Read more
Osho - Bí mật của
những bí mật (Tập 1)
Chương 11. Cái toàn thể và vòng tròn thiêng
Ngày 21 tháng 8
năm 1978, buổi sáng tại thính đường Phật
Osho ơi,
Thầy Lữ tử nói:
Không cái gì là có thể mà không có trầm tư.
Cảm nhận đem người ta tới mục đích.
Điều phải được đảo ngược bằng suy nghĩ là
tâm tự ý thức, điều phải chỉ đạo bản thân nó hướng tới điểm mà tâm linh hình
thành còn chưa biểu lộ. Bên trong thân thể mét tám chúng ta phải cố gắng để đạt
tới hình dạng tồn tại trước khi trời đất dàn ra. Nếu ngày nay mọi người ngồi và
thiền chỉ một hay hai giờ, chỉ nhìn vào bản ngã của họ, và gọi điều này là suy
nghĩ, làm sao cái gì có thể bắt nguồn từ nó được?
Người ta phải nhìn vào chỏm mũi của mình.
Nhưng điều này không có nghĩa là người ta phải tập trung suy nghĩ vào chỏm mũi.
Không phải điều đó, trong khi mắt nhìn vào chỏm mũi, ý nghĩ phải được tập trung
vào điểm vàng ở giữa. Bất kì chỗ nào mắt nhìn, tâm cũng được hướng tới đó. Làm
sao nó có thể được hướng đồng thời lên và xuống? Mọi điều đó ngụ ý lẫn lộn ngón
tay chỉ trăng với bản thân trăng.
Vậy thì cái gì thực sự được ngụ ý bởi điều
này? Cách diễn đạt ‘chỏm mũi’ được chọn lựa một cách khéo léo. Mũi phải phục vụ
cho mắt như nguyên tắc chỉ đạo. Nếu người ta không được hướng dẫn bởi mũi, hoặc
người ta mở to mắt và nhìn vào khoảng cách, để cho mũi không được nhìn thấy,
hay mi mắt khép lại quá nhiều, để cho mắt nhắm lại, và lần nữa mũi không được
nhìn thấy. Nhưng khi mắt mở quá to, người ta phạm sai lầm hướng chúng ra ngoài,
bởi thế người ta dễ dàng bị sao lãng. Nếu chúng khép lại quá nhiều, người ta phạm
sai lầm để cho chúng quay vào trong, bởi thế người ta dễ dàng chìm vào trong mơ
màng mộng mị. Chỉ khi mí mắt hạ thấp đúng tới một nửa thì chỏm mũi mới được thấy
theo cách đúng. Do đó, điều đó được lấy như nguyên tắc chỉ đạo. Điều chính là hạ
thấp mí mắt theo cách đúng, và thế rồi cho phép ánh sáng tràn vào trong bản
thân nó; không nỗ lực nào, muốn ánh sáng chảy vào trong một cách tập trung.
Nhìn vào chỏm mũi chỉ phục vụ như việc bắt đầu của tập trung bên trong, để cho
mắt được mang vào hướng nhìn đúng, và thế rồi được giữ làm nguyên tắc chỉ đạo:
sau đó, người ta có thể để nó là vậy. Đây là cách thợ nề treo đường ống nước.
Ngay khi người đó treo nó lên, người đó hướng dẫn công việc của mình bằng nó mà
không liên tục làm mình bận tâm phải nhìn vào đường ống nước.
Người ta nhìn bằng cả hai mắt vào chỏm mũi,
ngồi thẳng và trong tư thế thoải mái, và giữ cho tâm thành trung tâm giữa những
hoàn cảnh. Điều đó không nhất thiết nghĩa là ở giữa đầu. Nó chỉ là vấn đề cố định
suy nghĩ của người ta vào điểm nằm đích xác ở giữa hai mắt. Thế thì mọi sự là tốt.
Ánh sáng là cái gì đó cực kì linh động. Khi người ta cố định ý nghĩ vào điểm giữa
hai mắt, ánh sáng chảy theo cách riêng của nó. Không cần hướng chú ý đặc biệt
vào lâu đài trung tâm. Trong vài lời này điều quan trọng nhất được hàm chứa.
‘Trung tâm ở giữa các hoàn cảnh' là cách diễn
đạt rất tinh tế. Trung tâm là toàn năng; mọi thứ đều được bao hàm trong nó; nó
được nối với việc đưa ra của toàn thể quá trình sáng tạo.
Nhìn cố định trầm tư là không thể thiếu được;
nó đảm bảo việc làm nhanh chóng chứng ngộ. Duy nhất người ta phải không ngồi cứng
nhắc nếu ý nghĩ trần tục kéo tới, mà người ta phải xem xét ý nghĩ này ở đâu, nó
bắt đầu từ đâu, và nó nhạt nhoà ở đâu. Không cái gì được thu lấy bằng việc thúc
đẩy suy nghĩ thêm nữa. Người ta phải bằng lòng nhìn nơi ý nghĩ nảy sinh, và
không tìm ra bên ngoài điểm khởi thuỷ; vì tìm ra tâm thức trung tâm, đi ra đằng
sau tâm thức bằng tâm thức - điều đó không thể được làm. Cùng nhau chúng ta muốn
đem các trạng thái của tâm về nghỉ ngơi, đó mới là trầm tư đúng. Điều mâu thuẫn
với nó là trầm tư giả. Điều đó không đưa tới mục đích nào. Khi ánh sáng của ý
nghĩ cứ mở rộng thên nữa, người ta nên dừng lại và bắt đầu trầm tư. Để người ta
trầm tư và thế rồi bắt đầu nhìn cố định lần nữa. Đó là phương pháp kép làm
nhanh việc chứng ngộ. Nó có nghĩa là luân quang. Luân chuyển là việc nhìn cố định.
Ánh sáng là trầm tư. Nhìn cố định không trầm tư là luân chuyển không ánh sáng.
Trầm tư không nhìn cố định là ánh sáng không luân chuyển. Lưu ý tới điều đó.
Một người mù tới thăm bạn mình.
Lúc đó trời tối khi anh ta ra về, và họ đưa cho anh ta chiếc đèn.
“Cám ơn, nhưng tôi không cần
nó. Sáng hay tối là như nhau với tôi cả thôi.”
“Vâng, nhưng dẫu sao vẫn nên
mang nó đi để mọi người không đâm vào anh.”
Anh ta đi, và chẳng mấy chốc ai
đó đụng vào anh ta và quát lên, “Sao anh không nhìn khi anh đi thế?”
“Sao anh không thấy đèn của
tôi!”
“Rất tiếc, người anh em,” người
kia nói, “nến của anh tắt rồi.”
Kinh sách trong tay của người
không biết thiền là gì, cũng hệt như đèn trong tay người mù - hoàn toàn vô dụng
- và người mù không thể biết được liệu đèn vẫn còn sáng hay không. Người đó sẽ
đơn giản mang một trọng lượng không cần thiết - thực ra, chẳng giúp ích chút
nào; ngược lại, nó có thể là cản trở. Nếu người mù đã đi mà không có đèn, người
đó chắc đã cẩn thận hơn, thận trọng hơn. Vì chiếc đèn có trong tay, người đó phải
đã bước đi dường như người đó có mắt, người đó phải đã gạt mọi thận trọng sang
bên.
Đó là điều đã xảy ra cho nhân
loại ở qui mô lớn: những người có Kinh Thánh, Koran, Gita - đây là những ngọn
đèn có vẻ đẹp và ánh sáng mênh mông, nhưng mắt bạn mù. Và Gita đã cổ năm nghìn
năm - ánh sáng đã tắt từ lâu lâu trước đây rồi. Khi Krishna chết ánh sáng đã tắt.
Đấy cũng là trường hợp cho Kinh Thánh và Koran và tất cả những kinh sách linh
thiêng khác của thế giới: khi thầy chết đi, ánh sáng tắt.
Nhưng mọi người cứ mang kinh
sách, tin tưởng vào kinh sách, hi vọng rằng đời họ sẽ vẫn còn đầy ánh sáng bởi
vì họ đang mang thông điệp từ một thầy vĩ đại. Thông điệp đó không gì nhiều hơn
lời; nó là gánh nặng không cần thiết. Nếu mọi kinh sách của thế giới biến mất,
con người có thể trở nên thận trọng hơn, có thể trở nên tỉnh táo hơn, có thể bắt
đầu tìm nguồn sáng theo cách riêng của mình. Bởi vì sẽ không có việc dựa dẫm,
người đó sẽ phải học đứng trên đôi chân riêng của mình.
Có lần Lương Chấn có vị khách tới
thăm, Tế San, người này đang tìm kiếm sự sáng tỏ thêm nữa, cứ lưu lại mãi cho tới
khi rất muộn. Lương Chấn cuối cùng phải nói, “Đêm khuy dần rồi. Sao ông không về
nghỉ?”
Tế San xin phép ra về, vén mành
tre và bước ra. Thấy bên ngoài tối mịt, ông ấy quay lại và nói, “Bên ngoài tối
quá.”
Thế là Lương Chấn thắp đèn lên
và đưa đèn cho Tế San. Vừa lúc Tế San định cầm nó, Lương Chấn bất thần thổi tắt
nó đi. Ngỡ ngàng, Tế San đột nhiên thức tỉnh, và rồi ông ấy cúi lạy.
Lương Chấn nói, “Ông thấy loại
chân lí gì vậy?”
Tế San nói, “Sau ngày hôm nay
tôi sẽ không bao giờ hoài nghi lời nói của mọi thầy cổ dưới trời.”
Ngày hôm sau Lương Chấn đi tới
trước các đệ tử và nói, “Trong nhóm này có một người có răng nanh cây kiếm, có
mồm giống như phiến đá đẫm máu, và là người sẽ không quay đầu ngay cả khi bị cú
đánh bằng gậy. Một ngày nào đó người đó sẽ thiết lập con đường của ta trên đỉnh
núi đơn độc.”
Thế rồi Tế San chìa ra bản ghi
những lời bình giảng kinh của mình và trước cả phòng thiền, giơ cao một ngọn đuốc
và nói, “Phân tích sâu vô tận là giống như đặt sợi tóc trong trống rỗng của
không gian; sức mạnh trần tục giống như ném một giọt nước vào trong hẻm núi
mênh mông.”
