao giờ cũng có đó rồi khi bạn còn chưa sinh ra, sẽ có đó khi bạn dừng cuộc
sống. Đừng đặt cái gánh nặng của việc làm đó lên vai mình. Gánh nặng đó sẽ quá
nặng so với sức của bạn. Bạn sẽ bị nghiền nát dưới sức nặng của nó và bạn sẽ chết.
Chẳng cái gì có thể cứu bạn khỏi nó. Nhưng bản ngã chúng ta lại thấy khó nuốt
trôi điều này. Ngược lại nó thấy thích thú với sức nặng của tảng đá đè lên ngực
nó. Trong nhiều kiếp sống, chúng ta định giá một người tỉ lệ theo trọng lượng của
hòn đá- gánh nặng càng lớn trên lưng anh ta, thì anh ta càng vĩ đại. Con người
trân trọng gánh nặng trên lưng mình, cho nên thật khó để phát hiện ra một người
nhẹ như bông hoa, người có thể nói: “Tôi chẳng mang gánh nặng nào”. Chỉ người
đã giao phó tất cả gánh nặng của mình cho sự tồn tại mới có thể nói như thế và
sự thật là: toàn bộ gánh nặng trong bất kỳ trường hợp nào cũng chỉ là của một
mình sự tồn tại. Chúng ta cứ chõ mũi mình vào một cách không cần thiết. Chúng
ta giống như một hành khách đang đi trên tàu hỏa với gánh nặng trên vai. Toàn bộ
tải trọng của vũ trụ này do sự tồn tại mang.
…Một người nói: “Tôi không có, chỉ một mình nó- sự tồn tại
là có đấy. Nếu có người làm, thì đấy chỉ là sự tồn tại mà thôi. Nhiều nhất thì
tôi cũng chỉ là quân tốt đen trong trò chơi của nó. Tôi sẵn lòng đi bất kỳ đâu
nó hướng tôi tới, là bất kỳ cái gì nó muốn, làm bất kỳ cái gì nó chỉ thị. Nếu
nó muốn làm tôi thất bại thì tôi cũng sẵn lòng bị thất bại; nếu nó làm tôi
thành kẻ thắng lợi, thì tôi sẵn lòng thắng lợi. Không thành công và chẳng thất
bại gì với tôi cả. Thất bại là của sự tồn tại, thắng lợi cũng là của sự tồn tại.
…Việc buông xuôi của một người như thế là toàn bộ. Anh ta
qui mọi thứ cho sự tồn tại. “Tôi nữa- cũng như tất cả mọi việc làm- đều là của
sự tồn tại”. Một người như vậy sẽ làm tất cả những gì cần thiết trong cuộc sống-sống-
thở, đi, đứng, làm nghĩa vụ của mình, ăn thức ăn và ngủ trong đêm. Tất cả các
hành động sẽ có đó, nhưng không có người làm bên trong. Đây là con đường duy nhất.
Và người đã thực sự không bị thế giới này ảnh hưởng tới- không bị đụng chạm,
bao giờ cũng tươi tắn và mới tinh, hồn nhiên như khi họ vừa mới được sinh ra-
là những người chưa bao giờ tích lũy, chưa bao giờ nuôi đưỡng bất kỳ loại bản
ngã nào trong cuộc hành trình của họ qua cuộc đời; người đã sống trong trạng thái
vô ngã. Bản ngã nghĩa là tôi là người làm, vô ngã nghĩa là buông xuôi- buông
xuôi mọi thứ dưới chân sự tồn tại.
…Chúng ta sống, nhưng chúng ta không biết chút nào về ta là
ai, ta từ đâu đến, tại sao ta ở đây, chúng ta có với mục đích gì, ta đi đâu, ý
nghĩa cuộc sống này là gì. Chúng ta có thể biết nhiều thứ khác, nhưng hoàn toàn
dốt nát về một điều: chúng ta chẳng biết gì về chính mình cả. Sự dốt nát đó gây
rắc rối cho chúng ta, rồi nó gây rắc rối cho người khác. Một người dốt nát thì
công kích mình trước hết rồi sau đó công kích người khác. Người chưa bao giờ bị
gai đâm vào chân thì không rải gai trên đường cho người khác. Trước hết chúng
ta gây đau đớn khổ sở cho chính mình.
