Chương 3. Năm biến thể tâm trí

Chương 3. Năm biến thể tâm trí

Price:

Read more

Yoga: Alpha và Omega (Tập 1)
Chương 3. Năm biến thể tâm trí

Biến thể tâm trí có năm điều.
Chúng có thể hoặc là cội nguồn của khổ hoặc không khổ.
Chúng là tri thức đúng, tri thức sai,
tưởng tượng, ngủ và kí ức.
Tâm trí có thể hoặc là cội nguồn của tù túng hoặc là cội nguồn của tự do. Tâm trí trở thành cổng cho thế giới này, lối vào; nó cũng có thể trở thành lối ra. Tâm trí đưa bạn tới địa ngục, tâm trí cũng có thể đưa bạn tới cõi trời. Cho nên tất cả đều phụ thuộc vào cách tâm trí được dùng. Việc dùng đúng về tâm trí trở thành thiền, việc dùng sai về tâm trí trở thành điên.
Tâm trí có đó, với mọi người. Khả năng của tối và sáng, cả hai đều được ngụ ý trong nó. Bản thân tâm trí không là kẻ thù không là bạn bè. Bạn có thể làm nó thành bạn, bạn có thể làm nó thành thù; điều đó tuỳ thuộc vào bạn - vào bạn, người ẩn đằng sau tâm trí. Nếu bạn có thể làm cho tâm trí thành công cụ của bạn, nô lệ của bạn, tâm trí trở thành lối chuyển qua đó bạn có thể đạt tới điều tối thượng. Nếu bạn trở thành nô lệ và tâm trí được phép là người chủ, thế thì tâm trí này, kẻ đã trở thành người chủ sẽ dẫn bạn tới khổ não cùng cực và bóng tối.
Mọi kĩ thuật, mọi phương pháp, mọi con đường của Yoga, thực sự có liên quan sâu sắc chỉ với một vấn đề: cách dùng tâm trí. Được dùng đúng, tâm trí đi tới điểm nó trở thành vô trí. Bị dùng sai, tâm trí đi tới điểm nó chỉ là hỗn độn, nhiều tiếng nói đối kháng lẫn nhau, mâu thuẫn, lẫn lộn, mất trí.
Người điên trong nhà thương điên và Phật dưới gốc cây bồ đề - cả hai đều dùng tâm trí, cả hai đều đã đi qua tâm trí. Phật đã đi tới điểm mà tâm trí biến mất. Được dùng đúng, nó cứ biến dần đi; một khoảnh khắc tới khi nó không hiện hữu. Người điên cũng đã dùng tâm trí. Bị dùng sai, tâm trí trở nên bị phân chia; bị dùng sai, tâm trí trở thành nhiều; bị dùng sai, nó trở thành đa số. Và chung cuộc tâm trí điên có đó, bạn tuyệt đối vắng bóng.
Tâm trí của Phật đã biến mất và Phật ở trong hiện tại trong tính toàn bộ của ông ấy. Tâm trí người điên đã trở thành toàn bộ và bản thân người đó đã biến mất hoàn toàn. Đây là khác biệt... hai cực. Bạn và tâm trí bạn: nếu chúng tồn tại cùng nhau thế thì bạn sẽ trong khổ. Hoặc bạn phải biến mất hoặc tâm trí sẽ phải biến mất. Nếu tâm trí biến mất thế thì bạn đạt tới chân lí; nếu bạn biến mất bạn đạt tới điên khùng. Và đây là cuộc vật lộn: ai sẽ biến mất?
Bạn sẽ biến mất, hay tâm trí? Đây là xung đột, gốc rễ của mọi vật lộn.
Những lời kinh này của Patanjali sẽ đưa bạn từng bước tới hiểu biết này về tâm trí: nó là gì, nó lấy kiểu phương thức nào, kiểu thay đổi nào đi vào trong nó, làm sao bạn có thể dùng nó và đi ra ngoài nó. Và nhớ lấy, bạn chẳng có gì khác ngay bây giờ, chỉ tâm trí - bạn phải dùng nó. Bị dùng sai bạn sẽ cứ rơi vào trong ngày càng nhiều khổ.
Bạn đang trong khổ. Đó là vì trong nhiều kiếp bạn đã dùng tâm trí theo cách sai và tâm trí đã trở thành chủ; bạn chỉ là nô lệ, cái bóng đi theo tâm trí. Bạn không thể nói với tâm trí, “Dừng lại!” Bạn không thể ra lệnh cho tâm trí riêng của mình; tâm trí của bạn cứ ra lệnh cho bạn và bạn phải tuân theo nó. Bản thể bạn đã trở thành cái bóng và nô lệ, công cụ.
Tâm trí không là gì ngoài công cụ cũng giống như tay hay chân bạn. Bạn ra lệnh cho chân - chân bạn, chúng cử động. Khi bạn nói dừng lại, chúng dừng lại. Bạn là người chủ. Nếu tôi muốn cử động tay tôi, tôi cử động nó. Nếu tôi không muốn cử động, tôi không cử động nó. Tay không thể nói với tôi, “Bây giờ tôi muốn được cử động.” Tay không thể nói với tôi, “Bây giờ tôi sẽ cử động. Bất kì điều gì ông làm, tôi sẽ không nghe ông đâu.” Và nếu tay tôi bắt đầu cử động mặc cho tôi, thế thì đó sẽ là hỗn độn trong thân thể. Cùng điều đó đã xảy ra trong tâm trí.
Bạn không muốn nghĩ và tâm trí cứ nghĩ. Bạn muốn ngủ - bạn nằm trong giường, quay mình đổi bên; bạn muốn ngủ và tâm trí tiếp tục. Tâm trí nói, “Không, tôi sẽ nghĩ về cái gì đó”; bạn cứ nói, “Dừng lại!” và nó không bao giờ nghe bạn. Và bạn không thể làm được gì. Tâm trí cũng là công cụ nhưng bạn đã cho nó quá nhiều quyền lực. Nó đã trở thành độc tài, và nó sẽ vật lộn kịch liệt nếu bạn cố đưa nó vào chỗ đúng của nó.
Phật cũng dùng tâm trí, nhưng tâm trí của ông ấy giống như chân của bạn. Mọi người cứ tới tôi và họ hỏi, “Điều gì xảy ra cho tâm trí của người chứng ngộ? Nó đơn giản biến mất sao? Ông ấy không thể dùng được nó sao?”
Nó biến mất như người chủ, nó còn lại như nô lệ. Nó còn lại như công cụ thụ động. Nếu vị Phật muốn dùng nó, ông ấy có thể dùng nó. Khi Phật nói với bạn ông ấy sẽ phải dùng nó, bởi vì không có khả năng nói mà không có tâm trí. Tâm trí phải được dùng. Nếu bạn đi tới Phật và ông ấy nhận ra bạn - rằng bạn là người như trước - ông ấy phải dùng tâm trí: không có tâm trí không thể có việc nhận ra, không có tâm trí không có kí ức. Nhưng ông ấy dùng tâm trí, nhớ lấy - đây là phân biệt - và bạn đang bị tâm trí dùng. Bất kì khi nào ông ấy muốn dùng nó, ông ấy dùng nó. Bất kì khi nào ông ấy không muốn dùng nó, ông ấy không dùng nó. Nó là công cụ thụ động, nó không có nắm giữ nào lên ông ấy.
Cho nên Phật vẫn còn như tấm gương. Nếu bạn đến trước tấm gương, gương phản xạ bạn. Khi bạn rời đi việc phản xạ mất đi, gương trống rỗng. Bạn không giống tấm gương. Bạn thấy ai đó: người này đã đi rồi nhưng suy nghĩ vẫn tiếp tục, phản xạ vẫn tiếp tục. Bạn cứ nghĩ về người đó. Và cho dù bạn muốn dừng lại, tâm trí sẽ không nghe theo.
Làm chủ tâm trí là Yoga. Và khi Patanjali nói, “Việc dừng của tâm trí,” điều này được ngụ ý: việc dừng lại như người chủ. Tâm trí dừng là người chủ. Thế thì nó không chủ động, thế thì nó là công cụ thụ động. Bạn ra lệnh, nó làm việc; bạn không ra lệnh, nó vẫn còn tĩnh lặng. Nó chỉ chờ đợi. Nó không thể khẳng định bản thân nó. Việc khẳng định bị mất, bạo hành bị mất. Nó sẽ không cố gắng kiểm soát bạn: bây giờ chỉ việc ngược lại mới là hoàn cảnh.
Làm sao trở thành người chủ? Và làm sao đưa tâm trí vào chỗ đúng nơi bạn có thể dùng nó, nơi nếu bạn không muốn dùng nó bạn có thể gạt nó sang bên và vẫn còn im lặng? Cho nên toàn thể cơ chế của tâm trí sẽ phải được hiểu. Bây giờ chúng ta nên đi vào kinh.
Lời kinh thứ nhất:
Biến thể tâm trí có năm điều.
Chúng có thể hoặc là cội nguồn của khổ hoặc không khổ.
Điều thứ nhất cần được hiểu: rằng tâm trí không phải là cái gì đó khác với thân thể, nhớ lấy. Tâm trí là một phần của thân thể. Nó là thân thể, nhưng tinh tế sâu; trạng thái của thân thể, nhưng rất mỏng manh, rất mịn. Bạn không thể nắm được nó, nhưng qua thân thể bạn có thể ảnh hưởng tới nó. Nếu bạn uống ma tuý, nếu bạn uống LSD hay cần sa hay cái gì đó khác... hay rượu, đột nhiên tâm trí bị ảnh hưởng. Rượu đi vào thân thể, không đi vào tâm trí, nhưng tâm trí bị ảnh hưởng. Tâm trí là phần tinh vi nhất của thân thể.
Điều ngược lại cũng đúng: ảnh hưởng lên tâm trí và thân thể bị ảnh hưởng. Điều đó xảy ra trong thôi miên. Người không thể bước đi được, người nói rằng mình bị liệt, vẫn có thể bước đi dưới thôi miên. Bạn không bị liệt, nhưng nếu dưới thôi miên, người ta nói, “Bây giờ thân thể bạn bị liệt, bạn không thể bước được,” bạn không thể bước đi. Người liệt có thể bước đi dưới thôi miên. Điều gì xảy ra? Thôi miên đi vào trong tâm trí, gợi ý đi vào trong tâm trí thế rồi thân thể theo sau.
