Read more
Chuyến bay của
một mình tới một mình
Bài giảng về Kaivalya Upanishad
Chương 3. Sâu
trong hang của tâm
Thực tại tối thượng không thể được biết tới qua của cải của người ta, qua dòng dõi của người ta hay qua hành động của người ta.
Từ bỏ là con đường duy nhất qua
đó những người đã biết tới thực tại tối thượng đã đi vào trong bất tử.
Bên ngoài cõi trời sáng lên thực
tại tối thượng, cái ở sâu bên trong hang của tâm. Điều này có thể được kinh
nghiệm chỉ bởi người tìm kiếm trung thực.
Cái chết bao quanh con người tứ
phía. Dù người đó có thể đi tới bất kì đâu, chung cuộc người đó sẽ tìm thấy cái
chết. Dù cho chúng ta nghĩ về nó hay lảng tránh nghĩ về nó...
Ai là anh bạn đang nói ở chỗ
kia thế? Xin dừng nói lại!... Dù chúng ta có ý thức về nó hay không, sợ chết vẫn
có đó, hiện diện mọi khoảnh khắc. Thực tế, tất cả những sợ khác đều là cái bóng
của sợ chết. Dù là người ta sợ nghèo khó, dù là người ta sợ ốm yếu, dù là người
ta sợ mất đi sự kính trọng hay sợ thất bại, sâu bên dưới, đằng sau tất cả mọi sợ
đều là sợ chết. Tâm trí sợ nghèo bởi vì nó nghĩ rằng nếu có đủ tiền đó sẽ là bảo
vệ chống lại chết. Tâm trí sợ thất bại bởi vì nó nghĩ rằng nếu có thành công,
thế thì nó sẽ đủ mạnh để tranh đấu chống lại chết.
Sợ chết là một mặt của đồng tiền
cuộc sống; mặt kia của đồng tiền này là thèm khát cuộc sống. Sự mãnh liệt của sợ
hãi rằng cuộc sống đang tuột khỏi tay bạn là cùng tỉ lệ với sự mãnh liệt của nỗi
thèm khát cuộc sống của bạn. Níu bám càng nhiều, sợ hãi càng lớn.
Sợ chết này đem con người vào
vô số hoạt động. Trong toàn thể cuộc sống của mình bạn sống ít và dành nhiều thời
gian và năng lượng hơn để làm ra cái bảo vệ chống lại chết. Có lẽ chẳng còn lại
thời gian cho sống. Sợ chết bắt rễ sâu vào trong tâm bạn thế - làm sao hoa của
sống có thể nở trong nó được? Bạn chạy, bạn tranh giành, bạn kiếm tiền, bạn đoạt
lấy danh vọng, bạn xây nhà có tường cao và vững chãi, với an toàn lớn lao. Bạn
làm đủ mọi loại thu xếp cho an ninh của bạn bởi một lí do duy nhất: bạn không
muốn chết.
Nhưng chung cuộc bạn sẽ chết. Tất
cả mọi biện pháp an ninh của bạn đều thất bại, tất cả mọi thận trọng của bạn đều
tỏ ra vô tích sự. Tất cả mọi cố sức của bạn, tất cả mọi nỗ lực của bạn, tất cả
mọi cố gắng của bạn đều tỏ ra là vô ích bởi vì một ngày nào đó chết gõ cửa nhà
bạn.
Hàng tỉ và hàng tỉ tỉ người đã
làm phí hoài các kiếp sống của họ theo cách này, tranh đấu chống lại chết. Và vậy
mà bạn liên tục làm cùng một điều mà không chú ý gì tới sự kiện là không ai đã
bao giờ thành công trong việc chinh phục chết, dù với bất kì chiến lược nào họ
thử cũng chẳng thành vấn đề. Ai đó nghĩ, “Mình sẽ chết, nhưng ít nhất con trai
mình sẽ còn lại” - thế là người đó đầu tư tất cả mọi hi vọng vào con mình. Những
người không có con trở nên bối rối nhiều tới mức bây giờ dòng dõi của họ sẽ chấm
dứt với họ. Nếu có con trai, thế thì người đó ít lo nghĩ về việc chết bởi vì ít
nhất người đó sẽ tiếp tục sống qua ai đó khác. Một phần nào đó của người đó sẽ
sống qua con của người đó. Con người đang đi tìm cách để sống sót với cái chết
– ngay cả là qua con của mình: “Mình sẽ chết nhưng con mình, một phần của mình,
sẽ sống. Theo một nghĩa nào đó mình đã trở thành bất tử.”
Một số người tìm bất tử qua con
mình còn số khác tìm qua những sáng tạo bất tử của mình. Hoạ sĩ nghĩ “Mình sẽ
qua đời, nhưng ít nhất tranh vẽ của mình sẽ vẫn còn ở đây,” nhà điêu khắc nghĩ
“Mình sẽ chết, nhưng ít nhất những bức điêu khắc của mình sẽ ở đây,” nhạc sĩ
nghĩ “Mình sẽ biến mất, nhưng ít nhất âm nhạc của mình sẽ ở đây.” Đây là những
cách tìm kiếm bất tử. Nhưng nếu ai đó chết đi toàn bộ, thế thì con cháu người
đó, cái gọi là một phần của người đó có thể sống sót được bao lâu? Khi bản thân
người đó chết đi rồi, tranh vẽ, bức điêu khắc, sách vở và thơ ca mà người đó đã
tạo ra có thể sống còn được bao lâu? Không, chúng cũng sẽ chết đi thôi.
Thực tế, bất kì cái gì được
sinh ra trong thế giới này, trong luồng thời gian này, đều chắc chắn sẽ chết.
Trong cõi thời gian, chết là hiện tượng rõ ràng, chắc chắn. Trong cõi thời
gian, chết là không thể nào tránh khỏi. Bất kì cái gì được sinh ra trong cõi thời
gian đều nhất định chết đi.
Chân lí là ở chỗ sáng tạo và huỷ
diệt là hai cực của cùng một hiện tượng. Khoảnh khắc cái gì đó được tạo ra, nó
đã bắt đầu chết đi rồi. Khoảnh khắc ai đó được sinh ra, cuộc hành trình của người
đó tới cái chết đã bắt đầu rồi. Một khi cái bắt đầu có đó, cái kết thúc sẽ đi
theo không tránh khỏi. Mất bao nhiêu thời gian để đi tới kết thúc là điều phụ,
và điều đó cũng có ý nghĩa. Dù nó có thể bị để chậm trễ lại bằng cách nào, cái
kết thúc vẫn phải tới.
Phật đã nói, “Dù ta chết trong
bẩy năm hay bẩy mươi năm hay bẩy trăm năm, điều đó cũng chẳng khác biệt gì mấy.
Nếu cái chết của ta là chắc chắn, thế thì với chính việc sinh của ta hạt mầm của
cái chết đã đi vào trong ta rồi. Bao nhiêu thời gian cần cho nó nở hoa là điều
phụ. Và dẫu sao ta sẽ làm gì trong khoảng thời gian này?
“Nếu chết dứt khoát đứng đằng
sau lưng người ta, thế thì ai đó sẽ sống trong sợ chết trong bẩy năm, ai đó
trong bẩy mươi năm và ai đó trong bẩy trăm năm, nhưng họ có thể làm gì hơn được?
Cái gì sẽ được hoàn thành bởi việc sống như thế này? Nếu cái chết chắc chắn
đang đứng ở ngưỡng cửa của mọi người, nếu nó là cái gì đó có thể xảy ra vào bất
kì lúc nào, thế thì cuộc sống này nhất định chẳng là gì ngoài sự run rẩy.”
Và Mahavira đã nói, “Giọt sương
sớm, run rẩy trong làn gió thoảng trên nhành cỏ, có thể tự bảo vệ mình được bao
lâu? Nó có thể tự gìn giữ mình được bao lâu khỏi cơn gió thoảng thổi qua? Nó có
thể đọng lại trên đầu lá được bao lâu? Nó sẽ rơi đi. Bây giờ hay một thời gian
ngắn sau đó, nhưng nó sẽ rơi rụng đi.” Ông ấy nói thêm, “Cuộc sống của con người
cũng giống như giọt sương này chênh vênh trên đầu ngọn cỏ. Nó rơi đi bây giờ
hay trong khoảng thời gian ngắn nữa, nhưng nó nhất định rơi rụng đi. Nó phải
rơi rụng đi.”
Mọi cách thức con người đã phát
minh ra để đạt tới bất tử đều vô ích. Cách duy nhất không vô ích, và điều đó được
nói trong lời kinh này:
Thực tại tối thượng không thể
được biết tới qua của cải của người ta, qua dòng dõi của người ta hay qua hành
động của người ta.
Từ bỏ là con đường duy nhất qua
đó những người đã biết tới thực tại tối thượng đã đi vào trong bất tử.
Bên ngoài cõi trời sáng lên thực
tại tối thượng, cái ở sâu bên trong hang của tâm. Điều này có thể được kinh
nghiệm chỉ bởi người tìm kiếm trung thực.
Bây giờ cũng tốt là hiểu vài điểm
trong lời kinh này.