…Tâm trí bao giờ cũng ở tương lai. Nó chẳng bao giờ có thể
trong hiện tại cả. Nó sẽ không ở lại đây, nơi bạn đang có đấy. Linh hồn là ở
đây, nơi bạn có đấy, và tâm trí có đây, nơi bạn không có đấy. Cột mốc với số O
chẳng bao giờ thấy có trên cuộc hành trình của tâm trí. Và vào bất kỳ lúc nào,
bạn đi ngang qua một cột mốc như thế, thì bạn hãy biết rằng, bạn đã đến một nơi
được biết như việc thiền định, nơi biết được linh hồn. Linh hồn có đấy, nơi có
số O. Người chứng ngộ gọi số O chính là vô trí. Thiền nhân là người đã hiểu được
chân lý, rằng tất cả các hoạt động nhằm thu được cái gì đó đều chỉ là tâm trí;
người ấy từ bỏ mọi cố gắng đạt tới bất kỳ cái gì. Người ấy đang đứng ở cột mốc
số O và đã tìm ra Thượng đế. Chỉ những người đứng tĩnh lặng thì mới tìm thấy
nó. Nó nằm ngoài các giác quan và nằm ngoài tâm trí. Nó bao giờ cũng hiện hữu
trong chúng ta, nhưng nó bị chúng ta quên lãng. Chúng ta chỉ quên nó thôi,
nhưng trong khi quên nó, toàn bộ cuộc sống của chúng ta trở thành vô giá trị,
trở thành địa ngục.
Một người chết có thể chết được không? Để chết, cần phải có người
sống. Đồng thời một điều kiện không thể tránh khỏi là sống để mà chết. Thế thì
lại một điều kiện không thể tránh khỏi là chết đi để mà sống. Người mà không chết
đi trong khoảnh khắc này, thì cũng không sống. Chết và sống là những cái tên của
cùng một tiến trình. Chúng ta đang chết và đang sống vào cùng lúc.
…Sự căm ghét chấm dứt khi môt người bắt đầu thấy bản thân
mình trong tất cả các đối tượng hữu tình và vô tình, và bắt đầu thấy tất cả các
đối tượng hữu tình và vô tình- sự tồn tại- là bên trong bản thân mình. Còn tình
yêu là vĩnh hằng, là bản tính của chúng ta, nó không được sinh ra và cũng chẳng
chết đi. Cái ngày mà tấm lòng chúng ta trở thành tấm gương thì tất cả thế giới
đi vào trong chúng ta và toàn bộ thế giới trở thành một tấm gương cho chúng ta
nữa. Thế thì chúng ta có thể thấy bản thân mình vào mọi khoảnh khắc, ở mọi nơi.
…Chúng ta chỉ thấy cái chúng ta đang là, chúng ta chưa bao
giờ thấy bất kỳ cái gì khác ngoài cái này. Bất kỳ cái gì chúng ta thấy cũng chỉ
là sự phóng chiếu của chúng ta. Bao giờ chúng ta cũng là thế. Đấy là khuôn mặt
duy nhất của mình mà ta thấy. Nếu chúng ta không thấy điều gì tốt bên ngoài, là
bởi vì hạt mầm của cái nhìn như vậy ở bên trong chúng ta. Nếu chúng ta chỉ thấy
cái xấu xí trong thế giới bên ngoài, thì chúng ta nên biết rằng cái xấu đó đã bắt
rễ vững chắc bên trong chúng ta. Nếu chúng ta thấy vô niềm tin ở mọi nơi bên
ngoài, thì chúng ta nên biết rằng vô niềm tin là ở bên trong ta. Máy chiếu là ở
bên trong, chỉ có màn hình là ở bên ngoài, và chúng ta cứ liên tục phóng chiếu
lên nó.
…Làm sao chúng ta trở thành một tấm gương được? Chúng ta
không những phải chùi sạch bụi bặm đã tích tụ lên mình, mà còn phải dừng việc
thu thập bụi mới. Bụi cũ được tich1 tụ dưới dạng ký ức, còn bụi mới được thu thập
qua ham muốn. Chúng ta phải giải phóng mình khỏi ký ức và khỏi ham muốn. Chúng
ta phải nói với các ham muốn của mình rằng, chúng ta không muốn có thêm bất kỳ
cái gì bây giờ nữa, bây giờ không còn hành trình thêm nữa, và chúng ta phải bảo
ký ức của mình rằng điều đã xảy ra trong quá khứ thì bây giờ chỉ là giấc mơ mà
thôi, không cần cứ phải mang cái tải trọng này một cách vô ích nữa. Chúng ta phải
nói, “Điều đã xảy ra thì đã xảy ra rồi, bây giờ ta không còn là cái ta cũ nữa”.
