Chương 10. Vì tình yêu, chúng ta cùng nhau

Chương 10. Vì tình yêu, chúng ta cùng nhau

Price:

Read more

Osho - Bí mật của những bí mật (Tập 2)
Chương 10. Vì tình yêu, chúng ta cùng nhau
Ngày 5 tháng 9 năm 1978, buổi sáng tại thính đường Phật

Câu hỏi 1
Thầy có thể cho tôi một thông điệp để đem sang thế giới phương Tây để cho mọi người ở đó có thể hiểu thầy và người đi theo của thầy không?
Joey Simons, thông điệp của tôi là rất đơn giản. Đó là lí do tại sao nó lại khó hiểu. Tôi dạy điều hiển nhiên, nó không phức tạp chút nào. Bởi vì nó không phức tạp nên chẳng có gì mấy để hiểu trong nó. Nó phải được sống, được kinh nghiệm. Thông điệp của tôi không phải bằng lời, logic, có lí. Nó là tính tồn tại. Cho nên những người muốn hiểu nó về mặt trí tuệ sẽ chỉ hiểu sai nó.
Dầu vậy, có vài điều nền tảng tôi muốn nói cho bạn. Một: mãi cho tới giờ con người đã sống chỉ theo cách nửa vời. Ở phương Đông, ở phương Tây, con người vẫn còn bị thiên lệch. Người phương Đông đã không là toàn thể mà người phương Tây cũng không là toàn thể. Phương Tây đã chọn thân thể, hướng theo thân thể; phương Đông đã chọn linh hồn, hướng theo linh hồn; và con người là cả hai, sự hài hoà lớn của cả hai. Con người là cả hai và là sự siêu việt. Cả phương Đông lẫn phương Tây đều đã không chấp nhận một cách toàn bộ. Chúng ta đã chưa dám chấp nhận con người trong tính toàn bộ của người đó.
Đó là một trong những điều nền tảng nhất tôi muốn mọi người hiểu về giáo huấn của tôi: tôi dạy con người toàn thể. Chính ý tưởng về phương Đông và phương Tây là vô nghĩa. Điều đó nữa cũng là vì phân chia cổ đại. Mọi phân chia đều phải tan biến. Tôi dạy một thế giới.
Đông và Tây phải biến mất. Cả hai đều tinh thần phân liệt. Phương Tây là bên phải, phương Đông là bên trái; phương Tây là tích cực, phương Đông là thụ động; phương Tây là hướng ngoại, phương Đông là hướng nội - nhưng con người là cả hai và bên ngoài cả hai.
Là toàn bộ, người ta phải hiện hữu như có năng lực vừa là hướng ngoại cũng như vừa là hướng nội. Là toàn bộ, người ta phải có năng lực của việc thở ra và việc thở vào. Thở vào được cần nhiều như thở ra. Thực ra, chúng không phải là hai: thở ra-thở vào là một quá trình.
Phương Tây đã chọn thế giới bên ngoài - vật chất- đã trở nên rất khoa học, đã tạo ra công nghệ lớn, nhưng con người bị nghiền nát dưới công nghệ đó bởi vì con người đã không trưởng thành đồng thời. Con người bị tụt lại sau, khoa học đã đi xa lên trước, và khoa học mà con người đã tạo ra bây giờ đang phá huỷ bản thân con người.
Thế giới bên trong của con người vẫn còn nghèo nàn ở phương Tây, con người bị đói về tâm linh ở phương Tây. Và cùng điều này đã xảy ra ở phương Đông từ cực đoan kia: con người đã hoàn toàn phủ nhận thân thể mình, thế giới của mình. Phương Đông đã nhấn mạnh vào việc phủ nhận mọi cái ở bên ngoài bạn, từ bỏ thế giới được biểu lộ và chỉ đi vào trong, vẫn còn tại trung tâm của bạn. Phương Đông giầu có về tâm linh nhưng về vật chất rất nghèo nàn và chết đói. Phương Đông đã khổ, phương Tây đã khổ.
Thông điệp của tôi là: bây giờ là lúc chúng ta nên bỏ phân chia này của bên ngoài và bên trong, của thấp hơn và cao hơn, của bên trái và bên phải. Chúng ta nên bỏ phân chia này giữa đàn ông và đàn bà, giữa Đông và Tây. Chúng ta nên tạo ra con người toàn thể, người có khả năng của cả hai.
Đó là lí do tại sao tôi sẽ bị hiểu lầm ở mọi nơi. Người tôn giáo phương Đông giận tôi vì người đó nghĩ tôi đang dạy về vật chất, và nhà tư tưởng phương Tây giận tôi vì người đó nghĩ tôi đang dạy sùng bái mù quáng tâm linh. Mọi người đều giận tôi - và điều đó là tự nhiên, tôi có thể hiểu được điều đó.
Tôi dạy về con người toàn thể, từ bậc thấp nhất của chiếc thang cho tới bậc cao nhất - từ dục tới samadhi, từ thân thể tới linh hồn, từ vật chất tới Thượng đế. Tin cậy của tôi là toàn bộ.
Tôi muốn nói với bạn rằng mãi cho tới giờ con người đã không được tin cậy. Ngay cả ở phương Đông con người đã không được tin cậy. Ở phương Đông con người đã hoài nghi về thế giới, do đó ở phương Đông thế giới được gọi là ảo tưởng, maya. Ở phương Tây con người đã hoài nghi Thượng đế, linh hồn. Chúng bị coi chỉ là ảo giác, bệnh hoạn. Với tâm trí thực sự phương Tây Jesus có vẻ như thần kinh, ốm về tâm lí, cần trị liệu tâm thần. Với phương Đông, phương Tây có vẻ như con vật - “Ăn, uống, và vui vẻ” - điều đó dường như là hiểu biết của phương Đông về phương Tây. Rằng đó là triết lí phương Tây duy nhất: như con vật, thô thiển. Phương Tây đã hoài nghi về thế giới bên trong, phương Đông đã hoài nghi về thế giới bên ngoài. Cả hai đã sống trong hoài nghi và tin cậy của họ đã là nửa vời.
Tin cậy của tôi là toàn bộ. Tôi tin cậy vào cái bên ngoài, tôi tin cậy vào cái bên trong - bởi vì bên ngoài và bên trong cả hai là cùng nhau, chúng không thể bị tách rời. Không có Thượng đế không có thể giới này, không có thế giới không có Thượng đế. Thượng đế là cốt lõi bên trong nhất của thế giới này. Nhựa cây chảy trong cây là Thượng đế, máu luân chuyển trong thân thể bạn là Thượng đế, tâm thức cư ngụ trong bạn là Thượng đế. Thượng đế và thế giới được trộn lẫn vào nhau cũng như vũ công và điệu vũ của người đó: chúng không thể bị tách rời, chúng là không tách rời được. Cho nên tôi không nói thế giới là ảo tưởng - điều đó là vô nghĩa. Thế giới là thực như tâm thức. Tôi cũng không nói rằng thế giới bên trong là thần kinh, điên, ảo giác. Nó không vậy. Nó là chính nền tảng của thực tại.
Tôi dạy con người toàn thể. Tôi không là người vật chất, không là người tâm linh. Cách tiếp cận của tôi là có tính toàn thể - và con người toàn thể chỉ có thể là linh thiêng.
Bởi vì điều này mà sẽ có hiểu lầm lớn về tôi, và bất kì ai cũng có thể lấy ra mọi sự, tìm ra lỗi với tôi, và điều đó rất dễ dàng. Người tâm linh có thể gọi tôi là Epicurean, một người đi theo của Charvaka - và người đó không tuyệt đối sai bởi vì một nửa của tôi là Epicurean. Tôi chấp nhận Epicurus và Charvaka bởi vì họ dạy thân thể và niềm vui của thân thể và niềm hồ hởi của thân thể.
Và có hồ hởi trong thân thể, và khoảnh khắc bạn vứt bỏ điều đó, bạn trở thành nghiêm trang và buồn.
Đó là lí do tại sao thánh nhân phương Đông trong buồn thế, không vui. Họ nói về phúc lạc nhưng điều đó không hiện lên trên mặt họ. Họ có vẻ hoàn toàn khổ. Họ có vẻ hoàn toàn chết - bởi vì họ sợ bên ngoài, và người sợ bên ngoài sẽ sợ yêu bởi vì yêu là quá trình tiếp diễn. Yêu nghĩa là người khác, yêu nghĩa là quan hệ, yêu nghĩa là trao đổi với người khác. Yêu nghĩa là quan hệ giữa ta và người. Phương Đông phủ nhận người khác, do đó phương Đông chống lại yêu. Và nếu bạn chống lại yêu bạn sẽ làm mất điệu vũ.
Không có yêu, không có điệu vũ trong cuộc sống và không có bài ca. Không có yêu sẽ không có thơ ca. Cuộc sống trở thành đờ đẫn, kéo lê. Không có yêu bạn có thể sống, nhưng chỉ ở mức tối thiểu. Nó sẽ gần như sống thực vật. Và đó là điều đang xảy ra cho tâm linh phương Đông; đi vào trong các tu viện, đi vào đạo tràng...
Đó là lí do tại sao đạo tràng của tôi trông hoàn toàn khác biệt thế - bởi vì mọi người nhảy múa, ca hát, cầm tay nhau, ôm ghì, yêu, vui vẻ. Đây không phải là khái niệm phương Đông về đạo tràng. Đạo tràng phải tuyệt đối không vui vẻ, nó phải giống nhiều với nghĩa địa hơn là giống vườn hoa, bởi vì khoảnh khắc bạn thôi yêu, mọi cái đang tuôn chảy trong bạn dừng lại, trở thành tù đọng. Bạn không thể mở hội mà không có yêu. Làm sao bạn có thể mở hội mà không có yêu được? Và bạn sẽ mở hội cái gì, và với cái gì?
Mulla Nasruddin một hôm nói với tôi, “Tôi đã sống một trăm năm. Tôi đã mở hội ngày sinh thứ một trăm, và tôi chưa bao giờ săn đuổi một người đàn bà nào trong đời tôi, và tôi còn chưa từng uống rượu bao giờ. Tôi chưa bao giờ chơi bài, đánh bạc, tôi không hút thuốc, tôi ăn đơn giản, thức ăn chay.”