Điều đầu tiên được hiểu: tâm trí và thân thể không phải là hai. Đây là một trong những khám phá sâu sắc nhất của Patanjali. Bây giờ khoa học hiện đại thừa nhận điều đó, nó rất gần đây ở phương Tây. Bây giờ họ nói thân-và-tâm - nói theo lưỡng phân này là không đúng. Bây giờ họ nói nó là ‘tâm thân’, nó là tâm trí-thân thể. Hai từ này chỉ là hai chức năng của một hiện tượng. Một cực là tâm trí, cực kia là thân thể, cho nên bạn có thể làm việc từ cả hai và thay đổi cái kia.
Thân thể có năm cơ quan hoạt động, năm indriya, năm công cụ hoạt động. Tâm trí có năm biến thể, năm phương thức vận hành. Tâm trí và thân thể là một. Thân thể được phân chia thành năm chức năng, tâm trí cũng được phân chia thành năm chức năng. Chúng ta sẽ đi vào chi tiết từng chức năng.
Điều thứ hai về kinh này là:
Chúng có thể hoặc là cội nguồn của khổ hoặc không khổ.
Năm biến thể này của tâm trí, tính toàn bộ này của tâm trí, có thể đưa bạn vào trong phiền não sâu, trong dukkha, trong khổ. Hay nếu bạn dùng đúng tâm trí này, vận hành của nó, nó có thể đưa bạn vào trong vô khổ.
Từ ‘vô khổ’ đó là rất có ý nghĩa. Patanjali không nói rằng nó sẽ dẫn bạn vào ananda, vào phúc lạc, không; nhiều nhất nó có thể dẫn bạn vào trong vô khổ. Tâm trí có thể dẫn bạn vào trong khổ nếu bạn dùng sai nó, nếu bạn trở thành nô lệ cho nó. Nếu bạn trở thành người chủ tâm trí có thể dẫn bạn vào trong vô khổ - không trong phúc lạc, bởi vì phúc lạc là bản tính của bạn; tâm trí không thể dẫn bạn tới điều đó được. Nhưng nếu bạn trong vô khổ thế thì phúc lạc bên trong bắt đầu tuôn chảy.
Phúc lạc bao giờ cũng có đó bên trong, nó là bản tính cố hữu của bạn. Nó không là cái gì để được đạt tới và kiếm được, nó không là cái gì để được đạt tới ở đâu đó. Bạn được sinh ra cùng nó, bạn đã có nó, nó đã là hoàn cảnh. Đó là lí do tại sao Patanjali không nói rằng tâm trí có thể dẫn bạn vào khổ và có thể dẫn bạn vào phúc lạc, không. Ông ấy rất khoa học, rất chính xác. Ông ấy sẽ không dùng ngay cả một từ mà có thể cho bạn bất kì thông tin không đúng nào. Ông ấy đơn giản nói hoặc khổ hoặc vô khổ.
Phật cũng nói nhiều lần, bất kì khi nào những người tìm kiếm tới ông ấy... và người tìm kiếm đều theo phúc lạc, cho nên họ sẽ hỏi Phật, “Làm sao chúng tôi có thể đạt tới phúc lạc, phúc lạc tối thượng?” Ông ấy sẽ nói, “Ta không biết. Ta có thể chỉ cho ông con đường dẫn tới vô khổ, chỉ là thiếu vắng khổ. Ta không nói gì về điều khẳng định, phúc lạc, chỉ điều phủ định. Ta có thể chỉ cho ông cách đi vào trong thế giới của vô khổ.”
Đó là mọi điều các phương pháp có thể làm. Một khi bạn ở trong trạng thái của vô khổ phúc lạc bên trong bắt đầu tuôn chảy. Nhưng điều đó không tới từ tâm trí, điều đó tới từ bản thể bên trong của bạn. Cho nên tâm trí chẳng liên quan gì tới nó, tâm trí không thể tạo ra được nó. Nếu tâm trí ở trong khổ thế thì tâm trí trở thành cản trở; nếu tâm trí là trong vô khổ thế thì tâm trí trở thành việc mở - nhưng nó không sáng tạo, nó không làm gì cả.
Bạn mở cửa sổ và tia sáng mặt trời đi vào: bằng việc mở cửa sổ bạn không tạo ra mặt trời, mặt trời đã ở đó rồi. Nếu như nó không có đó thế thì chỉ bằng việc mở cửa sổ, các tia sáng sẽ không vào. Cửa sổ của bạn có thể trở thành cản trở: tia sáng mặt trời có thể ở bên ngoài và cửa sổ bị đóng. Cửa sổ có thể cản trở hay nó có thể cho đường vào. Nó có thể trở thành lối chuyển nhưng nó không thể có tính sáng tạo. Nó không thể tạo ra tia sáng, tia sáng có đó.
Tâm trí bạn, nếu nó đang trong khổ, trở thành bị đóng. Nhớ lấy, một trong các đặc trưng của khổ là tính đóng. Bất kì khi nào bạn trong khổ bạn đều trở nên đóng. Quan sát mà xem - mỗi khi bạn cảm thấy phiền não gì đó bạn đều đóng với thế giới. Ngay cả với bạn thân nhất của mình, bạn cũng đóng. Ngay cả với vợ bạn, con bạn, người yêu của bạn, bạn đóng khi bạn đang khổ, bởi vì khổ cho bạn việc co vào bên trong. Bạn co lại. Từ mọi nơi bạn đã đóng cửa của bạn.
Đó là lí do tại sao trong khổ mọi người bắt đầu nghĩ tới tự tử. Tự tử nghĩa là đóng toàn bộ, không có khả năng của trao đổi nào, không có khả năng của bất kì cửa nào. Ngay cả cửa đóng cũng nguy hiểm. Ai đó có thể mở nó cho nên phá cửa đi, phá mọi khả năng đi. Tự tử nghĩa là, “Bây giờ tôi sẽ phá huỷ tất cả mọi khả năng của bất kì lối mở nào. Bây giờ tôi đang đóng bản thân tôi một cách toàn bộ.”
Bất kì khi nào bạn trong khổ bạn bắt đầu nghĩ tới tự tử. Bất kì khi nào bạn hạnh phúc bạn không thể nghĩ về tự tử, bạn không thể hình dung được, bạn thậm chí không thể nghĩ. “Sao mọi người tự tử? Tại sao? Cuộc sống vui thế, cuộc sống là âm nhạc sâu sắc thế, sao mọi người phá huỷ cuộc sống?” - điều đó dường như không thể được.
Tại sao, khi bạn hạnh phúc, điều đó có vẻ không thể được? Bởi vì bạn mở, cuộc sống tuôn chảy trong bạn. Khi bạn hạnh phúc bạn có linh hồn lớn hơn, mở rộng. Khi bạn bất hạnh ban có linh hồn nhỏ hơn, nó co lại.
Khi ai đó bất hạnh, chạm vào người đó, cầm tay người đó trong tay bạn - bạn sẽ cảm thấy bàn tay đó chết. Chẳng cái gì tuôn chảy qua nó - không tình yêu, không hơi ấm. Nó lạnh lẽo, cứ dường như nó thuộc vào cái xác. Khi ai đó hạnh phúc chạm tay người đó mà xem: có trao đổi, năng lượng tuôn chảy. Tay người đó không phải là đầu chết, tay người đó đã trở thành chiếc cầu. Qua tay người đó cái gì đó đi tới bạn, trao đổi, quan hệ. Hơi ấm tuôn chảy. Người đó đạt tới bạn. Người đó làm mọi nỗ lực để tuôn chảy trong bạn và người đó cho phép bạn cũng tuôn chảy trong người đó.
Khi hai người hạnh phúc họ trở thành một. Đó là lí do tại sao tính một xảy ra trong tình yêu và những người yêu bắt đầu cảm thấy rằng họ không phải là hai. Họ là hai, nhưng họ bắt đầu cảm thấy họ không phải là hai bởi vì trong tình yêu họ hạnh phúc tới mức việc tan chảy xảy ra. Họ tan chảy vào nhau, họ tuôn chảy vào nhau. Các biên giới tan biến, các định nghĩa mờ đi và họ không biết ai là ai. Trong khoảnh khắc đó họ trở thành một.
Khi bạn hạnh phúc bạn có thể tuôn chảy vào người khác và bạn có thể cho phép người khác tuôn chảy trong bạn: đây là điều mở hội nghĩa là gì. Khi bạn cho phép mọi người tuôn chảy vào bạn và bạn tuôn chảy vào mọi người, bạn đang mở hội cuộc sống. Và mở hội là lời nguyện lớn nhất, đỉnh cao nhất của thiền.
Trong khổ bạn bắt đầu nghĩ về tự tử; trong khổ bạn bắt đầu nghĩ về phá huỷ. Trong khổ bạn chỉ là cực đối diện của mở hội - bạn trách móc, bạn không thể mở hội. Bạn có phẫn uất chống lại mọi thứ. Mọi thứ là sai và bạn có tính phủ định và bạn không thể tuôn chảy. Bạn không thể quan hệ và bạn không thể cho phép bất kì ai tuôn chảy trong bạn. Bạn đã trở thành hòn đảo, đóng hoàn toàn. Đây là cái chết sống. Cuộc sống chỉ có khi bạn mở và tuôn chảy, khi bạn không sợ hãi, bạo dạn, mong manh, mở hội.
Patanjali nói tâm trí có thể làm hai điều. Nó có thể tạo ra khổ. Bạn có thể dùng nó theo cách bạn có thể trở nên khổ... bạn đã dùng nó theo cách này, bạn là thầy quá khứ về điều đó. Không có nhu cầu nói nhiều về nó, bạn đã biết điều đó. Bạn biết nghệ thuật về cách tạo ra khổ. Bạn có thể không nhận biết, nhưng đó là điều bạn đang liên tục làm. Bất kì cái gì bạn chạm tới đều trở thành nguồn của khổ - tôi nói, bất kì cái gì!