Cái bất tử... Niều khao khát
sâu sắc nhất trong cuộc sống là kinh nghiệm cái bất tử, cái không chết, cái mà
không bao giờ có thể bị phá huỷ. Người ta có thể thu được cái gì bằng việc đạt
tới cái gì đó sẽ đi tới kết thúc? Người đó sẽ thực sự thu được cái gì? Cái gì
đó tới trong tay bạn chỉ để lại tuột đi mất thì có giá trị gì? Cái bạn thu được
sẽ bắt đầu biến mất vào cùng khoảnh khắc nó được thu lấy, làm cho mọi nỗ lực của
bạn thành vô dụng.
Đây là lí do tại sao chúng ta
chỉ gọi ai đó là brahmajnani, người biết về thực tại tối thượng, người có việc
tìm kiếm đã dành cho cái mà, một khi được tìm thấy, không bao giờ bị mất đi nữa.
Brahmajnani là người đã tìm thấy cái mà từ đó không bao giờ có thể là sự tách
biệt; cái có bắt đầu nhưng không có kết thúc. Điều này có chút ít phức tạp, bởi
vì bạn hiểu rằng mọi thứ có cái bắt đầu thì phải có cái kết thúc. Không có gì
trong thế giới này được thấy có bắt đầu mà không có kết thúc. Mọi thứ đều được
thấy có tới có đi. Có kinh nghiệm nào, việc nhận ra nào, mà có thể là vĩnh hằng
không - mà từ đó có thể không còn khả năng nào cho việc tách rời không? Đây là
việc tìm kiếm về brahmajnan, việc tìm kiếm để biết thực tại tối thượng.
Tìm kiếm thực tại tối thượng là
việc tìm kiếm cái vĩnh hằng, cái vô thuỷ, cái vô chung, cái bao giờ cũng đấy,
cái không bao giờ bị phá huỷ và cái sẽ không bao giờ chết, cái sẽ không bao giờ
đi tới kết thúc. Và chỉ nếu bạn đã đạt tới điều này bạn mới biết cuộc sống. Chỉ
nếu bạn đã trở thành một với điều này bạn sẽ biết cái bất tử, cái bất diệt. Chừng
nào bạn còn chưa trở thành một với điều này, sống của bạn sẽ là run rẩy trong sợ
hãi, giống như chiếc lá trong gió, bởi vì chết sẽ làm rung chuyển bạn ở mọi
nơi; bạn sẽ thường xuyên cảm thấy gió của chết. Sợ hãi sẽ chấm dứt chỉ khi bạn
biết chân lí tối thượng, chỉ khi bạn trở thành một với nó. Và chỗ sợ hãi chấm dứt
và bạo dạn bắt đầu, có mặt trời của cuộc sống mọc lên, có bình minh của cuộc sống.
Nhưng điều này có thể được đạt
tới qua tiền bạc không? - bởi vì con người đặt nỗ lực toàn thể cuộc sống của mình
vào việc tích luỹ tiền bạc. Theo cách này người đó hi vọng có khả năng biết cái
gì đó không chết. Nhưng khi cùng bàn tay đã kiếm tiền đó chết đi, làm sao tiền
được kiếm qua bàn tay đó có thể sống sót được? Khi bản thân người sáng tạo là
phù du thế, việc sáng tạo của người đó nhất định phải phù du hơn thế.
Của cải, tiền bạc; những thứ
này chỉ là lừa dối. Chúng tạo ra ảo tưởng về thường hằng. Khi bạn có tiền bạn cảm
thấy dường như bạn có cái gì đó an toàn và thường hằng mà qua đó bạn có thể
tranh đấu chống lại tính nhất thời của mọi thứ. Bạn cho rằng với hỗ trợ của tiền
bạc bạn thậm chí có thể tạo ra thu xếp nào đó chống lại chết. Đây là lí do tại
sao mọi người điên khùng thế để tích luỹ tiền bạc. Điên khùng này đạt tới điểm
bạn thậm chí quên mất tại sao, ngay chỗ đầu tiên, bạn đã bắt đầu tích luỹ tiền
bạc. Thế rồi bạn liên tục đi tích luỹ tiền bạc và bạn tự đánh mất mình trong
quá trình này. Bạn đã bắt đầu trong hi vọng rằng nó có thể cứu bạn - bạn đã
không để ý tới điểm mà phương tiện trở thành mục đích.
Đây là một trong những bệnh căn
bản nhất của con người: để cho phương tiện trở thành mục đích. Điều bạn nghĩ để
dùng như phương tiện với cái gì đó trở thành người chủ của bạn. Điều bạn muốn đạt
tới bằng phương tiện nào đó chung cuộc bị mất hút trong tất cả các nỗ lực của bạn,
trong bản thân phương tiện này.
Con người kiếm tiền cho việc sống
của mình, nhưng nếu bạn nhìn vào người giầu bạn sẽ thấy rằng họ đang sống để
làm tiền. Điều này có thể dường như có chút ít đáng ngạc nhiên, bởi vì nếu bạn
hỏi người giầu, họ nữa cũng sẽ nói rằng họ đang làm tiền để sống.
Khi Andrew Carnegie chết, ông ấy
để lại hàng tỉ đô la đằng sau. Và mãi cho tới lúc kết thúc của mình, mãi cho tới
chính khoảnh khắc cuối cùng, ông ấy vẫn còn thảo luận chuyện kinh doanh qua điện
thoại. Vào khoảnh khắc cuối cùng, khi ông ấy thở hơi cuối cùng, ống nghe điện
thoại vẫn trong tay ông ấy và ông ấy đang dàn xếp chuyện kinh doanh nào đó. Tác
giả của cuốn tiểu sử của Andrew Carnegie đã viết, “Tôi chưa từng thấy cho dù một
khoảnh khắc trong đời của Carnegie mà người ta có thể nói rằng ông ấy thực sự sống.
Mọi khoảnh khắc ông ấy chỉ kiếm sống.” Có lẽ ông ấy là người giầu có nhất trên
Trái đất, nhưng theo một nghĩa nào đó, không ai là người nghèo hơn ông ấy, bởi
vì ông ấy đã không biết tới xúc động của cuộc sống, ông ấy đã không thể được bất
kì con sóng cuộc sống nào chạm tới. Thường bạn bè ông ấy sẽ nói với ông ấy,
“Ông định làm gì với tất cả tiền bạc ông liên tục tích luỹ lại thế?” Và ông ấy
sẽ nói, “Đợi đấy - một khi tôi được chấm dứt với việc làm tiền, tôi sẽ bắt đầu
sống.” Nhưng kiếm tiền chẳng bao giờ bị chấm dứt cả, và việc sống chẳng bao giờ
bắt đầu.
Ai đã bao giờ kiếm đủ tiền? Bạn
đã bao giờ nghe nói về người giầu nói rằng người đó đã kiếm đủ tiền chưa?
Không, việc tích luỹ dường như có logic riêng của nó. Nó không phải là cái gì
đó bạn có thể vẽ ra được đường biên, và một khi bạn đã chạm tới đường đó thì việc
tích luỹ được kết thúc. Mục tiêu liên tục đi thêm lên trước: giống như đường
chân trời bạn càng đi tới nó đường chân trời càng đi ra xa hơn. Dường như là
nơi và đất và trời gặp nhau chỉ gần ngay cạnh, không xa xăm gì mấy; dường như
chỉ là việc đi vài dặm và bạn sẽ đạt tới nơi trời và đất chạm nhau - nhưng trời
không gặp đất ở đâu cả, chỉ dường như gặp nhau thôi. Chúng ta càng đi tới nó,
điểm đó càng đi ra hơn. Bạn có thể đi vòng quanh Trái đất và bạn sẽ không tìm
thấy trời và đất gặp nhau ở đâu cả. Bạn sẽ thường xuyên cảm thấy rằng đấy chỉ
là vấn đề của thêm vài dặm nữa và ở đó chúng sẽ gặp nhau, nhưng ngay cả sau khi
bạn đã đi vòng quanh cả Trái đất, nó vẫn sẽ có vẻ như chỉ thêm vài dặm nữa
thôi.
Theo cùng cách đó, dù bản ngã của
bạn chạy đua tới bất kì đâu trong cuộc sống, nó liên tục tạo ra chân trời của
riêng nó. Của cải cũng giống như đường chân trời: bạn đi xa tới đâu cũng chẳng
thành vấn đề, bạn chẳng đạt tới đâu cả; mục tiêu đi thêm về phía trước và cuộc
đua tiếp tục. Hiện tượng này không bao giờ chấm dứt, nhưng cuộc sống đi tới chấm
dứt.
Người giầu thường sống cuộc sống
nghèo. Người nghèo sống theo cách đó bởi vì người đó phải sống vậy, nhưng nếu
người giầu sống theo cách đó, điều đó không thể nào tha thứ được. Và những người
nghĩ họ có thể đạt tới bản chất của cuộc sống qua tiền đơn giản chỉ là điên.
Không, bất tử thực không thể nào được biết tới qua của cải hay qua con cháu bạn.
Một số người mất cả đời mình chỉ
để thu xếp cho con cái khôn lớn và được giáo dục, để chúng xây dựng gia đình và
ổn định cuộc sống. Bạn có thể hỏi họ, “Đây là điều cha mẹ bạn đã làm cho bạn,
đây là điều con bạn sẽ làm cho con chúng, vậy tất cả những điều này là về cái
gì? Bố bạn đã sống để cho bạn có thể trưởng thành, được giáo dục, ổn định cuộc
sống và bạn đang sống để cho con bạn cũng trưởng thành, được giáo dục và được ổn
định cuộc sống và con bạn sẽ sống theo cùng lề thói đó. Phỏng có ích gì mà sống
theo cách này?”