Chúng ta phải tự mình tách hẳn khỏi ngày hôm qua. Chúng ta phải giải phóng mình
khỏi quá khứ và khỏi cả tương lai nữa. Khi chúng ta được tự do khỏi hai điều
này, thế thì tâm trí chúng ta sẽ trở thành một tấm gương. Người có thể nói:
“Tôi chẳng phải là quá khứ cũng không phải là tương lai, tôi đang sống tại đây
và bây giờ; chính khoảnh khắc này là tất cả”, người ấy trở thành một tấm gương
ngay lập tức. Cảm giác căm ghét mất đi và cái trở nên thấy được là mặt trời, mặt
trời của tình yêu. Chính từ cái ta- linh hồn- mà dòng suối tình yêu mới chảy
ra. Không có cái gì khác ngoài căm ghét chảy ra từ thân thể và tâm trí, từ những
ý tưởng ích kỷ về cái tôi của bạn.
…Người minh triết là người chỉ biết mỗi một yếu tố vĩ đại:
chân lý- tức là người biết tới chính mình, vì người mà biết tới chính mình thì
biết tất cả. Khi người ấy biết chính mình thì người ấy trở thành một tấm gương
mà trong đó hình ảnh phản xạ của tất cả mọi thứ bắt đầu xuất hiện. Người ấy biết
rằng luật tối cao ngự trị tại mọi nơi, rằng vị chúa tể tối cao có trong mọi con
người, giữ trong tay mình sợi dây để điều khiển mọi con rối nhảy múa. Người ấy
biết cái điều cốt lõi vẫn ẩn kín trong toàn bộ vũ trụ, cái sinh lực sâu sắc và
vĩ đại, bí ẩn; và ngay khi người ấy biết điều đó thì trở thành thoát khỏi sầu
não và gắn bó. Sầu não và gắn bó được gộp nhóm lại với nhau bởi hai điều này là
một. Trong thực tế sầu não xảy ra khi đối tượng của việc gắn bó bị phá hủy. Và
khi sầu não tới thì bạn phải tạo ra gắn bó mới để cứu lấy bản thân mình khỏi
phiền não. Như vậy mà cái vòng lẩn quẩn này cứ tiếp diễn.
…Gắn bó là cái bóng của bản ngã. Gắn bó lập tức được tạo ra
bất kỳ khi nào bạn thấy “Tôi đây”. Gắn bó là loại trừ; để gắn bó là có thể, một
cái gì đó hay một ai đó phải bị bỏ ra. Do đó, người đã thấy tất cả các đối tượng
hữu tình và vô tình trong bản thân mình, thì trở thành không loại trừ, cảm giác
trong người ấy bây giờ là, “tất cả đều là của ta”. Người ấy trở thành bao hàm tất
cả. Thế thì gắn bó không xảy ra vì không có cơ sở cho nó. Người ấy đứng ngoài cả
gắn bó và sầu não bởi việc thấy bản thân mình trong toàn bộ sự tồn tại, cái có
đó trải rộng bao quanh tất cả chúng ta, nhưng chúng ta không thấy được, vì
chúng ta cũng có đó trong nó. Chẳng có hạnh phúc mà cũng không bất hạnh nào
trong cuộc đời người đó, chỉ có niềm cực lạc. Người ấy bây giờ là một tấm
gương.
…Trong việc biết tới yếu tố tối cao thì người ấy trở thành
biết tất, tức là bây giờ không còn cái gì đáng để biết nữa, không cái gì làm
tăng thêm niềm cực lạc của người này. Điều thứ hai là cái dốt nát của người đó
biến mất. Tính hám lợi, sự gắn bó và giận dữ được tạo ra trong dốt nát đã biến
mất. Thay thế vào chỗ chúng là cực lạc tới, được sinh ra từ hiểu biết đúng, và
niềm cực lạc là không dừng, vĩnh hằng. Điều thứ ba nó là sự thuần khiết, trong
sạch, hồn nhiên. Khi chúng ta trở thành ô uế thì nó sẽ không trở thành ô uế. Sự
thuần khiết này là bản chất, là bẩm sinh.
…Thiền là sự thực hành với sự tập trung vào cái không giữa
hai sự kiện- để chúng ta có thể nhìn vào hồ, trong đó không có sự phản xạ nào hết
cả. Khi đó chúng ta có thể biết: “Tôi là hồ, không phải là đoàn lữ hành đang đi
trên bờ hồ. Tôi không phải là những sự phản xạ đó mà hình thành nên trên tôi.
Tôi là cái mà trên đó các hình dạng được tạo ra, ấy vậy mà bản thân cái đó vẫn
không được tạo ra. Cái đó là nhân chứng”.