Tôi thấy những người nghèo, họ khổ sở, hiển nhiên. Họ nghèo, nhu cầu cơ sở của cuộc sống không được đáp ứng. Nhưng thế rồi tôi thấy người giầu, họ cũng khổ. Và những người giầu này nghĩ rằng của cải chẳng dẫn tới đâu cả. Điều đó không đúng. Của cải có thể dẫn tới mở hội chứ - nhưng bạn không có tâm trí để mở hội. Cho nên nếu bạn nghèo bạn khổ, nếu bạn trở nên giầu bạn khổ hơn. Khoảnh khắc bạn chạm vào của cải, bạn đã phá huỷ chúng.
Bạn đã nghe câu chuyện Hi Lạp về vua Midas chưa? Bất kì cái gì ông ấy chạm vào đều biến thành vàng. Bạn chạm vào vàng, lập tức nó trở thành bùn. Nó biến thành bụi cát và thế rồi bạn nghĩ rằng chẳng có gì trong thế giới này, ngay cả của cải cũng vô dụng. Chúng không vô dụng đâu. Nhưng tâm trí bạn không thể mở hội, tâm trí bạn không thể tham gia được vào bất kì cái gì không khổ. Nếu bạn được mời lên cõi trời bạn sẽ không thấy cõi trời ở đó đâu, bạn sẽ tạo ra địa ngục. Như bạn vậy, bất kì chỗ nào bạn đi bạn sẽ đem địa ngục của bạn đi cùng bạn.
Có một câu ngạn ngữ A rập: rằng địa ngục và cõi trời không phải là nơi chốn địa lí, chúng là thái độ. Và không ai vào cõi trời hay địa ngục - mọi người vào cùng cõi trời hay địa ngục. Bất kì chỗ nào bạn đi bạn đều có phóng chiếu địa ngục của bạn hay phóng chiếu cõi trời cùng với bạn. Bạn có máy chiếu bên trong: ngay lập tức bạn phóng chiếu.
Nhưng Patanjali cẩn thận: ông ấy nói khổ hay vô khổ - khổ tích cực hay khổ tiêu cực - nhưng không phải phúc lạc. Tâm trí không thể cho bạn phúc lạc; không ai có thể cho nó được. Nó bị ẩn kín trong bạn. Khi tâm trí ở trạng thái vô khổ, phúc lạc đó bắt đầu tuôn chảy. Nó không tới từ tâm trí, nó tới từ cõi bên kia. Đó là lí do tại sao ông ấy nói chúng có thể là nguồn của phiền não hay vô phiền não.
Lời kinh thứ hai:
Chúng là tri thức đúng, tri thức sai,
tưởng tượng, ngủ và kí ức.
Thứ nhất là praman, tri thức đúng. Từ tiếng Phạn ‘praman’ là rất sâu sắc và thực sự không thể dịch được. Tri thức đúng chỉ là cái bóng, không phải là nghĩa đích xác, bởi vì không có từ nào có thể dịch được cho praman. Praman bắt nguồn từ gốc prama. Nhiều điều phải được hiểu về nó.
Patanjali nói rằng tâm trí có năng lực: nếu năng lực đó được chỉ đạo đúng thì bất kì cái gì được biết tới đều đúng, nó là đúng hiển nhiên. Chúng ta không nhận biết về nó bởi vì chúng ta chưa bao giờ dùng nó. Khả năng đó vẫn còn không được dùng tới. Nó chỉ là... căn phòng đang tối, bạn đi vào trong nó, bạn có ngọn đuốc, nhưng bạn không dùng nó cho nên căn phòng vẫn còn tối. Bạn cứ loạng choạng va vào bàn này, vào ghế kia, và bạn có ngọn đuốc nhưng đuốc phải được thắp lên. Một khi bạn thắp đuốc lên, ngay lập tức bóng tối biến mất. Và nơi đuốc được tập trung vào bạn biết: ít nhất chỗ đó trở nên hiển nhiên, rõ ràng hiển nhiên.
Tâm trí có năng lực về praman, về tri thức đúng, về trí huệ. Một khi bạn biết nó, cách bật nó lên, thế thì bất kì chỗ nào bạn đi ánh sáng đó, tri thức đúng duy nhất đó đều được hiển lộ. Không biết nó, bất kì cái gì bạn biết cũng sẽ là sai.
Tâm trí có năng lực về tri thức sai nữa. Trong tiếng Phạn tri thức sai đó được gọi là viparyaya, giả, mithya. Và bạn cũng có năng lực đó. Bạn uống rượu, điều gì xảy ra? - toàn thế giới trở thành viparyaya, toàn thế giới trở thành giả. Bạn bắt đầu thấy những thứ không có đó. Điều gì đã xảy ra? Rượu không thể tạo ra được các thứ. Rượu đang làm cái gì đó bên trong thân thể và bộ não của bạn. Rượu bắt đầu làm việc ở trung tâm mà Patanjali gọi là viparyaya. Tâm trí có một trung tâm mà có thể làm suy đồi mọi thứ. Một khi trung tâm đó bắt đầu vận hành thì mọi thứ đều bị làm suy đồi.
Tôi nhớ lại.... Có lần chuyện xảy ra là Mulla Nasruddin và bạn anh ta uống rượu trong quán rượu. Họ bước ra, say tuý luý. Và Nasruddin là một người uống rượu có kinh nghiệm, lâu năm; người kia là người mới, cho nên người kia bị ảnh hưởng nhiều hơn. Thế rồi người kia hỏi, “Bây giờ tôi không thể thấy được, tôi không thể nghe được, tôi thậm chí không thể bước đi cho đúng. Làm sao tôi sẽ về nhà đây? Anh bảo tôi với, Nasruddin. Xin anh chỉ hướng cho tôi. Làm sao tôi về tới nhà được?”
Nasruddin nói, “Trước hết anh đi đi. Sau nhiều bước anh sẽ tới một điểm tại đó có hai đường: một đường đi sang phải, đường kia đi sang trái. Anh đi sang trái, bởi vì đường đi sang phải không tồn tại. Tôi đã nhiều lần ở đường bên phải đó, nhưng bây giờ tôi là người có kinh nghiệm. Anh sẽ thấy hai con đường - chọn đường bên trái ấy, đừng chọn đường bên phải. Đường bên phải đó không tồn tại. Nhiều lần tôi đã đi trên nó và thế rồi anh chẳng bao giờ tới, anh không bao giờ tới nhà anh.”
Một lần Nasruddin dạy cho con anh ta bài học đầu tiên về uống rượu. Cho nên anh ta bảo nó.... Đứa con hỏi, nó tò mò; nó hỏi, “Khi nào người ta dừng uống?”
Nasruddin nói, “Nhìn lên bàn kia. Bốn người đang ngồi đó. Khi con bắt đầu thấy tám người, dừng lại!”
Đứa con nói, “Nhưng bố ơi, chỉ có hai người ngồi đó!”
Tâm trí có một khả năng. Khả năng đó vận hành khi bạn ở dưới ảnh hưởng của bất kì ma tuý nào, bất kì chất gây say nào. Patanjali gọi khả năng đó là viparyaya, tri thức sai, trung tâm của suy đồi.
Đích xác đối lập lại nó có một trung tâm mà bạn không biết. Đích xác đối lập với nó có một trung tâm: nếu bạn thiền sâu, im lặng, trung tâm khác đó sẽ bắt đầu vận hành. Trung tâm đó được gọi là praman, tri thức đúng. Qua vận hành của trung tâm đó, bất kì cái gì được biết tới đều là đúng. Cho nên vấn đề không phải là điều bạn biết; từ đâu bạn biết mới là vấn đề.
Đó là lí do tại sao mọi tôn giáo đã từng chống lại rượu. Điều đó không dựa trên nền tảng đạo đức nào, không! Chính bởi vì rượu ảnh hưởng lên trung tâm của suy đồi. Và mọi tôn giáo đều ủng hộ thiền vì thiền nghĩa là tạo ra tĩnh lặng ngày càng nhiều, trở nên im lặng ngày càng nhiều.
Rượu cứ làm hoàn toàn điều đối lập - làm cho bạn ngày càng bị khuấy động, kích động, rối loạn. Việc run rẩy đi vào bên trong bạn. Người say thậm chí không thể bước đúng được; thăng bằng của người đó bị mất. Thăng bằng bị mất không chỉ trong thân thể, mà cả trong tâm trí.
Thiền nghĩa là thu lấy thăng bằng bên trong. Khi bạn thu được thăng bằng bên trong và không có run rẩy, toàn thể thân-tâm đã trở nên tĩnh lặng - thế thì trung tâm tri thức đúng bắt đầu vận hành. Qua trung tâm đó, bất kì cái gì được biết tới đều là đúng.
Bạn ở đâu? Bạn không phải là người nghiện rượu, bạn không là thiền nhân; bạn phải ở đâu đó giữa hai điều này. Bạn không trong bất kì trung tâm nào. Bạn ở giữa hai trung tâm này của tri thức sai và tri thức đúng. Đó là lí do tại sao bạn bị lẫn lộn.
Thỉnh thoảng bạn có những thoáng nhìn. Bạn nghiêng một chút về trung tâm tri thức đúng, thế rồi những thoáng nhìn nào đó tới với bạn. Bạn nghiêng về trung tâm về suy đồi, thế thì suy đồi đi vào trong bạn. Và mọi thứ bị trộn lẫn, bạn trong hỗn độn. Đó là lí do tại sao hoặc bạn sẽ phải trở thành thiền nhân hoặc bạn sẽ phải trở thành nghiện rượu, bởi vì lẫn lộn là quá nhiều và đây là hai cách.
Hoặc bạn đánh mất bản thân mình trong chất gây say: thế thì bạn thoải mái... ít nhất bạn đã thu được một trung tâm - có thể là trung tâm tri thức sai, nhưng bạn được định tâm. Toàn thế giới có thể nói bạn sai. Bạn không nghĩ vậy, bạn nghĩ toàn thế giới là sai. Ít nhất trong những khoảnh khắc đó của vô ý thức bạn được định tâm, định tâm trong trung tâm sai. Nhưng bạn hạnh phúc bởi vì ngay cả định tâm trong trung tâm sai vẫn cho hạnh phúc nào đó. Bạn tận hưởng nó, do đó mới có nhiều hấp dẫn thế tới rượu.