Điều đó có thể là đơn giản bởi
vì bạn không biết cách thức đúng để sống, bạn kết thúc chỉ giữ cho bản thân
mình và tâm trí mình bận rộn, tham gia vào mọi thứ ngu xuẩn hay sao? Những người
có con đều trong rối loạn - bản thân họ không biết cách sống, và họ cho rằng
con họ không cho phép họ sống! Và những người không có con lại trong rắc rối về
cách sống bởi vì họ cảm thấy “Phỏng có ích gì mà sống không có con?”
Dường như người đó không có ý
tưởng nào về suối cam lồ cuộc sống ở đâu cả. Và không phải là ai đó đã tìm ra
suối cam lồ cuộc sống sẽ không kiếm tiền đâu, không. Không phải là ai đó đã tìm
thấy suối cam lồ cuộc sống thì sẽ không chăm nom và chăm sóc con cái mình,
nhưng phẩm chất của việc chăm sóc của người đó sẽ khác. Toàn thể động cơ để người
đó kiếm tiền sẽ khác. Người đã biết tới suối cam lồ cuộc sống sẽ chăm sóc con
mình, nhưng bây giờ việc chăm sóc của người đó sẽ không chỉ là bận rộn và trì
hoãn cuộc sống. Bây giờ người đó không trì hoãn cuộc sống riêng của mình, người
đó không nói “Bố mẹ sẽ sống vì con.”
Người ta có thể sống vì người
khác chứ - nhưng người đã tìm thấy suối cam lồ cuộc sống trong cuộc sống riêng
của mình thì sẽ sống cho bản thân mình.
Thế thì đó là vấn đề hoàn toàn
khác. Bằng việc sống cho bản thân bạn, con bạn cũng sẽ được giúp bởi cuộc sống
của bạn. Nhưng bạn sẽ không sống cuộc sống của bạn qua cuộc sống của con cái bạn,
bởi vì theo cách này mọi người chỉ liên tục trì hoãn vì người khác và chẳng ai
sống cuộc sống của mình cả.
Có nhiều người nghĩ rằng qua
hành động, hành động mênh mông, hoạt động thường xuyên, họ sẽ đạt tới bất tử,
cho nên họ giữ mình thường xuyên bận rộn. Từ sáng tới tối, từ sinh tới tử, họ
liên tục làm điều này điều khác. Niềm tin của họ là ở chỗ chính qua việc làm
riêng của họ mà họ sẽ kinh nghiệm việc bất tử. Nhưng hành động chỉ có thể cho bạn
những thứ là kết quả của của hành động thôi. Bất tử không phải là kết quả của bất
kì hành động nào. Nó chưa bao giờ là kết quả của hành động. Bất tử đơn giản bị ẩn
kín, nhưng nó đã có đó rồi; nó không phải là cái gì đó bạn có thể tạo ra qua
hành động của mình. Bất tử đã hiện diện rồi; nó không phải được tạo ra, nó chỉ
cần được phát hiện ra, khám phá ra. Nó không được tạo ra. Không hệ thống, không
kỉ luật hành động nào sẽ có khả năng tạo ra nó bởi vì nó đã có đó rồi.
Và nhớ, chúng ta đơn thuần hữu
tử, cho nên làm sao bất tử có thể được sinh ra từ hành động của chúng ta? Chúng
ta không biết, vậy làm sao cái biết có thể được sinh ra từ hành động của chúng
ta? Chúng ta bị bao quanh bởi chết và hành động của chúng ta cũng bị bao quanh
bởi chết. Chết ở mọi nơi. Nếu chúng ta là tối, làm sao sáng có thể nảy sinh từ
chúng ta được?
Nhưng thực tại tối thượng không
nảy sinh từ chúng ta. Thực ra, chúng ta nảy sinh ra từ thực tại tối thượng.
Không có nhu cầu để chúng ta cho sinh thành ra thực tại tối thượng: chúng ta đã
tới từ nó và nó chỉ phải được phát hiện ra. Nó không phải là cái sắp xảy ra
trong tương lai, nó có đó từ ngay ban đầu, ngay trước chúng ta. Nó là chính cơ
sở sự tồn tại của chúng ta.
Qua hành động bạn có thể tìm thấy
người khác, nhưng không tìm thấy bản thân bạn. Sự hiện diện của bạn bị ẩn kín đằng
sau tất cả mọi hành động của bạn. Cho dù không có hành động, bạn vẫn có đó. Bạn
còn sâu hơn hành động. Cho nên nếu bạn muốn tìm thấy cái ta thực chất của bạn,
điều đó sẽ không thể có được qua hành động.
Thế thì làm sao nó được biết tới?
Từ bỏ là con đường duy nhất qua
đó những người đã biết tới thực tại tối thượng đã đi vào trong bất tử.
Từ từ bỏ này là rất phức tạp.
Điều thoáng tới trong tâm trí bạn khi bạn nghe nó không phải là nghĩa đúng đâu.
Nghĩa chung của từ bỏ là ở chỗ bạn từ bỏ của cải của mình. Bây giờ hiểu được điều
này sẽ là tốt.
Khi chúng ta nói rằng một người
là người từ bỏ... Khi chúng ta nói rằng Mahavira là người từ bỏ, ông ấy đã từ bỏ
những khối lượng của cải lớn thế; khi chúng ta nói rằng Phật là người từ bỏ,
ông ấy đã từ bỏ cung điện của mình, vương quốc của mình, mọi tiện nghi, ông ấy
đã từ bỏ mọi thứ - với tâm trí của chúng ta nghĩa của từ bỏ là bỏ lại cái gì
đó, buông bỏ cái gì đó. Nhưng nghĩa thực của từ bỏ là ở chỗ bạn không giữ lại
cái gì đó ngay chỗ đầu tiên. Chúng ta cho rằng Mahavira đã vứt bỏ của cải,
nhưng thực tế, ông ấy chỉ vứt bỏ việc nắm giữ của ông ấy mà thôi.
Cố hiểu điều này sâu nhất có thể
được đi: chúng ta cho rằng Mahavira đã bỏ lại của cải của ông ấy, nhưng ông ấy
chỉ bỏ lại việc nắm giữ của ông ấy, việc níu bám của ông ấy. Của cải chưa bao
giờ là của Mahavira cả, cho nên làm sao nó có thể bị từ bỏ được? Chỉ việc nắm
giữ, việc níu bám mới là của ông ấy. Của cải không phải là của Mahavira bởi vì
nó có đó thậm chí trước khi có ông ấy, và nó còn lại ngay cả sau ông ấy.
Vương quốc không thuộc về Phật,
nó thậm chí đã có đó trước khi có Phật, nó có đó ngay cả trước khi Phật hiện hữu
- nó có đó cùng với bố của Phật, nó có đó cùng với bố của bố của Phật. Khi Phật
từ bỏ nó, thế nữa nó vẫn còn với ai đó. Phật đã không từ bỏ vương quốc, ông ấy
đã từ bỏ việc níu bám vào vương quốc. Việc níu bám đó là của riêng Phật.
Nếu tôi cầm tiền trong tay, mọi
người sẽ nói rằng tôi đang cầm tiền. Thực tại là ở chỗ tôi chỉ giữ cho nắm tay
tôi đóng lại - tiền không nhận biết rằng nó nằm trong nắm tay tôi. Và khi tôi
buông bỏ nó, khi tôi thả nó ra, nó sẽ không biết rằng nó đã bị thả ra. Cùng đồng
tiền đó đã từng được giữ trong biết bao nhiêu nắm tay và nó chưa bao giờ lưu ý
về điều đó. Chỉ có mỗi việc nắm tay chúng ta mở ra hay đóng lại.
Từ bỏ nghĩa là vứt bỏ việc nắm
giữ, buông bỏ việc nắm giữ - và nghĩa khác là không giữ ngay chỗ đầu tiên, biết
rằng cái không phải của bạn thì không là của bạn. Nhưng bạn mang nghĩa khác của
từ bỏ trong tâm trí bạn. Người có tiền nói, “Cái này là của tôi.” Thế rồi người
đó từ bỏ nó, theo nghĩa của bạn, và người đó nói, “Tôi đã từ bỏ tiền của tôi.”
Nhưng ngay cả trong hành động từ bỏ đó, người đó vẫn không buông bỏ quyền sở hữu
của mình; người đó vẫn tin rằng mình đã từ bỏ của cải của mình.
Tôi biết những người từ bỏ, người
mà thậm chí nhiều năm đã trôi qua - ba mươi năm trong trường hợp này, bốn mươi
năm trong trường hợp kia - đã không buông bỏ tài khoản. Họ vẫn tuyên bố, “Tôi
đã đá tung tiền tài đi rồi,” và họ đã làm cú đá này bốn mươi năm trước! Và nếu
tiền không phải là của họ, thế thì họ sẽ xin lỗi tiền bởi vì họ đã đá nó! Nhưng
không, tiền là của họ, và bây giờ thay vào chỗ của tiền, việc từ bỏ là của họ.