Nói rồi, ông ấy đốt hết những lời
bình giảng của mình.
Bây giờ, nếu bạn không có mắt
thì ngay cả ánh sáng cũng thành vô dụng; đèn trong tay bạn chẳng là gì, hoàn
toàn không là gì cả. Nhưng nếu bạn có mắt, ngay cả việc thổi tắt ngọn nến cũng
có thể trở thành kinh nghiệm chứng ngộ. Vấn đề là về mắt.
Người này Lương Chấn được Tế
San tới thăm. Lương Chấn là thầy, Tế San là đệ tử của ông ấy. Nhìn thấy tối bên
ngoài, đệ tử nói với thầy, “Trời tối quá.”
Thầy thắp chiếc nến lên và đưa
nó cho đệ tử, và khi anh ta vừa định cầm lấy nó, thầy thổi tắt nó đi. Đột
nhiên, tất cả lại trở thành tối đen, còn tối hơn trước. Và việc thổi tắt đột ngột
ngọn nến này phải đã là một cú sốc - không dự kiến được. Trong một khoảnh khắc
đệ tử phải đã rơi vào trong khe hở giữa hai ý nghĩ. Trong một khoảnh khắc suy
nghĩ biến mất và có trầm tư. Trong một khoảnh khắc có im lặng hoàn toàn. Trong
im lặng đó người đó có thể thấy ra vấn đề.
Ngày hôm sau ông ấy đốt tất cả
mọi kinh sách. Bây giờ chúng không còn được cần tới nữa; bây giờ ông ấy biết
chân lí qua kinh nghiệm riêng của ông ấy.
Một chút ít kinh nghiệm còn có
giá trị hơn cả núi tri thức. Chỉ hai con mắt nhỏ còn có giá trị hơn mặt trời và
mặt trăng và mọi vì sao. Toàn thể vấn đề là ở chỗ tôn giáo là kinh nghiệm. Nó
không phải là suy đoán, nó không phải là phân tích liên tục - nó là sáng suốt.
Bây giờ đến lời kinh. Những lời
kinh này có giá trị mênh mông vì chúng cho bạn kĩ thuật dưới dạng đơn giản nhất
có thể được. Và phương pháp này thực sự là đơn giản - chừng nào bạn còn chưa
quyết tâm làm nó thành phức tạp.
Tâm trí bao giờ cũng biến những
thứ đơn giản thành phức tạp - cẩn thận về điều đó - bởi vì tâm trí không thể tồn
tại với cái đơn giản được; nó không được cần tới. Nếu mọi thứ thực sự đơn giản,
cần gì tâm trí? Tâm trí được cần tới chỉ khi mọi thứ là phức tạp. Thế thì bạn
phải phụ thuộc vào tâm trí bởi vì thế thì tâm trí sẽ tìm ra cách ra khỏi điều
bí ẩn. Nhưng nếu không có điều bí ẩn, tâm trí hoàn toàn vô dụng; bạn có thể vứt
bỏ nó. Cho nên đầu tư của tâm trí là vào sự phức tạp. Nhớ điều đó.
Những lời kinh này là rất đơn
giản. Chân lí bao giờ cũng đơn giản, hoàn toàn đơn giản.
Thầy Lữ tử nói:
Không cái gì là có thể mà không
có trầm tư.
Trầm tư là gì? - một khoảnh khắc
của vô ý nghĩ.
Từ tiếng Anh ‘contemplation-trầm
tư’ không cho ý đúng của dhyana. Trong tiếng Anh không có từ nào có thể dịch được
từ ‘dhyana-thiền’.
Có ba từ sẵn có. Một là
‘concentration-tập trung’, điều rất xa vời, bởi vì tập trung nghĩa là nỗ lực,
căng thẳng - một trạng thái bị ép buộc, không phải là trạng thái tự phát tuôn
chảy - và dhyana-thiền là tự phát tuôn chảy. Không có căng thẳng trong nó, cho
nên từ concentration-tập trung không thể là việc dịch của nó.
Thế rồi từ khác là
‘contemplation-trầm tư’. Nhưng trong tiếng Anh, contemplation-trầm tư cho ý tưởng
về suy nghĩ. Khi bạn nói ai đó đang trầm tư, bạn ngụ ý suy nghĩ về cái gì đó.
Hay từ thứ ba là
‘meditation-suy ngẫm’. Nhưng từ này nữa cũng ngụ ý suy nghĩ: suy ngẫm về cái gì
đó. Cả ba từ này không từ nào mang nghĩa của dhyana-thiền. Dhyana nghĩa là trạng
thái vô ý nghĩ, trạng thái của im lặng, trạng thái của việc có ý thức nhưng
không có nội dung nào. Tấm gương có đó nhưng không phản xạ xái gì, không cái gì
dù là bất kì cái gì. Cũng giống như gương, tâm thức có đó, nhưng không cái gì
làm bận bịu nó. Nhận biết vô bận bịu đó là dhyana-thiền.
Đạo nhân dùng từ
‘contemplation-trầm tư’ để dịch nó. Đó chỉ là vì một số từ phải được dùng. Cho
nên nhớ lấy nghĩa này - nó không phải là nghĩa trong từ điển. Nếu bạn nhìn vào
trong từ điển bạn sẽ có ý tưởng sai lầm hoàn toàn về trầm tư. Thực ra đó là điều
Bí mật của Hoa Vàng gọi là ‘trầm tư giả’. Trầm tư giả nghĩa là suy nghĩ về cái
gì đó. Nó có thể là Thượng đế - đó là điều người Ki tô giáo ngụ ý bởi trầm tư:
suy nghĩ về Thượng đế, suy nghĩ về những điều thiêng liêng, những điều siêu việt.
Nhưng sự vật là sự vật; dù chúng là linh thiêng hay không linh thiêng thì cũng
chẳng tạo ra khác biệt gì. Và suy nghĩ là suy nghĩ; dù bạn nghĩ về dục hay
samadhi cũng không tạo ra khác biệt gì.
Trạng thái vô ý nghĩ, khe hở...
và nó bao giờ cũng xảy ra, nhưng bạn không tỉnh táo về nó, bằng không chẳng có
vấn đề gì trong nó cả. Ý nghĩ này tới, thế rồi ý nghĩ khác tới, và giữa hai ý
nghĩ này bao giờ cũng có khe hở nhỏ. Và khe hở đó là cánh cửa tới điều thiêng
liêng, khe hở đó là trầm tư. Nếu bạn nhìn vào trong khe hở đó một cách sâu sắc,
nó bắt đầu trở thành ngày một lớn hơn.
Tâm trí giống như con đường đầy
lưu thông: xe này qua, thế rồi xe khác qua, và bạn trở nên bận tâm với xe nhiều
tới mức bạn không thấy khe hở bao giờ cũng có giữa hai xe. Bằng không thì chúng
sẽ đụng nhau mất. Chúng không đụng nhau; cái gì đó có đó giữa chúng giữ cho
chúng tách rời. Ý nghĩ của bạn không đụng nhau, chúng không đè lên nhau, đâm
vào nhau. Chúng thậm chí không chờm lấp nhau theo bất kì cách nào. Từng ý nghĩ
đều có biên giới riêng của nó, từng ý nghĩ đều là định nghĩa được. Nhưng việc
diễu hành của các ý nghĩ là nhanh thế, có tốc độ tới mức bạn không thể thấy được
khe hở chừng nào bạn còn chưa thực sự chờ đợi nó, tìm nó.
Trầm tư nghĩa là thay đổi động
thái. Bình thường chúng ta nhìn vào ý nghĩ: ý nghĩ này, ý nghĩ khác, ý nghĩ
khác nữa. Khi bạn đổi động thái bạn nhìn: khe hở này, khe hở khác, khe hở khác nữa.
Nhấn mạnh của bạn không còn vào ý nghĩ mà vào khe hở.
Chẳng hạn, bạn ngồi đây. Tôi có
thể nhìn vào bạn theo hai cách: hoặc như người này, người khác, người khác nữa
- nhấn mạnh của tôi là vào người, tôi có thể đếm có bao nhiêu người ở đó - hay
tôi có thể quên về người và tôi có thể đếm khe hở giữa hai người, bao nhiêu khe
hở có đó. Đây là thay đổi động thái. Nếu bạn đếm khe hở, bạn sẽ ngạc nhiên: người
trở thành mơ hồ, bạn không nhìn rõ họ bởi vì bạn đang nhìn vào khe hở, bạn đang
đếm các khe hở.
Một ngày nào đó, đứng bên cạnh
đường, chỉ đếm bao nhiêu khe hở đi qua và bạn sẽ ngạc nhiên là bạn không thấy mầu
sắc của xe, bạn không thấy hình dáng của xe, bạn không thấy người lái xe và
hành khách trong xe, nhưng bạn có thấy các khe hở. Khe hở này qua, khe hở khác
qua - bạn liên tục đếm khe hở. Động thái của bạn là khác.
Trầm tư là thay đổi động thái:
không nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác, mà nhảy từ khe hở này sang khe hở
khác. Dần dần, dần dần bạn trở thành rất rất nhận biết về khe hở. Và đó là một trong
những bí mật lớn lao nhất của cuộc sống, bởi vì chính qua những ke hở đó bạn sẽ
rơi vào trong bản thể riêng của bạn, vào trong trung tâm riêng của bạn.
Thầy Lữ tử nói:
Không cái gì là có thể mà không
có trầm tư. Cảm nhận đem người ta tới mục đích.
Cảm nhận, chỉ cảm nhận… điều ở Ấn
Độ chúng ta gọi là darshan. Việc nhìn đem người ta tới mục đích, không đi đâu cả.
Bạn không cần đi đâu cả - chỉ nhìn! Một khi bạn bắt đầu nhìn vào trong các khoảng
trống, vào trong các khe hở, bạn sẽ có khả năng thấy bạn là ai. Và bạn là mục
đích, bạn là cội nguồn và mục đích, cả hai - cái bắt đầu và cái kết thúc, alpha
và omega. Bạn chứa mọi điều bạn đã từng khao khát, bạn có mọi điều bạn đã từng
ham muốn. Bạn không cần là kẻ ăn xin. Nếu bạn chọn nhìn vào trong khe hở bạn sẽ
là hoàng đế, nếu bạn liên tục nhìn vào các ý nghĩ bạn sẽ vẫn còn là kẻ ăn xin.