Các chính phủ đã từng tranh đấu hàng thế kỉ. Luật pháp đã được làm ra, cấm đoán và mọi thứ, nhưng chẳng cái gì giúp ích. Chừng nào nhân loại còn chưa trở nên có tính thiền, không cái gì có thể giúp ích. Mọi người sẽ cứ tiếp tục - họ sẽ tìm những cách thức mới và phương tiện mới để được say sưa. Họ không thể bị ngăn cản, và bạn càng cố ngăn cản họ, càng có nhiều luật pháp cấm đoán và nhiều hấp dẫn hơn.
Mĩ đã làm điều đó và phải rút lui. Họ đã cố gắng hết sức, nhưng khi rượu bị cấm đoán thì nhiều rượu hơn lại được dùng. Họ đã cố gắng, họ đã thất bại. Ấn Độ đã từng cố gắng từ thời Độc lập. Nó đã thất bại, và nhiều bang đã lại bắt đầu. Điều đó dường như vô dụng.
Chừng nào con người chưa thay đổi bên trong, bạn không thể ép buộc con người bằng bất kì việc cấm đoán nào; điều đó là không thể được, bởi vì thế thì con người sẽ phát điên. Đây là cách của con người vẫn còn lành mạnh. Trong vài giờ con người trở nên bị đờ đẫn, 'bị say', thế rồi người đó ổn thoả. Thế thì không có khổ, thế thì không có phiền não. Khổ sẽ tới, phiền não sẽ tới, nhưng ít nhất nó bị trì hoãn. Sáng mai khổ sẽ có đó, phiền não sẽ có đó - người đó sẽ phải đối diện với nó. Nhưng đến tối người đó có thể lại hi vọng; người đó sẽ uống rượu và thấy thoải mái.
Đây là hai phương án. Nếu bạn không có tính thiền thế thì sớm hay muộn bạn sẽ phải tìm ma tuý nào đó. Và có ma tuý tinh tế. Rượu không rất tinh tế, nó rất thô. Có những ma tuý tinh tế. Dục có thể trở thành ma tuý cho bạn. Và qua dục bạn có thể mất ý thức. Bạn có thể dùng bất kì cái gì làm ma tuý. Chỉ thiền mới có thể có ích. Tại sao? - bởi vì thiền cho bạn việc định tâm vào trung tâm mà Patanjali gọi là praman.
Tại sao nhiều nhấn mạnh thế của mọi tôn giáo vào thiền? Thiền phải làm phép màu bên trong nào đó. Đây là phép màu: rằng thiền giúp bạn bật lên ánh sáng của tri thức đúng. Thế thì dù bạn đi bất kì đâu, thế thì dù hội tụ của bạn chuyển tới bất kì đâu, bất kì cái gì được biết đều là đúng.
Phật đã được hỏi hàng nghìn và hàng nghìn câu hỏi. Một hôm ai đó hỏi ông ấy, “Chúng tôi tới với câu hỏi mới. Chúng tôi thậm chí đã không nêu câu hỏi trước thầy và thầy bắt đầu trả lời. Thầy chưa bao giờ nghĩ về nó. Làm sao điều đó xảy ra?”
Thế là Phật nói, “Vấn đề không phải là nghĩ. Các ông nêu câu hỏi và ta đơn giản nhìn vào nó, và bất kì cái gì là đúng đều được hiển lộ. Vấn đề không phải là nghĩ và ngẫm về nó. Câu trả lời không tới như suy luận logic. Nó chỉ là việc hội tụ của trung tâm đúng.”
Phật giống như ngọn đuốc. Bất kì chỗ nào đuốc chuyển tới, nó đều làm hiển lộ. Dù câu hỏi là bất kì cái gì, điều đó không phải là vấn đề. Phật có ánh sáng, và bất kì khi nào ánh sáng đó tới bất kì câu hỏi nào, câu trả lời sẽ được hiển lộ. Câu trả lời sẽ đi ra từ ánh sáng đó. Nó là hiện tượng đơn giản, việc khải lộ.
Khi ai đó hỏi bạn, bạn phải nghĩ về điều đó. Nhưng làm sao bạn có thể nghĩ được nếu bạn không biết? Nếu bạn biết, không cần nghĩ. Nếu bạn không biết, bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ tìm trong kí ức, bạn sẽ tìm ra nhiều manh mối. Bạn sẽ làm việc chắp vá. Bạn không thực sự biết, bằng không đáp ứng chắc đã có tức khắc rồi.
Tôi đã nghe nói về một cô giáo, một cô giáo trường tiểu học. Và cô hỏi lũ trẻ, “Các con có câu hỏi nào không?”
Một cậu bé đứng dậy và nó nói, “Con có một câu hỏi và con đã chờ đợi... bất kì khi nào cô hỏi con sẽ hỏi nó: Trọng lượng của toàn trái đất là gì?”
Cô ấy trở nên bối rối vì cô ấy chưa bao giờ nghĩ về điều đó, chưa bao giờ đọc về nó. Trọng lượng toàn trái đất là gì? Cho nên cô ấy giở thủ đoạn mà mọi giáo viên đều biết. Họ phải giở thủ đoạn thôi. Cô ấy nói, “Được, câu hỏi này là có ý nghĩa. Bây giờ ngày mai, mọi người phải tìm ra câu trả lời.” Cô ấy cần thời gian. “Ngày mai cô sẽ hỏi câu hỏi này, và bất kì trò nào đem tới câu trả lời đúng sẽ có phần thưởng cho trò đó.”
Mọi đứa trẻ đều tìm và tìm, nhưng chúng không thể tìm ra được. Và cô giáo chạy thẳng tới thư viện. Cả đêm cô tìm, và chỉ trước sáng cô mới có thể tìm ra trọng lượng của trái đất. Cô rất hạnh phúc. Cô quay về trường và lũ trẻ đã ở đó. Chúng đều kiệt sức. Chúng nói rằng chúng không thể tìm được câu trả lời. “Chúng con đã hỏi mẹ và chúng con hỏi bố và chúng con hỏi mọi người. Chẳng ai biết cả. Câu hỏi này dường như khó lắm.”
Cô giáo cười và cô nói, “Điều này không khó. Cô có câu trả lời, nhưng cô thử xem các con có tìm ra được nó không thôi. Đây là trọng lượng của trái đất...”
Cậu nhỏ kia người đã nêu ra câu hỏi này, cậu lại đứng lên và cậu nói, “Có người hay không có người?” Bây giờ lại cùng tình huống....
Bạn không thể đẩy Phật vào tình huống như vậy. Vấn đề không phải là tìm ra ở đâu đó; nó không thực là câu hỏi về việc trả lời cho bạn. Câu hỏi của bạn chỉ là cái cớ. Khi bạn nêu câu hỏi cho Phật, ông ấy đơn giản đưa ánh sáng của ông ấy hướng về câu hỏi đó và bất kì cái gì được hiển lộ đều được hiển lộ. Ông ấy trả lời bạn, đó là đáp ứng sâu sắc của trung tâm đúng, praman.
Patanjali nói có năm biến thể của tâm trí. Tri thức đúng: nếu trung tâm này của tri thức đúng bắt đầu vận hành trong bạn, bạn sẽ trở thành hiền nhân, thánh nhân. Bạn sẽ trở thành có tính tôn giáo. Trước điều đó bạn không thể trở nên có tính tôn giáo được.
Đó là lí do tại sao Jesus hay Mohammed, họ có vẻ điên - bởi vì họ không cãi; họ không nêu trường hợp của họ một cách logic, họ đơn giản khẳng định. Bạn hỏi Jesus, “Ông có thực là con trai duy nhất của Thượng đế không?” Ông ấy nói, “Có.” Và nếu bạn hỏi ông ấy, “Chứng minh điều đó đi,” ông ấy sẽ cười. Ông ấy sẽ nói, “Không cần chứng minh. Tôi biết. Điều này là cảnh ngộ, điều này là hiển nhiên.” Với chúng ta điều đó có vẻ phi logic. Người này dường như thần kinh, nói cái gì đó mà chẳng có bằng chứng nào.
Nếu praman này, trung tâm này của prama, trung tâm này của tri thức đúng vận hành, bạn sẽ giống hệt: bạn có thể khẳng định nhưng bạn không thể chứng minh. Làm sao bạn có thể chứng minh? Nếu bạn trong tình yêu làm sao bạn có thể chứng minh rằng bạn đang trong tình yêu? Bạn đơn giản có thể khẳng định. Bạn bị đau trong chân: làm sao bạn có thể chứng minh rằng bạn bị đau? Bạn đơn giản khẳng định, “Tôi bị đau.” Bạn biết ở đâu đó bên trong; việc biết đó là đủ.
Ramakrishna được hỏi, “Có Thượng đế không?”
Ông ấy nói, “Có.”
Ông ấy được hỏi, “Thế thì chứng minh điều đó đi.”
Ông ấy nói, “Không cần - ta biết. Với ta không có nhu cầu. Với ông có nhu cầu, cho nên ông tìm. Không ai có thể chứng minh điều đó cho ta, ta không thể chứng minh điều đó cho ông. Ta phải tìm, ta phải tìm ra. Và ta đã tìm ra có Thượng đế!”
Đây là vận hành của trung tâm đúng. Cho nên Ramakrishna hay Jesus có vẻ ngớ ngẩn: họ đang tuyên bố những điều nào đó mà không đưa ra bằng chứng nào. Họ không tuyên bố, họ không nói điều gì. Những điều nào đó được hiển lộ cho họ bởi vì họ có trung tâm mới vận hành điều bạn không có - và bởi vì bạn không có nó bạn phải chứng minh.
Nhớ lấy, việc chứng minh chứng tỏ rằng bạn không có cảm giác bên trong về cái gì, mọi thứ đều phải được chứng minh - ngay cả tình yêu cũng phải được chứng minh. Và mọi người cứ tiếp diễn....
