Read more
Đây là toàn thể
bí mật về thất bại của bạn: lội ngược dòng
Huyền thoại lớn nhất mà tôi đã
bắt gặp là huyền thoại về nhân loại. Chẳng tồn tại cái gì như nó cả. Có nhiều
nhân loại như có ngần ấy người; không có một loại. Mọi con người đều khác biệt
với mọi người khác tới mức nhân loại không tồn tại. Nó chỉ là một từ, sự trừu
tượng hoá.
Các bạn có vẻ giống nhau khác
nhưng các bạn không giống đâu, và huyền thoại đó phải bị vứt đi - chỉ thế thì bạn
mới có thể xuyên thấu vào sâu hơn trong thực tại của con người. Không tâm lí học
cổ đại nào đã từng tin rằng nhân loại tồn tại. Thực tế, nếu chúng ta mà phân loại,
thế thì tất cả các tâm lí học cổ đại đều phân loại con người thành ba phân
chia. Ở Ấn Độ, họ đã chia nhân loại thành ba phần: satwa, raijas và tamas.
Lão Tử đã không cho những cái tên này, nhưng ông ấy cũng phân chia nhân loại
thành ba kiểu người, đích xác theo cùng cách.
Ba phân chia này cũng tuỳ tiện.
Chúng ta phải phân loại để hiểu; bằng không, có nhiều nhân loại như có ngần ấy
con người, mọi con người đều là một thế giới trong bản thân mình. Nhưng phân loại
này giúp để hiểu nhiều điều, nhiều điều sẽ không thể hiểu được nếu không có nó.
Cố hiểu phân loại này thật rõ
ràng nhất có thể được đi.
Kiểu người thứ nhất là satwa, kiểu thứ hai là raijas, và kiểu thứ ba là tamas.
Kiểu người cao nhất, khi người đó nghe nói
về Đạo, bỗng nhiên cảm thấy hài hoà với nó. Đó không phải là hiểu biết
trí tuệ đối với người đó, toàn thể bản thể người đó rung động với bài ca mới;
âm nhạc mới được nghe thấy. Khi người đó nghe về chân lí, đột nhiên cái gì đó
khớp vào và người đó không còn là người cũ nữa - chỉ nghe thôi, người đó trở
thành một kiểu người khác toàn bộ. Không phải là người đó phải dùng trí tuệ của
mình để hiểu nó đâu, điều đó sẽ là việc hiểu bị làm chậm lại. Kiểu người cao nhất
hiểu ngay lập tức, không lỗ hổng thời gian. Nếu người đó nghe về chân lí, với
chính việc nghe về chân lí đó, người đó đã hiểu. Không phải là người đó phải
đem thông minh của mình ra để hiểu nó, không, điều đó sẽ trì hoãn - toàn bộ bản
thể người đó hiểu nó, không chỉ phần trí tuệ. Không chỉ linh hồn người đó,
không chỉ tâm trí người đó, mà ngay cả thân thể người đó cũng rung động theo
cách không biết mới. Điệu vũ mới đã đi vào trong bản thể người đó, và bây giờ
người đó không bao giờ có thể như cũ nữa.
Một khi người đó nghe thấy chân
lí, người đó không bao giờ có thể là con người cũ được nữa; cuộc hành trình mới
đã bắt đầu. Bây giờ không cái gì khác có thể được làm; người đó phải đi. Người
đó đã nghe nói về ánh sáng và người đó đã từng sống trong bóng tối: bây giờ chừng
nào người đó còn chưa đạt tới nó, sẽ không có nghỉ ngơi cho người đó. Người đó
sẽ trở nên bị tách rời sâu sắc. Người đó đã nghe nói rằng một kiểu tồn tại khác
là có thể có: bây giờ chừng nào người đó còn chưa đạt tới nó, người đó không thể
nào thoải mái được, người đó không thể nào ở nhà được tại bất kì đâu. Bất kì chỗ
nào người đó ở, tiếng gọi thường xuyên từ cái không biết sẽ gõ cửa liên tục: khi
thức người đó sẽ nghe thấy nó; khi ngủ người đó sẽ nghe thấy nó; khi mơ - và tiếng
gõ cửa sẽ có đó, người đó sẽ nghe thấy nó. Ăn người đó sẽ nghe thấy nó; bước đi
người đó sẽ nghe thấy nó; ở cửa hiệu, ở chợ, người đó sẽ nghe thấy nó - nó sẽ
là hiện tượng ám ảnh người đó liên tục.