Cố hiểu điều này cho đúng: bây giờ
họ đã biến bản thân từ bỏ thành một loại của cải. Bây giờ việc từ bỏ hàng triệu
ru pi đã trở thành uy tín của họ, vốn của họ trong bốn mươi năm qua. Bây giờ việc
từ bỏ hàng triệu ru pi này là của cải của họ. Bây giờ nếu bạn nói với họ rằng đấy
không phải là hàng triệu đâu, số đấy ít hơn, họ sẽ rất đau đấy.
Một người bạn tới gặp tôi. Anh ấy
tới cùng vợ bởi vì anh ấy đã nghĩ rằng tự giới thiệu mình sẽ có vẻ kì quái. Thế
là vợ anh ta giới thiệu anh ta và anh ta giới thiệu vợ. Người vợ nói, “Anh ấy
là con người của từ thiện lớn lao. Anh ấy đã cúng cho việc từ thiện hàng trăm
nghìn ru pi.” Người chồng nhìn vợ và nói, “Mỗi trăm nghìn thôi sao? Đến bây giờ
nó là một trăm mười nghìn rồi!”
Bây giờ cái loại từ bỏ này chẳng
là gì ngoài việc giành lấy cái khác. Nó là một loại tiền mới. Nó cũng thuận tiện
và an toàn hơn; kẻ trộm không thể đánh cắp được nó. Việc thay đổi chính phủ sẽ
không ảnh hưởng tới nó theo bất kì cách nào do bản chất của của cải mới này.
Tôi bảo người bạn đó, “Bạn đã
làm trò láu cá đấy! Bạn thận trọng. Một trăm mười nghìn ru pi của bạn có thể bị
kẻ trộm lấy mất, bị thổ phỉ cưỡng bách lấy đi; chính phủ có thể đánh thuế nặng,
chủ nghĩa xã hội có thể tới nước này - bất kì cái gì cũng có thể xảy ra. Nhưng
bây giờ không kẻ trộm nào có thể lấy được nó khỏi bạn, không chủ nghĩa xã hội
nào có thể giật được nó khỏi bạn.”
Anh ta nghiêng người trên ghế,
nhưng xương sống anh ta bỗng nhiên dựng đứng. Anh ta nói, “Thầy phải đấy. Đó là
lí do tại sao tôi đã cho tiền, bởi vì đức hạnh không thể bị cái chết lấy đi. Bây
giờ đây là đức hạnh - bây giờ không quyền lực nào trên thế giới có thể lấy điều
này khỏi tôi được.” Anh ta đã chuyển tiền của mình thành đức hạnh!
Đức hạnh là tiền tệ sẽ hợp thức
ngay cả trong thế giới bên ngoài cái chết. Nó còn có thể có nghĩa gì khác? Đức
hạnh là đồng tiền được thừa nhận không chỉ ở đây, mà sẽ có giá trị ở thế giới
khác nữa. Bây giờ người này sẽ đi vào thế giới khác với số dư ngân hàng này. Và
cái gọi là kinh sách dạy cho mọi người, “Nếu bạn từ bỏ ở đây, bạn sẽ được thưởng
ở kia. Điều bạn từ bỏ ở đây bạn sẽ thu được nghìn lần hơn ở kia.” Chính trong
hi vọng thu được này mà mọi người từ bỏ. Chính bởi vì tham lam mà mọi người từ
bỏ. Và nếu mọi người từ bỏ để thu được cái gì đó, nó không phải là từ bỏ chút
nào. Không thể nào từ bỏ với thu xếp như vậy. Từ bỏ không có nghĩa là bạn biến
từ bỏ thành một loại tiền tệ mới.
Từ bỏ nghĩa là hiểu rằng không
của cải nào thực sự là của cải. Nghĩa của từ bỏ là hiểu biết rằng không có của
cải nào thực sự là của cải, dù ở đây hay ở thế giới khác. Của cải đơn giản
không tồn tại. Nó nghĩa là được bắt rễ vào trong hiểu biết rằng, “Mình không có
của cải chút nào, không của cải nào là của mình chút nào. Mình hoàn toàn
nghèo.” Từ mà Jesus đã dùng cho điều này là “nghèo trong tâm linh.”
Những người kinh nghiệm cái
nghèo của mình trong linh hồn là những người từ bỏ. Họ biết rằng linh hồn đơn
giản không có của cải, rằng không có của cải trong linh hồn. Và điều thú vị là ở
chỗ khoảnh khắc một linh hồn đi tới nhận ra rằng nó chẳng liên quan gì tới của
cải, trong chính khoảnh khắc đó cái bất tử được kinh nghiệm... chính khoảnh khắc
đó. Bởi vì nếu nắm tay giữ tiền bạc, của cải, mà mở ra hoàn toàn - trong tính bạo
dạn toàn bộ - thế thì trên cùng nắm tay mở ra đó nước cam lồ của bất tử sẽ mưa
rào xuống. Nhưng nhớ một điều: nếu bạn muốn giữ tiền của bạn, bạn phải nắm nắm
tay lại; nếu bạn muốn giữ cái bất tử, bạn phải mở nắm tay ra. Nước cam lồ của bất
tử mưa rào lên bàn tay mở. Trong bàn tay đóng, chỉ chất độc tụ lại.
Đây là lí do tại sao điều chúng
ta gọi là sampatti, giầu có, có nhiều vipatti, bất hạnh, hơn cho người
sampatti. Đây là lí do tại sao, với cái gọi là giầu của bạn, khổ của bạn liên tục
sâu sắc thêm và lớn lên thêm.
Bàn tay mở nghĩa là cho dù nước
cam lồ có mưa rào xuống, nó cũng không cố giữ lại cho nó. Vào ngày đó không có
ao ước nắm giữ ngay cả nước cam lồ đang mưa xuống, hay khi có của cải lớn lao
nhất nhưng không có ham muốn nắm tay lại giữ nó, thì người này đã đạt tới trạng
thái từ bỏ. Chỉ khi không còn ham muốn để nắm giữ thì từ bỏ thực sự đã xảy ra.
Từ bỏ là việc biến mất của thái
độ nắm giữ, trong mọi chiều. Người ta không nắm giữ vào con người, vào tiền bạc,
vào kinh sách, vào bất kì đức hạnh nào. Và thậm chí cũng không còn vấn đề bạn nắm
giữ vào cái gì nữa, bởi vì chúng ta tinh ranh tới mức chúng ta có thể vứt bỏ thứ
này và nắm giữ thứ khác - nhưng việc nắm giữ vẫn tiếp tục.
Vấn đề là ở níu bám của bạn,
không phải vào mọi thứ. Người này từ bỏ tiền và thế rồi người đó níu bám vào việc
từ bỏ của mình. Người khác từ bỏ gia đình mình nhưng thế rồi người đó níu bám lấy
đạo tràng, người khác từ bỏ cuộc sống trần tục nhưng thế rồi người đó níu bám lấy
tính chất sannyas. Vấn đề là thái độ níu bám.
Ý nghĩa của sannyasin là người
đã vứt bỏ việc níu bám. Đây là toàn thể ý nghĩa - rằng người đó đã từ bỏ việc
níu bám, người đó đã quyết định không giữ lại cái gì thêm nữa. “Bây giờ mình sẽ
sống mà không níu bám” - quyết tâm này được gọi là tính chất sannyas. Nhưng đó
là câu chuyện tinh tế... nếu chúng ta muốn chúng ta có thể nắm giữ ngay cả tính
chất sannyas, cái đó nữa cũng có thể trở thành nắm tay của bạn. Nắm tay của bạn
khéo léo nắm giữ tới mức nó có thể nắm lại bất kì cái gì. Chẳng thành vấn đề ít
nhất vật đó là cái gì. Nó phải trở nên khéo léo tới mức cho dù không có gì cả,
nó vẫn có thể khép lại với cái không có gì. Khi thói quen khép lại của nắm tay
bị vứt bỏ, thế thì đó là từ bỏ. Nó là việc không níu bám, khi thậm chí không có
cảm giác níu bám nảy sinh.
Cho nên từ bỏ không có nghĩa là
từ bỏ của cải, từ bỏ không có nghĩa là từ bỏ gia đình, từ bỏ không có nghĩa là
bạn từ bỏ vật nào đó. Từ bỏ nghĩa là buông bỏ thái độ níu bám, thái độ nắm giữ.
Việc biến mất của thái độ nắm giữ là từ bỏ.
Chính là qua loại từ bỏ này mà
những người biết tới thực tại tối thượng đã đi vào cái bất tử, cái bất diệt. Việc
từ bỏ này sẽ là khả năng chỉ nếu bạn bắt đầu sống với nhận biết lớn lao. Thế
thì từ bỏ không còn là hành động bên ngoài nữa, mà trở thành trạng thái bên
trong của hiện hữu. Người thức tỉnh vẫn còn tỉnh táo và tỉnh thức rằng nắm tay
phải không khép lại trên bất kì cái gì, rằng việc nắm giữ bất kì cái gì không
trở thành tù túng. Không cái gì giới hạn được người đó. Khi người ta sống với
nhiều nhận biết thế, thế thì người ta đang sống trong trạng thái từ bỏ.