Cảm nhận đem người ta tới mục
đích.
Thậm chí không một bước nào cần
phải lấy bên ngoài bản thân bạn vì Thượng đế đã ở bên trong bạn, Thượng đế đã
là hoàn cảnh rồi. Đó là cốt lõi bên trong nhất của bạn. Thượng đế không có đó
trên cao, đâu đó trên trời; Thượng đế ở bên trong bạn, đâu đó nơi các ý nghĩ
không quấy rối bạn, nơi im lặng ngự trị, nơi tâm thức không bận bịu hoàn toàn
hiện diện, không phản xạ cái gì.
Thế thì bạn kinh nghiệm hương vị
riêng của bạn lần đầu tiên, thế thì bạn đầy hương thơm của bản thể riêng của bạn:
hoa vàng nở ra.
Điều phải được đảo ngược bằng
suy nghĩ là tâm tự ý thức, điều phải chỉ đạo bản thân nó hướng tới điểm mà tâm
linh hình thành còn chưa biểu lộ.
Ý nghĩ là cái biểu lộ, vô ý
nghĩ là cái không biểu lộ. Nếu động thái của bạn chỉ bao gồm các ý nghĩ, bạn sẽ
sẽ không biết cái gì nhiều hơn bản ngã. Bản ngã được gọi là ‘tâm tự ý thức’. Bạn
vẫn còn không là gì ngoài chùm các ý nghĩ. Chùm các ý nghĩ đó cho bạn một ý thức
về cái ta, ‘tôi đây’.
Descartes, cha đẻ của triết học
phương Tây hiện đại, nói, “Tôi nghĩ, do đó tôi hiện hữu.” Nghĩa riêng của ông ấy
là rất khác bởi vì ông ấy không phải là thiền nhân, nhưng phát biểu này là hay;
trong một hoàn cảnh khác toàn bộ thì nó là hay. Tôi cho nó một nghĩa khác.
Vâng, tôi hiện hữu - chỉ nếu tôi nghĩ. Nếu suy nghĩ biến mất, cái tôi cũng biến
mất. “Tôi nghĩ, do đó tôi hiện hữu” - cái tính tôi này, cái tâm tự ý thức này
không là gì ngoài sự liên tục các ý nghĩ. Nó không thực sự là thực thể, nó là
thực thể giả, ảo tưởng. Nó cũng giống như cầm ngọn đuốc trong tay bạn và nếu bạn
bắt đầu xoay vòng ngọn đuốc trong tay bạn, bạn sẽ thấy vòng tròn lửa mà không
có đó. Nhưng ngọn đuốc chuyển động nhanh tới mức nó tạo ra vòng tròn lửa ảo, nó
tạo ra ảo tưởng về vòng tròn lửa. Nó không có đó. Ý nghĩ chuyển động nhanh tới
mức chúng tạo ra ý tưởng về tôi.
Lữ tử nói người ta phải di chuyển
từ tâm tự ý thức sang tâm không tự ý thức: người ta phải di chuyển từ bản ngã
sang vô bản ngã, người ta phải di chuyển từ cái ngã sang vô ngã. Cái ngã là phần
biểu lộ - tí hon, rất nhỏ, thô. Không ngã là phần không biểu hiện - vô hạn,
vĩnh hằng. Cái ngã là hiện tượng nhất thời, được sinh ra một ngày nào đó, sẽ phải
chết đi một ngày nào đó. Cái không ngã, điều Phật gọi là anatta, vô ngã, là một
phần của vĩnh hằng - không bao giờ sinh và không bao giờ chết - nó kéo dài mãi
mãi.
Bên trong thân thể mét tám
chúng ta phải cố gắng để đạt tới hình dạng tồn tại trước khi trời đất dàn ra.
Và bên trong thân thể mét tám của
bạn, bạn có phẩm chất nguyên thuỷ đó vẫn sống động, rung động - phẩm chất
nguyên thuỷ đó cái đã có trước khi trời đất được tạo ra. Thiền nhân gọi nó là
'mặt nguyên thuỷ': khi không cái gì được sinh ra - thậm chí không trời, không đất
- tất cả đều không biểu lộ; khi tất cả đều là im lặng, không âm thanh nào được
sinh ra; khi không có hình dạnh và tất cả đều là vô hình dạng, tất cả đều trong
hạt mầm.
Bạn có cái im lặng nguyên thuỷ
đó trong bạn. Người Hindu gọi nó là anahat nad. Phật tử có cách diễn đạt đặc biệt
cho nó, “Tiếng vỗ tay của một bàn tay.” Nó ở bên trong bạn, nó là thực tại của
bạn. Thưởng thức nó là trở thành bất tử, thưởng thức nó là trở thành vàng. Thế
thì bụi được biến đổi thành điều thiêng liêng.
Mục đích của mọi giả kim thuật
là biến đổi kim loại thấp hơn thành vàng.
Nếu ngày nay mọi người ngồi và
thiền chỉ một hay hai giờ, chỉ nhìn vào bản ngã của họ, và gọi điều này là suy
nghĩ, làm sao cái gì có thể bắt nguồn từ nó được?
Người ta có thể ngồi trong thiền
và chỉ có thể nhìn vào bản ngã của người ta. Đó là điều mọi người gọi là trầm
tư: họ nhìn vào ý nghĩ của họ, họ không thay đổi động thái. Mọi điều xảy ra cho
họ là: bình thường họ bận bịu với nhiều thứ thế họ không thể nhìn vào ý nghĩ của
họ được; khi họ ngồi đặc biệt dành cho thiền họ quên thế giới đi, trong một khoảnh
khắc, và các ý nghĩ trở nên sắc nét hơn, họ tỉnh táo hơn với ý nghĩ của họ.
Đây là trạng thái của triết
gia, đây là cách triết gia đã từng suy nghĩ, suy đoán, triết lí. Đây không phải
là trầm tư đúng. Và điều này sẽ không bao giờ đưa bạn ra ngoài bản ngã, ra
ngoài cái chết, ra ngoài thời gian. Và đó là nơi mục đích của người ta nằm đấy.
Để tôi nhắc lại: nếu bạn muốn
thiền bạn sẽ phải đổi động thái. Chỉ nhắm mắt lại và nhìn vào trong bản ngã sẽ
không ích gì.
Triết gia người Anh vĩ đại,
David Hume, đã viết, “Nghe và đọc lặp đi lặp lại câu châm ngôn vĩ đại này và lời
khuyên của mọi thầy lớn, ‘Để biết bản thân ông, thiền đi’, tôi cũng cố thiền.
Tôi chẳng thấy gì bên trong ngoại trừ các ý nghĩ, kí ức, tưởng tượng, mơ mộng.
Nhưng tôi chẳng thấy gì khác.”
Ông ấy đúng bởi vì ông ấy không
biết thiền là gì. Ông ấy là triết gia, và là một trong những triết gia tài năng
nhất của thế giới - rất rất logic, nhất quán - nhưng chỉ là một triết gia,
không phải là thiền nhân. Ông ấy phải đã thử nếu ông ấy nói vậy, và ông ấy phải
đã bắt gặp nhiều ý nghĩ vẩn vơ bên trong. Và thế rồi ông ấy nói, “Nhưng tôi
không thấy cái ta nào, tôi không thấy im lặng nào, tôi không thấy Thượng đế
nào. Điều đó toàn là vô tích sự.”
Ông ấy bỏ lỡ bởi vì ông ấy đã
không nhận biết rằng đầu tiên bạn phải đổi động thái. Bạn phải không nhìn vào ý
nghĩ, bạn phải nhìn vào khe hở, về các khe hở; bạn phải tìm các khe hở và bạn
phải nhảy vào trong các khe hở. Nếu ông ấy mà nhảy vào trong khe hở ông ấy chắc
đã thấy ý nghĩ biến mất, mơ biến mất, kí ức biến mất - mọi thức đều bị bỏ lại đằng
sau. Dần dần, dần dần nó trở thành tiếng ồn rất rất xa xăm, và thế rồi một khoảnh
khắc tới: nó đơn giản biến mất và bạn đã đi ra ngoài, bạn đã đạt tới bờ xa hơn.
Người ta phải nhìn vào chỏm mũi
của mình.
Bây giờ điểm thực hành của toàn
thể lời kinh này - rất đơn giản, nhưng cố hiểu nó cho đúng, bởi vì tâm trí muốn
bóp méo ngay cả những thứ đơn giản. Tâm trí là cái máy bóp méo.
Người ta phải nhìn vào chỏm mũi
của mình.
Tại sao? - vì điều này giúp
ích, nó đem bạn vào thẳng hàng với con mắt thứ ba. Khi hai mắt bạn được cố định
vào chỏm mũi điều đó làm được nhiều thứ. Điều cơ bản là ở chỗ con mắt thứ ba của
bạn ở đích xác thẳng hàng với chỏm mũi - chỉ vài phân ở phía trên, nhưng theo
cùng một đường thẳng. Và một khi bạn ở trên đường thẳng của con mắt thứ ba, sự
hấp dẫn của con mắt thứ ba, lực kéo, từ lực của con mắt thứ ba là lớn tới mức nếu
bạn rơi vào thẳng hàng với nó bạn sẽ được kéo thậm chí ngược lại bản thân bạn.
Bạn chỉ phải ở đích xác thẳng hàng với nó để cho lực hút, lực hấp dẫn của con mắt
thứ ba bắt đầu vận hành. Một khi bạn ở đích xác thẳng hàng với nó thì sẽ không
cần làm nỗ lực nào. Đột nhiên bạn sẽ thấy, động thái đã thay đổi, bởi vì hai
con mắt tạo ra nhị nguyên của thế giới và ý nghĩ, và một con mắt ở giữa hai con
mắt này tạo ra khe hở. Đây là phương pháp đơn giản cho việc đổi động thái.