Tôi hỏi anh ta, “Nhưng thế thì làm sao anh đã mở hội lần thứ một trăm được? Làm sao anh có thể mở hội được? Với cái gì? Và để làm gì? Chỉ sống một trăm năm không thể là việc mở hội. Anh đã không sống nếu anh đã không yêu!”
Phương Đông chống lại yêu. Đó là lí do tại sao tâm linh phương Đông là buồn, đờ đẫn, chết. Không nhựa sống nào chảy qua thánh nhân phương Đông. Ông ấy sợ bất kì luồng chảy nào, bất kì rung động nào, bất kì nhịp đập nào, bất kì dòng chảy nào của năng lượng của ông ấy. Ông ấy thường xuyên tự kiểm soát mình, kìm nén bản thân mình. Ông ấy ngồi trên bản thân mình, cảnh giác. Ông ấy chống lại bản thân mình và chống lại thế giới. Ông ấy đơn giản chờ đợi tới chết. Ông ấy đang tự tử dần.
Đó là lí do tại sao đạo tràng của tôi sẽ bị hiểu lầm. Điều này sẽ có vẻ giống như đạo tràng của Charvaka, điều này sẽ có vẻ giống như vườn của Epicurus.
Người phương Tây đã yêu - có tiếng cười và có nhảy múa và có bài ca - nhưng người phương Tây đã đánh mất mọi ý tưởng về mình là ai. Người đó đã đánh mất dấu vết của tâm thức, người đó không nhận biết. Người đó đã trở nên ngày một máy móc bởi vì người đó phủ nhận cái bên trong. Cho nên tiếng cười có đó nhưng tiếng cười không thể đi sâu, bởi vì không có chiều sâu. Chiều sâu không được chấp nhận. Cho nên phương Tây sống trong tiếng cười nông cạn và phương Đông sống trong nỗi buồn sâu sắc. Đây là khổ, đau đớn, điều đã xảy ra cho con người.
Thông điệp của tôi là: bây giờ là đúng lúc, con người đủ trưởng thành để đi ra khỏi những hình mẫu thiên lệch, nửa vời này. Những chương trình này phải bị loại bỏ và thay đổi. Người ta nên chấp nhận cả hai cái bên ngoài và cái bên trong, và một cách toàn bộ, và không điều kiện nào cả. Thế thì sẽ có tâm thức và sẽ có yêu, và chúng sẽ không mâu thuẫn lẫn nhau mà bổ sung cho nhau. Yêu sẽ cho bạn vui vẻ, tâm thức sẽ cho bạn việc kết tinh. Tâm thức sẽ làm cho bạn nhận biết bạn là ai, yêu sẽ làm cho bạn nhận biết về thế giới này là gì. Và giữa hai bờ này, dòng sông cuộc sống tuôn chảy. Tôi dạy con người toàn thể.
Đây là một trong những điều nền tảng nhất cần được hiểu - thế thì mọi thứ khác sẽ trở nên dễ dàng, thế thì mọi thứ sẽ đơn giản. Đây là cơ sở. Tôi dạy thế giới và tôi dạy Thượng đế, và tôi dạy họ theo cùng hơi thở. Tôi muốn đem Epicurus và Phật lại gần nhất có thể được. Phật đang ngồi dưới gốc cây; bạn không thể quan niệm được Phật nhảy múa. Epicurus đang nhảy múa trong vườn; bạn không thể quan niệm được về Epicurus ngồi im lặng dưới gốc cây, thiền. Tôi muốn Epicurus và Phật trở thành một.
Cuộc sống nên là nhịp điệu của nhảy múa và im lặng, của âm nhạc và âm thanh và im lặng. Cuộc sống nên là nhịp điệu của đi ra xa nhất có thể được và đi vào xa nhất có thể được, bởi vì Thượng đế là cả hai. Nhắm mắt lại và bạn thấy Thượng đế, mở mắt ra và bạn thấy Thượng đế, bởi vì Thượng đế là tất cả mọi thứ có đó.
Joey, bạn hỏi tôi, “Thầy có thể cho tôi một thông điệp để đem sang thế giới phương Tây để cho mọi người ở đó có thể hiểu được thầy và người đi theo của thầy không?”
Những người ở cùng tôi không phải là người đi theo của tôi. Họ là người yêu của tôi, nhưng không phải là người đi theo của tôi. Họ là bạn tôi, nhưng không là người đi theo của tôi. Họ là đệ tử của tôi, nhưng không là người đi theo của tôi.
Và khác biệt gì giữa đệ tử và người đi theo? Người đi theo tin tưởng: bất kì cái gì được nói, người đó làm ra tín điều từ nó. Đệ tử lắng nghe, học, thực nghiệm, và chừng nào người đó chưa tự mình tìm ra chân lí người đó vẫn còn mở.
Tôi không cho bạn bất kì giáo điều nào, tôi ở đây, cho các sannyasin của tôi. Mọi điều tôi làm ở đây là giúp họ hiểu bản thân họ. Mọi điều tôi đang làm ở đây là giúp họ là bản thân họ.
Người đi theo bắt chước. Người Ki tô giáo phải bắt chước Christ và Phật tử phải bắt chước Phật - và mọi người bắt chước đều là rởm. Tôi muốn bạn của tôi là đích thực. Làm sao bạn có thể theo tôi được? Tôi khác biệt thế với bạn và bạn khác biệt thế với tôi. Bạn là duy nhất thế. Chưa bao giờ có một người giống như bạn và sẽ không bao giờ có lần nữa. Thượng đế chỉ tạo ra một người một lần. Ngài rất phát kiến, Ngài không lặp lại. Ngài không làm ra con người trên dây chuyền lắp ráp. Nó không giống như xe Fiat hay xe Ford: bạn có thể thấy hàng nghìn và hàng nghìn chiếc giống nhau, đích xác như nhau. Thượng đế bao giờ cũng tạo ra sự duy nhất. Đi vào trong vườn: bạn sẽ không thấy hai nhành cỏ nào như nhau. Thậm chí các anh chị em sinh đôi đồng nhất cũng không như nhau. Cho nên làm sao bạn có thể theo được bất kì ai? Tất cả việc theo sau đều sai.
Cho nên thông điệp thứ hai của tôi: con người phải không theo bất kì ai. Hiểu một cách chắc chắn, học một cách chắc chắn, lắng nghe một cách chắc chắn, vẫn còn mở, nhưng đi theo tính tự phát bên trong riêng của bạn, đi theo bản thể riêng của bạn. Tôi giúp mọi người ở đây là chính bản thân họ. Cũng như trong vườn tôi giúp cho hoa hồng là hoa hồng và hoa sen là hoa sen. Tôi không cố giúp hoa sen là hoa hồng. Thế giới là giầu có vì có tính đa dạng. Thế giới sẽ xấu đi nếu chỉ hoa hồng mọc và không có hoa nào khác. Hàng nghìn hoa trưởng thành, và thế giới là đẹp. Từng người đều phải là bản thân mình một cách đích thực, hoàn toàn là bản thân mình.
Cho nên các sannyasins ở đây cùng tôi không phải là người đi theo của tôi. Họ yêu tôi, qua tình yêu của họ, họ đã tới gần tôi. Tình yêu của họ đã đem tôi tới đây, tình yêu của họ đã mang họ tới đây - bởi vì tình yêu chúng ta ở cùng nhau - nhưng tôi không là người lãnh đạo và họ không là người theo sau. Và tôi không tạo ra sự sùng bái, tôi không quan tâm tới việc tạo ra nhà thờ. Sannyasins chỉ là một công xã các bạn bè, không phải nhà thờ. Chúng ta không có bất kì giáo điều nào mà mọi người phải tin vào. Không có gì để được tin, nhưng hàng triệu điều cần được thực nghiệm. Đạo tràng của tôi là phòng thí nghiệm, chúng ta thực nghiệm ở đây. Điều đó nữa đang tạo ra rắc rối lớn, bởi vì con người đã quên mất thực nghiệm.
Chúng ta đang thực nghiệm theo cách đa chiều. Chúng ta đang thực nghiệm với Đạo, chúng ta đang thực nghiệm với Sufi giáo, chúng ta đang thực nghiệm với Jaina giáo, Hindu giáo, Hồi giáo, Ki tô giáo, chúng ta đang thực nghiệm với Mật tông, Yoga, giả kim thuật. Chúng ta đang thực nghiệm với mọi khả năng mà có thể làm cho tâm thức con người giầu có và con người là toàn thể. Điều đó đang tạo ra rắc rối, bởi vì khi những người theo Yoga tới, người đó không thể hiểu được tại sao Mật tông phải được thực nghiệm; người đó chống lại Mật tông. Khi những người theo Mật tông tới, người đó không thể thấy được tại sao Yoga nên được thực nghiệm; người đó chống lại Yoga.
Tôi không chống lại cái gì. Tôi ủng hộ tất cả. Tôi có quyền dùng toàn thể di sản kế thừa của nhân loại, và bất kì cái gì là tốt trong bất kì tín ngưỡng nào đều là của tôi, và bất kì cái gì có thể làm cho con người giầu có hơn đều là của tôi. Tôi không thuộc vào bất kì tín ngưỡng nào, mọi tín ngưỡng đều thuộc về tôi.
Cho nên đây là thực nghiệm mới. Nó chưa bao giờ được thực hiện trước đây theo cách như vậy: đây là tổng hợp của mọi con đường. Cho nên tôi thuyết giảng về tổng hợp. Và cảm giác của tôi là ở chỗ người chỉ mới thực nghiệm với Yoga sẽ vẫn còn là bộ phận, sẽ trưởng thành chỉ trong bộ phận - dường như tay của con người đã trở thành quá lớn và toàn thân vẫn còn quá nhỏ. Người đó sẽ là con quỉ... trừ phi người đó có thể thực nghiệm với Mật tông nữa, bởi vì Mật tông là phần bù cho Yoga.