Tôi biết nhiều đôi: chồng cứ chứng minh rằng anh ta yêu và anh ta đã không thuyết phục được vợ, và vợ cứ chứng minh rằng cô ấy yêu và cô ấy đã không thuyết phục được chồng. Họ vẫn còn không được thuyết phục và điều đó vẫn còn là xung đột. Và họ cứ cảm thấy rằng người khác chưa chứng minh được điều đó. Những người yêu cứ đi tìm. Họ tạo ra tình huống trong đó bạn phải chứng minh rằng bạn yêu. Và dần dần cả hai phát chán - nỗ lực vô tích sự này để chứng minh và chẳng cái gì có thể được chứng minh.
Làm sao bạn có thể chứng minh được tình yêu? Bạn có thể cho bài trình bày, nhưng chẳng cái gì được chứng minh. Bạn có thể hôn và ôm và bạn có thể hát, bạn có thể nhảy múa, nhưng không cái gì được chứng minh. Bạn có thể chỉ giả vờ.
Biến thể thứ nhất này của tâm trí là tri thức đúng. Thiền dẫn tới biến thể này. Và khi bạn có thể biết đúng và không có nhu cầu chứng minh, chỉ thế thì tâm trí mới có thể bị vứt bỏ, không trước điều đó. Khi không có nhu cầu chứng minh tâm trí không được cần tới, bởi vì tâm trí là công cụ logic. Bạn cần nó trong mọi khoảnh khắc. Bạn phải nghĩ, tìm ra cái gì sai và cái gì đúng. Mọi khoảnh khắc đều có chọn lựa và phương án. Bạn phải chọn.
Chỉ khi praman vận hành, khi tri thức đúng vận hành, bạn mới có thể bỏ được tâm trí, bởi vì bây giờ chọn lựa không có nghĩa. Bạn di chuyển vô chọn lựa; bất kì cái gì là đúng đều được hiển lộ cho bạn.
Định nghĩa về hiền nhân là: người không bao giờ chọn lựa. Người không bao giờ chọn tốt chống lại xấu. Người đó đơn giản di chuyển theo chiều hướng mà chính là chiều hướng tốt. Nó cũng giống như hoa hướng dương: khi mặt trời ở phương đông hoa quay về phương đông, nó không bao giờ chọn lựa; khi mặt trời đi về phương tây hoa quay về phương tây. Nó đơn giản di chuyển cùng mặt trời. Nó đã không chọn di chuyển, nó đã không quyết định; nó đã không ra quyết định, “Bây giờ mình phải di chuyển vì mặt trời đã di chuyển về tây.”
Hiền nhân cũng giống như hoa hướng dương - ông ấy đơn giản di chuyển theo bất kì chỗ nào là tốt. Cho nên bất kì cái gì ông ấy làm cũng đều tốt. Upanishad nói, “Đừng phán xét hiền nhân. Cách đo bình thường của ông không có tác dụng.” Bạn phải làm điều tốt chống lại điều xấu. Ông ấy không có gì để chọn, ông ấy đơn giản di chuyển; bất kì cái gì ông ấy làm đều tốt. Và bạn không thể thay đổi được ông ấy bởi vì vấn đề không phải là các phương án. Nếu bạn nói, “Cái này xấu,” ông ấy sẽ nói, “Được, nó có thể xấu, nhưng đây là cách tôi di chuyển, đây là cách bản thể tôi tuôn chảy.”
Những người biết - và mọi người trong thời của Upanishad đều biết - đã quyết định rằng, “Chúng ta sẽ không phán xét hiền nhân.” Một khi một người đã đi tới được định tâm trong bản thân mình, khi một người đã đạt tới thiền, một khi một người đã trở nên im lặng và tâm trí đã bị vứt bỏ, người đó là ở ngoài đạo đức của chúng ta, bên ngoài truyền thống. Người đó ở bên ngoài những giới hạn của chúng ta. Nếu chúng ta có thể tuôn chảy chúng ta có thể theo ông ấy, nếu chúng ta không thể theo được chúng ta bất lực. Nhưng không cái gì có thể được làm và chúng ta không nên phán xét.
Nếu tri thức đúng vận hành, nếu tâm trí bạn đã lấy biến thể này về tri thức đúng, bạn sẽ trở thành có tính tôn giáo. Trông đấy, nó là khác toàn bộ. Patanjali không nói nếu bạn đi tới giáo đường hồi giáo, tới giáo đường Do Thái giáo, tới đền chùa, nếu bạn làm nghi lễ nào đó, bạn cầu nguyện.... Không, điều đó không phải là tôn giáo. Bạn phải làm cho trung tâm tri thức đúng của bạn vận hành, để cho dù bạn đi tới đền chùa hay không điều đó cũng không quan trọng; nó không thành vấn đề. Nếu trung tâm tri thức đúng của bạn vận hành bất kì điều gì bạn làm cũng đều là lời nguyện và bất kì chỗ nào bạn đi cũng là đền chùa.
Kabir đã nói, “Bất kì chỗ nào tôi đi tôi đều thấy ngài, Thượng đế của tôi. Bất kì chỗ nào tôi di chuyển, tôi di chuyển trong ngài, tôi loạng choạng vớ phải ngài. Và bất kì cái gì tôi làm, ngay cả bước đi, ăn, nó đều là lời nguyện.” Kabir nói, “Tính tự phát này là samadhi của tôi. Tự phát là thiền của tôi.”
Thứ hai là tri thức sai: nếu trung tâm tri thức sai của bạn đang vận hành, thế thì bất kì cái gì bạn làm, bạn sẽ làm sai, và bất kì cái gì bạn chọn bạn sẽ chọn sai. Bất kì cái gì bạn quyết định sẽ sai vì bạn không quyết định, trung tâm sai đang vận hành.
Có những người: họ cảm thấy rất không may mắn vì bất kì cái gì họ làm đều đi sai. Và họ cố gắng không làm sai, nhưng điều đó chẳng ích gì vì trung tâm của họ phải được thay đổi. Tâm trí họ vận hành theo cách sai. Họ có thể nghĩ rằng họ đang làm điều tốt nhưng họ sẽ làm điều xấu. Với mọi ước muốn tốt của mình, họ không thể đừng được điều đó; họ bất lực.
Mulla Nasruddin thường tới thăm một thánh nhân. Anh ta tới thăm nhiều, nhiều ngày. Và thánh nhân này là người im lặng, ông ấy sẽ không nói gì. Thế thì Mulla Nasruddin phải hỏi; anh ta nói, “Tôi đã đến đi đến lại mãi, chờ đợi thầy sẽ nói cái gì đó. Và thầy đã không nói gì cả. Và chừng nào thầy còn chưa nói tôi không thể hiểu được. Cho nên xin thầy cho tôi một thông điệp về cuộc sống của tôi, một chiều hướng để cho tôi có thể đi theo hướng đó.”
Thế là hiền nhân Sufi đó nói, “Neki kar kuyen may dal”: Làm điều tốt, và ném nó xuống giếng. Đó là một trong những câu ngạn ngữ Sufi cổ nhất: “Làm điều tốt, và ném nó xuống giếng.” Nó nghĩa là làm điều tốt và quên nó ngay lập tức; không nhớ nó rằng, “Mình đã làm điều tốt.”
Thế là ngày hôm sau Mulla Nasruddin giúp một bà già đi qua đường, và thế rồi đẩy bà ấy xuống giếng.
Neki kar kuyen may dal: Làm điều tốt, và ném nó xuống giếng.
Nếu trung tâm sai của bạn vận hành, bất kì cái gì bạn làm - bạn có thể đọc Koran, bạn có thể đọc Gita, và bạn sẽ thấy các nghĩa. Krishna sẽ bị choáng, Mohammed sẽ bị choáng khi thấy bạn có thể tìm ra những nghĩa như vậy.
Mahatma Gandhi đã viết trong tự tiểu sử của ông ấy với ý định là nó sẽ giúp ích cho mọi người. Thế rồi nhiều thư gửi tới ông ấy vì ông ấy mô tả cuộc sống dục của mình. Ông ấy trung thực, một trong những người trung thực nhất, cho nên ông ấy đã viết mọi thứ, bất kì cái gì đã xảy ra trong quá khứ của ông ấy: làm sao ông ấy đã quá mê đắm vào ngày bố ông ấy chết; ông ấy không thể ngồi cạnh bên bố ông ấy ngay cả vào ngày đó, ông ấy phải cùng vợ ông ấy lên giường.
Và các bác sĩ đã nói, “Đây là đêm cuối cùng. Bố ông không thể sống được tới sáng đâu. Ông ấy sẽ chết trước sáng.” Nhưng chỉ quãng mười hai giờ hay một giờ đêm ông ấy bắt đầu cảm thấy ham muốn, ham muốn dục. Người bố đang cảm thấy buồn ngủ cho nên ông ấy lẻn đi, đi tới vợ ông ấy và mê mải trong dục. Và vợ đang mang thai, lúc đó là tháng thứ chín. Và bố đang sắp chết, người bố chết trong đêm, và con cũng chết vào khoảnh khắc nó được sinh ra. Cho nên cả đời Gandhi có hối hận sâu sắc rằng ông ấy đã không thể ở cùng với người bố sắp chết bởi vì dục ám ảnh thế.
Cho nên ông ấy đã viết mọi thứ, ông ấy là trung thực - và chỉ để giúp cho người khác. Nhưng nhiều bức thư bắt đầu tới ông ấy, và những bức thư đó lại tới mức làm cho ông ấy choáng. Nhiều người viết cho ông ấy, “Cuốn tự truyện của ông tới mức chúng tôi đã trở nên nhiều dục hơn trước khi đọc nó. Cứ đọc qua tự tiểu sử của ông chúng tôi đã trở nên nhiều dục và mê đắm hơn. Nó gợi tình.”
Nếu trung tâm sai vận hành thế thì không cái gì có thể được làm. Bất kì cái gì bạn làm, cư xử, nó sẽ sai. Bạn sẽ đi theo cái sai. Bạn có trung tâm đang ép buộc bạn đi tới cái sai. Bạn có thể đi tới Phật, nhưng bạn sẽ thấy cái gì đó sai trong ông ấy ngay lập tức. Bạn không thể gặp được Phật - ngay lập tức bạn sẽ thấy cái gì đó sai. Bạn có sự hội tụ vào cái sai, thôi thúc sâu sắc để tìm cái sai ở bất kì chỗ nào, ở mọi nơi.