Chỉ bằng nghe thôi sao?
Mahavira nói rằng có hai kiểu người, và người Jaina đã không hiểu điều đó chút
nào. Một ý nghĩ rất cách mạng đã bị hoàn toàn mất hút chỉ bởi hiểu lầm. Ông ấy
nói: Có hai kiểu người. Một kiểu trở thành muktas,
trở nên được giải thoát chỉ bằng việc nghe. Họ được gọi là shravakas. Từ shravak nghĩa
là 'người đã nghe và chỉ bằng việc nghe
được biến đổi'. Thế rồi có kiểu thứ hai người không thể trở nên được giải
thoát chỉ bằng việc nghe, họ phải thực hành nó. Họ được gọi là sadhus. Bây giờ hiểu lầm lớn tồn tại: shravak phải cúi lạy trước sadhu. Thực tế chính điều đối lập lại mới
đáng là hoàn cảnh bởi vì shravak là
linh hồn vĩ đại hơn. Người đó đã đạt tới chỉ bằng việc nghe, nhưng sadhu phải thực hành - chỉ bằng nghe người
đó không thể đạt tới được. Cảm nhận của người đó không sắc bén thế, nhạy cảm của
người đó là đờ đẫn. Người đó không có tâm trí hạng nhất, người đó có tâm trí hạng
hai, tâm trí thường.
Thực tế, người trở nên nhận biết
chỉ bằng nghe có phẩm chất tâm thức lớn hơn người phải làm việc vì nó trong nhiều
năm, làm sadhana, thực hành cái này
cái nọ. Người đó là người đần, tâm trí thường. Tôi đã từng quan sát hàng nghìn
người, tôi đã gặp đủ mọi kiểu người, nhưng sadhus
bao giờ cũng xuất hiện với tôi có chút ít đờ đẫn, và tôi bao giờ cũng lo nghĩ:
Có chuyện gì thế nhỉ? Sao họ trông hơi chút đờ đẫn, hơi chút đần đần? Thông
minh của họ không phải là có phẩm chất cao nhất - dần dần tôi hiểu ra rằng lí
do là ở chỗ họ không thể đạt tới được nó chỉ bằng việc nghe, là bởi vì họ đã
không có thông minh.
Điều này bạn có thể thấy được.
Nếu bạn cứ đi và nhìn các sadhus của
người Jaina bạn có thể lập tức cảm thấy họ đờ đẫn: thông minh nào đó bị thiếu,
cảm nhận của họ không toàn bộ. Họ để ra nhiều năm để thực hành điều có thể được
hiểu ngay lập tức. Họ đang làm điều đó theo cách vất vả bởi vì họ không có
thông minh để chọn cách dễ nhất, thẳng, trực tiếp, đơn giản và tự phát. Họ đang
làm cả nghìn lẻ một thứ để đạt tới cái mà có thể được đạt tới bằng tâm trí cảm
nhận ngay lập tức không cần làm gì cả.