Nhớ lấy, đây là một trong những sáng suốt cơ bản của tôi: rằng trong cuộc sống không có mâu thuẫn, mọi mâu thuẫn đều là bù nhau. Đêm là bù cho ngày, mùa hè là bù cho mùa đông, chết là bù cho sống. Chúng không chống lại lẫn nhau. Không có gì chống đối cả, bởi vì chỉ có một năng lượng thôi - nó là một Thượng đế. Tay trái của tôi và tay phải của tôi không chống lại lẫn nhau, chúng là phần bù. Các đối lập chỉ là đôi cánh con chim, hai cánh - chúng có vẻ đối lập với nhau nhưng chúng hỗ trợ cho nhau. Chim không thể bay bằng một cánh.
Mật tông và Đạo phải được thực nghiệm cùng nhau.
Bây giờ Yoga có sáng suốt lớn trong kỉ luật, và Đạo có sáng suốt lớn trong tính tự phát. Chúng là đối lập, trên bề mặt. Nhưng chừng nào kỉ luật của bạn chưa làm cho bạn thành tự phát hơn và chừng nào tính tự phát của bạn chưa làm cho bạn có kỉ luật hơn, bạn sẽ không là toàn thể. Yoga là kiểm soát, Mật tông là không kiểm soát, và cả hai đều được cần. Con người phải có khả năng trật tự tới mức nếu nhu cầu nảy sinh người đó có thể hoạt động theo trật tự hoàn toàn. Nhưng trật tự không nên trở thành việc cố định, bằng không người đó sẽ trở thành một robot. Người đó nên có khả năng đi ra khỏi hệ thống của mình, kỉ luật của mình, bất kì khi nào nhu cầu nảy sinh, và người đó có thể tự phát, nổi, trong buông bỏ. Điều đó người đó có thể có được chỉ qua Mật tông, không từ chỗ nào khác cả.
Tôi đang mang mọi cái đối lập vào trong cuộc sống của các sannyasin của tôi như những phần bù. Người Yogis sẽ chống lại tôi bởi vì họ không thể nào thấy được làm sao dục và yêu có thể là một phần của cuộc đời của người tìm kiếm. Họ sợ. Họ sợ dục vì dục là điều tự phát nhất trong đời bạn - nó phải được kiểm soát. Họ biết rằng một khi dục được kiểm soát, mọi thứ khác đều được kiểm soát, cho nên công kích cơ bản của họ là vào dục. Mật tông nói nếu dục của bạn không tự phát, toàn thể cuộc đời bạn sẽ trở thành như robot. Nó phải trong tự do. Và cả hai đều đúng, và cả hai đều đúng cùng nhau! - đây là cách tiếp cận của tôi. Tôi sẽ có vẻ ngớ ngẩn bởi vì cách tiếp cận của tôi là rất phi logic. Logic bao giờ cũng nhấn mạnh: hoặc là người Yogi hoặc là người Mật tông. Tôi tin vào cuộc sống, tôi không tin vào logic - và cuộc sống là cả hai cùng nhau.
Kỉ luật lớn là được cần trong cuộc sống, bởi vì bạn phải sống trong thế giới với nhiều người thế, bạn phải sống trong kỉ luật; bằng không cuộc sống sẽ trở thành hỗn độn. Cuộc sống sẽ trở thành không thể được nếu bạn không thể sống trong kỉ luật. Nhưng nếu bạn chỉ sống trong kỉ luật và bạn quên tính tự phát và bạn trở thành kỉ luật và bạn không có khả năng thoát ra khỏi nó, thế thì lần nữa cuộc sống bị mất, bạn đã trở thành cái máy. Bây giờ, đây là hai phương án đã từng có sẵn cho con người mãi tới giờ: hoặc trở thành hỗn độn - điều này không tốt, hoặc trở thành cái máy - điều này cũng không tốt.
Tôi muốn bạn tỉnh táo, có ý thức, nhận biết, có kỉ luật, và vậy mà có khả năng tự phát. Khi bạn làm việc, có kỉ luật đi. Nhưng công việc không phải là tất cả. Khi bạn chơi, quên mọi kỉ luật đi.
Tôi thường ở trong một nhà ở Calcutta với ông chánh án toà thượng thẩm. Vợ ông ấy bảo tôi, “Chồng tôi chỉ nghe thầy thôi. Thầy là người duy nhất có thể đem cái gì đó vào đời ông ấy. Cả gia đình tôi phát mệt về thái độ của ông ấy. Ông ấy vẫn còn là quan toà ngay cả ở trong ngôi nhà này.” Cô ấy nói, “Ngay cả trong giường ông ấy vẫn còn là chánh án của toà thượng thẩm. Ông ấy mong đợi tôi gọi ông ấy, ‘Thưa chánh án’. Ông ấy không bao giờ tự phát, và trong mọi thứ ông ấy đều làm ra qui tắc và luật. Con cái phát mệt. Khi ông ấy vào nhà cả nhà rơi vào im lặng, mọi vui vẻ biến mất. Tất cả chúng tôi đợi ông ấy đi ra toà án.”
Bây giờ tôi biết người đó: ông ấy là chánh án tốt, một quan toà rất có tận tuỵ, rất chân thành, trung thực - và đây là những phẩm chất tốt - nhưng ông ấy đã trở thành cái máy. Nếu ông ấy về nhà và vẫn còn là quan toà, điều đó là không tốt. Người ta phải thảnh thơi nữa chứ. Người ta phải chơi với con cái, nhưng ông ấy không thể chơi với con cái được; điều đó sẽ là đi xuống quá nhiều. Ngay cả với vợ ông ta vẫn còn trên chỗ cao, xa xôi - ông ấy vẫn còn là quan toà.
Đây là điều đã xảy ra cho những người đi theo Yoga: họ không thể vui đùa được, họ không thể hân hoan trong bất kì cái gì, họ không thể tham gia được vào mở hội - bởi vì họ không thể thảnh thơi được.
Và một mình Mật tông tạo ra hỗn độn. Một mình Mật tông làm cho bạn rất, rất ích kỉ. Bạn không chăm nom tới bất kì ai. Bạn quên rằng bạn là một phần của cái toàn thể lớn, rằng bạn thuộc vào xã hội, rằng bạn thuộc vào sự tồn tại và bạn được cam kết với sự tồn tại này, không có nó bạn sẽ không ở đâu cả: bạn phải hoàn thành nhu cầu nào đó từ một phía của sự tồn tại, từ phía của xã hội. Nếu bạn trở nên hoàn toàn hỗn độn, thế thì bạn không thể tồn tại được. Thế thì không ai có thể tồn tại được.
Cho nên phải có hiểu biết lớn giữa hỗn độn và tính máy móc, và đích xác ở giữa có một điểm mà tôi muốn các sannyasin của tôi hiện hữu: đích xác ở giữa, có năng lực đi theo cả hai cực đoan khi được cần, và bao giờ cũng có năng lực đi xa khỏi đó. Tôi dạy tính linh động này, tôi dạy sự linh động này.
Tôi không dạy các hình mẫu cố định, các động thái chết. Tôi dạy sự tổng hợp cuộc sống đang phát triển, hình mẫu phát triển, động thái phát triển, và bao giờ cũng có năng lực hiểu cái kia, cái đối lập. Thế thì cuộc sống là đẹp.
Và người ta có thể biết tới chân lí chỉ khi người ta đã có khả năng biến đổi các cái đối lập thành những phần bù. Chỉ thế thì cuộc sống của người ta mới đối xứng. Có cân bằng - khẳng định và phủ định cả hai được cân bằng tương đương. Trong việc làm cân bằng đó là siêu việt. Trong việc làm cân bằng đó người ta biết cõi bên kia, người ta mở ra tới cõi bên kia: Hoa Vàng nở ra.
Câu hỏi 2
Tôi phải làm gì? - theo con đường của hành động hay con đường của tri thức hay con đường của sùng kính?
Theo cả ba đi. Hành động với tình yêu và nhận biết. Yêu với nhận biết, và để tình yêu của bạn có tính sáng tạo. Đem nhận biết vào, không chống lại yêu, nhưng đầy cam lồ của yêu. Và để cho nhận biết của bạn tham gia vào trong sự tồn tại, để nó có tính sáng tạo. Ba con đường này là một phần của bản thể bạn.
Đây là ba ngôi thực, và nếu bạn né tránh một con đường thế thì cái gì đó trong bạn sẽ bị phủ nhận và sẽ vẫn còn bị mắc kẹt. Và nhớ rằng bạn có thể trưởng thành chỉ như một con người toàn bộ. Nếu bạn muốn đi tới tôi bạn có thể tới chỉ nếu toàn thể bản thể bạn tới đây. Một tay của bạn không thể tới được, một chân của bạn không thể tới được.
Tôi đã nghe về một dân làng. Anh ta đi tới thành phố thủ đô của nước mình lần đầu tiên và anh ta đề nghị người lái taxi đưa anh ta tới chỗ nào đó. Bây giờ nó là một chỗ lớn. Người lái taxi hỏi, “Phần nào?” Và anh dân làng nói, “Còn phần nào nữa? Tôi muốn đi toàn thể.”
Bạn không thể đi theo các bộ phận. Bạn chỉ có thể đi khi bạn là toàn thể. Bây giờ hành động là điều phải có. Nhận biết cũng vậy, yêu cũng vậy. Tại sao bạn phải chọn? - không cần đâu. Mọi chọn lựa sẽ là tự tử. Để cả ba trộn lẫn và gặp gỡ và hội nhập và trở thành một. Là ba ngôi đi, là trimurti này đi. Đây là ba mặt của Thượng đế.
Mẹ vợ của Mulla Nasruddin chết ở nơi xa tại Brazil. Với viễn cảm anh ta được hỏi thi hài nên được xử trí thế nào. Anh ta đáp, “Ướp, thiêu, chôn. Không chọn khả năng nào.”
Câu hỏi 3
Như thầy tự gọi thầy là ‘Thượng đế’, nghĩa của từ này là gì?
Và có nhiều Thượng đế không? Họ là ai?