Patanjali gọi biến thể này của tâm trí là viparyaya. Viparyaya nghĩa là suy đồi. Bạn làm suy đồi mọi thứ. Bạn diễn giải mọi thứ theo cách nó trở thành suy đồi.
Omar Khayyam viết, “Tôi đã nghe nói rằng Thượng đế là từ bi.” Điều này là đẹp. Người Mô ha mét giáo cứ nhắc lại, “Thượng đế là rahman, từ bi; rahim, từ bi.” Họ cứ nhắc lại, liên tục. Cho nên Omar Khayyam nói, “Nếu ngài thực sự từ bi, nếu ngài từ bi, thế thì không cần phải sợ. Tôi có thể cứ phạm tội lỗi. Nếu ngài từ bi thế thì sợ là gì? Tôi có thể phạm bất kì tội nào tôi muốn và ngài từ bi - cho nên bất kì khi nào tôi đứng trước ngài tôi sẽ nói, ‘Rahim, rahman’: Ôi Thượng đế của từ bi, con đã phạm tội.... Nhưng ngài là từ bi; nếu ngài thực sự từ bi thế thì ngài từ bi với tôi đi.” Thế là ông ấy cứ uống rượu, ông ấy cứ phạm bất kì cái gì ông ấy nghĩ là tội. Ông ấy đã diễn giải theo cách rất suy đồi.
Trên khắp thế giới mọi người đã làm điều đó. Ở Ấn Độ chúng ta nói, “Nếu ông đi tới sông Hằng, nếu ông tắm trong sông Hằng, tội của ông sẽ tan biến.” Nó là khái niệm hay trong bản thân nó. Nó chỉ ra nhiều điều. Nó chỉ ra rằng tội lỗi không phải là cái gì đó rất sâu, nó chỉ giống như bụi trên bạn. Cho nên đừng bị ám ảnh quá nhiều bởi nó, đừng cảm thấy mặc cảm; nó chỉ là bụi và bên trong bạn vẫn còn thuần khiết. Ngay cả tắm trong sông Hằng cũng có thể giúp đỡ. Điều này chỉ chứng tỏ bạn không trở nên bị ám ảnh quá nhiều với tội lỗi như Ki tô giáo đã trở nên vậy. Mặc cảm đã trở thành nặng nề thế, cho nên ngay cả chỉ nói tới tắm trong sông Hằng cũng sẽ có ích. Đừng sợ nhiều thế. Nhưng chúng ta đã diễn giải nó thế nào? Chúng ta nói, “Thế thì nó là được - cứ phạm tội đi.” Và sau một chốc, khi bạn cảm thấy rằng bây giờ bạn đã phạm phải nhiều tội rồi, vậy cho một cơ hội đi ra sông Hằng để làm thuần khiết chúng và thế rồi quay lại và phạm tội nữa. Đây là trung tâm của suy đồi.
Trung tâm thứ ba là tưởng tượng: tâm trí có khả năng tưởng tượng. Điều đó là tốt, điều đó là hay. Mọi điều là hay đều đã tới qua tưởng tượng. Hội hoạ, nghệ thuật, múa, âm nhạc, mọi thứ là đẹp đều tới qua tưởng tượng. Nhưng mọi thứ là xấu, cái đó cũng tới qua tưởng tượng. Hitler, Mao, Mussolini, tất cả họ đều tới qua tưởng tượng.
Hitler đã tưởng tượng một thế giới của siêu nhân. Và ông ta đã tin vào Friedrich Nietzsche người đã nói, “Tiêu diệt mọi người yếu. Tiêu diệt mọi người không phải là siêu nhân; chỉ để lại siêu nhân trên trái đất.” Cho nên ông ta đã tiêu diệt. Chỉ tưởng tượng, chỉ tưởng tượng điều không tưởng - rằng chỉ bằng tiêu diệt người yếu, chỉ bằng tiêu diệt cái xấu, chỉ bằng tiêu diệt những người què quặt vật lí bạn sẽ có thế giới đẹp. Nhưng chính việc tiêu diệt là điều xấu nhất có thể có trên thế giới - chính việc phá huỷ.
Nhưng ông ta đã làm việc qua tưởng tượng. Ông ta có tưởng tượng, tưởng tượng không tưởng - người tưởng tượng nhất! Hitler là một trong những người tưởng tượng nhất, và tưởng tượng của ông ta trở thành cuồng tín và điên khùng tới mức vì thế giới tưởng tượng của mình ông ta đã cố gắng phá huỷ thế giới này một cách hoàn toàn. Tưởng tượng của ông ta đã phát điên.
Tưởng tượng có thể cho bạn thơ ca và hội hoạ và nghệ thuật, và tưởng tượng có thể cho bạn điên khùng nữa. Điều đó tuỳ vào cách bạn dùng nó. Mọi khám phá khoa học lớn đều trải qua tưởng tượng - mọi người có thể tưởng tượng, những người có thể tưởng tượng điều không thể được. Bây giờ chúng ta có thể bay trong không trung, bây giờ chúng ta có thể lên mặt trăng. Đây là những tưởng tượng sâu sắc.
Con người đã từng tưởng tượng trong hàng thế kỉ, hàng nghìn năm, cách bay, cách lên mặt trăng. Mọi đứa trẻ được sinh ra với ham muốn đi lên mặt trăng, bắt lấy mặt trăng. Nhưng chúng ta đã lên tới nó! Qua tưởng tượng sáng tạo tới, nhưng qua tưởng tượng phá huỷ cũng tới.
Patanjali nói, tưởng tượng là phương thức thứ ba của tâm trí. Bạn có thể dùng nó theo cách sai và thế thì nó sẽ phá huỷ bạn. Bạn cũng có thể dùng nó theo cách đúng. Và thế thì có thiền quán tưởng: họ bắt đầu bằng tưởng tượng, nhưng dần dần tưởng tượng trở thành tinh tế hơn và tinh tế hơn và tinh tế hơn. Và thế rồi tưởng tượng chung cuộc bị vứt bỏ và bạn đối diện với chân lí.
Mọi thiền của Ki tô giáo và Mô ha mét giáo về căn bản là thông qua tưởng tượng. Đầu tiên bạn phải tưởng tượng cái gì đó, thế rồi bạn cứ tưởng tượng nó và thế rồi qua tưởng tượng bạn tạo ra bầu không khí quanh bạn. Bạn thử nó; thử cái gì là có thể qua tưởng tượng. Ngay cả điều không thể cũng thành có thể.
Nếu bạn nghĩ bạn đẹp, nếu bạn tưởng tượng bạn đẹp, một vẻ đẹp nào đó sẽ bắt đầu xảy ra cho thân thể bạn. Cho nên bất kì khi nào đàn ông nói với đàn bà, “Em đẹp đấy,” đàn bà lập tức thay đổi. Cô ấy có thể đã không đẹp trước khoảnh khắc này. Cô ấy có thể đã không đẹp, chỉ ở nhà, bình thường, nhưng người đàn ông này đã cho cô ấy tưởng tượng.
Cho nên mọi đàn bà được yêu đều trở nên đẹp hơn, mọi đàn ông được yêu đều trở nên đẹp hơn. Người không được yêu có thể đẹp, nhưng trở thành xấu vì anh ta không thể tưởng tượng được, cô ta không thể tưởng tượng được. Và nếu tưởng tượng không có đó, bạn co lại.
Coué, một trong những nhà tâm lí lớn của phương Tây, đã giúp cho hàng triệu người được chữa khỏi nhiều, nhiều bệnh chỉ qua tưởng tượng. Công thức của ông ấy là rất đơn giản. Ông ấy sẽ nói, “Ông cứ bắt đầu cảm thấy rằng ông ổn thoả đi. Cứ nhắc lại ở bên trong tâm trí, ‘Mình đang ngày một khá hơn. Mọi ngày mình đều khá hơn.’ Ban đêm, trong khi bạn rơi vào giấc ngủ, cứ nghĩ bạn mạnh khoẻ, và bạn đang ngày càng mạnh khoẻ hơn mọi khoảnh khắc, và đến sáng bạn sẽ là người mạnh khoẻ nhất trên thế giới. Cứ tưởng tượng.”
Và ông ấy đã giúp cho hàng triệu người. Ngay cả những bệnh không chữa nổi cũng được chữa khỏi. Nó có vẻ giống như phép màu. Nó không là gì, nó chỉ là luật cơ sở: tâm trí bạn tuân theo tưởng tượng.
Bây giờ các nhà tâm lí nói rằng nếu bạn nói với trẻ em, “Các cháu ngu ngốc, mụ mị” chúng trở nên mụ mị. Bạn buộc chúng phải mụ mị. Bạn cho tưởng tượng của chúng gợi ý rằng chúng mụ mị.
Nhiều thực nghiệm đã được thực hiện. Nói với đứa trẻ, “Các cháu mụ mị. Các cháu không thể làm được gì; các cháu không thể giải được bài toán toán học này,” và cho chúng bài toán và bảo chúng, “Bây giờ thử xem” - nó sẽ không có khả năng giải bài đó. Bạn đã đóng cánh cửa. Nói với đứa trẻ, “Cháu thông minh và bác chưa từng thấy đứa con trai nào thông minh như cháu; với giai đoạn của cháu, với độ tuổi của cháu, cháu là quá thông minh. Cháu biểu lộ nhiều tiềm năng, cháu có thể giải được bất kì bài toán nào. Bây giờ thử điều này” - và nó sẽ có khả năng giải quyết bài toán đó. Bạn đã trao tưởng tượng cho nó.
Bây giờ những điều này đã được chứng minh một cách khoa học, đã được khám phá một cách khoa học, rằng bất kì tưởng tượng nào bắt vào đều trở thành hạt mầm. Toàn thể thế hệ, toàn thể độ tuổi, toàn thể đất nước đã bị thay đổi chỉ thông qua tưởng tượng.