…Nếu tôi biết điều gì đó mà tôi lại vẫn như trước khi được
biết, thế thì việc biết này vẫn là điều dốt nát; và nếu tôi được biến đổi thì
nó là tri thức tâm linh đúng đắn. Việc học như thế thì không đơn thuần là việc
bổ sung thêm vào các quỹ thông tin của bạn, mà là việc biến đổi. Qua nó bạn
thay đổi, bạn trở thành một người hoàn toàn khác. Cái được gọi là tri thức tâm
linh (vidya) thì cho bạn sự sinh thành mới; nó thay đổi cuộc đời người ta một
cách vô nỗ lực. Một mặt thì cái dốt nát bị thiêu cháy, và mặt khác, bóng tối
tan biến. Cả hai đều xảy ra đồng thời. Bóng tối không tồn tại khi đèn được thắp
sáng. Cái mà là tri thức đúng đắn thì không đòi hỏi bất kỳ việc ghi nhớ nào mà
là cái trở thành bản thân cuộc sống của bạn. Điều chúng ta gọi là tri thức thì
đơn giản là một phương tiện để kiếm sống theo một cách hiệu quả và thuận tiện
mà thôi. Upanishad gọi điều này là avidya. Cái mà là vidya (tri thức) là cái
không kéo lê cuộc sống ra thêm chút nữa, mà nâng cuộc sống lên mức cao hơn. Bạn
hãy nhớ, avidya là chiều ngang, vidya là theo chiều đứng- nó đi thẳng lên trời.
Liên tục bước đi theo chiều ngang, tất cả chúng ta chung cuộc đều tìm thấy nấm
mồ của mình, bởi vì nó chẳng xa xôi gì mấy với chiếc nôi: và ngay cả nếu nó có
xa thì mức độ vẫn ngang như nhau. Avidya là thuộc tính bên ngoài cuộc sống, nó
liên quan tới cuộc sống vật lý, để duy trì cuộc sống; nhưng đừng coi nó là mọi
thứ. Nó cần thiết, nhưng chưa đủ. Chúng ta đã say mê theo đuổi avidya, chúng ta
trở thành vô linh hồn., nhưng nếu chúng ta nôn nóng bỏ qua nó, thì chúng ta có
thể không tự lo liệu được và nghèo nàn trong cuộc sống vật lý.
… “Tôi đã nghe như vậy”. Trong khi nói như thế, hiền giả này
muốn cho chúng ta biết rằng, chỉ người thụ động mới đạt tới chân lý. Thụ động
là cánh cửa. Đồng thời hiền giả này cũng đơn giản thú nhận cái vô ngã của họ.
…Với sự trợ giúp của avidya, chúng ta có thể tồn tại, có thể
chạy đuổi theo tiến trình cuộc sống. Mọi thứ- thức ăn, nhà cửa, thuốc thang và
vân vân- sẽ có cho chúng ta và cuộc sống sẽ trôi qua dễ chịu, thoải mái, nhưng
vô vị, và chúng ta không thể nếm trải thực chất của cuộc sống, và cái bất tử sẽ
không có cho chúng ta. Nếu chúng ta muốn biết, muốn chứng nghiệm cái bất tử,
thì chỉ có vidya, tri thức đúng đắn, mới có ích. Xung khắc với cái chết là một
nỗ lực tiêu cực; chứng nghiệm cái bất tử
là nỗ lực để biết cái đã tồn tại trước việc sinh ra của chúng ta và sẽ tồn
tại sau cái chết của chúng ta. Bạn hãy luôn luôn nhận biết, luôn luôn nghĩ rằng
“Mình không là thân thể này” và khi bạn hiểu sâu và thiết lập điều này ngay
trong mình thì điều đó đưa bạn tới cái bất tử.
…Con người quan tâm đến ăn uống, đấy là một kiểu loài vật,
theo một nghĩa nào đó. Nhưng giả sử một người quan tâm tới chính trị và cứ đi
tìm kiếm hết địa vị nọ đến địa vị kia, người ấy còn tệ hơn con vật. Mối quan
tâm của người ấy không tự nhiên, đó là hư hỏng. Mối quan tâm được dẫn từ việc nắm
giữ một vị trí đặc biệt không thỏa mãn cho bất kỳ một giác quan nào, bất kỳ một
cơ quan tự nhiên nào. Cái nút, khối u của bản ngã bên trong cứ tăng dần và cho
người ấy sự thích thú của cảm giác: “Mình là một ai đó, còn người kia thì chẳng
là ai cả”. Đấy là quan niệm về việc chi phối, sự thích thú về quyền lực lên người
khác. Đấy là mối quan tâm về việc chà nát người khác dưới chân mình. Đấy là việc
thích thú của việc chẹn họng người khác. Bản ngã thì vô giới hạn. Nó không yêu
cầu lặp lại như các yêu cầu của giác quan; nó yêu cầu ngày càng nhiều hơn nữa.