Joey, tôi là Thượng đế bởi vì tôi không hiện hữu. Và khoảnh khắc bạn không hiện hữu, bạn cũng là Thượng đế. Thượng đế không phải là cái gì đó đặc biệt; Thượng đế là chính sự hiện hữu của chúng ta, Thượng đế là chính sự tồn tại của chúng ta. Khi tôi nói tôi là Thượng đế tôi đơn giản nói tôi tồn tại. Sự tồn tại và Thượng đế là đồng nghĩa trong ngôn ngữ của tôi. Tôi nói cây cũng là Thượng đế, và đá cũng vậy, và bạn cũng vậy.
Vâng, Joey, ngay cả nhà báo cũng là một Thượng đế! Người đó có thể không biết. Người đó có thể không nhận biết về tính Thượng đế của bạn. Tôi nhận biết về nó! Và khoảnh khắc tôi trở nên nhận biết về tính Thượng đế của tôi, tôi trở nên nhận biết về tính Thượng đế của mọi người khác. Cho nên sẽ khó cho tôi nói với bạn có bao nhiêu Thượng đế. Vô hạn... mọi sinh linh đều là Thượng đế ở các giai đoạn khác nhau của việc nhận ra, hiểu ra, nhận biết. Nhưng tôi có thể hiểu được vấn đề của bạn: Joey là một nhà báo Đan Mạch.
Những người tới từ phương Tây không thể hiểu được vài điều, bởi vì ý tưởng của họ về Thượng đế là ý tưởng rất giới hạn mà Ki tô giáo đã cho họ. Ý tưởng của họ về Thượng đế là ý tưởng rất giới hạn.
Ở Ấn Độ chúng ta có ba từ cho Thượng đế - Không ngôn ngữ nào khác có sự giầu có như thế, và chắc chắn - bởi vì chúng ta đã từng làm việc ở nội tâm trong nhiều thế kỉ, hàng nghìn năm đã được cống hiến cho nó. Một cách tự nhiên chúng ta đã đi theo mọi khả năng của sự tồn tại của Thượng đế. Nó cũng giống như tôi đã nghe rằng người Eskimos có chín cái tên cho tuyết bởi vì họ biết các loại tuyết khác nhau. Bây giờ không ngôn ngữ nào khác có thể có chín cái tên cho tuyết; chúng ta chưa bao giờ bắt gặp nó đến chừng nấy. Bây giờ phương Tây có tất cả các từ cho khoa học, ở phương Đông chúng ta phải tạo ra các từ cho thuật ngữ khoa học, chúng ta không có nó. Nhưng khi có liên quan tới tôn giáo thì toàn thế giới sẽ phải theo phương Đông, bởi vì chúng ta đã làm việc sâu bên dưới trong bản thể bên trong nhất.
Chúng ta có ba từ cho Thượng đế. Từ thứ nhất là ‘Brahma’. Nghĩa là cái một, cái một không phân chia, khi người sáng tạo và việc sáng tạo còn ngủ trong nhau. Bây giờ Ki tô giáo không có từ nào cho nó. Thượng đế đã tạo ra thế giới, Ki tô giáo nói vậy. Cho nên một ngày nào đó - nó phải đã là thứ hai - Thượng đế đã tạo ra thế giới. Chỉ là vì tuần làm việc bắt đầu vào thứ hai, và Ngài nghỉ vào chủ nhật, chỉ là ngày nghỉ. Thượng đế học đã từng tìm về ngày đích xác, và họ đã tìm ra một ngày: bốn nghìn lẻ bốn năm trước Jesus, vào thứ hai nào đó, Thượng đế đã tạo ra thế giới. Trước đó, thế giới đã ở đâu? Và trước đó, Thượng đế là ai? - bởi vì Ngài đã không được tạo ra, cho nên Ngài đã không là người sáng tạo. Thượng đế nghĩa là 'đấng sáng tạo’. Nhưng trước việc sáng tạo, làm sao Ngài có thể là đấng sáng tạo được?
Cho nên việc sáng tạo là ngấm ngầm, tiềm năng, không biểu lộ trong đấng sáng tạo. Đấng sáng tạo và việc sáng tạo là cùng nhau, là một. Ki tô giáo không có từ nào cho nó. Chúng ta có; chúng ta gọi nó là Brahma. Nó là trạng thái khi vũ công còn chưa bắt đầu nhảy múa; điệu vũ và vũ công là một. Khi vũ công đã bắt đầu điệu vũ, bây giờ có phân chia. Ca sĩ chưa hát bài ca của mình, bài ca đang ngủ say trong ca sĩ; khoảnh khắc ca sĩ hát việc phân chia bắt đầu. Hoạ sĩ, khi người đó vẽ, là tách rời khỏi việc vẽ.
Từ thứ hai ở Ấn Độ là Ishwar. Ishwar nghĩa là đấng sáng tạo: việc thống nhất đã bị chia ra thành hai, nhị nguyên đã xuất hiện. Bây giờ thế giới là tách rời và đấng sáng tạo là tách rời. Bây giờ Brahma, cái một tuyệt đối, đã trở thành hai.
Từ thứ ba là Bhagwan. Nó nghĩa là bất kì ai đã lại thấy sự thống nhất lần nữa - của vũ công và điệu vũ, của hoạ sĩ và việc vẽ, của nhà thơ và thơ ca, của đấng sáng tạo và việc sáng tạo. Người đã thấy sự thống nhất lại này, người đã hiểu thấu sự thống nhất lại này trong bản thể mình, người đó được gọi là Bhagwan. Theo nghĩa đen từ này nghĩa là ‘người được ân huệ’, nó không có nghĩa là Thượng đế. Nhưng bởi vì sự nghèo nàn của các ngôn ngữ phương Tây có vấn đề: bạn phải dịch ‘Brahma’ cũng là ‘Thượng đế’, bạn phải dịch ‘Ishwar’ cũng là ‘Thượng đế’, bạn phải dịch ‘Bhagwan’ cũng là ‘Thượng đế’. Đây đơn giản là ngôn ngữ nghèo nàn, không gì khác. Bhagwan theo nghĩa đen nghĩa là ‘người được ân huệ’.
Ai là người được ân huệ? - người đã biết tới sự thống nhất lại, người đã lại đạt tới cội nguồn nguyên thuỷ, người được gọi là Bhagwan. Đó là lí do tại sao chúng ta gọi Krishna là ‘Bhagwan’, và Phật là ‘Bhagwan’. Và bạn sẽ ngạc nhiên mà biết: Phật chưa bao giờ tin vào bất kì Thượng đế nào.
Chắc chắn Bhagwan không thể có nghĩa là Thượng đế. Phật chưa bao giờ tin vào bất kì Thượng đế nào, ông ấy chưa bao giờ tin vào bất kì việc sáng tạo hay bất kì đấng sáng tạo nào. Dầu vậy, Phật tử gọi ông ấy là ‘Bhagwan’, ‘người được ân huệ’, bởi vì ông ấy đã hiểu. Dù chân lí là bất kì cái gì - bạn gọi nó là Thượng đế, đấng sáng tạo, chân lí, niết bàn, chứng ngộ - điều đó không phải là vấn đề. Người đó đã hiểu, và trong việc hiểu đó phúc lành mưa rào lên người đó. Người đó trở thành Bhagwan, người được ân huệ.
Bây giờ điều này sẽ là vấn đề thường xuyên: tôi tuyên bố bản thân tôi là người được ân huệ, tôi đã thấy, những đoá hoa đó đã mưa rào lên tôi. Bằng việc tuyên bố bản thân tôi là Bhagwan tôi không nói rằng tôi đã tạo ra thế giới - tôi không nhận trách nhiệm đó! Bằng việc tuyên bố bản thân tôi là Bhagwan tôi đơn giản nói rằng tôi đã được ân huệ bởi sự tồn tại, ân huệ đã giáng xuống tôi - tôi đã thấy. Và khoảnh khắc việc thấy xảy ra bạn biến mất, bạn không còn nữa. Người được ân huệ là người không còn nữa. Tôi không hiện hữu, Thượng đế hiện hữu: đây là kinh nghiệm làm cho người ta được ân huệ.
Bây giờ điều ngược đời này phải được hiểu. Con người không bao giờ gặp Thượng đế, con người chỉ có thể tan biến, biến mất, thế thì Thượng đế hiện hữu: trong sự vắng mặt của bạn sự hiện diện của Thượng đế giáng xuống. Toàn thể công việc của tôn giáo không là gì ngoài việc giúp cho bạn biến mất như một bản ngã. Khoảnh khắc bạn nhìn vào trong bản thân bạn và không có cái tôi, không bản ngã nào được tìm thấy, mà chỉ im lặng hoàn toàn, trống rỗng hoàn toàn, “với điều đó vấn đề được giải quyết” - bạn là Thượng đế. Bạn là Thượng đế không chống lại người khác - không phải là người khác không là Thượng đế và bạn là Thượng đế đâu. Bạn là Thượng đế bởi vì thế thì chỉ Thượng đế hiện hữu!
Cho nên tôi không nói tôi là Thượng đế và bạn không là Thượng đế. Trong tuyên bố về bản thân mình, tôi cũng tuyên bố bạn là thiêng liêng, và không chỉ bạn - con vật, chim chóc, cây cối, tảng đá, toàn thể sự tồn tại đều bao gồm Thượng đế và không gì khác. Tôi không nói tôi linh thiêng hơn bạn. Tôi không nói tôi đặc biệt hơn bạn. Mọi điều tôi nói là ở chỗ tôi đã biến mất, và trong việc biến mất đó ân huệ đã mưa rào xuống, cực lạc đã nảy sinh - tôi hoàn toàn mất đi, và mất đi mãi mãi - và trong không gian này còn lại đằng sau không có gì khác ngoài Thượng đế.
Thực ra, khi bạn nói “tôi hiện hữu” bạn đang thốt ra điều sai lầm, bởi vì bạn không hiện hữu. Khoảnh khắc bạn nói "tôi hiện hữu" bạn đang tách bản thân bạn khỏi sự tồn tại, và điều này là tuyệt đối sai, lời dối trá. Bạn không tách rời khỏi sự tồn tại, bạn không có khả năng nào để bản thân bạn tách rời khỏi sự tồn tại - thậm chí một khoảnh khắc bạn cũng không thể tồn tại được. Không người nào là hòn đảo. Khoảnh khắc bạn thấy điều đó, việc tách rời biến mất, đột nhiên bạn là một với cây và với sao, và khoảnh khắc đó là khoảnh khắc của phúc lành: bạn đã về nhà.