Người ta phải nhìn vào chỏm mũi
của mình. Nhưng điều này không có nghĩa là người ta phải tập trung tư tưởng vào
chỏm mũi.
Đó là cách tâm trí có thể bóp
méo nó. Tâm trí có thể nói, “Thôi được rồi, bây giờ nhìn vào chỏm mũi. Nghĩ về
chỏm mũi, tập trung vào nó.” Nếu bạn tập trung quá nhiều vào chỏm mũi bạn sẽ bỏ
lỡ vấn đề, bởi vì bạn phải ở đó tại chỏm mũi nhưng rất thảnh thơi để cho con mắt
thứ ba có thể kéo bạn. Nếu bạn quá tập trung vào chỏm mũi - bị bắt rễ, bị hội tụ,
bị cố định ở đó - con mắt thứ ba của bạn sẽ không có khả năng kéo bạn vào, bởi
vì con mắt thứ ba chưa bao giờ vận hành trước đây. Sức kéo của nó không thể rất
lớn lúc ban đầu. Dần dần, dần dần nó phát triển ngày càng nhiều hơn. Một khi nó
bắt đầu vận hành và bụi đã tụ tập quanh nó biến mất với việc sử dụng và cái máy
này chạy rù rù êm ru, thế thì cho dù bạn bị cố định vào chỏm mũi bạn vẫn sẽ bị
kéo vào... nhưng không thế lúc ban đâu. Bạn phải rất rất nhẹ, không nặng gánh,
không có bất kì căng thẳng hay dồn nén nào. Bạn phải đơn giản ở đó, hiện diện,
trong một loại buông bỏ.
Không phải điều đó, trong khi mắt
nhìn vào chỏm mũi, ý nghĩ phải được tập trung vào điểm vàng ở giữa.
Cho nên đừng tập trung vào chỏm
mũi nếu không - thủ đoạn thứ hai mà tâm trí có thể giở ra... Thầy đơn giản cố gắng
làm cho bạn tỉnh táo về mọi khả năng, về mọi trò mà tâm trí có khả năng chơi. Đầu
tiên nó sẽ nói, “Được, vậy thầy nói đấy nhé, ‘Tập trung vào chỏm mũi.’” Thầy
không nói, “Tập trung vào chỏm mũi,” thầy đơn giản nói, “Nhìn thôi. Chỉ cái
nhìn rất nhẹ, vô nỗ lực.” Hay tâm trí có thể nói, “Được, nếu mình chỉ nhìn vào
chỏm mũi, thế thì tập trung vào con mắt thứ ba vậy.”
Tâm trí bao giờ cũng thiên về tập
trung vì tâm trí được nuôi dưỡng bằng tập trung, sống bằng tập trung. Do đó
trong trường phổ thông, cao đẳng, đại học, tập trung được dạy chứ không phải
thiền, bởi vì chúng tất cả đều là cơ xưởng để tạo ra tâm trí, chúng chế tạo ra
tâm trí.
Bất kì chỗ nào mắt nhìn, tâm
cũng được hướng tới đó. Làm sao nó có thể được hướng đồng thời lên và xuống?
Và thế rồi tâm trí có thể nói,
“Trông đấy, điều này là không thể được, đòi hỏi này là phi lí. Làm sao mình có
thể nhìn theo hai hướng đồng thời được, vừa vào chỏm mũi và vào con mắt thứ ba?
Điều đó là không thể được, điều đó không thể được thực hiện, nó không thể được
làm. Đừng có ngu xuẩn!”
Bây giờ trò thứ ba của tâm trí
- kết án cái gì đó là phi lí. Đầu tiên nó tạo ra ý tưởng hư huyễn và thế rồi nó
bắt đầu phá huỷ điều đó. Và khi nó phá huỷ, nó có niềm vui lớn - niềm vui rất tự
bạo, tàn bạo. Nó nói, “Trông đấy, đây là điều thầy ngụ ý. Ngớ ngẩn! Đầu tiên
nhìn vào chỏm mũi và thế rồi nhìn vào con mắt thứ ba - làm sao mình có thể làm
được cả hai, nhìn lên và nhìn xuống? Điều đó là không thể được.”
Mọi điều đó ngụ ý lẫn lộn ngón
tay chỉ trăng với bản thân trăng.
Vậy thì cái gì thực sự được ngụ
ý bởi điều này? Cách diễn đạt ‘chỏm mũi’ được chọn lựa một cách khéo léo. Mũi
phải phục vụ cho mắt như nguyên tắc chỉ đạo.
Có vậy thôi - chỉ là nguyên tắc
chỉ đạo: để cho bạn ở trong trường này, trong trường lực này của con mắt thứ
ba, để cho bạn ở rất gần với năng lượng từ trường của con mắt thứ ba. Nó không
thể vận hành theo cách nào khác. Bạn chỉ phải hiện diện trong từ tường, trong
trường của nó, và thế thì nó đem bạn vào. Bạn không cần đi vào, bạn cần không
làm nỗ lực nào để đi vào; nó xảy ra theo cách riêng của nó.
Nếu người ta không được hướng dẫn
bởi mũi, hoặc người ta mở to mắt và nhìn vào khoảng cách, để cho mũi không được
nhìn thấy, hay mi mắt khép lại quá nhiều, để cho mắt nhắm lại, và lần nữa mũi
không được nhìn thấy. Nhưng khi mắt mở quá to, người ta phạm sai lầm hướng
chúng ra ngoài, bởi thế người ta dễ dàng bị làm sao lãng.
Và chức năng khác của việc nhìn
rất nhẹ vào chỏm mũi là thế này: rằng nó không cho phép bạn mở to mắt ra nhìn.
Nếu bạn mở to mắt nhìn toàn thế giới sẽ thành sẵn có, và có cả nghìn lẻ một sao
lãng. Một cô gái đẹp đi qua và bạn bắt đầu đi theo - ít nhất là trong tâm trí.
Hay ai đó đang đánh nhau; bạn không liên quan, nhưng bạn bắt đầu nghĩ, “Chuyện
gì xảy ra thế nhỉ?” Hay ai đó khóc và bạn trở nên tò mò - và cả nghìn lẻ một thứ
liên tục di chuyển quanh bạn. Nếu mắt mở to, bạn trở thành năng lượng nam tính,
dương.
Nếu mắt nhắm hoàn toàn bạn rơi
vào trong một loại mơ màng, bạn bắt đầu mơ; bạn trở thành năng lượng nữ tính,
âm. Để tránh cả hai điều này, cứ nhìn vào chỏm mũi - một phương cách đơn giản,
nhưng kết quả là gần như thần kì.
Và điều này không chỉ là vậy với
Đạo nhân; các Phật tử biết điều đó, người Hindu biết điều đó. Trong nhiều thời
đại mọi thiền nhân bằng cách nào đó đều vớ phải sự kiện là nếu mắt bạn chỉ mở một
nửa, trong chính cách thức kì diệu đó bạn thoát ra khỏi hai cạm bẫy. Người này
bị sao lãng bởi thế giới bên ngoài; người khác bị sao lãng bởi thế giới mơ bên
trong; bạn vẫn còn đích xác ở trên biên giới của của cái bên trong và cái bên
ngoài. Và đó mới là vấn đề: ở ngay biên giới của cái bên trong và cái bên ngoài
nghĩa là bạn không là nam không là nữ vào khoảnh khắc đó; cái nhìn của bạn là tự
do với nhị nguyên, cái nhìn của bạn đã siêu việt lên trên sự phân chia trong bạn.
Chỉ khi bạn ở bên ngoài phân chia trong bạn thì bạn mới rơi vào trong đường thẳng
của từ trường của con mắt thứ ba.
Nếu chúng khép lại quá nhiều,
người ta phạm sai lầm để cho chúng quay vào trong, bởi thế người ta dễ dàng
chìm vào trong mơ màng mộng mị. Chỉ khi mí mắt hạ thấp đúng tới một nửa thì chỏm
mũi mới được thấy theo cách đúng. Do đó, điều đó được lấy như nguyên tắc chỉ đạo.
Điều chính là hạ thấp mí mắt theo cách đúng, và thế rồi cho phép ánh sáng tràn
vào trong bản thân nó…
Điều đó là rất quan trọng cần
nhớ: bạn không kéo ánh sáng vào, bạn không ép buộc ánh sáng vào. Nếu cửa sổ để
mở, ánh sáng tới, theo cách riêng của nó; nếu cửa mở, ánh sáng tràn ngập vào. Bạn
không cần mang nó vào, bạn không cần đẩy nó vào, bạn không cần lôi nó vào. Và
làm sao bạn có thể lôi nó vào được? Làm sao bạn có thể đẩy ánh sáng vào được? Mọi
điều được cần là ở chỗ bạn phải mở và mong manh với nó.
Và đó đích xác là điều xảy ra
khi bạn nhìn vào chỏm mũi: chỉ nhìn mà không có tập trung nào, chỉ nhìn mà
không có nặng nề gì trong nó, không căng thẳng nào trong nó, đột nhiên cửa sổ của
con mắt thứ ba mở ra và ánh sáng bắt đầu đổ dồn vào. Ánh sáng mà bao giờ cũng
đi ra bắt đầu đi vào nữa, và vòng tròn là đầy đủ. Và vòng tròn này làm ra con
người hoàn hảo. Và vòng tròn này làm ra con người hoàn toàn nghỉ ngơi, được thảnh
thơi.
Vòng tròn này làm cho con người
thành toàn thể và linh thiêng - con người không còn bị phân chia. Bằng không mọi
người đều tinh thần phân liệt, nhiều hay ít. Chỉ người này, người có khả năng tạo
ra vòng tròn ánh sáng và luân quang, mới ở ngoài chứng tinh thần phân liệt, mới
thực sự mạnh khoẻ, mới thực sự không thần kinh. Bằng không sự khác biệt giữa mọi
người là không mấy. Người thần kinh và cái gọi là người không thần kinh khác
nhau chỉ ở mức độ. Thực ra, bệnh nhân và nhà phân tâm không phải là những loại
người khác nhau, họ là một thôi - người thần kinh này cố giúp người thần kinh
khác. Và thỉnh thoảng chuyện xảy ra: người đi giúp có thể còn thần kinh hơn người
mà người đó đang cố giúp.