Bản ngã là tham lam vô độ, nó không thể nào được thỏa mãn. Nếu nó thu được vị
trí này, nó lập tức bắt đầu một chiến dịch để có vị trí khác tốt hơn. Cho nên bất
kỳ cái gì đem cống tiến cho bản ngã chỉ giúp làm cho nó phát triển thêm. Do đó,
từ khoảnh khắc người ta bị vướng vào trong sự kìm kẹp của bản ngã thì người ấy
bị mắc míu còn hơn cả con vật có thể bị khó chịu, lo âu, căng thẳng và phiền
nhiễu.
…Cuộc sống của bạn trôi qua trên những bánh xe của giác
quan. Nhưng bản ngã không là thứ thực chất. Nó là sự bịa đặt của chúng ta, còn
chúng ta chắc chắn có thể sống mà chẳng cần nó- vô ngã. Bản ngã dẫn chúng ta đi
vào bóng tối lớn hơn bởi vì nó do con người tạo ra.
Bản ngã được tạo ra là do sự hiện diện của người khác, nó
tùy thuộc vào người khác. Đó là lý do tại sao chúng ta bao giờ cũng còn sợ hãi
về người khác, bởi vì việc thỏa mãn bản ngã của chúng ta là ở trong tay kẻ khác
và người đó có thể rút tay lại vào bất kỳ lúc nào. Người có sự hài lòng ở trong
những con mắt của kẻ khác thì không thể nào đi sâu vào bên trong bản thân mình
được. Người ấy chỉ sống ở lớp vỏ bên ngoài. Người một mình có thể đi vào chiều
sâu của cuộc sống là người đi vào linh hồn, là người quên đi bản ngã. Hãy cứ để
người ấy là chính mình. Người ấy loại bỏ suy nghĩ, lo âu về ý kiến người khác đối
với mình. Sự chấp thuận của người khác cũng chẳng ích gì. Linh hồn là sự chứng nghiệm
về “cái ta đang là” chẳng liên quan gì đến người khác nói. Người khác có thể
sai hay có thể đúng- đấy là việc của họ.
…Bỏ đi việc tôn thờ giác quan là chấm dứt tại điểm cần thiết,
còn bỏ đi sự tôn thờ bản ngã là tới điểm số 0. Nếu hai điều kiện này được hoàn
thành, thế thì cá nhân này chẳng ngồi gần các giác quan mà cũng không gần bản
ngã. Thế thì chúng ta mất sự đồng nhất của mình. Ngay khi bạn vứt bỏ hai tôn
giáo này thì bạn là một với Thượng đế, thực tại tối thượng. Thượng đế giống như
lực hấp dẫn đang hút về phía những người đã buông bỏ hai điều này- giác quan và
bản ngã. Người như thế đi vào ánh sáng.
… “Cái duy nhất mà phi thường là hãy thành bình thường”.
(Jakob Boehme- nhà huyền môn).
Trong thực tế, một người là bình thường nếu người ấy ấp ủ dù
chỉ một khái niệm rất nhỏ rằng mình là bất thường. Thậm chí một người bình thường
nhất cũng tin mình là bất thường. Đây là một niềm tin rất phổ biến. Vậy chúng
ta có thể gọi ai là phi thường? Người phi thường thậm chí chẳng biết mình là
phi thường. Người khiêm tốn như thế là người phi thường. Họ giống số không, giống
như cái không.
Thái độ tinh thần này của việc xóa bỏ bản thân mình, của việc
phá hủy bản thân người ta hoàn toàn, của việc chùi sạch sự hiện diện của người
ta, làm như bản thân người ta dường như hoàn toàn không có, có liên quan tới ngọn
nguồn gốc rễ sâu xa nhất của cuộc sống- tới sự tồn tại thuần khiết. Nó vượt ra
ngoài tâm trí, ra ngoài sự tưởng tượng hay tình cảm. Nó là siêu việt.
…Người biết và kinh nghiệm sâu sắc rằng cái chết là đã móc nối
với sinh tành và là điều không thể tránh được, thì trở nên thoát khỏi nỗi sợ
cái chết. Người ấy biết rằng sinh là bắt đầu và tử là cái kết thúc của nó. Tại
sao người ta phải sợ điều không tránh khỏi, điều chắc chắn xảy ra? Lo nghĩ chỉ
dành cho cái có thể thay đổi hay biến đổi. Trong sự chấp nhận như thế có việc tự
do khỏi cái chết. Người ấy tự do khỏi sức hút của sinh thành cũng như của nỗi sợ
chết. Người ấy vượt ra ngoài cả hai.