Đó là lí do tại sao
Krishnamurti cứ nói rằng không cần làm cái gì cả. Thực tế, với tâm trí hạng nhất
này không cần làm gì cả; chỉ bằng việc nghe, chỉ bằng việc nghe đúng, người ta
đạt tới. Nhưng tìm đâu ra tâm trí hạng nhất này? Điều đó rất hiếm hoi. Chừng
nào một Krishnamurti còn chưa tới nghe Krishnamurti, điều đó sẽ không xảy ra
đâu. Nhưng tại sao một Krishnamurti lại phải tới nghe một Krishnamurti? Điều đó
là ngớ ngẩn. Nó không có nghĩa. Người có loại cảm nhận đó có thể trở nên thức tỉnh
chỉ bởi việc nghe tiếng chim hót; chỉ bởi việc nghe gió thoảng qua cây, chỉ bởi
việc nghe tiếng nước chảy - thế là đủ, bởi vì từ mọi nơi điều thiêng liêng đều thổ
lộ. Nếu bạn cảm nhận, bất kì cái gì bạn nghe, bạn đều đã nghe thấy điều thiêng
liêng.
Không cái gì khác tồn tại. Mọi
âm thanh đều là của ngài, mọi thông điệp đều là của ngài, mọi nơi đều là chữ kí
của ngài. Với tâm trí hạng nhất, con đường không phải là con đường chút nào;
người đó đơn giản đi vào ngôi đền không có đường, không cần cây cầu nào.
Lão Tử nói rằng khi kiểu người
cao nhất nghe Đạo có cảm nhận ngay lập tức, hiểu ngay lập tức. Chỉ bằng việc
nhìn vào thầy, người đã đạt tới, chỉ bằng nghe lời thầy, hay chỉ bằng nghe hơi
thở của thầy, im lặng, an bình, ngồi cạnh thầy, người đó hiểu ra.
Một khi họ hiểu ra, thế thì họ
không cố đạt tới chân lí nữa; thế thì họ đơn giản cố gắng làm tinh tế lại cơ chế
của họ. Họ đã hiểu chân lí, nó tồn tại, họ đã nghe về nó. Người Hindu gọi kinh
sách của họ là shrutis. Từ shruti nghĩa là 'cái đã được nghe'. Mọi kinh sách đều là 'cái đã được nghe'.
Một khi người thông minh hàng đầu
nghe chân lí, người đó hiểu nó.
Ngày xưa chuyện xảy ra là một
thầy Sufi đột nhiên gọi một trong các đệ tử của mình tới. Nhiều đệ tử đang ngồi
trong buồng, nhưng ông ấy chỉ gọi một người: Lại gần ta. Thầy đang đứng gần cửa
sổ, và lúc đó là đêm trăng tròn. Mọi đệ tử đều ngạc nhiên nhìn. Sao thầy lại gọi
người này? Thế rồi ông già chỉ cái gì đó bên ngoài cửa sổ cho anh thanh niên và
nói: Trông đấy! Và từ ngày đó anh thanh niên này thay đổi hoàn toàn. Những người
khác hỏi: Chuyện gì đã xảy ra? Chẳng có gì cả, chúng ta đều biết, chỉ mỗi đêm
trăng tròn. Đêm trăng tròn có đó, tất nhiên, nhưng cái gì đã xảy ra dường như
là rất không cân xứng. Anh được biến đổi hoàn toàn. Cái gì đã xảy ra?
Anh thanh niên nói: "Tôi
nghe thầy, và tôi im lặng thế bởi vì thầy đã gọi tôi, tôi không ý nghĩ, an bình
tới mức khi thầy chỉ trăng, cái gì đó mở ra bên trong tôi, cửa sổ. Tôi có cảm
nhận điều mà tôi chưa từng có. Tôi nhìn vào trăng bằng con mắt mới, tôi nhìn
vào ánh trăng bằng bản thể mới. Tất nhiên, tôi đã thấy cảnh này từ trạng thái
xa xăm của tâm trí tôi và tôi sẽ phải làm việc vất vả để đạt tới nó, nhưng bây
giờ nó tồn tại. Bây giờ tôi biết nó là chắc chắn. Bây giờ không có hoài nghi.
Nhưng tôi sẽ vẫn phải đạt tới trạng thái đó bởi vì tôi đã nhìn qua mắt của thầy.