Bạn đi tới Punjab.... Có lần tôi đã du hành từ Delhi tới Manali. Người lái xe của tôi là người Sikh, một sardar. Con đường, đoạn đường này là nguy hiểm, và xe rất lớn. Và nhiều lần người lái xe đã trở nên sợ hãi. Nhiều lần anh ta nói, “Bây giờ tôi không thể đi tới được. Chúng ta sẽ phải quay lại.”
Chúng tôi thử mọi cách để thuyết phục anh ta. Tại một điểm anh ta trở nên sợ thế anh ta dừng xe lại, đi ra khỏi xe và nói, “Không! Bây giờ tôi không thể đi được từ đây. Nó nguy hiểm.” Anh ta nói. “Nó có thể không nguy hiểm cho ông, ông có thể sẵn sàng chết. Nhưng tôi không, tôi muốn quay lại.”
Tình cờ một trong những người bạn tôi, người cũng là một sardar và là một quan chức cảnh sát lớn cũng tới. Anh ta đi theo tôi để dự trại ở Manali. Xe anh ta tới cho nên tôi bảo anh ta, “Làm cái gì đó đi! Người này đã ra khỏi xe.”
Viên quan chức cảnh sát đó tới và anh ta nói, “Anh là một sardar, một người Sikh, và là đồ hèn sao? Vào xe đi!”
Người này lập tức vào trong xe và khởi động nó. Cho nên tôi hỏi anh ta, “Có chuyện gì vậy?”
Anh ta nói, “Bây giờ ông ấy đã chạm vào bản ngã của tôi. Ông ấy nói, ‘Anh là một sardar sao?’ - ‘sardar’ nghĩa là người lãnh đạo của đàn ông - ‘một người Sikh và đồ hèn sao?!’ Ông ta đã chạm vào tưởng tượng của tôi. Ông ta đã chạm vào lòng tự hào của tôi. Bây giờ chúng ta có thể đi. Chết hay sống, nhưng chúng ta sẽ tới Manali!”
Và điều này đã không xảy ra với một người. Nếu bạn đi tới Punjab... điều đó đã xảy ra cho cả triệu người. Nhìn vào người Hindu của Punjab và vào người Sikhs của Punjab mà xem. Máu của họ là như nhau, họ thuộc về cùng giống nòi. Chỉ năm trăm năm trước tất cả đều là người Hindu. Và thế rồi một kiểu giống nòi khác, giống nòi quân sự, được sinh ra. Chỉ bằng việc mọc râu, chỉ bằng việc thay đổi bộ mặt của bạn, bạn không thể trở nên bạo dạn được. Nhưng bạn có thể... tưởng tượng. Nanak đã cho họ tưởng tượng rằng, “Bạn là kiểu giống nòi khác. Bạn là không thể chinh phục được.” Và một khi họ đã tin, một khi tưởng tượng đó bắt đầu có tác dụng, trong vòng năm trăm năm một giống nòi mới, khác toàn bộ với người Hindu Punjab, đã đi vào hiện hữu ở Punjab. Không cái gì khác, nhưng ở Ấn Độ không ai bạo dạn hơn họ. Hai cuộc chiến tranh thế giới này đã chứng minh rằng trên toàn trái đất, người Sikh không có so sánh. Họ có thể chiến đấu một cách bạo dạn.
Điều gì đã xảy ra? Chỉ tưởng tượng của họ đã tạo ra một chỗ quanh họ. Họ cảm thấy rằng chỉ bởi việc là người Sikh họ là khác. Tưởng tượng có tác dụng! Nó có thể làm ra con người bạo dạn từ bạn, nó có thể làm bạn thành kẻ hèn.
Tôi đã nghe: Mulla Nasruddin đang ngồi ở quán rượu, uống rượu. Anh ta không phải là người bạo dạn, một trong những kẻ hèn nhất - nhưng rượu cho anh ta dũng cảm. Và thế rồi một người, một người khổng lồ, bước vào quán rượu - trông dữ tợn, nguy hiểm, trông như kẻ giết người. Vào bất kì lúc nào, trong ý thức của mình, Mulla Nasruddin chắc đã sợ chết khiếp, nhưng bây giờ anh ta say cho nên anh ta chẳng sợ gì cả.
Người trông dữ tợn đó lại gần Mulla, và thấy rằng anh ta không sợ gì cả, hắn ta dậm mạnh chân. Mulla bực mình, tức giận, và anh ta nói, “Anh làm gì vậy? Anh làm nó có chủ định hay đấy chỉ là một loại trò đùa?” Nhưng vào lúc đó, bằng việc dậm chân của anh ta, Mulla bị đem ngược lại từ say rượu. Anh được đưa lại, anh ta trở về với ý thức của mình. Nhưng anh ta đã nói, “Anh làm gì vậy? Đấy là có chủ định hay đấy chỉ là một loại trò đùa?”
Người này nói, “Có chủ định.”
Mulla Nasruddin nói, “Thế thì cám ơn anh. Có chủ định là được, bởi vì tôi không thích các kiểu trò đùa.”
Patanjali nói tưởng tượng là khả năng thứ ba. Bạn cứ tưởng tượng.... Nếu bạn tưởng tượng sai bạn tạo ra hoang tưởng quanh bạn, ảo tưởng, mơ - bạn có thể bị lạc trong chúng. LSD và các ma tuý khác, chúng giúp và có tác dụng lên trung tâm này. Cho nên bạn có bên trong bất kì tiềm năng nào, hành trình LSD của bạn sẽ giúp bạn phát triển nó. Cho nên chẳng cái gì là chắc chắn. Nếu bạn có tưởng tượng hạnh phúc, cuộc hành trình ma tuý sẽ là cuộc hành trình hạnh phúc, đỉnh cao. Nếu bạn có tưởng tượng khổ sở, tưởng tượng ác mộng, cuộc hành trình sẽ là tồi tệ.
Đó là lí do tại sao nhiều người đưa ra các báo cáo mâu thuẫn. Huxley nói nó có thể là chìa khoá tới cửa của cõi trời, và Rheiner nói nó là địa ngục tối hậu. Điều đó tuỳ vào bạn; LSD không thể làm gì được. Nó đơn giản nhảy vào trung tâm tưởng tượng của bạn và bắt đầu vận hành ở đó theo cách hoá học. Nếu bạn có tưởng tượng kiểu ác mộng thế thì bạn sẽ phát triển điều đó, và bạn sẽ trải qua địa ngục. Và nếu bạn bị nghiện với những giấc mơ đẹp bạn có thể lên cõi trời.
Tưởng tượng này có thể vận hành hoặc như địa ngục hoặc như cõi trời. Bạn có thể dùng nó để đi tới mất trí hoàn toàn. Điều gì đã xảy ra cho người điên trong nhà thương điên? Họ đã dùng tưởng tượng của họ, và họ đã dùng nó theo cách mà họ bị nhận chìm bởi nó. Người điên có thể ngồi một mình và người đó nói to cho ai đó. Người đó không chỉ nói, người đó trả lời nữa. Người đó hỏi, người đó trả lời, người đó nói cho người khác vắng mặt ở đó. Bạn có thể nghĩ rằng người đó điên, nhưng người đó nói với một người thực. Trong tưởng tượng của người đó người này là thực, và người đó không thể phán đoán cái gì là tưởng tượng và cái gì là thực.
Trẻ con không thể phán đoán. Nhiều lần thế trẻ con làm mất đồ chơi của chúng trong mơ, và thế rồi chúng sẽ khóc buổi sáng, “Đồ chơi của con đâu rồi?” Chúng không thể phán đoán rằng mơ là mơ và thực tại là thực tại. Và chúng chẳng đánh mất cái gì, chúng chỉ mơ. Các biên giới bị mờ đi; chúng không biết mơ chấm dứt ở đâu và thực tại bắt đầu ở đâu.
Người điên cũng bị mờ đi. Người đó không biết cái gì là thực, cái gì là không thực. Nếu tưởng tượng được dùng đúng thế thì bạn sẽ biết rằng đây là tưởng tượng, và bạn sẽ vẫn còn tỉnh táo rằng đây là tưởng tượng. Bạn có thể tận hưởng nó, nhưng điều này là không thực.
Cho nên khi mọi người thiền, nhiều điều xảy ra qua tưởng tượng của họ. Họ bắt đầu thấy ánh sáng, mầu sắc, linh ảnh, nói chuyện với bản thân Thượng đế, hay đi cùng Jesus hay nhảy múa cùng Krishna. Đây là những điều tưởng tượng, và thiền nhân phải nhớ rằng đây là chức năng của tưởng tượng. Bạn có thể tận hưởng nó, chẳng cái gì sai trong chúng, chúng là vui đùa - nhưng đừng nghĩ rằng chúng là thực.
Điều thứ tư là ngủ. Ngủ nghĩa là vô ý thức khi có liên quan tới ý thức đi ra ngoài của bạn. Nó đã đi sâu vào trong bản thân nó. Hoạt động đã dừng lại, hoạt động ý thức đã dừng lại. Tâm trí không hoạt động. Ngủ là việc không hoạt động của tâm trí. Nếu bạn mơ thế thì đó không phải là ngủ. Bạn chỉ ở giữa thức và ngủ. Bạn đã rời khỏi việc thức và bạn còn chưa đi vào ngủ; bạn chỉ ở giữa.
Ngủ nghĩa là trạng thái vô nội dung toàn bộ - không hoạt động, không chuyển động trong tâm trí. Tâm trí đã bị hấp thu hoàn toàn, được thảnh thơi. Ngủ này là hay, nó cho cuộc sống. Bạn có thể dùng nó. Và ngủ này, nếu bạn biết cách dùng nó, có thể trở thành samadhi. Bởi vì samadhi và ngủ là không khác nhau lắm. Chỉ có một khác biệt: là trong samadhi bạn sẽ nhận biết; mọi thứ khác sẽ là như nhau.
Trong ngủ mọi thứ là như nhau, chỉ bạn là không nhận biết. Bạn ở trong cùng phúc lạc mà trong đó Phật đã đi vào, trong đó Ramakrishna sống, trong đó Jesus đã làm nhà của ông ấy. Trong ngủ say bạn ở trong cùng trạng thái phúc lạc - nhưng bạn không nhận biết. Cho nên đến sáng bạn cảm thấy đêm đã là tốt, đến sáng bạn cảm thấy được sảng khoái, sống động, được làm khoẻ lại. Đến sáng bạn cảm thấy rằng đêm đã là đẹp, nhưng đây chỉ là ráng chiều. Bạn không biết cái gì đã xảy ra, cái gì thực sự xảy ra. Bạn không nhận biết.