Hàng nghìn người đã được khai
tâm mang tính chất sannyas với Phật. Phật thường nói với họ, “Lưu tâm tới điều
các ông đang làm. Các ông đang vứt bỏ tất cả những cái các ông có, còn ta không
cho các ông cái gì thế vào chỗ của nó.” Nhiều lần, nhiều người đã lánh xa khỏi
Phật bởi vì phát biểu như vậy đi ra ngoài mọi logic. Người ta sẵn sàng từ bỏ chỉ
nếu cái gì đó hơn sẽ được đạt tới.
Mọi người hay hỏi Phật, “Thôi
được, chúng tôi sẽ từ bỏ gia đình mình, nhưng chúng tôi sẽ đạt được cái gì?
Chúng tôi sẽ từ bỏ tiền bạc và của cải, nhưng chúng tôi sẽ đạt tới cái gì?
Chúng tôi sẵn sàng vứt bỏ mọi thứ, nhưng cái gì sẽ là phần thưởng? Chúng tôi sẽ
đưa toàn thể các kiếp sống của mình vào thiền, vào yoga, vào khổ hạnh, nhưng kết
quả, cái thu được sẽ là cái gì?”
Phật sẽ nói, “Chừng nào các ông
còn hỏi để thu được, thì tốt hơn cả các ông ở lại nơi các ông đang ở. Bởi vì
chính tâm trí đang hỏi cái thu lại, đang tìm cái thu lại, đó là thế giới. Các
ông thậm chí đã tới đây với ta để tìm kiếm thu được gì đó.”
Nhưng nếu những người này là
cái gọi là thánh nhân của bạn, họ sẽ nói, “Điều này là đúng. Cái gì có đó trong
những người đàn bà trần tục ở đây? Ở đây, mọi thứ đều nhất thời. Nếu các ông muốn
có đàn bà thực, họ đang ở trên trời kia - nhưng để có được họ các ông sẽ phải từ
bỏ đàn bà ở đây. Thức ăn mà các ông đang tận hưởng ở đây chẳng là cái gì cả; nó
chỉ là thú vui ngon miệng bình thường. Ngày mai các ông sẽ lại đói. Nếu các ông
muốn tận hưởng món ngon thực, có cây kalpavrikshas, cây thoả ước, trên trời ấy;
các ông có thể ngồi dưới chúng. Và sao các ông níu bám lấy của cải bình thường,
chẳng là gì ngoài đống rác rưởi? Nếu các ông muốn đạt tới của cải thực, thế thì
kiếm đức hạnh đi. Và sao các ông xây nhà không cần thiết ở đây thế? Đây toàn là
lâu đài cát thôi. Nếu các ông muốn có nhà bê tông xi măng vĩnh cửu, chúng ở
trên trời kia. Một khi một cái gì đó được xây dựng ở đó thì nó không bao giờ bị
phá huỷ đi.”
Tất cả những điều mà cái gọi là
các sư và thánh nhân thông thường đang nói tới đó đều không phải là ngôn ngữ của
giải thoát tâm linh, nó là ngôn ngữ của tham lam. Nó là cùng ngôn ngữ của trần
thế. Việc tính toán và toán học này là hoàn toàn trần tục - và đây là lí do tại
sao nó hấp dẫn thế.
Nhưng khi ai đó tới Phật để hỏi
điều gì đó cùng với cùng những dòng này, ông ấy sẽ hỏi - và bạn cũng sẽ nghĩ
ông ấy đang hỏi điều đúng - “Nếu người ta hành thiền, kỉ luật tâm linh và tôn
trọng tất cả mọi loại khổ hạnh trong cuộc sống của mình, cái gì sẽ tới từ điều
đó? Người ta sẽ đạt tới cái gì với moksha, giải thoát?”
Phật sẽ nói, “Thậm chí đừng nêu
ra câu hỏi về việc đạt tới cái gì trong moksha, bởi vì khoảnh khắc ông hỏi về đạt
tới, ông đã trượt lùi vào tâm trí, vào tù túng của thế gian này. Khoảnh khắc
ông hỏi về thu được gì đó, chính sự tập trung của ông đã đi vào thế gian rồi.
Nó không còn có quan hệ nào với moksha. Tới ta để hỏi về moksha chỉ vào ngày
ông sẵn sàng vứt bỏ tất cả và chẳng thu lại cái gì. Cái ngày ông sẵn sàng buông
bỏ và ông không quan tâm tới việc thu lại cái gì, ông sẽ đạt tới moksha. Và đừng
hỏi ta moksha sẽ giống cái gì - ông kinh nghiệm nó và tìm ra cho chính mình.”
Nhiều người lảng đi. Họ sẽ tới,
nhưng thế rồi họ sẽ lại bỏ đi. Con người này dường như ở bên ngoài tất cả mọi
hiểu biết. Mọi người sẽ nói, “Cũng tốt nếu không có gì hết cả, nhưng ít nhất phải
có phúc lạc ở đó chứ.” Phật sẽ nói, “Ngay cả phúc lạc cũng không có ở đó. Mọi
điều ta có thể nói là sẽ không có khổ.” Toàn thể ngôn ngữ của Phật là ngôn ngữ
bên ngoài thế giới này. Có lẽ không người nào khác trên Trái Đất đã từng dùng
ngôn ngữ phi thế gian như vậy. Đây là lí do tại sao ngay cả trong đất nước tôn
giáo, vĩ đại này của chúng ta, Phật không thể bắt rễ được. Đất nước này là bao
la và mang tính tôn giáo và nó đã như vậy trong hàng nghìn năm - nhưng ngôn ngữ
của cái gọi là tính tôn giáo là hoàn toàn trần tục. Một người như Phật không thể
bắt rễ được; ngài không thể tìm thấy mảnh đất tốt ở đây bởi vì ông ấy không thể
nói ngôn ngữ của tham lam.
Phật đã có khả năng bắt rễ ở
Trung Quốc và Nhật Bản không phải bởi vì người ở đó đã có khả năng hiểu được
ngôn ngữ của ông ấy, mà bởi vì sau đó các đệ tử của ông ấy đã hiểu, qua kinh
nghiệm, không dùng ngôn ngữ của Phật chút nào. Họ bắt đầu nói cùng ngôn ngữ của
tham.
Phật đã giành được mảnh đất ở
Trung Quốc và ở Nhật Bản bởi vì các đệ tử đó đã thôi nói ngôn ngữ của Phật. Họ
lại bắt đầu nói ngôn ngữ của thế gian. Họ sẽ nói, “Các ông sẽ biết hạnh phúc,
phúc lạc, hạnh phúc lớn lao” - và các ông sẽ đạt tới cái này và các ông sẽ đạt
tới cái nọ. Họ dùng ngôn ngữ của thành đạt, và chỉ thế thì giáo huấn của Phật mới
có được chỗ đứng chân ở Trung Quốc, Nhật Bản, Miến điện và Sri Lanka; thực tế,
trong toàn thể châu Á bên ngoài Ấn Độ. Nhưng đấy không phải là chân của Phật -
cái thu được chỗ đứng chân không phải là chân của phật.
Phật thường nói, “Phúc lạc sao?
Không, không phúc lạc đâu, nhưng mà hết khổ thì có đấy.” Mọi người sẽ hỏi ông ấy,
“Gạt phúc lạc sang bên, nhưng ít nhất linh hồn sẽ có đó chứ? Sự tồn tại của tôi
ít nhất cũng có đó chứ? Ít nhất đảm bảo cho chúng tôi về điều đó.” Phật sẽ nói,
“Các ông bệnh rồi - làm sao các ông có thể sống sót ở đó được? Các ông sẽ biến
mất, các ông sẽ thôi hiện hữu. Và cái sẽ còn lại không phải là các ông.” Điều
này ở bên ngoài hiểu biết của mọi người.
Nhưng Phật đang nói chân lí đấy.
Ông ấy đang nói rằng tham của con người là khổng lồ tới mức con người thậm chí
đồng ý và nói, “Được rồi, chẳng cái gì sẽ được đạt tới, chẳng sao cả - nhưng ít
nhất tôi phải vẫn còn chứ. Nếu tôi có đó, cái gì đó này khác có thể được xoay xở.
Nhưng nếu bản thân tôi không thể có đó... thế thì toàn thể cuộc truy tìm tâm
linh này chỉ là việc phí thời gian.”
Cuộc truy tìm tâm linh có vẻ có
nghĩa với bạn chỉ nếu nó phục vụ cho mục đích nào đó, nếu nó đem lại cái gì đó
trong tay bạn, kết quả nào đó, cái thu được nào đó. Ngôn ngữ của thu được là
ngôn ngữ của tham. Khi ngôn ngữ của thu được còn ngự trị, tham cũng ngự trị. Và
chừng nào tham còn là động cơ của bạn, khổ của bạn sẽ còn tiếp tục. Tại sao? -
bởi vì bạn đã đi theo hướng tuyệt đối sai, nơi không có cội nguồn của cuộc sống
thực. Cội nguồn của cuộc sống thực không ở đâu đó khác mà bạn phải nắm giữ nó
và chộp bắt nó; nó đã ở bên trong bạn rồi, ở đây và bây giờ.