Những con mắt đó không phải là của tôi; thầy đã trao cho tôi con mắt của thầy;
trong một khoảnh khắc tôi đã mượn chúng.
Tôi đã nhìn qua bản thể của thầy.
Nó không phải là bản thể của tôi, cửa sổ này không phải là của tôi, nó là cửa sổ
của thầy, và thầy đã cho phép tôi nhìn qua nó. Nhưng bây giờ tôi biết rằng một
kiểu tồn tại khác là có thể, mà không chỉ có thể, còn tuyệt đối chắc chắn. Bây
giờ tôi có thể mất nhiều kiếp để đạt tới mục đích đó, nhưng mục đích đó là chắc
chắn. Không hoài nghi nào nảy sinh trong tôi bây giờ, bây giờ hoài nghi không
thế quấy rối tôi được - bây giờ cuộc hành trình của tôi là rõ ràng."
Họ nghe, họ hiểu, thế rồi họ cố
gắng vất vả để sống hoà hợp theo nó. Họ đã nhìn qua cửa sổ của thầy và họ đã trở
nên chắc chắn rằng bây giờ nó là sự kiện tuyệt đối; nó không phải là triết lí,
không phải là siêu hình. Nó mang tính tồn tại. Họ đã cảm thấy nó, họ đã biết
nó, nhưng họ sẽ phải đi con đường dài trước khi cái cảm nhận đó trở thành của
riêng họ.
Họ đã nghe thấy chân lí, họ đã
hiểu nó, nhưng họ sẽ phải đi con đường dài trước khi chân lí trở thành bản thể
họ.
Kiểu người cao nhất cố gắng vất
vả để sống hoà hợp với nó - thế nhưng không phải là bằng việc sống hoà hợp với
nó và cố gắng vất vả người ta đạt tới nó đâu, không. Chỉ bằng cố gắng vất vả chẳng
ai đạt tới nó cả, nhưng bằng cố gắng vất vả, dần dần người ta đi tới cảm thấy rằng
bản thân nỗ lực là rào chắn ở những giai đoạn cuối cùng của biến đổi. Bằng cố gắng
vất vả, người ta đi tới biết rằng ngay cả cố gắng vất vả cũng là rào chắn, và
người ta vứt bỏ điều đó. Bởi vì khi bạn cố gắng vất vả để sống hài hoà theo Đạo,
cuộc sống đó không thể là cuộc sống tự phát được, nó chỉ có thể là hiện tượng
ép buộc, kỉ luật, không phải là tự do. Nó sẽ trở thành tù túng. Bằng việc cố gắng
vất vả không ai có thể đạt tới cái đã có đó rồi, mà bằng cố gắng vất vả người
ta đạt tới hiểu biết rằng ngay cả nỗ lực cũng là rào chắn, rào chắn rất tinh tế,
bởi vì mọi nỗ lực đều là của bản ngã. Ngay cả ham muốn đạt tới chân lí cũng tới
từ bản ngã. Người ta vứt bỏ điều đó nữa.
Nhưng nhớ lấy, người ta có thể
vứt bỏ nỗ lực chỉ khi người ta đã nỗ lực tới mức tối đa. Bạn không thể nói:
"Nếu điều đó mà là hoàn cảnh, thế thì tôi phải vứt bỏ nỗ lực ngay từ chính
lúc ban đầu chứ. Sao lại làm nó?" Bạn sẽ bỏ lỡ toàn thể vấn đề. Đó là điều
đang xảy ra cho những người đã từng nghe Krishnamurti. Ông ấy nói - và bất kì
điều gì ông ấy nói cũng đều hoàn toàn đúng - rằng chẳng nỗ lực nào được cần cả.
Điều đó là đúng, nhưng nó đúng chỉ cho những người đã từng làm nỗ lực rất lớn với
toàn thể bản thể họ. Nó đúng chỉ cho nhưng người đó - họ có thể vứt bỏ nó.