Nhiều nhà phân tâm phát điên
hơn bất kì nghề nào khác trên thế giới. Nhiều nhà phân tâm tự tử hơn bất kì nghề
nào khác trên thế giới. Tại sao? Theo một cách nào đó điều đó dường như hợp lí,
logic: liên tục xử lí với chứng thần kinh, mọi loại điên khùng - và bản thân họ
lại không là toàn thể - một cách tự nhiên, họ sẽ bị ảnh hưởng. Họ đang nuôi dưỡng
bản thân họ bằng những chứng thần kinh này. Khi nhà phân tâm lắng nghe bệnh
nhân và mọi cái vô nghĩa và rác rưởi của người đó, một cách vô ý thức nhà phân
tâm đang thu thập nó vào trong bản thân mình. Bệnh nhân đang xổ mọi thứ vô
nghĩa lên nhà phân tâm. Thực ra, người đó trả tiền cho điều đó. Dần dần, dần dần
nhà phân tâm có nhiều chứng thần kinh được xổ lên ông ta tới mức nó sẽ bùng nổ.
Điều đó là tự nhiên.
Nếu như tôi quyết định về ai
nên là nhà phân tâm, thế thì quá trình làm luân quang sẽ là yêu cầu cơ sở, yêu
cầu nền tảng cho nhà phân tâm: chừng nào một người còn chưa có khả năng luân
quang của mình, người đó sẽ không được phép trị liệu cho bất kì ai. Và nếu một
người có khả năng luân quang trong bản thân mình, người đó sẽ không bao giờ bị ảnh
hưởng bởi bất kì loại thần kinh nào; người đó có thể lắng nghe, người đó có thể
giúp đỡ, người đó sẽ vẫn còn không bị động chạm. Việc luân quang của người đó sẽ
giữ cho người đó sạch sẽ, thuần khiết. Người đó sẽ là người linh thiêng. Đó là
khác biệt giữa guru và nhà phân tâm.
Chỉ guru mới có thể thực sự là
nhà phân tâm, chỉ guru mới có thể là nhà trị liệu. Chỉ một người đã đi tới tính
toàn thể của mình mới có thể là sự giúp đỡ thực cho người khác, những người còn
đang trên đường, vật lộn, loạng choạng trong bóng tối. Bằng không người mù đang
dẫn người mù khác - cả hai đều sẽ ngã vào giếng nào đó.
Cuốn sách này, Bí mật của Hoa
Vàng, phải trở thành thực hành nền tảng nhất trong tương lai cho bất kì ai muốn
trở thành nhà trị liệu tâm lí. Bạn sẽ ngạc nhiên: người này, Wilhelm, người đã
dịch cuốn sách này sang ngôn ngữ phương Tây lần đầu tiên, bản thân ông ấy là
nhà tâm lí lớn; đó là cách ông ấy trở nên quan tâm tới cuốn sách này. Nhưng sau
khi ông ấy dịch nó, ông ấy phát điên; ông ấy trở nên rất bị rối loạn. Toàn thể
đào tạo phân tâm của ông ấy và cuốn sách này đã tạo ra mâu thuẫn trong ông ấy,
đã tạo ra câu đố trong ông ấy, tới mức ông ấy trở nên bị phân chia nhiều hơn.
Việc dịch cuốn sách này đã nhấn chìm ông ấy vào một loại điên khùng. Ông ấy trở
nên bị mất phương hướng bởi vì toàn thể đào tạo của ông ấy, toàn thể hiểu biết
của ông ấy, bị rối loạn.
Nhớ điều đó. Bí mật này không
phải là rất khó khăn. Điều là khó khăn của nó: nó là đơn giản tới mức bạn chỉ
phải cảnh giác để cho tâm trí bạn không làm cho nó thành khó, không cho nó xoắn
xuýt và rối rắm và vặn vẹo và méo mó.
Do đó, điều đó được lấy như
nguyên tắc chỉ đạo. Điều chính là hạ thấp mí mắt theo cách đúng, và thế rồi cho
phép ánh sáng chảy vào trong bản thân nó, không nỗ lực nào, muốn ánh sáng chảy
theo cách được tập trung.
Không cần đem ánh sáng vào theo
cách tập trung, nó tới theo cách riêng của nó. Và khi nó tới theo cách riêng của
nó, nó là đẹp. Nếu bạn bắt đầu thử đem nó vào bạn sẽ thất bại, nỗ lực của bạn
mang định mệnh thất bại. Và bạn càng thất bại bạn sẽ càng cố gắng vất vả hơn,
và bạn càng cố gắng hơn, thất bại của bạn sẽ càng được đảm bảo hơn. Đừng cố đem
nó vào. Cứ bỏ bản thân bạn vào trong tình huống đúng nơi nó trở thành sẵn có.
Chẳng hạn, nếu trăng có đó, chỉ
đi tới cửa sổ và đứng cạnh cửa sổ, và trăng bắt đầu trút nước cam lồ của nó lên
bạn. Bạn không cần làm gì khác cả. Cứ ở tại chỗ mà trăng đã ùa tới; chỉ làm cho
bản thân bạn thành sẵn có trong trường đúng và mọi sự bắt đầu xảy ra - những thứ
có giá trị mênh mông.
Nhìn vào chỏm mũi chỉ phục vụ
như việc bắt đầu của tập trung bên trong, để cho mắt được mang vào hướng nhìn
đúng, và thế rồi được giữ làm nguyên tắc chỉ đạo: sau đó, người ta có thể để nó
là vậy. Đây là cách thợ nề treo đường ống nước. Ngay khi người đó treo nó lên,
người đó hướng dẫn công việc của mình bằng nó mà không liên tục làm mình bận
tâm phải nhìn vào đường ống nước.
Người ta nhìn bằng cả hai mắt
vào chỏm mũi,
Nhớ lấy, bạn phải nhìn bằng cả
hai mắt vào chỏm mũi để cho tại chỏm mũi đó cả hai mắt bạn mất đi tính nhị
nguyên của chúng, để cho trên chỏm mũi đó, ánh sáng đang phát ra từ mắt bạn trở
thành một, rơi vào một điểm. Chỗ hai mắt bạn gặp gỡ, đó là chỗ từ đó cửa sổ mở
ra. Và thế thì tất cả đều là tốt. Thế thì cứ để nó vậy. Thế thì bạn đơn giản tận
hưởng, thế thì bạn đơn giản mở hội, vui sướng, hân hoan. Thế thì chẳng cái gì
phải được làm.
Người ta nhìn bằng cả hai mắt
vào chỏm mũi, ngồi thẳng...
Ngồi thẳng là có ích. Khi xương
sống của bạn thẳng, năng lượng từ trung tâm dục cũng trở thành sẵn có cho con mắt
thứ ba - chỉ là những phương cách đơn giản, không cái gì phức tạp về chúng.
Chính điều là khi hai mắt bạn gặp gỡ tại chỏm mũi, bạn là sẵn có cho con mắt thứ
ba; làm cho năng lượng dục của bạn cũng thành sẵn có cho con mắt thứ ba, thế
thì hiệu quả sẽ gấp đôi. Hiệu quả sẽ là mạnh mẽ, bởi vì trung tâm dục của bạn
có mọi năng lượng mà bạn có. Khi xương sống dựng thẳng, đứng, trung tâm dục
cũng sẵn có cho con mắt thứ ba. Điều tốt hơn cả là lao vào con mắt thứ ba từ cả
hai chiều, cố gắng xuyên thấu vào con mắt thứ ba từ cả hai hướng.
Người ta … ngồi thẳng và trong
tư thế thoải mái…
Thầy đang làm mọi thứ rất rõ
ràng: thẳng đứng, chắc chắn, nhưng không làm nó một cách không thoải mái, bằng
không bạn lại sẽ bị sao lãng bởi sự không thoải mái của bạn. Đó là nghĩa của tư
thế yoga. Từ tiếng Phạn asana nghĩa là tư thế thoải mái. Thoải mái là phẩm chất
cơ bản của nó. Nếu nó không thoải mái thì tâm trí bạn sẽ bị sao lãng bởi sự
không thoải mái. Nó phải thoải mái.
Nếu bạn không thể ngồi trên sàn
như người phương Đông có thể ngồi - vì họ đã từng ngồi hàng thế kỉ... Nếu một
người tìm kiếm phương Tây không thể ngồi thẳng trên sàn, một cách thoải mái, và
phải ép buộc bản thân mình và điều đó trở thành không thoải mái và đau, thế thì
tốt hơn cả là ngồi thẳng trên ghế. Nhưng để lưng ghế thẳng.
Bạn phải đã thấy những bức
tranh và tượng về các vua và hoàng hậu Ai Cập cổ đại: ghế của họ có lưng rất thẳng.
Thế thì ngồi giống điều đó đi. Đó cũng là tư thế yoga đấy. Những người Ai Cập cổ
đại đó biết bí mật này.
Dẫu sao đi chăng nữa, có hai điều:
xương sống của bạn phải thẳng và tư thế của bạn phải thoải mái. Nếu cả hai điều
này là không thể được... thỉnh thoảng nó là vậy, cả hai là không thể được - nếu
bạn làm cho xương sống của bạn thẳng nó trở thành không thoải mái, nếu bạn trở
nên thoải mái, xương sống không còn thẳng - thế thì chọn thoải mái đi. Nó sẽ
không được tốt nhưng điều tốt tiếp đó là chọn thoải mái. Thế thì quên chuyện
xương sống và việc thẳng của nó đi, bởi vì tâm trí bị sao lãng, bởi vì nếu tâm
trí bị sao lãng, chẳng cái gì sẽ xảy ra. Nếu có thể có cả hai thế thì điều đó
là rất hay.
Ngồi trong tư thế thoải mái.
Người ta ngồi thẳng và trong tư thế thoải mái, và giữ cho tâm thành trung tâm
giữa những hoàn cảnh.
Và đừng trốn khỏi thế giới. Sống
trong thế giới, trong các hoàn cảnh của nó. Tiếng ồn giao thông có đó, và máy
bay bay qua, và tầu hoả qua lại như thoi và đủ mọi thứ có đó - tất cả những
tình huống này, thế giới đấy - nhưng bạn ngồi im lặng trong thế giới. Bởi vì trốn
lên hang Himalayan bao giờ cũng nguy hiểm - nguy hiểm bởi một lí do là im lặng
của Himalayas có tính lây nhiễm và bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã trở nên im lặng.