Có vậy thôi đó là nghĩa của ‘Bhagwan’: từ này đơn giản nghĩa là ‘người được ân huệ’.
Câu hỏi 4
Sao tôi sợ đàn bà thế? Và sao tôi chán vợ tôi thế?
Mọi đàn ông đều sợ đàn bà, và mọi đàn bà đều sợ đàn ông. Họ có lí do hay cho việc không tin cậy lẫn nhau, vì họ đã từng được huấn luyện từ những năm đầu là kẻ thù của nhau. Họ không được sinh ra là kẻ thù, nhưng họ đạt tới tính thù địch. Và sau hai mươi năm huấn luyện như vậy trong việc sợ lẫn nhau họ tưởng là cưới nhau một ngày nào đó và tìm tin cậy đầy đủ trong nhau. Tất cả những điều này là dành cho giấy giá thú năm ru pi sao?
Hai mươi năm huấn luyện về sợ lẫn nhau, trong cuộc đời sáu mươi, bẩy mươi năm, một phần ba cuộc đời bạn, và là phần tinh tế và nhạy cảm nhất của đời bạn, bởi vì các nhà tâm lí nói con người học được năm mươi phần trăm của việc học trong cả đời người ta vào lúc người đó bẩy tuổi. Trong sáu mươi ba năm còn lại người đó sẽ học chỉ năm mươi phần trăm nữa. Năm mươi phần trăm được học trước lúc bạn lên bẩy. Đến lúc bạn hai mươi gần tám mươi phần trăm được học. Bạn đã trở thành cố định, cứng rắn. Không tin cậy đã được dạy cho bạn.
Con trai được bảo, “Tránh lũ con gái ra, chúng là nguy hiểm.” Con gái đã được bảo, “Tránh lũ con trai ra, chúng là xấu xa, chúng sẽ làm cái gì đó ác với các em.” Và thế rồi sau ước định đầy đủ này của hai mươi năm - nghĩ mà xem, hai mươi năm thường xuyên được dạy bởi trường phổ thông, bởi cao đẳng, bởi đại học, bởi nhà thờ, bởi tu sĩ - một hôm đột nhiên làm sao bạn vứt bỏ được hai mươi năm ước định này?
Câu hỏi này nảy sinh lặp đi lặp lại mãi. Bao nhiêu người tới và bảo tôi rằng họ sợ đàn bà. Đàn bà bảo tôi rằng họ sợ đàn ông. Chúng ta được sinh ra đâu có sợ gì; bằng không chẳng đàn ông nào sẽ vào trong bụng đàn bà, nếu anh ta thực sự sợ. Thế thì chẳng đàn bà nào sẽ thụ thai, bởi vì cô ấy chỉ có thể được thụ thai qua đàn ông. Bạn đã không sợ trong lúc bắt đầu của bạn. Đứa con được sinh ra đơn giản không sợ hãi. Thế rồi chúng ta dạy nó sợ và chúng ta ước định tâm trí nó.
Điều này phải bị loại bỏ. Điều này đã đưa mọi người tới gần thần kinh. Thế thì mọi người đánh nhau, thế thì họ thường xuyên đánh nhau - chồng và vợ thường xuyên đánh nhau - và họ lo nghĩ về tại sao họ liên tục đánh nhau. Và mọi quan hệ biến thành chua cay. Tại sao điều đó xảy ra? Bạn đã bị đầu độc, và bạn phải vứt bỏ một cách có ý thức ước định đó, bằng không bạn sẽ vẫn còn sợ.
Không có gì phải sợ trong người đàn ông hay người đàn bà. Họ cũng giống như bạn thôi - cũng nhiều nhu cầu về yêu như bạn, cũng khao khát nhiều để nắm tay bạn như bạn khao khát. Họ muốn tham gia vào trong cuộc đời bạn, họ muốn người khác tham gia vào trong các kiếp sống của họ, bởi vì mọi người càng tham gia vào cuộc sống của nhau, càng nhiều niềm vui nảy sinh.
Mọi người trông rất buồn. Họ đã trở nên rất đơn độc. Ngay cả trong đám đông mọi người cũng đơn độc bởi vì mọi người đều sợ mọi người khác. Cho dù mọi người ngồi gần nhau, nhưng họ đang kìm bản thân họ lại - kìm lại nhiều tới mức toàn thể bản thể họ trở thành cứng rắn, cái vỏ cứng bao quanh họ, áo giáp nảy sinh quanh bản thể họ. Cho nên ngay cả khi họ gặp gỡ cũng không có gặp gỡ thực. Mọi người cầm tay nhau những bàn tay đó lạnh lẽo, không tình yêu đang tuôn chảy. Họ ôm nhau: vâng, xương va chạm nhau, nhưng trái tim vẫn còn xa xôi.
Mọi người phải yêu. Yêu là nhu cầu lớn, cũng như thức ăn là nhu cầu. Thức ăn là nhu cầu thấp hơn, yêu là nhu cầu cao hơn, có giá trị cấp cao hơn nhiều.
Bây giờ các nhà tâm lí đã làm nhiều công trình nghiên cứu về trẻ em được nuôi lớn mà không có tình yêu nào. Gần năm mươi phần trăm trẻ em chết nếu chúng được nuôi lớn mà không có tình yêu; trong hai năm chúng chết. Chúng được cho thức ăn tốt, chất nuôi cưỡng, mọi chăm sóc khoa học, nhưng một cách máy móc. Y tá tới, cho chúng tắm, nuôi chúng, mọi chăm sóc đều có, nhưng không có tình yêu con người. Cô y tá không ôm chúng gần trái tim cô ấy, cô y tá không cho đứa trẻ hơi ấm thân thể của cô ấy. Hơi ấm không được cho, trong vòng hai năm, năm mươi phần trăm những đứa trẻ đó chết. Và điều này là kì lạ, bởi vì không có lí do thấy được tại sao chúng chết. Chúng hoàn toàn mạnh khoẻ, thân thể diễn ra hoàn toàn tốt, chúng không ốm hay bất kì cái gì, nhưng đột nhiên, chẳng bởi lí do nào cả, chúng bắt đầu chết.
Và năm mươi phần trăm còn lại ở trong rắc rối nhiều hơn so với những đứa chết. Những đứa chết là thông minh hơn. Những đứa sống trở thành thần kinh, tinh thần phân liệt, tâm thần, bởi vì không tình yêu nào đã mưa rào lên chúng. Yêu làm cho bạn thành một khối. Nó như chất keo - nó dán bạn lại với nhau. Chúng bắt đầu rời ra thành mảnh mẩu, không có gì giữ chúng lại với nhau - không cái nhìn cuộc đời, không kinh nghiệm yêu - không cái gì giữ chúng lại với nhau, cuộc sống của chúng dường như vô nghĩa. Biết bao nhiêu đứa trong chúng biến thành thần kinh, nhiều đứa trong chúng trở thành tội phạm, bởi vì yêu làm cho con người thành sáng tạo. Nếu yêu bị thiếu thế thì con người trở nên có tính huỷ diệt. Nếu như mẹ của Adolf Hitler mà yêu ông ta nhiều hơn, thế giới chắc đã khác toàn bộ.
Nếu không có yêu thì người ta quên mất ngôn ngữ của tính sáng tạo, trở nên có tính phá huỷ, cho nên phạm nhân, chính khách được sinh ra - họ là cùng kiểu người. Không có khác biệt trong họ, không có khác biệt về chất. Mặt họ khác, mặt nạ của họ khác, nhưng sâu bên dưới họ tất cả đều là tội phạm. Thực ra, bạn đã từng đọc lịch sử về tội ác nhân loại và không gì khác. Bạn chưa từng được dạy cho về lịch sử thực của nhân loại, bởi vì lịch sử thực bao gồm chư phật, các christ, các Lão Tử. Đó là điều tôi đang cố làm ở đây, bây giờ thì nói về Lữ Tử. Bạn thậm chí có thể đã không nghe nói về tên ông ấy.
Bây giờ nói về cuốn sách cực kì hay này, Bí mật của Hoa Vàng, tôi đang cố làm cho bạn nhận biết rằng một lịch sử nhân loại khác toàn bộ đang từng được giữ ở bên ngoài các trường học. Lịch sử ghi chép chỉ về tội ác, lịch sử ghi chép chỉ về huỷ diệt. Nếu bạn giết ai đó trên phố bạn sẽ có trên báo chí, và nếu bạn tặng hoa hồng cho ai đó bạn sẽ không bao giờ được nghe tới lần nữa. Không ai sẽ biết về điều đó.
Nếu tình yêu bị thiếu trong thời thơ ấu người này sẽ trở thành hoặc là một chính khách hoặc tội phạm, hoặc sẽ phát điên, hay sẽ tìm cách thức phá huỷ nào đó bởi vì người đó sẽ không biết cách sáng tạo. Cuộc đời của người đó sẽ là vô nghĩa, người đó sẽ cảm thấy không có ý nghĩa gì. Người đó sẽ cảm thấy rất rất bị kết án, bởi vì chừng nào bạn còn chưa được yêu bạn không thể cảm thấy giá trị của bạn. Khoảnh khắc ai đó yêu bạn, bạn trở thành có giá, bạn bắt đầu cảm thấy bạn được cần - sự tồn tại sẽ ít hơn chút ít nếu không có bạn. Khi người đàn bà yêu bạn, bạn biết rằng nếu bạn mất đi ai đó sẽ buồn. Khi người đàn ông yêu bạn, bạn biết rằng bạn đang làm cho cuộc sống của ai đó hạnh phúc - và bởi vì bạn đang làm cho cuộc sống của ai đó hạnh phúc, niềm vui lớn nảy sinh trong bạn. Niềm vui nảy sinh chỉ trong việc tạo ra niềm vui cho người khác; không có cách khác. Bạn càng làm cho nhiều người hạnh phúc, bạn sẽ càng cảm thấy hạnh phúc hơn.