Trở nên nghệ thuật một cách
chân thật là không thể được với những người còn chưa trải qua kỉ luật nào. Cuối
cùng người nghệ sĩ đều phải trở nên quên hoàn toàn về nghệ thuật của mình; người
đó phải quên bất kì điều gì người đó đã học. Nhưng bạn có thể quên chỉ cái bạn
đã học. Nếu nghệ thuật của nghệ sĩ mà còn mang nỗ lực, thế thì nghệ thuật của
người đó không hoàn hảo.
Trong Thiền họ thường dùng nhiều
phương pháp để dạy mọi người thiền. Họ dùng cả nghệ thuật nữa: hội hoạ, thư
pháp, và các thứ khác. Học trò sẽ học vẽ trong mười hay mười hai năm - cho tới
khi trở nên hoàn hảo tuyệt đối về kĩ thuật - thậm chí không có một lỗi nào về
công nghệ của nghệ thuật này. Một khi nghệ sĩ đã trở nên hoàn hảo về kĩ thuật,
thầy sẽ nói, "Bây giờ bỏ nó đi. Trong hai hay ba năm, quên hoàn toàn nó
đi. Vứt hết bút vẽ, quên hết mọi thứ con đã học về vẽ, và khi con đã quên nó
hoàn toàn, thì tới ta."
Hai, ba, bốn, năm năm, đôi khi
thậm chí còn hơn, là cần để quên. Điều đó rất khó. Đầu tiên học một điều đã là
khó, dỡ bỏ nó một khi bạn đã học nó lại còn khó hơn. Phần thứ hai là rất, rất bản
chất, căn bản, bằng không, bạn sẽ là nhà kĩ thuật, không phải là nghệ sĩ.
Tương truyền rằng chuyện xảy ra
là một cung thủ lớn đã huấn luyện cho đệ tử của mình thật hoàn hảo trong bắn
cung, và rồi bảo anh ta, "Bây giờ quên mọi thứ về nó đi." Trong hai
mươi năm đệ tử này đã quen tới và đi với thầy, nhưng thầy chả nói năng gì, cho
nên đệ tử này phải kiên nhẫn chờ đợi.
Dần dần anh ta hoàn toàn quên
khuấy mọi thứ về cung thuật - hai mươi năm là quãng thời gian dài - và anh ta
đã trở thành gần như một ông già.
Thế rồi một hôm anh ta tới và
khi anh ta đi vào buồng thầy, anh ta thấy một chiếc cung, nhưng anh ta không nhận
ra được nó là gì. Thầy tới anh ta, ôm choàng lấy anh ta, và nói, "Bây giờ
anh đã trở thành cung thủ hoàn hảo; thậm chí anh đã quên cả chiếc cung rồi. Bây
giờ đi ra và nhìn lên đàn chim đang bay và với ý tưởng rằng chúng rơi, là chúng
sẽ rơi đấy."
Cung thủ này đi ra và anh ta
không thể nào tin được vào điều đó. Anh ta nhìn lên đàn chim đang bay, gần như
cả tá chim, và chúng lập tức rơi xuống đất. Thầy nói, "Bây giờ chẳng còn
gì hơn để làm nữa. Ta vừa chỉ cho anh rằng khi người ta quên kĩ thuật, chỉ thế
thì người ta mới trở thành hoàn hảo. Bây giờ cung và tên là không cần thiết;
chúng chỉ được cần cho kẻ nghiệp dư thôi."
Hoạ sĩ hoàn hảo không cần chổi
vẽ và vải vẽ; nhạc sĩ hoàn hảo không cần đàn sitar hay đàn violon hay đàn ghi
ta. Không, thứ đó dành cho kẻ nghiệp dư.