…Sinh là ở ngoài cuộc sống của chúng ta, bởi vì trước khi
sinh chúng ta không có. Chết là bên ngoài cuộc sống chúng ta, bởi vì sau cái chết
chúng ta sẽ không có. Chết là đường biên Nhưng nó không phải là đường biên cho
người biết. Với người này, chết và sinh là hai sự kiện xuất hiện ở giữa, trong
quá trình cuộc đời. Người ấy sẽ hỏi: “Việc sinh của ai vậy? Ta đã có trước đó,
do đó ta có thể được sinh ra, nếu không thì việc sinh làm sao có thể xảy ra được?
Ta đã là không biểu hiện, do đó ta có thể là biểu hiện; nếu không thì làm sao
ta có thể biểu hiện được? Nếu cái cây không được che giấu trong hạt mầm, thì chẳng
có cách nào cho nó mọc ra- được sinh ra. Nếu ta chết, ta phải sống trước đã; nếu
không, nó sẽ là cái chết của ai? Việc sinh của ta có thể xảy ra bởi vì ta đã có
trước cái sinh. Ta cũng sẽ có đó sau khi chết; chỉ thế thì cái chết mới xảy ra,
nếu không thì nó là cái chết của ai?
…Chết không phải là hết cho ngườii đã biết. Nó chỉ là sự kiện
xuất hiện trong cuộc đời người ấy. Sinh cũng là một sự kiện xuất hiện trong cuộc
đời của người ấy, nó không phải là một việc bắt đầu. Cuộc sống nằm bên ngoài
vòng tròn này là cái không biểu hiện. Cho nên người biết tới chu trình này của
thế giới biểu hiện thì không băn khoăn về nó, không gây cho người ấy bất kỳ sự
bất hạnh nào. Điều này được gọi là định mệnh- định mệnh của cái biểu hiện. Ý
nghĩa của số mệnh là không có nguyên nhân cho bất kỳ khốn khổ nào cả. Không có
chỗ cho thất vọng. Chấp nhận hoàn toàn là giải thoát.
…Để biết Brahman không biểu hiện (linh hồn), người ta phải
hoặc đi ra trước sự sinh thành của mình hoặc đi ra sau cái chết của mình. Không
có cách nào khác cả. Đi lùi lại ra ngoài việc sinh là một kỹ thuật rất khó thực
hành. Qua việc đi vào trong cái chết có chủ ý- đó là việc thiền- bạn trở thành
dường như không có, thế thì khuôn mặt của Brahman không biểu hiện sẽ thành thấy
được. Khuôn mặt đó là khuôn mặt trước khi sinh
và sau khi chết. Và nếu có một cá nhân muốn sống trong một cái chết như
thế cho toàn bộ cuộc đời mình, thì người này là một sannyasin, sống theo một
cách dường như đã chết.
…Cái bất tử chỉ có thể được biết bởi việc đi vào cái chết,
vì khi chúng ta đi vào cái chết một cách toàn bộ mà vẫn không thấy là chúng ta
không chết, thế thì chúng ta đạt tới tính bất tử. Người mà cố gắng cứu bản thân
mình khỏi cái chết thì sẽ không đạt tới cái bất tử, còn người đi vào cái chết
thì sẽ nếm trải nước cam lồ của cái bất tử. Việc biết Brahman không biểu hiện
là tìm ra cái bất tử. Việc tồn tại trước khi sinh và sau khi chết là cái bất tử.
Nó chưa hề bị sinh nên cũng chẳng hề bị diệt. Chỉ thân thể mới lấy sự sinh
thành; nó là cái hợp thành, dẫn ra từ bố mẹ. Chúng ta tới từ thời rất, rất cổ đại.
Chúng ta có thì thân thể còn chưa có. Khi đi vào một thân thể thì sự đồng nhất
với nó xảy ra, và khi thân thể chết đi thì dường như là “Tôi đang chết”.