Đây là nghĩa thực của phục vụ, đây là nghĩa thực của tôn giáo: giúp cho mọi người trở nên hạnh phúc, giúp cho mọi người trở nên nồng ấm, giúp cho mọi người trở nên đáng yêu. Tạo ra cái đẹp chút ít trên thế giới đi, tạo ra niềm vui chút ít đi, tạo ra một góc nhỏ nơi mọi người có thể mở hội và hát và múa và hiện hữu, và bạn sẽ hạnh phúc - hạnh phúc vô cùng sẽ là phần thưởng của bạn. Nhưng người chưa bao giờ được yêu không biết điều đó. Cho nên năm mươi phần trăm sống sót đó chứng tỏ là những người rất nguy hiểm.
Yêu là nhu cầu cơ sở thế, nó đích xác giống như thức ăn cho linh hồn. Thân thể cần thức ăn, linh hồn cũng cần thức ăn. Thân thể sống bằng thức ăn vật chất, linh hồn sống bằng thức ăn tâm linh. Yêu là thức ăn tâm linh, chất nuôi dưỡng tâm linh.
Trong cách nhìn của tôi về một thế giới tốt hơn trẻ em sẽ được dạy yêu lẫn nhau. Con trai và con gái sẽ không bị để tách rời. Không phân chia, không ghét lẫn nhau nên được tạo ra. Nhưng tại sao việc ghét nhau này đã được tạo ra?- bởi vì đã có nỗi sợ lớn về dục. Dục không được chấp nhận - đó là vấn đề, bởi vì dục không được chấp nhận nên trẻ em phải được giữ tách rời. Và nhân loại vẫn khổ chừng nào nó chưa chấp nhận dục như hiện tượng tự nhiên. Toàn thể vấn đề này của đàn ông/đàn bà nảy sinh vì dục bị kết án. Kết án này phải ra đi - và bây giờ nó có thể ra đi.
Trong quá khứ tôi có thể hiểu. Có lí do cho điều đó. Chẳng hạn, nếu một cô gái trở nên mang thai, thế thì sẽ có vấn đề. Bố mẹ rất sợ, xã hội rất sợ, mọi người sống trong sợ. Con trai và con gái phải được giữ tách rời, những bức tường lớn phải được dựng lên giữa chúng. Và thế rồi một ngày nào đó, sau hai mươi năm, đột nhiên bạn mở cánh cửa và bạn nói, “Cô ấy không phải là kẻ thù của bạn, cô ấy là vợ bạn. Yêu cô ấy đi!” và, “Anh ấy không phải là kẻ thù của bạn, anh ấy là chồng bạn. Yêu anh ấy đi!” Và suốt hai mươi năm kia khi anh ta đã là kẻ thù thì sao? Và kinh nghiệm của hai mươi năm kia thì sao? Bạn có thể đột nhiên bỏ chúng dễ dàng thế sao? Bạn không thể bỏ được chúng. Chúng nấn ná, chúng treo quanh bạn - toàn thể đời bạn.
Nhưng bây giờ thì không cần. Theo hiểu biết của tôi, cuộc cách mạng vĩ đại nhất trên thế giới đã là cuộc cách mạng được tạo ra bởi ‘thuốc ngừa thai’. Lenin và Mao Trạch Đông không là gì khi so sánh với thuốc ngừa thai. Thuốc ngừa thai là cách mạng vĩ đại nhất. Điều này sẽ tạo ra một thế giới khác toàn bộ bởi vì nỗi sợ có thể được loại bỏ, bây giờ không có nhu cầu phải sợ. Nỗi sợ mang thai đã từng là nguyên nhân của kết án dục. Bây giờ không cần kết án nó chút nào. Nó có thể được chấp nhận.
Khoa học đã chuẩn bị nền tảng cho văn hoá mới, và tôi báo trước tương lai đó! Đó là lí do tại sao mọi người bị nặng gánh với quá khứ của họ sẽ chống lại tôi. Họ không thể hiểu được tôi, bởi vì tôi nhìn vào tương lai, điều gì sẽ xảy ra trong tương lai, và tôi đang chuẩn bị đường cho nó. Đàn ông và đàn bà phải được mang lại gần nhau nhất có thể được. Và bây giờ không có sợ.
Trong quá khứ, tôi hiểu nỗi sợ có đó. Tôi có thể tha thứ cho những người trong quá khứ, bởi vì họ bất lực. Nhưng bây giờ bạn không thể được tha thứ nếu bạn dạy con bạn ở tách rời và đối kháng, chống lại nhau. Không cần đâu. Bây giờ con trai và con gái có thể trộn lẫn và gặp gỡ và ở cùng nhau, và tất cả sợ về dục có thể được bỏ đi. Và cái đẹp là ở chỗ vì nỗi sợ và vì kết án và vì phủ nhận, dục đã trở thành quan trọng thế; bằng không thì nó không quan trọng thế.
Cố hiểu một luật tâm lí đơn giản: nếu bạn phủ nhận cái gì đó quá nhiều nó trở thành rất quan trọng. Chính việc phủ nhận làm cho nó thành quan trọng. Bạn trở nên bị ám ảnh bởi nó. Bây giờ con gái và con trai phải được giữ tách rời trong hai mươi năm - họ trở nên bị ám ảnh với nhau, họ chỉ nghĩ về người kia. Họ không thể nghĩ về cái gì khác.
Tôi đã nghe một sự cố xảy ra cho cựu đại sứ Ellis khi ông ấy là một phái viên ngoại giao cho Hi Lạp. Cả ông ấy và thư kí của ông ấy đã bị bận tâm bởi hạn chót đang tiến tới. Ông ấy phải bay sang Rome để đọc báo cáo trước hội nghị an ninh châu Âu. Cô ấy, một thiếu nữ người mạnh khoẻ, đẫy đà quãng hai mươi ba tuổi, mới qua đám cưới được hai ngày cùng với anh lính hải quân đẹp trai sau cuộc hứa hôn sáu tháng. Một cách tự nhiên, tâm trí cô ấy đang ở trạng thái nghĩ tới các đồ đạc của cô ấy thay vì vào nghĩ về chính phủ Hi Lạp. Ông đại sứ Ellis đang cố kết thúc bài báo về Hi Lạp trước khi chạy xô ra sân bay. Ông ấy đã đặt đầu đề cho khảo cứu của ông ấy - một báo cáo nói rằng tình huống chính trị còn dễ lung lay hơn là tình huống kinh tế - ‘Con người sẽ không sống chỉ bằng một mình bánh mì’. Trước khi ông ấy có cơ hội thực sự đọc qua bản sao, ông ấy phải chạy đua tới sân bay Athens. Ông ấy để lại vài lời nói bài nói phải được gửi tới cho đại sứ quán Rome để cho họ có thể đánh máy nó để phân phát cho cuộc hội nghị ngày hôm sau.
Khi ông ấy tới Rome ông ấy được gặp một nhóm các sĩ quan phục vụ nước ngoài, người đưa ông ấy tới khách sạn để đọc diễn văn. Họ hơi chút phân vân bởi tiêu đề được in trong báo cáo. Ông đại sứ Ellis nhìn vào một bản in roneo. Bản đánh máy của cô dâu tương lai về kinh thánh do ông đại sứ đọc hoá ra không phải là ‘Con người sẽ không sống chỉ bằng một mình bánh mì’ mà là ‘Đàn ông sẽ không yêu trên giường một mình’.
Tâm trí có thể trở nên bận bịu. Huấn luyện của hai mươi năm trong các giáo lí chống dục làm cho tâm trí bị bận tâm, và đủ mọi loại hư hỏng phát sinh. Đồng dục nảy sinh, đồng dục nữ nảy sinh, mọi người bắt đầu sống trong tưởng tượng - khiêu dâm nảy sinh, các phim tục tĩu, ‘phim xanh’ nảy sinh - và toàn thể điều này diễn ra bởi vì điều vô nghĩa bạn làm. Bây giờ bạn muốn khiêu dâm dừng lại; nó không thể dừng lại được. Bạn đang tạo ra tình huống cho nó. Nếu con trai và con gái có thể ở cùng nhau, ai sẽ bận tâm nhìn vào bức hình khoả thân?
Bạn đi và gặp bộ lạc nguyên thuỷ nào đó ở Ấn Độ những người sống trần truồng và bạn cho họ xem tạp chí Playboy và tất cả họ sẽ cười. Tôi đã sống với họ, và tôi đã nói chuyện với họ, và tất cả họ đều cười. Họ không thể tin được: “Cái gì có đó?” Họ sống trần, cho nên họ biết đàn bà trông thế nào và họ biết đàn ông trông thế nào.
Khiêu dâm được tạo ra bởi các tu sĩ của bạn - họ là nền tảng của nó - và thế rồi đủ mọi loại hư hỏng, bởi vì khi bạn thực tế không thể gặp được người khác vì điều hấp dẫn là tự nhiên, bạn bắt đầu tưởng tượng. Thế thì một vấn đề lớn hơn nảy sinh: hai mươi năm của tưởng tượng và mơ mộng, và thế rồi bạn gặp người đàn bà thực và cô ấy rơi xuống rất thấp, rất thấp khỏi mong đợi của bạn - bởi vì tất cả những tưởng tượng kia! Bạn đã tự do đầy đủ để tưởng tượng - không đàn bà thực nào sẽ thoả mãn cho bạn! Bởi vì tưởng tượng và mơ của bạn, bạn đã tạo ra những ý tưởng thế về đàn bà, điều không người đàn bà nào có thể hoàn thành được, và bạn đã tạo ra ý tưởng thế về đàn ông mà không người đàn ông nào có thể hoàn thành. Do đó mới có thất vọng, do đó mới có cay đắng nảy sinh giữa các đôi, bởi vì người đàn ông cảm thấy bị lừa. “Đây không phải là người đàn bà” - vì anh ta nghĩ, mơ, và anh ta tự do tạo ra bất kì cái gì anh ta muốn trong mơ của mình, và người đàn bà này có vẻ rất nghèo nàn so với tưởng tượng của anh ta.