Tôi bắt gặp một nhạc sĩ rất già
- bây giờ ông ấy chết rồi - ông ấy một trăm mười tuổi. Ravi Shankar là đệ tử của
ông ấy. Ông ấy có thể sáng tác nhạc bằng bất kì cái gì, bất kì cái gì dù nó là
thế nào. Ông ấy đi qua hai tảng đá và ông ấy sẽ sáng tác nhạc bằng chúng; ông ấy
tìm thấy một mẩu sắt và ông ấy bắt đầu chơi với nó và bạn sẽ nghe thấy âm nhạc
hay, nhạc bạn chưa từng nghe thấy. Đây là nhạc sĩ. Bây giờ ngay cả cái chạm của
ông ấy cũng là nhạc. Nếu ông ấy chạm vào bạn, bạn sẽ thấy rằng ông ấy đã chạm
vào nhạc cụ bên trong nhất của sự hài hoà và âm nhạc bên trong của bạn - bỗng
nhiên bạn bắt đầu rung động.
Khi bất kì cái gì trở thành
hoàn hảo, nỗ lực mà bạn đã tạo ra để học nó đều phải bị quên đi, bằng không
chính nỗ lực này vẫn còn đè nặng lên đầu.
Cho nên không phải là bằng nỗ lực
vất vả để sống hài hoà với nó mà kiểu người cao nhất đạt tới nó đâu - không. Họ
cố gắng vất vả để hoà hợp với nó, thế rồi dần dần họ bắt đầu hiểu rằng để sống
trong hoà hợp với tự nhiên, chẳng cần nỗ lực nào. Nó cũng giống như việc nổi
trong nước: không ai có thể nổi ngay được, trước hết bạn phải học bơi đã. Đừng
xuống sông kẻo bạn sẽ chết đuối. Người ta phải học bơi và khi việc bơi trở nên
hoàn hảo, người đó không cần bơi, người đó có thể chỉ ở trong sông, nổi; người
đó có thể nằm trong sông dường như người đó nằm trong giường vậy. Bây giờ người
đó đã học được cách hài hoà với sông; bây giờ sông không thể nhấn chìm được người
đó; bây giờ người đó không còn thù địch với sông. Thực tế, người đó không còn tồn
tại tách rời với sông. Người bơi hoàn hảo trở thành một phần của sông; người đó
là con sóng trong sông. Làm sao sông có thể phá huỷ được sóng? Bây giờ người đó
nổi trong hài hoà với sông, người đó không còn đó mà tranh đấu, chống cự, làm
cái gì đó. Người đó hài hoà với sông và người đó đơn giản có thể nổi. Nhưng đừng
thử điều này chừng nào bạn còn chưa biết bơi; bằng không bạn sẽ bị chết đuối.
Cùng điều đó xảy ra với Đạo. Bạn
làm nỗ lực lớn lao để sống hài hoà theo chân lí, thế rồi dần dần bạn hiểu rằng
nỗ lực lớn của bạn có giúp chút ít, nhưng cản trở nhiều. Sống trong hài hoà là ở
trong buông bỏ, nó không phải là tranh đấu với tự nhiên. Sống trong hài hoà với
tự nhiên là trở thành một với tự nhiên; không cần vật lộn. Nỗ lực là vật lộn; nỗ
lực có nghĩa là bạn đang cố gắng làm điều gì đó theo ý bạn. Khoa học là nỗ lực;
tôn giáo là vô nỗ lực.
Khoa học là bạo hành với tự
nhiên. Đó là lí do tại sao các nhà khoa học liên tục nói dưới dạng xung đột,
chinh phục. Ngay cả một người như Bertrand Russell, một thông minh vĩ đại thế
đã viết ra cuốn sách về tự nhiên bị chinh phục bởi khoa học: 'Chinh phục tự nhiên'. Nó là cuộc tranh
đấu, cứ dường như tự nhiên là kẻ thù của bạn và bạn phải chi phối nó. Khoa học
là chính trị sâu với tự nhiên, cuộc chiến sâu, sự thù địch. Tôn giáo không phải
là cuộc tranh đấu chút nào; thực tế, nó là hiểu biết rằng bạn là một bộ phận của
tự nhiên.