Nếu bạn có thể không bận bịu, nếu
bạn có thể buông bỏ mọi thứ, thả ra mọi nắm giữ của bạn, cánh cửa sẽ mở ra ngay
bây giờ. Điều bạn liên tục bỏ lỡ qua tất cả mọi cố gắng của bạn sẽ được biết tới
ngay bây giờ. Nó đã ở đó rồi, hiện diện bên trong bạn, ở đây và bây giờ - nhưng
bạn bận rộn thế để cố tìm ra nó ở bên ngoài.
Tôi đã nghe nói rằng vào một
đêm tối trời, một người bị ngã khỏi mỏm đá. Lúc đó trời tối như mực và có vực
thẳm hun hút phía dưới. Anh ta tóm được một chiếc rễ cây và treo lơ lửng theo
nó. Anh ta gào lên, anh ta khóc lóc, anh ta kêu la xin giúp đỡ, nhưng đó là mảnh
đất hoang vắng không người. Lúc đó là đêm rất lạnh lẽo và người này không thể
nào hình dung được rằng mình có thể sống sót. Anh ta cảm thấy dường như anh ta
đang mất dần sức bám vào chiếc rễ, nó đang tuột ra khỏi tay anh ta bởi vì chúng
đang bị lạnh đóng băng lại. Người này liên tục kêu gào và la hét xin giúp đỡ bằng
tất cả sức mạnh của mình. Anh ta ở đích xác trong cùng tình huống như tất cả
chúng ta đang ở - cố nắm giữ trong khi mọi thứ đang tuột khỏi tay chúng ta.
Nhưng với anh ta nguy hiểm chắc chắn là sắp chết đến nơi, định mệnh đã điểm.
Chúng ta có thể không nghĩ tới cái chết của riêng mình, nhưng với anh ta cái chết
của anh ta ở ngay đó rồi, phía dưới anh ta. Khoảnh khắc cái rễ bị tuột khỏi việc
nắm giữ của anh ta thì anh ta sẽ được kết thúc.
Nhưng anh ta có thể xoay xở nắm
giữ được bao lâu nữa? Sau rốt, ngay cả việc nắm giữ của anh ta rồi cũng sẽ bị mệt
mỏi. Và điều đáng quan tâm là ở chỗ bạn càng nắm giữ mạnh bao nhiêu, bạn sẽ
càng mệt sớm hơn bấy nhiêu. Bởi vì anh ta đang nắm giữ chặt thế, ngón tay anh
ta bắt đầu bị lỏng ra mặc cho tất cả mọi mong ước của anh ta là ngược lại.
Chung cuộc, chiếc rễ tuột khỏi tay anh ta.
Nhưng thế rồi một tiếng cười ầm
vang vọng tới trong thung lũng... không có vực thẳm dưới người đó, anh ta ngã
trên đất bằng. Bởi vì bóng tối nên anh ta không thể thấy được gì, anh ta đang
trong kinh hãi. Nhưng đất ở ngay dưới anh ta, nó không phải là vực thẳm. Và đau
khổ mà anh đã trải qua toàn thể thời gian chỉ bởi vì việc nắm giữ của anh ta.
Chẳng có vực thẳm nào cả. Thung lũng đã tràn đầy tiếng gào thét và la hét do
kinh hãi bây giờ vọng lại bằng tiếng cười.
Người đó cười chính mình.
Bất kì ai đã cố vứt bỏ điên
khùng của việc nắm giữ đều cười, bởi vì họ thấy rằng cái họ kinh sợ nhiều thế
đơn giản không tồn tại. Cái chết mà bạn kinh sợ thế chỉ dường như có đó thôi bởi
vì việc nắm giữ riêng của bạn. Khoảnh khắc bạn buông bỏ, cái chết không tồn tại
thêm nữa. Đau khổ bạn đang trải nghiệm tồn tại chỉ trong việc nắm giữ của bạn,
và nó được sinh ra từ việc nắm giữ của bạn. Nó biến mất vào cùng khoảnh khắc mà
việc nắm giữ biến mất. Và bạn sợ bởi vì những suy đoán lung tung của bạn về nơi
bạn sẽ chất dứt trong bóng tối, nhưng đó đích xác là nơi bản thể bên trong của
bạn hiện hữu. Mọi nắm giữ đều qua đi, bạn rơi vào trong bản thân bạn.
Upanishad này nói:
Bên ngoài cõi trời sáng lên thực
tại tối thượng, cái ở sâu bên trong hang của tâm. Điều này có thể được kinh
nghiệm chỉ bởi người tìm kiếm trung thực.
Bên ngoài cõi trời sao? Điều đó
có vẻ kì lạ... “bên ngoài cõi trời, sâu bên trong hang của tâm.” Mối nối giữa
trời và tâm là gì? Trời ở đâu đó, tâm bên trong nhất ở đâu đó khác. Nhưng điều
đó được nói đúng, bởi vì bên ngoài cõi trời nghĩa là bên ngoài tham. Ở đây, trời
nghĩa là tham. Trời là biểu tượng sâu sắc nhất cho tham, trời là hiện thân của
tham. Trời là ham muốn tối thượng của người tham. Người đã nói về trời không phải
là người tôn giáo. Người tôn giáo thực chỉ nói về tự do tối thượng, niết bàn,
moksha. Nói về trời chẳng là gì ngoài việc mở rộng của bản thân tâm trí trần tục
này: bạn bận rộn cố đem tham của bạn thậm chí ra ngoài cái chết. Nếu thân thể
chết, liên tục để nó chết, nhưng ít nhất tham nên sống còn, ít nhất ham muốn của
bạn nên sống còn, không gian nào đó cho sự hoàn thành ham muốn của bạn nên sống
còn. Trời là ham muốn được tích luỹ của bạn, tổng của những ao ước của bạn.
Cho nên hiền nhân này là đúng
khi ông ấy nói “bên ngoài cõi trời.” Người mà chưa vươn lên trên và ra ngoài mạng
lưới của tham, của ham muốn và đam mê, sẽ không có khả năng đi vào hang của
tâm. Thực tế, trời và địa ngục chỉ là những chướng ngại cho việc đi vào tâm.
Có một người đàn bà Sufi, nhà
huyền môn có tên Rabiya. Một hôm Rabiya chạy qua một làng vừa xách bình nước
trong tay này và cầm bó đuốc đang cháy ở tay kia. Mọi người nghĩ, “Chắc Rabiya
phát điên mất?”
Họ bao giờ cũng nghi ngờ về bà ấy
bởi vì bất kì ai đang trong yêu với điều thiêng liêng, bao giờ cũng bị người
khác coi là điên. Đây là việc tự bảo vệ của họ, bởi vì nếu Rabiya không điên thế
thì họ sẽ phải hoài nghi về sự lành mạnh riêng của họ. Cho nên đám đông tự bảo
vệ họ bằng cách nói rằng Rabiya bị điên:
“Điều thiêng liêng này là cái gì mà bà ấy đang
nói tới vậy?” Vâng, điều thiêng liêng là ở trong đền thờ, cho nên mỗi tuần một
lần người ta phải đi tới và cầu nguyện trong đó. Vâng, điều thiêng liêng là ở
trong đền thờ, và có thủ tục chính thức mà người ta phải hoàn thành. Vâng, nó
là ở trong nhà thờ, nhưng nó là Thượng đế - Chủ nhật thôi. Vào ngày đó bạn tới
nhà thờ cũng như bạn làm nhiều điều khác đã phải đợi cho tới ngày bạn nghỉ.
Nhưng người nói về Thượng đế trong phần còn lại của tuần thì là điên. “Bà
Rabiya này lảm nhảm về Thượng đế suốt cả ngày - bà ấy phải điên rồi!”
Nhưng vào ngày đó mọi người đã
trở nên bị thuyết phục rằng bà ấy đã điên. Bãi chợ đầy người, và Rabiya này
liên tục chạy quanh cầm bình nước một tay và bó đuốc cháy ở tay kia. Mọi người
nói với bà ấy, “Bà Rabiya ơi, mãi cho tới giờ chúng tôi chỉ nghi ngờ rằng bà
điên, nhưng bây giờ chúng tôi phải nói điều đó một cách công khai - bà đã điên
mất rồi! Bà đang làm gì thế?”
Rabiya nói, “Tôi đang mang nước
này để cho tôi có thể làm chìm ngập địa ngục của các ông bà. Và tôi mang bó đuốc
cháy này để cho tôi có thể đưa lửa vào thiên đường của các ông bà. Chính bởi vì
thiên đường của các ông bà mà các ông bà đã bỏ lỡ bản thân mình.”
Ắt hẳn chẳng có ai ở đám đông
bãi chợ đó hiểu được ý nghĩa của Rabiya.
Có một sự vụ tương tự trong cuộc
đời của Jesus. Ông ấy đi qua một làng và thấy vài sư đang ngồi quanh. Họ tất cả
đều xanh xao và run rẩy với sợ hãi. Jesus hỏi họ, “Chuyện gì đã xảy ra cho các
ông vậy? Thảm hoạ nào đã rơi lên đầu các ông thế? Cái gì sai, cái gì ác đã xuất
hiện mà các ông đã thành tái xanh và run rẩy như chiếc lá khô vậy? Chuyện gì xảy
ra nào?”