Và cái mát mẻ của không khí có tính lây nhiễm, và bạn sẽ nghĩ rằng bạn đã mát mẻ
lại. Nó sẽ là vay mượn, và bất kì khi nào bạn quay lại bãi chợ mọi thứ sẽ bị mất
đi. Và thế thì bạn sẽ biết rằng tất cả những năm ở Himalayas đã là sự phí hoài,
cực kì phí hoài: bạn đơn giản tự lừa bản thân bạn.
Tốt hơn cả là hiện hữu trong thế
giới và đạt tới việc định tâm, bởi vì thế thì nó không thể bị lấy đi khỏi bạn
được. Cho nên bất kì chỗ nào bạn ở, bạn đều phải trở nên được định tâm trong
các hoàn cảnh đó.
Điều đó không nhất thiết nghĩa
là ở giữa đầu.
Và bằng việc định tâm điều đó
không có nghĩa là bạn phải được định tâm vào giữa đầu.
Nó chỉ là vấn đề cố định suy
nghĩ của người ta vào điểm nằm đích xác ở giữa hai mắt.
Và nhớ, không tập trung, nhưng
vẫn còn tỉnh táo, chỉ tỉnh táo hơi chút: nhìn vào chỏm mũi và vẫn còn hơi tỉnh
táo tới con mắt thứ ba. Thực ra, khoảnh khắc bạn nhìn vào chỏm mũi bạn sẽ trở
nên tỉnh táo với con mắt thứ ba, bởi vì đó là cực kia của mũi. Một cực là chỏm
này, cực ngoài - một đầu; đầu kia của mũi được nối liền với con mắt thứ ba. Khoảnh
khắc bạn trở nên nhận biết về chỏm này bạn sẽ đột nhiên trở nên nhận biết về đầu
kia nữa. Nhưng vẫn còn nhận biết, nhận biết vô nỗ lực.
Nó chỉ là vấn đề cố định suy
nghĩ của người ta vào điểm nằm đích xác ở giữa hai mắt. Thế thì mọi sự đều tốt.
Một phát biểu mênh mông:
Thế thì mọi sự là tốt.
Bạn đã bắt đầu tới nhà. Bạn
đang ở ngưỡng của cuộc cách mạng.
Ánh sáng là cái gì đó cực kì
linh động.
Ánh sáng bao giờ cũng chuyển động,
ánh sáng là chuyển động. Và ánh sáng là chuyển động lớn nhất trên thế giới.
Trong một giây, tốc độ của ánh sáng là một trăm tám mươi sáu nghìn dặm (ba trăm
nghìn ki lô mét). Không cái gì chuyển động với tốc độ lớn hơn ánh sáng. Ánh
sáng là tốc độ thuần tuý, nó là cái tên khác cho tốc độ. Ánh sáng chưa bao giờ
ngủ, nó bao giờ cũng động, nó bao giờ cũng chuyển động, bao giờ cũng tuôn chảy.
Ánh sáng là cái gì đó cực kì
linh động. Khi người ta cố định ý nghĩ vào điểm giữa hai mắt, ánh sáng chảy
theo cách riêng của nó.
Bạn cần không lo nghĩ: chỉ mở cửa
sổ và chờ đợi. Ánh sáng là hiện tượng chuyển động tới mức nếu cửa sổ mở nó sẽ
đi vào. Thực ra, nó đã gõ cửa sổ nhiều nhiều kiếp rồi, nhưng cửa sổ đã không mở,
cho nên nó không thể buộc cửa sổ mở ra được. Cũng giống như vào buổi sáng mặt
trời đã lên và bạn còn ngủ say, và những tia sáng tới trên cửa sổ và chúng gõ
vào cửa sổ - nhưng cái gõ của chúng im lặng, chúng không tạo ra tiếng ồn nào,
và chúng đợi ở đó. Khoảnh khắc bạn thức dậy và bạn mở cửa sổ, ánh sáng tràn
vào. Và với ánh sáng cuộc sống tới, và với ánh sánh vui mừng tới.
Khi người ta cố định ý nghĩ vào
điểm giữa hai mắt, ánh sáng chảy theo cách riêng của nó.
Nhớ lời này
... theo cách riêng của nó.
Bạn không là người làm, bạn chỉ
là một loại buông bỏ: bạn buông xuôi theo ánh sáng.
Không cần hướng chú ý đặc biệt
vào lâu đài trung tâm. Trong vài lời này điều quan trọng nhất được hàm chứa.
Chính bí mật của việc biến đổi
toàn thể bản thể bạn, chính bí mật của vương quốc của Thượng đế, chính bí mật của
niết bàn...
‘Trung tâm ở giữa các hoàn cảnh'
là cách diễn đạt rất tinh tế. Trung tâm là toàn năng; mọi thứ đều được bao hàm
trong nó; nó được nối với việc đưa ra của toàn thể quá trình sáng tạo.
Và khi bạn đã đạt tới điểm con
mắt thứ ba và bạn được định tâm ở đó và ánh sáng tràn vào, bạn đã đạt tới điểm
từ đó toàn thể việc sáng tạo đã nảy sinh - bạn đã đạt tới cái vô dạng, cái
không biểu lộ - gọi nó là Thượng đế nếu bạn muốn. Đây là điểm đó, đây là không
gian đó, từ đây mọi thứ đã nảy sinh, đây là chính hạt mầm của toàn thể sự tồn tại.
Nó là toàn năng, nó là toàn diện, nó là vĩnh hằng.
Bây giờ bạn sẽ không biết tới
cái chết nào. Bây giờ bạn sẽ không biết sự đồng nhất nào với bất kì thân thể
nào - trẻ, già, đẹp, xấu. Bây giờ bạn sẽ không biết loại bệnh tật nào - không
phải là bệnh tật sẽ không xảy ra cho thân thể, nhưng chúng sẽ không xảy ra cho
bạn thêm nữa vì bạn không còn bị đồng nhất.
Ramana Maharshi chết vì ung
thư. Thân thể đang trong đau đớn nhưng ông ấy mỉm cười. Các bác sĩ phân vân, họ
không thể tin được vào điều đó. Điều đó là không thể nào tin nổi. Thân thể đang
trong đau đớn thế và ông ấy đã trong cực lạc lớn lao thế. Làm sao điều đó là có
thể được? Và họ cứ hỏi đi hỏi lại, “Làm sao điều đó là có thể được?” Và ông ấy
sẽ nói đi nói lại, “Chẳng có gì lạ về điều đó. Tôi không phải là thân thể. Cho
nên bất kì cái gì xảy ra trong thân thể, nó cũng hệt như bạn đang chứng kiến
thân thể tôi, tôi cũng đang chứng kiến thân thể tôi. Bạn không cảm thấy đau nào
cho nên sao tôi phải cảm thấy? Bạn là nhân chứng, tôi là nhân chứng. Thân thể
chỉ là một đối thể - một đối thể ở giữa cả hai chúng ta. Bạn đang thấy từ bên
ngoài rằng nó là đau đớn, tôi đang nhìn từ bên trong rằng nó là đau đớn. Nếu bạn
không bị ảnh hưởng chỉ bởi việc nhìn nó, sao tôi phải bị ảnh hưởng?”
Thực ra, các bác sĩ đã bị ảnh
hưởng. Họ cảm thấy rất thông cảm. Họ buồn, họ cảm thấy bất lực; họ muốn cứu người
này... một trong những người đẹp nhất đã từng bước đi trên trái đất, nhưng họ
không thể làm được. Họ khóc, nhưng Ramana không bị ảnh hưởng chút nào.
Có điểm siêu việt bên trong bạn
từ đó đột nhiên bạn trở nên được ngắt ra khỏi mọi cái biểu lộ và bạn trở nên được
nối với cái không biểu lộ. Được nối với cái không biểu lộ là được tự do - tự do
khỏi mọi khổ, mọi giới hạn, mọi tù túng.
Cố định trầm tư là không thể
thiếu được…
Và đây là cái gì đó mà bạn
không thể né tránh - nó là không thể thiếu được. Nếu bạn muốn đạt tới trạng
thái của cái đẹp bạn sẽ phải đi qua việc cố định này - quá trình trầm tư này,
thiền, hay dhyana.
…nó đảm bảo việc làm nhanh
chóng chứng ngộ. Duy nhất người ta phải không ngồi cứng nhắc nếu ý nghĩ trần tục
kéo tới…
Bây giờ phần thứ hai, lời
khuyên rất quan trọng từ Thầy:
…người ta phải không ngồi cứng
nhắc nếu ý nghĩ trần tục kéo tới, mà người ta phải xem xét ý nghĩ này ở đâu, nó
bắt đầu từ đâu, và nó nhạt nhoà ở đâu.
Điều này sẽ không xảy ra trong
việc thử đầu tiên. Bạn sẽ nhìn vào chỏm mũi và ý nghĩ sẽ tới. Chúng đã từng tới
trong nhiều kiếp rồi, chúng không thể bỏ bạn một mình dễ dàng thế. Chúng đã trở
thành một phần của bạn, chúng đã trở thành gần như là có sẵn. Bạn đang sống gần
như một cuộc sống được lập trình.
Bạn có bao giờ quan sát điều bạn
liên tục làm không? Thế thì sáng mai làm một điều đi: khoảnh khắc bạn thức dậy
buổi sáng, đơn giản quan sát điều bạn làm - cách bạn ra khỏi giường, cách bạn
di chuyển, ý nghĩ nào bạn có trong tâm trí... Chỉ quan sát. Và trong một tuần,
bạn quan sát: bạn sẽ ngạc nhiên - bạn làm đích xác cùng điều mọi sáng - cùng cử
chỉ, cùng khuôn mặt, và gần như cùng loại ý nghĩ. Bạn đã trở thành một hiện tượng
được lập trình, và bạn đã từng làm điều này trong cả đời bạn - và có thể trong
nhiều kiếp nữa, ai biết?