…Trong trạng thái chúng ta biết rằng chúng ta không có và chẳng
cái gì còn lại để biết, chỉ có việc biết là còn lại. Nó cũng giống như mặt trời,
nguồn sáng, mất đi và các đối tượng nhận ánh sáng cũng mất đi. Tương tự, người
biết- nguồn gốc- mất đi, và các đối tượng để biết cũng mất đi; chỉ việc biết là
còn lại. Trong cuộc hành trình hướng tới việc biết này, bước đầu tiên là quyết
tâm và bước thứ hai là buông xuôi. Bước thứ nhất về thiền, bước thứ hai là về lời
cầu xin. Với người đã đi cả hai bước thì chẳng còn lại gì mà biết hay đạt tới,
hay chứng nghiệm.
…Thiền nhân khao khát siêu việt lên tất cả mọi nhị nguyên, bởi
vì chừng nào nhị nguyên còn dai dẳng thì cái khác vẫn còn hiện diện. Tuy chúng
ta có thể tìm thấy nhiều cuộc sống, cái chết bao giờ cũng đi bên nó. Đấy là nhị
nguyên, đấy là phía bên kia của cùng một đồng tiền. Người muốn hạnh phúc thì bất
hạnh chắc chắn sẽ theo sau nó. Người muốn được tôn kính và trọng vọng thì sẽ có
bất kính theo sau. Trong thế giới này, khi một người đòi hỏi cái này, thì người
ấy nhận được cái khác vốn không được yêu cầu. Bạn phải chấp nhận cả hai hoặc
không cái nào. Bất kỳ ai chấp nhận cả hai đều trở thành tự do khỏi cả hai; còn
bất kỳ ai được chuẩn bị để bỏ cả hai thì cũng trở thành tự do khỏi cả hai. Sẵn
sàng chấp nhận cả sống và cả chết là không ưa thích sống và cũng không ghét chết.
Không ưa thích sống, người đó được giải thoát. Hạnh phúc nào có đó trong hạnh
phúc và khốn khổ nào có đó trong khốn khổ đối với người đã chấp nhận cả hạnh
phúc lẫn khốn khổ? Cả hai phủ định lẫn nhau khi cả hai được sẵn lòng chấp nhận
và cái hư không được tạo ra.
…Cái chết là nhân tố cân bằng của cuộc sống. Bất hạnh là
nhân tố cân bằng của hạnh phúc. Bóng tối là nhân tố cân bằng của ánh sáng. Các
đối tượng vật chất là nhân tố cân bằng của tâm thức. Cái chết là người kiểm
soát cuộc sống, nếu không có cái chết sẽ tồn tại sự hỗn loạn lớn. Nếu muốn tìm
chân lý thì điều kiện không tránh khỏi là phải làm mất bản thân mình. Đây là bước
nhảy tối thượng. Khi một người thu được dũng cảm cho bước nhảy này, thì người ấy
trở thành một với chân lý tối cao.
…Hãy để cho cuộc sống hội nhập vào trong cái mà từ đó nó đã
sinh ra. Hãy để cho hình dạng mất đi trong cái vô hình dạng mà từ đó nó đã được
tạo ra. Hãy để cho chúng là một trong tâm thức thuần khiết của con người. Hãy để
thân thể trộn lẫn với cát bụi, trộn lẫn trong đất.
…Socrates nói: “Tôi nghĩ: Chừng nào cái chết còn chưa tới,
thì tôi vẫn còn sống; khi tôi còn sống, tại sao tôi phải lo nghĩ về cái chết?
Và ai sẽ còn lại để lo nghĩ về cái chết khi nó thực tới mà tôi thì không còn nữa?
Tôi sẽ hoàn toàn mất đi trong cái chết, chẳng còn gì ở lại sau, thế thì chẳng
có lý do gì sợ bất cứ cái gì. Mặt khác, nếu như ai đó nói, tôi sẽ không chết
ngay cả sau cái chết, thế thì chẳng có chút ký do nào để mà nghĩ về cái chết cả”.
…Hãy trì hoãn lại cái xấu, và hãy làm cái tốt ngay lập tức.
Bạn không thể tin cậy khoảnh khắc tiếp; nó có thể tới và nó có thể không tới. Nếu
bạn bỏ lỡ khoảnh khắc làm việc tốt, thì cơ hội có thể không tới lại, còn nếu bạn
đợi, cho dù một khoảnh khắc- để làm một hành động xấu thì bạn sẽ không thể làm
được nó. Một người đủ mạnh mẽ để chờ đợi một khoảnh khắc thì sẽ không làm một
hành động xấu. Chờ đợi một khoảnh khắc đòi hỏi một sức mạnh rất lớn. Chính sức
mạnh lớn nhất trên thế giới này là chờ đợi một giây khi đôi mắt bạn bắt đầu đỏ
máu và bàn tay bắt đầu nắm lại trong giận dữ.