Ngủ có thể được dùng theo hai cách. Cũng như nghỉ ngơi tự nhiên... bạn thậm chí đã mất hút vào điều đó. Mọi người không thực sự đi vào giấc ngủ - họ cứ mơ liên tục. Thỉnh thoảng, trong vài giây, họ đụng vào... họ đụng vào và họ lại bắt đầu mơ. Im lặng của ngủ, âm nhạc phúc lạc của ngủ, đã trở thành không được biết tới. Bạn đã phá huỷ nó. Ngay cả ngủ tự nhiên cũng bị phá huỷ. Bạn bị khuấy động và kích động tới mức tâm trí không thể rơi hoàn toàn vào trong quên lãng.
Nhưng Patanjali nói ngủ tự nhiên là tốt cho sức khoẻ của thân thể, và nếu bạn có thể trở nên tỉnh táo trong giấc ngủ nó có thể trở thành samadhi, nó có thể trở thành hiện tượng tâm linh. Cho nên có các kĩ thuật - chúng ta sẽ thảo luận về chúng sau - về cách giấc ngủ có thể trở thành việc thức tỉnh. Gita nói rằng nhà yogi không ngủ ngay cả khi người đó ngủ. Người đó vẫn còn tỉnh táo, cái gì đó bên trong cứ luôn nhận biết. Toàn thân rơi vào giấc ngủ, tâm trí rơi vào trong giấc ngủ, nhưng việc chứng kiến còn lại. Ai đó đang quan sát - người quan sát trên tháp vẫn tiếp diễn. Thế thì ngủ trở thành samadhi; nó trở thành cực lạc tối thượng.
Và điều cuối cùng là kí ức. Kí ức là biến thể thứ năm của tâm trí. Điều đó nữa cũng có thể được dùng hay bị dùng sai. Nếu kí ức bị dùng sai nó tạo ra lẫn lộn. Thực sự, bạn có thể nhớ cái gì đó, nhưng bạn không thể chắc chắn liệu nó đã xảy ra theo cách đó hay không. Kí ức cảu bạn là không tin cậy. Bạn có thể thêm nhiều thứ cho nó; tưởng tượng có thể đi vào trong nó. Bạn có thể cắt bỏ nhiều thứ từ nó, bạn có thể làm nhiều thứ cho nó. Và khi bạn nói, “Đây là kí ức của tôi,” nó là thứ đã được tinh chế và bị thay đổi. Nó không phải là thực.
Mọi người nói, “Thời thơ ấu của tôi đã là thiên đường” - và nhìn trẻ con mà xem. Những đứa trẻ này về sau cũng nói rằng thời thơ ấu của chúng là thiên đường... và chúng đang khổ. Và mọi đứa trẻ đều khao khát sớm lớn lên, làm sao trở thành người lớn. Mọi đứa trẻ đều nghĩ rằng người lớn đang tận hưởng, họ đang tận hưởng mọi thứ đáng tận hưởng. Họ mạnh mẽ, họ có thể làm mọi thứ; nó bất lực. Trẻ con nghĩ chúng khổ. Nhưng những đứa trẻ này sẽ lớn như bạn đã lớn lên, và thế rồi về sau chúng sẽ nói rằng thời thơ ấu là đẹp, là thiên đường.
Kí ức của bạn là không tin cậy. Bạn đang tưởng tượng. Bạn chỉ đang tạo ra quá khứ của bạn. Bạn không thực với nó. Và bạn vứt bỏ nhiều thứ từ nó - bạn vứt bỏ mọi cái xấu, mọi cái buồn, mọi cái đau đớn; và mọi cái đẹp bạn tiếp tục. Bạn nhớ mọi thứ hỗ trợ cho bản ngã của bạn, và mọi thứ không hỗ trợ bạn vứt nó đi, bạn quên nó.
Cho nên mọi người có nhà kho lớn các kí ức bị vứt bỏ. Và bất kì cái gì bạn nói là không đúng bạn không thể nhớ một cách thực sự. Mọi trung tâm của bạn đều bị lẫn lộn và chúng đi vào lẫn trong nhau và quấy rối.
Chính kí ức... Phật đã dùng từ 'chính kí ức' cho thiền. Patanjali nói, nếu kí ức là đúng, điều đó nghĩa là người ta phải trung thực toàn bộ với bản thân mình. Thế thì, chỉ thế thì, kí ức mới có thể đúng. Bất kì cái gì đã xảy ra, xấu hay tốt, đừng thay đổi nó. Biết nó như nó vậy. Điều đó rất khó. Điều đó là gian nan. Bạn chọn và thay đổi. Biết quá khứ của người ta như nó vậy sẽ làm thay đổi toàn thể cuộc đời bạn. Nếu bạn biết đúng quá khứ của mình như nó vậy, bạn sẽ không thích lặp lại nó trong tương lai. Ngay bây giờ mọi người đang nghĩ về cách lặp lại nó dưới dạng được sửa đổi, nhưng nếu bạn biết quá khứ đích xác như nó vậy bạn sẽ không thích lặp lại nó.
Chính kí ức sẽ cho bạn sức đẩy về cách tự do với mọi kiếp sống. Và nếu kí ức là đúng thì bạn thậm chí có thể đi vào trong các kiếp quá khứ. Nếu bạn trung thực thế thì bạn có thể đi vào trong các kiếp sống quá khứ. Và thế thì bạn chỉ có một ham muốn: làm sao siêu việt lên trên mọi điều vô nghĩa này. Nhưng bạn nghĩ quá khứ là đẹp, và bạn nghĩ tương lai sẽ là đẹp, chỉ hiện tại này là sai. Nhưng quá khứ là hiện tại vài ngày trước đây, và tương lai sẽ trở thành hiện tại sau vài ngày. Và từng lúc từng hiện tại đều sai và mọi quá khứ là đẹp và mọi tương lai là đẹp. Đây là kí ức sai. Nhìn thẳng vào, đừng thay đổi. Nhìn vào quá khứ như nó đã vậy. Nhưng chúng ta không trung thực....
Mọi đàn ông đều ghét bố mình, nhưng nếu bạn hỏi bất kì ai người đó sẽ nói, “Tôi yêu bố tôi. Tôi kính trọng bố mà không ai khác.” Mọi đàn bà đều ghét mẹ mình, nhưng hỏi và mọi đàn bà sẽ nói, “Mẹ tôi, mẹ là thiêng liêng.” Đây là kí ức sai.
Gibran có một câu chuyện. Anh ta nói, một đêm mẹ và con gái đột nhiên thức dậy vì tiếng ồn. Họ cả hai đều là người mộng du, và vào lúc tiếng ồn đột nhiên xảy ra ở nhà hàng xóm, họ cả hai bước ra vườn, vẫn ngủ. Họ là người mộng du.
Điều đó chắc phải đã là một cú choáng, vì trong giấc ngủ, bà già, người mẹ, đang nói với con gái, “Vì mày, đồ chồn cái - vì mày mà tuổi xuân của tao bị mất. Mày đã phá huỷ tao. Và bây giờ bất kì ai tới nhà này đều nhìn mày. Không ai nhìn tao cả.” Một ghen tị sâu sắc tới với mọi bà mẹ khi con gái trở nên trẻ và đẹp: điều đó xảy ra cho mọi bà mẹ, nhưng nó ở bên trong.
Và con gái đang nói, “Đồ bà già mục nát.... Vì bà mà tôi không thể tận hưởng được cuộc sống. Bà là cản trở. Mọi nơi bà đều là cản trở, chướng ngại. Tôi không thể yêu được, tôi không thể tận hưởng được.”
Và đột nhiên, vì tiếng ồn, họ cả hai thức dậy. Và bà già nói, “Con ơi, con làm gì ở đây thế? Con có thể bị cảm lạnh đấy. Vào nhà đi.”
Và con gái nói, “Nhưng mẹ đang làm gì ở đây vậy? Mẹ đã không khoẻ và trời là đêm lạnh. Lại đây, mẹ. Lên giường đi.”
Điều đầu tiên đã xảy ra từ vô ý thức. Bây giờ họ lại đang giả vờ. Họ đã trở nên thức. Bây giờ vô thức đã đi rồi, tâm trí có ý thức đã bước vào. Bây giờ họ là kẻ đạo đức giả. Tâm trí có ý thức của bạn là đạo đức giả.
Để thực sự trung thực với kí ức riêng của mình, người ta sẽ phải thực sự trải qua nỗ lực gian nan. Và bạn phải thực, dù nó là bất kì cái gì. Bạn phải là thực trần trụi. Bạn phải biết bạn thực sự nghĩ gì về bố bạn, về mẹ bạn, về chị bạn - thực sự. Và đừng trộn lẫn, đừng thay đổi, đừng đánh bóng điều bạn có trong quá khứ; cứ để nó là như vậy. Nếu điều này xảy ra, thế thì, Patanjali nói, đây sẽ là tự do. Bạn sẽ vứt bỏ nó. Toàn thể sự việc là vô nghĩa và bạn sẽ không thích phóng chiếu nó lần nữa trong tương lai.
Và thế thì bạn sẽ không là kẻ đạo đức giả. Bạn sẽ là thực, đúng, chân thành. Bạn sẽ trở thành đích thực. Và khi bạn trở thành đích thực, bạn trở thành như tảng đá: không cái gì có thể thay đổi được bạn, không cái gì có thể tạo ra lẫn lộn.
Bạn trở thành như chiếc kiếm: bạn bao giờ cũng có thể cắt bất kì cái gì sai, bạn có thể phân chia bất kì cái gì là đúng từ cái sai. Và thế thì sáng tỏ của tâm trí được đạt tới. Sáng tỏ đó có thể đưa bạn tới thiền. Sáng tỏ đó có thể trở thành nền cơ sở cho trưởng thành - cho trưởng thành ra ngoài.
Đủ cho hôm nay?

0 Đánh giá

Ads Belove Post