Trong tưởng tượng đàn bà không vã mồ hôi - hay họ có vã mồ hôi? Và họ không cãi bạn, và họ không chì chiết bạn, và họ toàn bằng vàng, chỉ là hoa ngọt. Và họ bao giờ cũng vẫn còn trẻ trung, họ chưa bao giờ trở nên già, và họ không trở nên gắt gỏng. Bởi vì họ là sáng tạo của bạn, nếu bạn muốn họ cười, họ cười luôn. Thân thể của họ được làm ra từ những thứ không thuộc thế giới này.
Nhưng khi bạn gặp người đàn bà thực, cô ấy vã mồ hôi, hơi thở của cô ấy có mùi, và thỉnh thoảng điều tự nhiên là hay gắt gỏng. Và cô ấy cằn nhằn, và cô ấy đánh lại, và cô ấy ném gối và đập đồ đạc, và cô ấy sẽ không cho phép bạn cả nghìn lẻ một thứ, cô ấy bắt đầu kiềm chế tự do của bạn. Người đàn bà tưởng tượng của bạn chẳng bao giờ kiềm chế tự do của bạn! Bây giờ người đàn bà này dường như giống như cái bẫy. Và cô ấy không đẹp như bạn đã từng nghĩ. Cô ấy không phải là một Cleopatra. Cô ấy là người đàn bà thường, cũng như bạn là người đàn ông thường. Bạn không hoàn thành các ham muốn của cô ấy mà cô ấy cũng không hoàn thành các ham muốn của bạn. Không ai có nghĩa vụ phải hoàn thành tưởng tượng của bạn! Mọi người đều là người thực. Và bởi vì việc bỏ đói hai mươi năm tạo ra tưởng tượng, nó tạo ra rắc rối cho cuộc sống tương lai của bạn.
Bạn hỏi tôi, “Sao tôi sợ đàn bà? Và sao tôi chán vợ tôi?”
Bạn phải đã tưởng tượng quá nhiều. Bạn sẽ phải vứt bỏ các tưởng tượng của bạn. Bạn sẽ phải học sống với thực tại. Bạn sẽ phải học nhìn cái phi thường trong cái bình thường. Điều đó cần nghệ thuật lớn. Người đàn bà không chỉ là bộ da của cô ấy, không chỉ là mặt cô ấy, không chỉ là sự cân đối thân thể cô ấy. Người đàn bà là một linh hồn! Bạn phải thân thiết với cô ấy, bạn phải được tham gia vào đời cô ấy, vào cuộc sống nội tâm của cô ấy. Bạn phải hợp nhất và gặp gỡ với năng lượng của cô ấy. Và mọi người không biết cách gặp gỡ và cách hội nhập; họ chưa bao giờ được dạy. Nghệ thuật của yêu đã không được dạy cho bạn, và mọi người đều nghĩ rằng họ biết yêu là gì. Bạn không biết đâu. Bạn tới chỉ với tiềm năng của yêu nhưng không với nghệ thuật của nó.
Năm mươi năm trước, gần Calcutta, trong một khu rừng rậm, hai bé gái được tìm thấy, Kamala và Vimala. Chúng được sói nuôi lớn. Có thể chúng là những đứa trẻ không mong muốn và mẹ chúng đã bỏ chúng trong rừng. Điều đó đã xảy ra nhiều lần, gần như ở mọi nơi trên thế giới: thỉnh thoảng, một đứa trẻ được thấy đã được lớn lên cùng với con vật.
Hai bé gái đó tuyệt đối không có tính người. Chúng bước đi trên bốn chi, chúng không thể đứng được trên hai chân. Chúng đã học từ sói cách bước đi bằng bốn chi. Chúng tru lên như sói, chúng không thể nói được tiếng Bengali. Và chúng rất nguy hiểm - chúng chạy như sói. Không nhà vô địch Olympic nào đánh bại được chúng, chúng chạy nhanh và chóng thế. Và nếu chúng nhảy, nếu chúng trở nên giận, chúng sẽ xé bạn ra thành từng mảnh. Chúng trông như con người, nhưng toàn thể huấn luyện của chúng đã là huấn luyện của sói.
Bạn được sinh ra với năng lực để học ngôn ngữ, nhưng bạn không được sinh ra với bản thân ngôn ngữ. Đích xác giống điều này, bạn được sinh ra với năng lực để yêu, nhưng bạn không được sinh ra với nghệ thuật về yêu. Nghệ thuật đó của yêu phải được dạy, phải được hấp thu.
Và chính điều đối lập đang xảy ra: bạn đã từng được dạy nghệ thuật về ghét và hận thù, không về yêu. Bạn đã được dạy cách ghét mọi người. Người Ki tô giáo đã được dạy ghét người Mô ha mét giáo, người Mô ha mét giáo đã được dạy ghét người Hindu, người Ấn Độ đã được dạy ghét người Pakistan. Ghét đã được dạy theo nhiều cách. Đàn ông đã được dạy ghét đàn bà, đàn bà đã được dạy ghét đàn ông, và bây giờ đột nhiên một ngày nào đó bạn quyết định lấy nhau, và bạn lấy nhau - lấy kẻ thù của bạn! - và thế rồi toàn thể hỗn loạn bắt đầu. Thế thì cuộc sống trở thành chỉ là cơn ác mộng.
Bạn chán với vợ bạn bởi vì bạn không biết cách đi vào linh hồn cô ấy. Bạn có thể có khả năng đi vào thân thể cô ấy, nhưng điều đó sẽ trở nên chán rất sớm vì cái đó sẽ là lặp lại. Thân thể là thứ rất nông cạn, Bạn có thể làm tình với thân thể một, hai, ba lần và thế rồi bạn trở nên hoàn toàn quen thuộc với thân thể, với đường viền của nó. Thế thì chẳng có gì mới. Thế thì bạn bắt đầu quan tâm tới những đàn bà khác: bạn nghĩ họ phải có cái gì đó khác với vợ bạn - ít nhất đằng sau quần áo dường như họ phải có cái gì đó khác. Bạn có thể vẫn tưởng tượng về họ.
Quần áo đã được phát minh ra để giúp cho ham muốn dục của bạn. Người đàn bà trần truồng không để lại cái gì cho tưởng tượng của bạn. Đó là lí do tại sao đàn bà trần truồng không hấp dẫn thế, đàn ông trần truồng cũng vậy. Nhưng khi người đàn bà hay đàn ông ẩn đằng sau quần áo, họ để lại nhiều điều cho tưởng tượng của bạn. Bạn có thể tưởng tượng về cái gì đằng sau nó, bạn có thể lại tưởng tưởng nữa.
Bây giờ bạn không thể tưởng tượng được về vợ bạn, điều đó là rắc rối. Bạn có thể tưởng tượng về vợ hàng xóm, cô ấy có vẻ hấp dẫn.
Tôi đã nghe...
Một người bị bệnh tim mạch nặng và được bảo rằng nếu anh ta muốn sống thì anh ta phải cắt bỏ hoàn toàn uống rượu, hút thuốc lá và mọi dạng ráng sức thể chất. Sau sáu tháng anh ta đi tới văn phòng bác sĩ để kiểm tra. Sau khi anh ta được cho biết anh ta đã tiến bộ tốt, anh ta nói với bác sĩ, “Bác sĩ biết đấy, thỉnh thoảng tôi muốn uống hơi chút - không nhiều, chỉ là nếm nó thôi. Chẳng lẽ tôi không thể uống chỉ một hay hai cốc sao, có thể một lần một tuần vào ngày thứ sáu hay đêm thứ bẩy?”
“Không,” bác sĩ nói, “nhưng tôi sẽ bảo anh cái gì được. Tôi sẽ cho phép anh uống một cốc rượu cho bữa ăn tối của anh.”
Vài tháng sau anh ta quay lại với một thân thể khác. Lần này anh ta nói với bác sĩ, “Ông biết đấy, bác sĩ, thỉnh thoảng tôi thèm thuồng một điếu thuốc lá thế. Giá mà tôi có thể phì phèo một điếu khi tôi thức dậy và điếu khác sau mỗi bữa ăn.”
“Không,” bác sĩ nói. “Anh sẽ sớm hút cả bao một ngày đấy. Nhưng nếu anh muốn anh có thể hút một điếu xì gà một tuần, có lẽ sau bữa tối chủ nhật.”
Nhiều tháng trôi qua, và sức khoẻ của anh bạn của chúng ta đã tốt cũng như trạng thái tâm trí được cải thiện. Chỉ có một điều duy nhất mà giày vò anh ta. Khi anh ta tới bác sĩ lần nữa anh ta nói rất thẳng thừng. “Bác sĩ, điều không bình thường là không có quan hệ dục. Chắc chắn tôi đủ mạnh khoẻ để có khả năng trở lại điều đó.”
“Không,” bác sĩ nói. “Việc ráng sức thể chất cũng như kích động có thể là quá nhiều. Nhưng tôi sẽ bảo anh cái gì cần: tôi sẽ cho phép anh một lần một tuần có dục - nhưng chỉ với vợ anh thôi.”
Mọi người phát chán với vợ họ và với chồng họ. Lí do là: họ đã không có khả năng tiếp xúc với linh hồn thực của người kia. Họ đã có khả năng tiếp xúc với thân thể, nhưng họ đã bỏ lỡ tiếp xúc có thể xảy ra từ tim qua tim, từ trung tâm qua trung tâm, từ linh hồn tới linh hồn. Một khi bạn biết cách tiếp xúc từ linh hồn sang linh hồn, khi bạn đã trở thành bạn tâm giao, thế thì không có chán chút nào. Thế thì bao giờ cũng có cái gì đó để khám phá trong người kia vì từng người đều là vô hạn, và từng người đều chứa bản thân Thượng đế. Không có tận cùng cho khám phá.