Khi bạn trở nên giận, quan sát
- nó bao giờ cũng là cùng một quá trình. Bạn đi qua cùng không gian. Khi bạn hạnh
phúc, quan sát; khi bạn rơi vào tình yêu, quan sát; và khi bạn rơi ra khỏi tình
yêu, quan sát. Nó gần như cùng một quá trình. Và bạn cứ làm cùng những điều ngu
xuẩn lặp đi lặp lại, và bạn cứ làm cùng những phát biểu ngu xuẩn lặp đi lặp lại.
Bạn không sống cuộc sống có ý thức. Chín mươi chín phần trăm của bạn được lập
trình - được lập trình bởi người khác, được lập trình bởi xã hội hay được lập
trình bởi bản thân bạn, nhưng nó được lập trình.
Cho nên điều đó là không dễ,
khi bạn ngồi lần đầu tiên, nhìn vào chỏm mũi, ý nghĩ sẽ nói, “Bây giờ chúng ta
sẽ không đi tới người này. Nhìn anh chàng đáng đương - anh ta đang thiền sâu sắc
thế! Và anh ta đang nhìn vào chỏm mũi... Đây không phải là lúc đi tới anh ta.”
Chúng sẽ không bận tâm. Chúng sẽ cứ xô đẩy. Chúng sẽ không bị ngăn cản bởi việc
bạn nhìn vào chỏm mũi. Thực ra, chúng có thể thậm chí còn nhiều vũ lực hơn, khi
thấy rằng "Người này đang cố thoát ra khỏi nắm giữ của chúng ta.”
Điều này xảy ra: khi mọi người
ngồi im lặng trong thiền nhiều ý nghĩ tới hơn là họ thường vẫn làm, nhiều hơn
chúng thường tới - việc bùng nổ bất thường. Cả triệu ý nghĩ xô vào, vì chúng có
đầu tư nào đó trong bạn - và bạn đang cố thoát ra khỏi quyền lực của chúng sao?
Chúng sẽ cho bạn thời kì gian nan.
Cho nên ý nghĩ nhất định tới. Bạn
định làm gì với các ý nghĩ? Bạn không thể cứ ngồi thừ ra đấy, bạn sẽ phải làm
cái gì đó. Tranh đấu sẽ không ích gì vì nếu bạn bắt đầu tranh đấu bạn sẽ quên
nhìn vào chỏm mũi, nhận biết về con mắt thứ ba, việc luân quang; bạn sẽ quên tất
cả và bạn sẽ bị lạc trong rừng ý nghĩ. Nếu bạn bắt đầu săn đuổi ý nghĩ bạn bị lạc,
nếu bạn cho phép chúng bạn bị lạc, nếu bạn tranh đấu với chúng bạn bị lạc. Thế
thì cái gì cần được làm?
Và đây là bí mật. Phật cũng đã
dùng cùng bí mật này. Thực ra, bí mật này gần như là như nhau vì con người là
như nhau - ổ khoá là như nhau, chìa khoá phải là như nhau. Đây là bí mật: Phật
gọi nó là sammasati, ghi nhớ đúng. Nhớ: ý nghĩ này đã tới, nhìn nơi nó tới -
không đối kháng, không biện minh, không kết án. Chỉ khách quan như nhà khoa học
có tính khách quan. Nhìn chỗ nó tới, nó tới từ đâu, nó đi đâu? Nhìn việc đến của
nó, nhìn việc ở lại của nó, nhìn việc đi của nó. Và ý nghĩ là rất linh động;
chúng không ở lại lâu. Bạn đơn giản phải quan sát việc nảy sinh của ý nghĩ này,
việc ở lại của ý nghĩ này, và việc đi của ý nghĩ này. Đừng cố tranh đấu, đừng cố
đi theo - chỉ là người quan sát im lặng - và bạn sẽ ngạc nhiên: quan sát càng
trở nên được lắng đọng, ý nghĩ càng ít tới hơn. Khi quan sát là hoàn hảo, ý
nghĩ biến mất, chỉ có khe hở còn lại, khoảng hở còn lại.
Nhưng nhớ một điểm: tâm trí lại
có thể giở thủ đoạn.
Không cái gì được thu lấy bằng
việc thúc đẩy suy nghĩ thêm nữa.
Nhưng đừng cố xô đẩy suy nghĩ
thêm nữa.
Đó là điều phân tâm theo phái
Freud làm, liên kết tự do với ý nghĩ: ý nghĩ này tới, và rồi bạn đợi ý nghĩ
khác, và thế rồi ý nghĩ khác, và toàn thể dây chuyền... Đó là điều mọi loại
phân tâm đang làm: bạn bắt đầu đi lùi lại trong quá khứ nhưng ý nghĩ này được nối
với ý nghĩ khác, và cứ thế mãi, tới vô hạn. Không có chỗ kết cho nó. Nếu bạn đi
vào trong nó bạn sẽ đi vào trong cuộc hành trình vĩnh hằng - điều đó sẽ là việc
phí hoài vô cùng. Tâm trí có thể làm điều đó, cho nên thận trọng về nó.
Không cái gì được thu lấy bằng
việc thúc đẩy suy nghĩ thêm nữa. Người ta phải bằng lòng nhìn nơi ý nghĩ nảy
sinh, và không tìm ra bên ngoài điểm khởi thuỷ; vì tìm ra tâm thức trung tâm,
đi ra đằng sau tâm thức bằng tâm thức - điều đó không thể được làm.
Bạn không thể đi cùng tâm thức
ra ngoài tâm thức, cho nên đừng cố điều vô tích sự, điều không cần thiết; bằng
không điều này sẽ dẫn bạn tới điều khác và cứ thế mãi, và bạn sẽ hoàn toàn quên
mất điều bạn đang cố làm ở đó. Chỏm mũi sẽ biến mất, con mắt thứ ba sẽ bị quên
đi, việc luân quang sẽ ở xa hàng dặm đường với bạn.
Cho nên chỉ ngần này thôi - một
ý nghĩ. Đừng đi vào dây chuyền. Một ý nghĩ nảy sinh: quan sát nơi nó ở, nơi nó
bắt nguồn và khi nào nó biến mất, quan sát - nó đã biến mất. Lưu ý.
Phật tử nói khi một ý nghĩ nảy
sinh, nói, “Ý nghĩ, ý nghĩ,” để cho bạn trở nên tỉnh táo. Cũng như kẻ trộm tới
trong nhà bạn nói, “Trộm! trộm!” và mọi người trở nên tỉnh táo, đơn giản nói,
“Ý nghĩ, ý nghĩ,” và bạn sẽ trở nên tỉnh táo, quan sát. Kẻ trộm đã vào: bây giờ
quan sát điều kẻ trộm làm.
Khoảnh khắc bạn trở nên nhận biết,
ý nghĩ sẽ dừng lại; nó sẽ nhìn bạn và nó sẽ có chút ngạc nhiên vì bạn chưa bao
giờ làm điều này trước đây. Nó sẽ cảm thấy không được đón chào chút ít. “Và cái
gì đã xảy ra cho người này? Người này bao giờ cũng là người chủ tốt, thế mà bây
giờ người này nói, ‘Trộm! trộm! Ý nghĩ, ý nghĩ’. Cái gì đã xảy ra cho người
này?” Ý nghĩ này sẽ đâm ra phân vân, sẽ không thể nào hiểu nổi cái gì đang xảy
ra. “Người này có sắp điên không, nhìn vào chỏm mũi và nói ‘Ý nghĩ, ý nghĩ’?”
Chính nhận biết sẽ dừng việc
chuyển động của ý nghĩ trong một lúc. Nó sẽ bị mắc kẹt ở đó. Và liên tục quan
sát. Đừng kết án, đừng ném nó ra, đừng tranh đấu, bởi vì cả kết án hay biện
minh, cả hai sẽ làm cho bạn bị đồng nhất với ý nghĩ. Đơn giản ở đó, nhìn vào ý
nghĩ. Thế thì nó bắt đầu biến mất. Cũng như nó tới, nó biến mất. Nó bắt nguồn từ
tưởng tượng, nó biến mất vào trong tưởng tượng. Một khi nó biến mất, bạn quay lại
với trầm tư. Bạn không cần đi tới chính cội nguồn của nó bởi vì không có gì; thế
thì bạn sẽ phải đi tới chính cội nguồn của sự tồn tại.
Đó là lí do tại sao phân tâm
không có chỗ cuối, nó không bao giờ được kết thúc. Không có một người nào trên
thế giới mà được phân tâm một cách toàn bộ. Không ai có thể được phân tâm một
cách toàn bộ. Một năm, hai năm, ba năm, bốn, năm, sáu, bẩy - bạn có thể thấy những
người đã từng đi vào phân tâm trong bẩy năm. Thế thì bạn nghĩ gì - họ có dừng lại
vì phân tâm được hoàn thành không? Không. Họ chán với nhà phân tâm, nhà phân
tâm chán với họ. Và mọi thứ phải được kết thúc ở đâu đó. Người ta phải đặt dấu
chấm hết. Bạn có thể tiếp diễn được bao lâu?
Nhưng không phân tâm nào đã bao
giờ hoàn thành - nó không thể được hoàn thành. Nó là củ hành vô hạn: bạn có thể
cứ bóc nó và bóc nó và bóc nó, và bạn sẽ không bao giờ đi tới chỗ cuối của nó.
Nhưng nó giúp đỡ. Nó làm cho bạn được điều chỉnh theo bản thân bạn và theo xã hội.
Nó không biến đổi bạn, nó làm cho bạn thành bình thường một cách bất thường, có
vậy thôi. Nó giúp bạn được điều chỉnh theo xã hội thần kinh trong đó bạn hiện hữu.
Nó làm cho bạn không là con người được biến đổi, chói sáng, nhưng là người bình
thường, người chấp nhận tất cả những điều cuộc sống đem lại, tốt và xấu, và là
người bắt đầu kéo lê bản thân mình như mọi người khác đang kéo lê. Nó dạy cho bạn
một loại chấp nhận buồn bã về cuộc sống. Nó không phải là chấp nhận đúng, bởi
vì chấp nhận đúng bao giờ cũng mang tới mở hội.