…Khi bạn đưa ra lời cầu xin thì bạn đang nói lời chia tay
cho bản ngã mình. Lời cầu xin là sự chấp nhận toàn bộ về tính khiêm tốn của
chúng ta. Bạn không thể đưa ra lời cầu xin chừng nào bạn còn chưa trở thành cái
không. Gánh nặng tiêu tan khi bản ngã nặng trĩu của chúng ta rơi đi.
…Nước cam lồ của sự tồn tại vẫn liên tục mưa xuống, nhưng
chúng ta đã để thùng chứa lộn ngược. Bản ngã giữ thùng chứa lộn ngược và đồng
thời cố gắng làm đầy nó. Giữ cho thùng chứa đứng thẳng dậy nghĩa là thừa nhận
“tôi là cái không”. Khi thùng chứa được đứng thẳng thì cái trống rỗng của nó trở
thành biểu lộ. Khi nó lộn ngược, cái trống rỗng của nó bị giấu đi. Bằng việc đứng
thẳng dậy, thùng chứa nhận ra rằng nó chẳng là gì ngoài cái trống rỗng. Nếu bạn
không giữ cho bình chứa của mình thẳng lên, thì Thượng đế không thể bày tỏ ân
huệ được. Chính là bởi ân huệ của bạn mà bạn giữ cho nó thẳng lên. Bầy tỏ ân huệ
với chính mình là lời cầu xin. Từ bi với chính mình là lời cầu xin. Độc ác với
chính mình là bản ngã. Thành bạo chúa với chính mình là bản ngã.
…Chúng ta chỉ có thể là cái chúng ta đang là. Không có
phương án nào khác. Cái được ẩn kín trong chúng ta sẽ lộ ra, và cái được lộ ra
sẽ lại được giấu kín. Hạt mầm sẽ mọc thành cây, và cây sẽ trở thành hạt mầm.
Đây là luật vĩnh hằng của cuộc sống. Lo âu và lo nghĩ của những người đã hiểu
luật này tiêu tan hoàn toàn. Những đau đớn tinh thần của họ sẽ trở nên êm ả và
yên lặng. Thế thì cũng chẳng còn lại lý do gì cho hạnh phúc- không có nguyên
nhân để bất hạnh khi chúng ta du hành tới đích., và cũng không có nguyên nhân để
hạnh phúc bởi vì chúng ta chẳng thu được cái gì cả, cái mà chúng ta không có từ
lúc ban đầu.
…Chúng ta có thể đi đâu để có khả năng thấy được cái vô
hình? Bạn hãy gạt sang bên việc dùng các giác quan, bởi vì chúng tạo ra các
khuôn khổ. Các giác quan của chúng ta là những cửa sổ. Nếu chúng ta nhìn bất kỳ
đâu với sự giúp đỡ của cái cửa sổ này, thì hình dạng sẽ được tạo thành. Bạn hãy
nhắm mắt lại và đi vào bên trong; hãy không có mắt, không có tai, không có tay
chân, không có thân thể và càng nhào sâu vào bên trong, nơi mọi thứ đều vô
hình. Tại đó bạn sẽ chứng nghiệm cái toàn thể. Sau khi đã chứng nghiệm cái toàn
thể bên trong, người đã biết cái toàn thể thì bao giờ cũng thấy cái toàn thể,
dù người ấy đi đâu cũng chẳng thành vấn đề, có nhìn qua cửa sổ nào cũng chẳng
thành vấn đề, người ấy có thể bị nhốt trong bao nhiêu nhà tù, ấy vậy mà người ấy
biết rằng, các nhà tù đó chỉ là lừa bịp bên ngoài, cái vô hình vẫn ngồi đó bên
trong.
…Cái toàn bộ này là chân lý duy nhất. Nó bao hàm mọi phía; mọi
thứ đều là cái toàn bộ. Không có vấn đề gì về cái không hoàn hảo. Làm sao có được
cái không hoàn hảo cơ chứ? Ai sẽ tạo ra nó? Một mình Thượng đế có đó, không còn
ai khác có thể làm ra cái không hoàn hảo. Sự tồn tại bao giờ cũng là một, luồng
chảy của nó là một, là vô giới hạn, là tuyệt đối. Nhưng chúng ta sẽ chỉ biết nó
khi có một thoáng nhìn về nó bên trong. Người đã nếm trải dù chỉ một giọt của đại
dương bên trong đều có khả năng biết đến cái bí ẩn của đại dương vô biên. Cái
tòa thể đến từ cái toàn thể và cũng bị hấp thu vào cái toàn thể.
Xem cả quyển “Nhịp đập của Tuyệt đối”