Họ trả lời, “Chúng tôi sợ địa
ngục. Chúng tôi là tội nhân, chúng tôi đã phạm phải nhiều tội lỗi và bây giờ
chúng tôi sẽ phải xuống địa ngục.” Người trong làng nói, “Đây là những người rất
tôn giáo.”
Những người đã tái nhợt này, những
người đã run rẩy trong sợ hãi, đây là những người rất tôn giáo đấy...
Khi Jesus đi thêm qua làng tới
cuối làng, ông ấy bắt gặp một số người nữa đang ngồi đó. Họ cũng khô héo, gần
như tro tàn bởi vì sự từ bỏ của họ và đủ mọi loại khổ hạnh. Họ đã trở thành những
bộ xương khô, bộ xương trần trụi. Jesus cũng hỏi họ, “Thảm hoạ nào đã rơi xuống
các ông thế? Cái gì đã đi sai với các ông?”
Họ trả lời, “Chúng tôi khao
khát thiên đường. Chúng tôi chịu khổ bởi vì chúng tôi muốn có thiên đường.
Chúng tôi sẵn sàng làm bất kì cái gì để đi lên thiên đường.”
Jesus phân vân dữ lắm. Ông ấy
nói với các đệ tử của mình, “Điều đó thực là kì quá! Dường như có mối quan hệ
nào đó giữa thiên đường và địa ngục. Người tham thiên đường đã thành khô héo và
xanh xao và đang run rẩy, còn người sợ địa ngục cũng thành xanh xao và run lẩy
bẩy. Trên bề mặt họ trông như nhau, chừng nào họ còn chưa để lộ các lí do của mình.
Nhưng dường như có mối quan hệ nào đó giữa hai loại người này.”
Có mối quan hệ đấy: thiên đường
và địa ngục là hai mặt của cùng một đồng tiền. Tham và sợ là hai mặt của cùng một
đồng tiền. Người tham không bao giờ có thể bạo dạn được, người sợ không bao giờ
có thể vô ham muốn được. Sợ chính là dạng tiêu cực của tham và tham là dạng
tích cực của sợ. Sợ và tham là hai đầu của cùng một hiện tượng.
Hiền nhân này nói đúng “bên
ngoài cõi trời.” Ông ấy không nhắc tới địa ngục. Cái mà ở bên ngoài cõi trời nhất
định cũng ở bên ngoài địa ngục, cho nên ông ấy cố ý không nhắc tới nó. Người ta
sẽ không bị bận tâm nếu người ta được bảo cho là ở bên ngoài địa ngục, nhưng nếu
người ta được bảo cho là ở bên ngoài thiên đường người đó sẽ rất lo lắng. Khi
có liên quan tới địa ngục, mọi người đều muốn đi ra ngoài nó, không có rắc rối
gì về điều đó cả.
Tất cả các bạn đều muốn thực tại
tối thượng là ở bên ngoài đau đớn và khổ sở, nhưng bạn không muốn nó ở bên
ngoài vui thú và hạnh phúc. Bạn sẽ sẵn sàng đồng ý vứt bỏ mọi đau khổ của mình
nếu ai đó đảm bảo rằng bạn sẽ đạt tới điều thiêng liêng bằng việc vứt bỏ đó. Bạn
sẽ nói rằng bạn bao giờ cũng muốn làm điều đó: “Chính là đau khổ không muốn rời
bỏ tôi!” Nhưng nếu ai đó yêu cầu bạn vứt bỏ tất cả mọi vui thú, bạn sẽ nói, “Điều
đó hơi khó. Làm sao có thể vứt bỏ chúng ngay chỗ đầu tiên? Vui thú lẩn tránh
tôi đấy chứ! Tôi cố bắt lấy chúng còn chúng liên tục trượt đi. Không, tôi không
thể nào vứt bỏ vui thú được, nhưng khổ sở và đau đớn tôi sẵn sàng vứt bỏ.”
Nhưng hiền nhân này nói “bên
ngoài cõi trời” - bên ngoài ham muốn về vui thú. Người đã không vứt bỏ ham muốn
vui thú sẽ liên tục rơi vào đau khổ. Đau khổ là kết quả của ham muốn vui thú.
Người đã không vứt bỏ ham muốn vui thú sẽ không có khả năng vứt bỏ đau khổ.
Nhưng tất cả các bạn đều muốn vứt bỏ đau khổ - mặc dầu nó chẳng bao giờ được vứt
bỏ cả bởi vì bạn không muốn buông bỏ vui thú. Và nếu bạn không sẵn sàng vứt bỏ
vui thú, đau khổ của bạn sẽ tiếp tục. Lí do là ở chỗ bạn đang ôm giữ vui thú,
cho nên cùng với vui thú cái bóng của đau khổ sẽ tiếp tục theo bạn. Chỉ người
có khả năng buông bỏ vui thú mới có thể buông bỏ đau khổ được, bởi vì thế thì
cơ sở cho đau khổ sẽ không còn, không có mảnh đất cho khổ. Khi vui thú bị vứt bỏ,
đau khổ cũng bị vứt bỏ.
Đây là lí do tại sao hiền nhân
này nói, “Bên ngoài cõi trời, sâu bên trong hang của tâm, chói sáng lên thực tại
tối thượng.” Ông ấy gọi tâm là “cõi của thực tại tối thượng.”
... cái ở sâu bên trong hang của
tâm. Điều này có thể được kinh nghiệm chỉ bởi người tìm kiếm trung thực.
Cố hiểu điều được ngụ ý bởi
“hang của tâm.” Nói chung, bạn không nhận biết về tâm. Đó là lí do tại sao nó lại
được gọi là hang - bởi vì nó bị giấu kín. Bạn không biết tâm bạn. Vâng, bạn biết
rằng tâm là nơi có nhịp đập, nơi có hệ thống tim mạch của bạn, nhưng đó là trái
tim vật lí, không phải là hang của tâm đâu. Nếu bạn hỏi nhà khoa học ông ấy có
thể mổ lồng ngực bạn ra và chỉ cho bạn rằng nó là hệ thống bơm, cách bố trí để
giữ cho máu bạn chảy. Nhà khoa học sẽ nói, “Chẳng có gì giống như hang của tâm
trong thân thể bạn, đó tất cả đều là tưởng tượng của nhà thơ. Làm gì có nó
đâu.” Như bạn bây giờ, nếu bạn chỉ ra trái tim mình ở đâu, nó chẳng là gì ngoài
hệ thống tim mạch. Tâm bị giấu kín rất nhiều đằng sau điều này, trong chiều sâu
của bạn.
Tâm là cái hang: bởi cái hang
được ngụ ý rằng nó là bí mật, nó bị giấu kín. Chính nghĩa của từ hang là ở chỗ
bạn chỉ trở nên quen thuộc với cái bên ngoài, phần bên ngoài; bạn không đi tới
biết về cái bên trong. Bạn tới thăm cái bên ngoài, bạn đi tới biết về những bức
tường bên ngoài của nó, nhưng phần bên trong, tâm, vẫn còn không được biết tới.
Hệ thống tim mạch là bức tường bên ngoài mà nhà khoa học có thể mở ra và phân
tích.
Nhưng cố hiểu nó theo cách này:
nếu bạn giật đổ mọi bức tường của ngôi nhà, liệu bạn sẽ có khả năng tìm thấy
ngôi nhà không? Nếu các bức tường bị sụp đổ, ngôi nhà sẽ biến mất dưới bầu trời
xanh. Nếu bạn thực sự muốn tìm kiếm ngôi nhà bạn sẽ phải làm điều đó với các bức
tường nguyên si. Đây là chỗ nhà khoa học đi sai. Ông ấy nói, “Đem nó lại tôi và
tôi sẽ mổ xẻ, thực hiện giải phẫu, rồi nói cho anh rằng không có hang động tâm
nào ở đó cả.” Ông ấy nói, “Tôi sẽ mổ tâm ra và chỉ cho anh rằng không có tâm
trí trong nó. Có não, nhưng không có tâm trí.” Tâm trí cũng bị giấu kín trong
hang bên trong: não là bức tường còn tâm trí là không gian bên trong.
Hệ tim mạch, với cái bơm của nó
và mọi thứ, cũng là bức tường bên ngoài, và tâm là không gian bên trong. Bằng
việc mổ xẻ, người ta chỉ tìm thấy những bức tường. Không gian bên trong, cái trống
rỗng bên trong, biến mất vào trong cái trống rỗng bao la. Nếu bạn đi vào đó bên
ngoài vật lí, bạn sẽ tìm thấy tâm. Do đó nhà khoa học không bao giờ có thể tìm
thấy tâm, chỉ thiền nhân mới có thể làm được điều đó. Thiền nhân không mổ xẻ
tâm, thiền nhân đi vào trong nó mà không mổ xẻ nó. Ông ấy không giật đổ các bức
tường, ông ấy cho phép các bức tường có đó và đi vào không gian trống rỗng mà
những bức tường đó chứa đựng.
Có những con đường đi vào trong
không gian trống rỗng đó. Có lẽ dùng từ con đường là không hay, bởi vì điều đó
sẽ cho cảm giác rằng cũng có cửa ra vào. Nhưng nếu có cửa ra vào, thế thì nó
không còn là hang nữa, chỗ được giấu kín. Nhưng có những kênh đi vào mà không cần
tới cửa. Chẳng hạn, để tia X đi vào thân thể bạn chẳng cần cửa gì cả. Nó đi vào
thân thể bạn mà không tạo ra lỗ hổng nào, không tạo ra cánh cửa nào trên bạn.