Làm sao bộ phận có thể tranh đấu
với cái toàn thể được? Và nếu bộ phận cố tranh đấu với toàn thể và rồi trở nên
đầy ưu tư, bạn có thể trông đợi gì? Điều đó là tự nhiên. Nếu bộ phận cố gắng đánh
lại toàn thể, nếu tay tôi cố gắng đánh lại toàn thân tôi, tay sẽ trở nên ốm bệnh.
Làm sao tay có thể đánh được thân thể? Thân thể cung cấp máu, thân thể cung cấp
chất nuôi dưỡng, làm sao nó có thể đánh thân thể được? Tay đánh thân thể sao?
Điều đó là ngu xuẩn.
Con người tranh đấu với tự
nhiên là ngu xuẩn, bạn chỉ có thể sống trong hài hoà với tự nhiên thôi. Tôn
giáo là buông xuôi; khoa học là cuộc chiến. Khoa học làm mạnh cho bản ngã và
toàn thể vấn đề đối với tôn giáo là làm sao vứt bỏ bản ngã. Qua nỗ lực nó không
thể bị vứt bỏ.
Đó là qua điểm đầu tiên của họ.
Một khi họ hiểu, họ nghe, họ cảm, họ nếm, họ cảm ái lực của nó, và họ bắt đầu cố
gắng vất vả để sống hài hoà. Nhưng dần dần, khi họ trưởng thành trong nó, họ bắt
đầu hiểu rằng nỗ lực là không cần thiết - thay vì thế, vô nỗ lực mới là cần.
Chung cuộc họ vứt bỏ nỗ lực và trở thành một với tự nhiên.
Thế thì họ không còn là một phần
của nhân loại, họ trở thành siêu nhân. Thế thì họ không còn là một phần của
nhân loại vật lộn, họ không còn vật lộn. Họ dường như giống người nhưng họ
không còn là người. Khi bạn bắt gặp người như Lão Tử, ông ấy không là người;
khi bạn bắt gặp Phật ông ấy không là người. Đó là lí do tại sao chúng ta đã gọi
những người như vậy là avataras, chỉ
để tạo ra phân biệt với nhân loại thường. Chúng ta đã gọi Jesus là 'con của Thượng
đế' - không phải là ông ấy không là con của con người, ông ấy là con của con
người chứ, nhưng chúng ta phải làm ra phân biệt. Nếu chúng ta gọi Jesus là người,
thế thì chúng ta sẽ gọi nhân loại thông thường là gì? Thế thì chúng ta sẽ phải
tìm ra ngợm gì đó cho nhân loại bình thường.
Gọi bản thân chúng ta là nhân
thì chúng ta phải gọi Jesus là siêu nhân, chúng ta phải gọi Phật là avatar,
Krishna là thượng đế. Đây là những cử chỉ tượng trưng để chỉ ra rằng ngay cả kiểu
người thứ nhất, người satwa, siêu việt
lên khi ông ấy vứt bỏ mọi nỗ lực và đi trong hài hoà với tự nhiên.
Ai đó hỏi Lão Tử, "Thầy đã
đạt tới thế nào?" Ông ấy nói, "Ta đang ngồi dưới gốc cây và ta đã làm
tất cả mọi điều có thể được làm rồi, mọi điều có thể làm được theo tính con người,
và ta đã hoàn toàn thất vọng. Nhiều điều đã xảy ra qua nó, nhưng không phải tất
cả; cái gì đó bị thiếu, bị lỡ, và mối nối thiếu đó là cái khó tìm nhất, hay lảng
tránh nhất. Thế rồi trong khi ta đang ngồi dưới gốc cây, một chiếc lá, lá khô,
rơi khỏi cây chầm chậm, và bay đi theo gió. Gió thổi phương bắc, lá bay phương
bắc; thế rồi gió đổi chiều, bắt đầu thổi sang phương nam, và lá bắt đầu bay về
phương nam; thế rồi gió ngừng thổi - và chiếc lá rơi xuống đất, không một lời
phàn nàn, không vật lộn về phần nó, không chiều hướng nào của riêng nó. Nếu gió
thổi phương nam, nó đi về phương nam; nếu gió thổi phương bắc, nó đi về phương
bắc; nếu gió ngừng, nó rơi xuống đất và nghỉ ngơi thoải mái.