Đó là lí do tại sao tôi nói Mật tông nên trở thành hiện tượng phổ cập cho mọi con người. Từng trường học, từng cao đẳng, từng đại học, nên dạy Mật tông. Mật tông là khoa học về tiếp xúc linh hồn, về đi vào cốt lõi sâu nhất của người khác. Chỉ trong một thế giới biết tới nghệ thuật của Mật tông thì cái chán này mới biến mất; bằng không nó không thể biến mất được - bạn có thể dung thứ được nó, bạn có thể chịu đựng được nó, bạn có thể là một người tử vì nó. Đó là cách trong quá khứ, mọi người đều đã từng là những kẻ tử vì đạo. Họ nói, “Phải làm gì? Đây là số mệnh rồi. Cuộc sống này bị kết thúc. Kiếp sống tiếp chúng ta sẽ chọn người đàn bà khác hay người đàn ông khác nào đó, nhưng kiếp này mất rồi, và không cái gì có thể được làm. Và có con cái và cả nghìn lẻ một vấn đề, và danh vọng và xã hội và sự kính trọng...” Cho nên họ đã khổ và họ vẫn còn là kẻ tử vì đạo.
Bây giờ họ không còn sẵn sàng chịu khổ cho nên họ đã chuyển sang cực đoan kia: bây giờ họ mê đắm vào đủ mọi loại dục, nhưng điều đó nữa không cho việc mãn nguyện nào. Người Ấn Độ không hài lòng mà người Mĩ cũng vậy. Không ai được mãn nguyện, bởi vì điều cơ sở bị thiếu bởi cả hai. Điều cơ sở là vô dụng chừng nào bạn chưa trở nên có khả năng giải mã bí ẩn bên trong của người đàn bà của bạn hay người đàn ông của bạn, bạn sẽ sớm hay muộn phát ngán, chán. Thế thì hoặc bạn trở thành kẻ tử vì đạo - vẫn còn với nó, chịu đựng nó, chờ đợi cái chết giải thoát cho bạn - hay bạn bắt đầu mê đắm với người đàn bà khác. Nhưng bất kì cái gì bạn đã làm với người đàn bà này sẽ được làm với người khác, và bạn sẽ ngán với người khác, và với người khác nữa, và cả đời bạn sẽ chỉ thay đổi bạn tình. Điều đó sẽ không thoả mãn … trừ phi bạn học nghệ thuật bí mật của Mật tông.
Mật tông là một trong những bí mật quan trọng nhất đã từng được khám phá ra. Nhưng nó rất tinh tế bởi vì nó là nghệ thuật vĩ đại nhất. Vẽ là dễ, sáng tác thơ ca là dễ, nhưng tạo ra giao cảm với năng lượng của người kia, một giao cảm nhảy múa, là nghệ thuật vĩ đại nhất và khó học nhất.
Mọi người chống lại tôi bởi vì tôi đang bảo mọi người cách yêu: tôi đang bảo mọi người cách làm yêu thành lời nguyện, tôi đang bảo mọi người cách yêu sâu sắc tới mức bản thân tình yêu trở thành tôn giáo của bạn - tới mức người đàn bà của bạn một ngày nào đó biến mất và bạn thấy Thượng đế ở đó, tới mức người đàn ông của bạn một ngày nào đó biến mất và bạn thấy Thượng đế ở đó, tới mức một ngày nào đó - trong giao cảm sâu sắc, trong kinh nghiệm cực thích sâu sắc, trong cực lạc đó - trong một khoảnh khắc bạn cả hai biến mất và chỉ còn lại Thượng đế và không cái gì khác.
Bạn đã được dạy trong nhiều thời đại chống lại dục, và điều đó đã làm cho bạn rất dục. Bây giờ điều ngược đời này phải được hiểu. Nếu bạn muốn hiểu tôi, điều ngược đời này phải được hiểu rất rất sâu sắc, rõ ràng: bạn đã được làm cho có dục tính bởi mọi kết án về dục.
Mới hôm nọ một viên chức chính phủ tới nghiêng ngó quanh đạo tràng, bởi vì chính phủ rất lo nghĩ: “Cái gì đang diễn ra ở đây?” - tôi đang dạy gì cho mọi người? Và ông ta giữ một thái độ rất kiêu căng. Sheela đưa ông ta đi vòng quanh đạo tràng, Sheela bước đi cùng ông ta. Ông ta bắt đầu tiến ngày càng gần hơn tới Sheela, ông ta bắt đầu chạm vào thân thể cô ấy. Thế là cô ấy giữ tách rời, nhưng ông ta lại tới gần lần nữa. Và Sheela lo nghĩ, “Làm gì với người này?” Và cô ấy lo nghĩ - cô ấy có thể đánh ông ta. Và tôi đã bảo cô ấy rằng lần sau điều đó xảy ra, cho ông ta cú đánh rõ đau - ông ta cần nó, ông ta xứng đáng với nó.
Ông ta đã tới để tìm ra cái gì đang diễn ra ở đây - đặc biệt về dục. Và khi ông ta thấy Sheela một mình - cô ấy đang đưa ông ta đi thăm một vòng - ông ta đã lại gần, vã mồ hôi, và hỏi, “Tôi có thể hôn cô được không?” Bây giờ người này được phái tới đây để điều tra về điều đang xảy ra ở đây đấy.
Nhớ điều đó: lần sau bạn thấy một quan chức chính phủ ở đây, cho ông ta cái hôn chết người!
Và trong văn phòng ông ta lại trở thành linh thiêng hơn ngươi.
Dâm dục bị kìm nén này...
Tôi đã nghe về cuộc viếng thăm của J.P. Morgan tới gia đình của Dwight Morrow. Nhà tài chính vĩ đại người Mĩ, trong số những điều khác, đã được chú ý tới bởi cái mũi cà chua đỏ phồng ra xấu thế.
“Nhớ lấy, Anne này,” bà Morrow nói với con gái, “con phải đừng nói lời nào với về cái mũi đỏ của ông Morgan nhé. Thậm chí con phải không nhìn vào nó nhiều.”
Anne hứa, nhưng khi Morgan tới, mẹ cô ta quan sát và chờ đợi một cách căng thẳng. Anne có phẩm hạnh đáng khen, nhưng bà Morrow không dám lơ là. Quay sang nhà tài chính với nụ cười lịch thiệp, bà ấy chuẩn bị rót trà và nói, “Thưa ông Morgan, ông có một hay hai cái u trong mũi vậy?”
Đó là điều đã xảy ra cho toàn thể nhân loại: dục bị kìm nén đã trở thành ám ảnh.
Mọi người nghĩ tôi đang dạy tính dục sao? Tôi đang dạy siêu việt chứ. Chẳng mấy chốc điều này sẽ là chỗ duy nhất nơi không ai bị ám ảnh bởi dục. Nó đã là kinh nghiệm của hàng trăm sannyasin. Mọi ngày tôi đều nhận được các lá thư: “Điều gì đang xảy ra vậy, Osho ơi? Dục của tôi đang biến mất. Tôi không còn thấy quan tâm nhiều trong nó” - cả đàn ông và đàn bà.
Mối quan tâm đó là mối quan tâm bệnh hoạn mà đã được tạo ra bởi kìm nén. Một khi kìm ném bị lấy đi, mối quan tâm đó sẽ biến mất, và thế thì có cảm giác tự nhiên -điều không là ám ảnh, điều không là bệnh hoạn. Và bất kì cái gì là tự nhiên cũng đều là tốt. Mối quan tâm này về dục là phi tự nhiên. Và vấn đề là, điều này được tạo ra bởi tu sĩ và bởi chính khách, bởi cái gọi là các mahatma. Họ là thủ phạm - và họ liên tục tạo ra nó, và họ nghĩ họ đang giúp cho nhân loại đi ra ngoài dục. Họ không phải vậy! Họ đang ném nhân loại vào trong toàn thể đống lộn xộn này.
Nếu bạn hiểu tôi đúng, thế thì bạn sẽ ngạc nhiên bởi kinh nghiệm mà bạn sẽ trải qua trong công xã này: chẳng mấy chốc bạn sẽ thấy dục đã trở thành hiện tượng tự nhiên, và chung cuộc, khi thiền của bạn sẽ sâu sắc lên, khi bạn sẽ bắt đầu gặp gỡ với linh hồn của nhau ngày càng nhiều hơn, tiếp xúc thân thể sẽ trở nên ngày càng ít hơn. Một khoảnh khắc tới khi không có nhu cầu về tính dục có đó, nó đã lấy chỗ rẽ mới - năng lượng đã bắt đầu đi lên. Nó là cùng năng lượng. Tại bậc thang thấp nhất nó là dục, tại bậc thang cao nhất nó là samadhi.
Tôi đã viết một cuốn sách - không phải viết, bài nói của tôi đã được thu thập trong đó - tên nó là Từ Dục tới Siêu tâm thức. Bây giờ mười lăm năm đã trôi qua. Kể từ đó quãng hai trăm cuốn sách đã được xuất bản, nhưng không ai dường như đọc bất kì cuốn sách nào khác - không ai ở Ấn Độ. Tất cả họ đều đọc Từ Dục tới Siêu tâm thức. Tất cả họ đều phê phán nó nữa, tất cả họ đều chống lại nó. Các bài báo vẫn được viết ra, sách được viết ra chống lại nó, và các mahatma liên tục phản đối nó - và tôi đã viết hai trăm cuốn sách, và không cuốn nào được nhắc tới, không cuốn sách nào được nhìn tới.
Bạn có hiểu không? - “Thưa ông Morgan, ông có một hay hai cái u trong mũi vậy?”- dường như tôi đã viết chỉ mỗi một cuốn sách.
Mọi người đều chịu khổ từ một vết thương. Dục đã trở thành vết thương. Nó cần được chữa lành.
Nhớ lấy, không cần sợ đàn bà, không cần sợ đàn ông. Chúng ta tất cả đều giống nhau, cùng một Thượng đế. Chúng ta phải học cách yêu lẫn nhau, chúng ta phải đi tới gần nhau hơn bởi vì đó là cách duy nhất để tới gần Thượng đế. Yêu là một trong những cánh cửa lớn nhất tới Thượng đế, cũng như nhận biết là cánh cửa khác.
Phương Đông đã đi theo con đường của nhận biết và trở nên bị thiên lệch. Phương Tây đã đi theo con đường của yêu và đã trở nên bị thiên lệch. Tôi dạy bạn cả hai: nhận biết có yêu, yêu có ý thức. Và với điều này bạn sẽ trở nên được tích hợp, bạn sẽ đạt tới tính cá nhân.
Đủ cho hôm nay.

Ads Belove Post