Sigmund Freud đã nói rằng con
người không thể hạnh phúc được, nhiều nhất con người có thể thoải mái. Cuộc sống
có thể được làm cho thoải mái hơn, có vậy thôi, nhưng hạnh phúc là không thể được.
Nó không phải là không thể được.
Nó là không thể được qua phân tâm. Bởi vì đã từng có những người hạnh phúc,
chúng ta đã thấy họ. Một Phật, một Lão Tử, một Krishna - chúng ta đã thấy những
người nhảy múa này. Freud không hạnh phúc - điều đó là đúng - và ông ấy không
thể hạnh phúc được. Chừng nào ông ấy chưa bỏ phân tâm và đi vào trong quá trình
thiền, ông ấy sẽ không hạnh phúc. Ông ấy sẽ phải lấy thêm vài kiếp nữa để học
thiền.
Thực ra, ông ấy rất sợ thiền.
Và không chỉ Sigmund Freud, mà thậm chí một người như Carl Gustav Jung cũng sợ.
Carl Gustav Jung đã viết một bài bình luận về cuốn sách này, Bí mật của Hoa
Vàng; nhưng nó chỉ là trí tuệ. Nó không có giá trị tồn tại. Bản thân ông ấy
không có kinh nghiệm về thiền - làm sao nó có thể có giá trị tồn tại nào được?
Và ông ấy là một người rất bản ngã, và người bản ngã thấy rất khó đi vào trong
thiền vì ở ngay cửa, bạn phải vứt bỏ bản ngã của bạn.
Jung đã tới Ấn Độ trong khi
Ramana Maharshi còn sống, và nhiều người đã gợi ý cho ông ấy, “Vì ông đã tới Ấn
Độ và ông quan tâm thế tới những bí ẩn bên trong của cuộc sống, sao ông không
đi tới Ramana? Ông viết bình luận về Bí mật của Hoa Vàng và ở đây hoa vàng đang
nở rộ - sao ông không đi tới Ramana?” Nhưng ông ấy không bao giờ đi. Ông ấy đã
du hành ở Ấn Độ, gặp gỡ nhiều người, nhưng chưa bao giờ đi tới gặp Ramana. Tại
sao? Nỗi sợ là gì? Ông ấy sợ đương đầu với người này, sợ đối diện với tấm gương
này.
Bạn đã bao giờ nhìn vào ảnh của
Jung chưa? Ngay cả trong ảnh bản ngã cũng rõ ràng thế. Freud dường như không bản
ngã như Jung. Có thể chính bản ngã của ông ấy mang ông ấy đi xa khỏi thầy ông ấy,
Sigmund Freud - điều đã làm cho ông ấy phản bội Freud. Cứ nhìn vào ảnh của ông ấy,
mắt ông ấy mà xem: rất tinh ranh, tính toán, dường như sẵn sàng nhảy lên bất kì
ai; cực kì bản ngã, nhưng rất láu lỉnh, thông minh, khéo léo về trí tuệ.
Nhớ lấy, phân tâm hay tâm lí
phân tích hay các nhánh khác của cùng một trò chơi này không thể đưa bạn tới hạnh
phúc được. Chúng chỉ có thể đưa bạn tới cuộc sống hờ hững của việc điều chỉnh.
Chúng không thể giúp bạn trở thành bắt lửa với mở hội; điều này ở bên ngoài
năng lực của chúng. Và lí do? Lí do là ở chỗ chúng cứ phân tích ý nghĩ. Phân
tích không được cần đâu.
Do đó Bí mật... nói:
Cùng nhau chúng ta muốn đem các
trạng thái của tâm về nghỉ ngơi, đó mới là trầm tư đúng.
Chúng ta muốn đem toàn thể con
người vào trong một loại nghỉ ngơi tuyệt đối. Phân tích sẽ không giúp ích, bởi
vì phân tích sẽ tạo ra rối loạn, bồn chồn.
Điều mâu thuẫn với nó là trầm
tư giả.
Phân tích là trầm tư giả.
Điều đó không đưa tới mục đích
nào. Khi ánh sáng của ý nghĩ cứ mở rộng thên nữa, người ta nên dừng lại và bắt
đầu trầm tư.
Cho nên hai điều này phải được
nhớ, đây là hai cánh. Một là, khi có một khoảng hở, không ý nghĩ nào tới: trầm
tư. Khi một ý nghĩ tới thế thì chỉ nhìn vào ba điều này: ý nghĩ ở đâu, nó đã tới
từ đâu, nó đi đâu. Trong một khoảnh khắc dừng nhìn vào khe hở, nhìn vào ý nghĩ
này, quan sát ý nghĩ này, nói tạm biệt nó; khi nó ra đi, lại lập tức quay về với
trầm tư.
Lần nữa, chỉ như một thí dụ: nếu
bạn đang nhìn vào khe hở giữa các xe chạy qua trên đường, khi một xe tới bạn sẽ
làm gì? Bạn sẽ phải quan sát xe nữa chứ, nhưng bạn không trở nên quan tâm về
xe. Bạn không trở nên quan tâm về hình dáng, loại xe, năm sản xuất, mầu xe, người
lái, hành khách. Bạn không trở nên quan tâm về tất cả những cái phân tích đó -
bạn đơn giản chú ý về chiếc xe: xe đã tới, xe có đó trước bạn, xe đã đi qua, và
lần nữa bạn trở nên quan tâm tới khe hở. Toàn thể mối quan tâm của bạn là vào
khe hở. Nhưng xe tới, cho nên trong một khoảnh khắc bạn phải chú ý tới nó. Thế
rồi nó qua đi, bạn lại bắt đầu rơi vào trong nghỉ ngơi, vào trong trầm tư, vào
trong khoảng hở.
Khi ánh sáng của ý nghĩ cứ mở rộng
thên nữa, người ta nên dừng lại và bắt đầu trầm tư. Để người ta trầm tư và thế
rồi bắt đầu nhìn cố định lần nữa.
Cho nên bất kì khi nào ý nghĩ tới,
nhìn vào nó. Bất kì khi nào ý nghĩ đi, trầm tư.
Đó là phương pháp kép làm nhanh
việc chứng ngộ. Nó có nghĩa là luân quang. Luân chuyển là nhìn cố định. Ánh
sáng là trầm tư.
Bất kì khi nào bạn trầm tư bạn
sẽ thấy ánh sáng tràn vào, và bất kì khi nào bạn nhìn cố định, bạn sẽ tạo ra sự
luân chuyển, bạn sẽ làm việc luân chuyển thành có thể. Cả hai đều được cần.
Ánh sáng là trầm tư. Nhìn cố định
không trầm tư là luân chuyển không ánh sáng.
Đó là điều đã xảy ra. Thảm hoạ
đó đã xảy ra cho hatha yoga: họ nhìn cố định, họ tập trung, nhưng họ đã quên
ánh sáng. Họ đã hoàn toàn quên mất vị khách, họ chỉ cứ chuẩn bị nhà. Họ đã trở
nên bị mê mải trong chuẩn bị nhà tới mức họ đã quên mục đích mà theo đó họ đang
chuẩn bị nhà, cho ai. Người hatha yogi liên tục chuẩn bị thân thể mình, làm thuần
khiết thân thể mình, làm các tư thế yoga, luyện thở, và cứ tập mãi, phát ngán.
Người đó đã hoàn toàn quên mất người đó đang làm điều đó vì cái gì. Và ánh sáng
đang đứng đó nhưng người đó sẽ không cho phép nó, bởi vì ánh sáng có thể tới chỉ
khi người đó hoàn toàn trong buông bỏ.
Nhìn cố định không trầm tư là
luân chuyển không ánh sáng.
Đây là thảm hoạ xảy ra cho cái
gọi là người yogis. Loại thảm hoạ khác xảy ra cho các nhà phân tâm, các triết
gia.
Trầm tư không nhìn cố định là
ánh sáng không luân chuyển.
Họ nghĩ về ánh sáng, nhưng họ
đã không làm việc chuẩn bị cho nó để tràn ngập bên trong; họ chỉ nghĩ về ánh
sáng. Họ nghĩ về vị khách: họ tưởng tượng cả nghìn lẻ một thứ về khách, nhưng
nhà họ không sẵn sàng. Cả hai đều bỏ lỡ.
Thầy nói
Lưu ý tới điều đó!
Bằng không bạn cũng có thể bỏ lỡ.
Chuẩn bị và thế rồi chờ đợi. Sẵn sàng. Nhìn vào chỏm mũi, tỉnh táo với con mắt
thứ ba, và dựng thẳng cột sống, tư thế thoải mái - đó là mọi điều bạn phải làm
- nhiều hơn thế là không cần. Không cần liên tục hàng năm làm các tư thế yoga,
hết năm nọ tới năm kia. Điều đó là ngu xuẩn. Và đó là lí do tại sao bạn sẽ thấy
cái gọi là những người yogis trông ngu xuẩn thế, không thông minh. Có thể thân
thể họ mạnh mẽ và họ sẽ sống lâu, nhưng phỏng có ích gì về điều đó?
Không có ánh sáng, cuộc sống sẽ
vẫn còn không thông minh và tăm tối. Dù bạn sống lâu hay ngắn không tạo ra khác
biệt gì. Vấn đề thực là sống trong ánh sáng cho dù chỉ một khoảnh khắc, và thế
thì nó là đủ - riêng một khoảnh khắc đó là vĩnh hằng.
Và có các triết gia cứ nghĩ mãi
về ánh sáng - nó là gì, làm sao định nghĩa nó, và định nghĩa nào là tốt nhất và
họ thường xuyên tạo ra nhiều lí thuyết, giáo điều, các hệ thống tư tưởng lớn -
nhưng họ không sẵn sàng cho nó... và ánh sáng đang đợi ngay cửa.
Lưu ý tới điều đó!
Đừng rơi vào trong cả hai ảo tưởng
này. Nếu bạn có thể vẫn còn tỉnh táo, nó là quá trình rất đơn giản và biến đổi
mênh mông. Trong một khoảnh khắc, người hiểu đúng có thể đi vào trong một loại
thực tại tách rời.
Thượng đế là không xa xôi, Thượng
đế ở bên trong bạn.
Đủ cho hôm nay.