Thế rồi lại có cơn gió nào đó
và nó lại bốc lên cao trên trời - nhưng không có vấn đề gì. Bỗng nhiên ta hiểu
ra. Thông điệp này đưa về nhà. Từ ngày hôm đó ta đã trở thành chiếc lá khô và mối
nối bị thiếu mà đã từng hay lảng tránh thế, bây giờ không còn lảng tránh nữa."
Mối nối bị thiếu đó chỉ là thế này: rằng bạn có thể đạt tới nhiều điều thông
qua nỗ lực nhưng bạn không thể đạt tới Đạo qua nỗ lực được. Chung cuộc bạn phải
bỏ nỗ lực - và bỗng nhiên mọi thứ khớp lại, bạn ở trong hài hoà. Thế thì bạn
không chỉ huy, thế thì bạn không còn là người chỉ huy; thế thì bạn không nói với
gió: Đi hướng nam, bởi vì ta đang trên cuộc hành trình tới miền nam. Thế thì bạn
không có đích nào; thế thì định mệnh của cái toàn thể là định mệnh của bạn; thế
thì bạn không tách rời. Thế thì bạn không nghĩ dưới dạng cá nhân; bạn đã trở
thành một phần của cái toàn thể và bất kì chỗ nào cái toàn thể, đi bạn cũng đi.
Nếu cái toàn thể đổi ý, bạn đổi ý; nếu cái toàn thể dừng cuộc hành trình, điều
đó là đẹp; nếu cái toàn thể chạy, bạn chạy cùng nó. Đó là điều "trong hài
hoà" nghĩa là gì.
Không một chút tâm trí của
riêng mình, khi bạn đã trở thành người vô trí, cái toàn thể sống qua bạn, sống
bạn, đi qua bạn, di chuyển bạn. Bây giờ bạn không thở, cái toàn thể thở bạn. Thế
thì mọi thứ đều là phúc lành, ân huệ. Vậy làm sao bạn có thể căng thẳng được?
Lo nghĩ về cái gì? Mọi lo nghĩ tồn tại bởi vì bạn đã mang số phận cá nhân vào
tâm trí mình, đi ngược lại số phận của cái toàn thể - bạn lội ngược dòng.
Đây là toàn thể bí mật của thất
bại của bạn - bạn lội ngược dòng. Thế thì bạn lo nghĩ, căng thẳng, phiền não,
lo âu, gần phát điên - bất kì ai cũng sẽ phát điên nếu họ thường xuyên lội ngược
dòng bởi vì tranh đấu gay go và vô nghĩa thế. Và một ngày nào đó bạn sẽ cảm thấy
mệt mỏi và thế rồi nó sẽ có vẻ như thất vọng, thất bại. Người khôn rời bỏ cái
vô nghĩa ngược dòng này; người đó đơn giản cho phép dòng sông đưa người đó tới
bất kì chỗ nào nó đi. Nếu nó đi tới bất kì đâu, tốt; nếu nó không đi đâu cả, tốt;
thế thì bỗng nhiên bạn tĩnh lặng, im lặng.
Bỗng nhiên bạn tĩnh lặng, im lặng.
Chỉ thế thì, chưa bao giờ trước đây, việc thiền thực xảy ra và mọi nỗ lực bị dẹp
bỏ. Nhưng bạn phải làm nỗ lực đầu tiên đã, bằng không bạn sẽ không bao giờ hiểu
được rằng nó phải bị loại bỏ. Bạn có thể bỏ nó chỉ nếu bạn đã ở trong nó - và từ
chính lúc ban đầu, với bạn gần như không thể nào đủ khôn ngoan để vứt bỏ nó.
Làm sao bạn có thể vứt cái mà bạn không có?