Khi mà tia X còn chưa được phát hiện ra, chúng ta chẳng thể nào đồng ý được rằng
cái gì đó có thể đi vào thân thể mà không tạo ra lỗ hổng trong nó. Con dao có
thể đi vào chúng ta, nhưng thế thì nó sẽ cắt ra một lỗ. Bây giờ chúng ta biết rằng
tia X có thể đi vào thân thể mà không cắt ra lỗ hổng. Không cần tạo lỗ hổng nào
cả, bạn thậm chí không cảm thấy nó khi tia X đi vào thân thể bạn. Chỉ khi chúng
ta thấy tấm phim chúng ta mới đi tới biết rằng tia này đã đi vào. Nó tạo ra tấm
ảnh của phần bên trong và bạn chẳng cảm thấy gì hết cả. Nếu ai đó hỏi bạn về nó
bạn sẽ nói rằng bạn chẳng cảm thấy gì cả.
Tia X là thứ rất vật chất. Thiền
là tên cho tia sáng có thể đi vào bản thể bạn mà không gây tác động vật lí ở
đâu cả - không cần phải phá cửa mở ra, không cần phá khoá, không cần chìa khoá.
Những bức tường của trái tim vật lí thậm chí chẳng bao giờ để ý tới khi tia
sáng của thiền đã đi vào nó.
Thiền là tên cho tia sáng đi
vào cái hang bên trong. Cái hang bên trong này cũng được gọi là brahmalok, cõi
của thực tại tối thượng, bởi vì việc đi vào cái hang bên trong này, điều bạn chạm
trán ở đó, kinh nghiệm mà bạn gặp gỡ ở đó, là cùng kinh nghiệm được giấu kín
trong tâm của tâm của toàn thể sự tồn tại. Dường như là cái được giấu kín bên
trong tâm tí hon của một cá nhân là một với cái được giấu kín bên trong tâm của
sự tồn tại bao la này. Cái được giấu kín bên trong từng bộ não cũng chính là
cái được giấu kín bên trong bộ não vũ trụ bao la.
Con người giống như nguyên tử
nhỏ, tí hon, bản sao sống của cái mênh mông bao la này. Đây là lí do tại sao lời
kinh này lại gọi nó là cả hai “hang của tâm” và “cõi của thực tại tối thượng.” Ở
mức độ nguyên tử chúng ta sẽ đi tới biết nó bên trong bản thân mình, và theo
nghĩa vũ trụ chúng ta cũng kinh nghiệm nó trong vũ trụ. Đi vào trong tâm riêng
của người ta là bước đầu tiên đi tới việc đi vào tâm của cái toàn thể.
Điều đó gần giống như là khi bạn
dạy đứa trẻ tập bơi ở chỗ nước nông của dòng sông nơi không sợ chết đuối. Nếu
nó định học bơi ngang qua sông, chúng ta dạy nó trước hết bơi ở chỗ nước nông.
Nói cách khác, chúng ta dạy nó bơi ở chỗ không có nhu cầu bơi, bởi vì nếu như
có nhu cầu bơi thế thì sẽ có nguy cơ. Cho nên chúng ta dạy việc bơi ở chỗ mà việc
bơi là không cần thiết, ở chỗ nước nông. Một khi nó đã học bơi rồi thế thì nó
có thể bơi ở chỗ nước sâu bất kì, bởi vì việc bơi không có quan hệ gì tới độ
sâu. Nó là nghệ thuật: một khi bạn đã học rồi, bạn có thể bơi được ở bất kì chỗ
nào. Một khi bạn đã học bơi rồi, thế thì chẳng thành vấn đề liệu bạn bơi trong
dòng sông hay con lạch hay ở đâu đó khác - bạn có thể bơi ở bất kì đâu. Thế thì
chiều sâu không phải là vấn đề, rằng “tôi có thể bơi chỉ ở chỗ nước sâu hàng
trăm mét và không bơi được ở chỗ nước sâu hàng nghìn mét.” Chiều sâu không phải
là chướng ngại.
Bơi là nghệ thuật. Thiền nữa
cũng là nghệ thuật. Với cái hang này của tâm, nó cũng giống như học bơi gần bờ
sông vậy. Sau đó sẽ không khó khăn gì để bơi trong đại dương của cái toàn thể.
Tâm là bờ tí hon của cái toàn thể; nó là bãi cát nơi việc bơi có thể được học
mà không có nguy hiểm gì. Một khi người ta đã biết tới nó, thế thì điều đó cũng
giống như việc bơi: một khi ai đó đã học cách bơi người đó sẽ không bao giờ
quên việc đó. Bạn đã bao giờ gặp người nào quên cách bơi chưa? Những điều khác
có thể bị quên, nhưng không ai có thể quên được cách bơi. Bây giờ điều này rất
thú vị. Mọi sự có khác biệt không khi có liên quan tới kí ức về cách bơi? Khi mọi
thứ khác đã bị quên đi rồi, mọi thứ khác mà bạn đã được dạy ở độ năm tuổi có thể
đã mất khỏi kí ức của bạn, nhưng kí ức về việc bơi vẫn còn lại. Cho dù ai đó đã
không bơi trong ba mươi năm qua, người đó có thể thậm chí đã không ở gần nước -
nhưng nếu bạn ném người đó vào nước người đó sẽ bắt đầu bơi. Và không phải là
vào khoảnh khắc đó người đó sẽ phải nhớ tới cách bơi đâu, không - người đó sẽ
đơn giản bắt đầu bơi.
Điều gì đang xảy ra ở đây? Nếu
việc bơi mà cũng là vấn đề của kí ức như tất cả các kí ức khác, thì nó cũng phải
phai mờ đi chứ. Khi tất cả các điều khác đã phai mờ đi khỏi kí ức nếu chúng
không được dùng tới, việc bơi cũng phải phai mờ đi chứ - nhưng kí ức về việc
bơi không biến mất. Nó ngụ ý một điều duy nhất: rằng việc bơi thực tế không phải
là điều được học. Bất kì cái gì được học cũng đều sẽ bị quên đi, có thể bị quên
đi. Nhưng điều này sẽ có vẻ có chút ít kì lạ bởi vì, sau rốt, chúng ta quả có học
bơi. Có lẽ bạn có thể hiểu điều đó theo cách này: khi chúng ta học bơi, có thể
chúng ta không thực học bơi đâu, điều chúng ta học là lòng dũng cảm để bơi
thôi.
Khi bạn ném một người vào nước
trong ngay chính lần đầu tiên, người đó sẽ vung tay chân loạn xạ xung quanh một
cách ngẫu nhiên chút ít, nhưng điều ngẫu nhiên đó là vì sợ bơi. Sau vài chuyển
động ngẫu nhiên người đó sẽ nhận ra rằng mình không chìm và rằng chẳng có lí do
gì để sợ cả. Sợ của người đó sẽ biến mất và người đó sẽ bắt đầu dùng tay và
chân mình theo cách có phối hợp hơn, và đây là việc bơi. Dường như là người đó
đã biết cách bơi, nhưng chỉ bởi vì sợ chìm mà người đó không thể thấy thoải mái
về nó. Dường như người đó đã biết cách bơi và điều đó chỉ cần được đưa vào thực
hành. Cho nên có lẽ chúng ta không học bơi, chúng ta chỉ nhớ lại nó.
Tôi đang nói với bạn về điều
này như một ví dụ bởi vì đích xác cùng điều đó xảy ra với thiền. Nó đích xác là
cùng một điều như điều xảy ra trong hang của tâm. Một khi bạn nắm được mẹo về
thiền, không có cách nào quên được nó. Nếu bạn đã biết cho dù chỉ một tia sáng
của thiền, cho dù một thoáng nhìn nhỏ bé thôi, bạn sẽ không bao giờ có thể quên
được nó, không có cách nào cả. Bạn sẽ không còn là cùng con người mà bạn đã là
vậy trước khi kinh nghiệm thiền. Kinh nghiệm này bây giờ sẽ trở thành chính bản
thể bạn. Và điều này nữa cũng là vậy bởi vì có lẽ thiền giống như việc nhớ lại
hơn là học.
Ở mức độ sâu sắc nào đó, có lẽ
chúng ta đã biết thiền rồi. Chỉ cần chút ít thực hành để cho điều chúng ta đã
biết có thể trở thành được biết theo cách có ý thức. Điều đã bị giấu kín ở đó,
có lẽ với chút ít việc gạt bụi đi là làm lộ nó ra, trở thành mới.
Có lẽ nó cũng giống như gương
đã đọng bụi: chỉ chùi nó đi thôi và gương sẽ bắt đầu phản xạ. Khi gương bị phủ
đầy bụi, thế nữa nó cũng vẫn là gương - bụi không phá huỷ được gương - nhưng bởi
vì bụi mà sự phản chiếu cho người không thể thấy được trong gương. Khi bụi bị gạt
bỏ đi, mặc dầu gương vẫn là gương trước đây cũng như nó là sau đó, bây giờ có
thể thấy được sự phản chiếu trong nó.
Thiền cũng là quá trình qua đó
chúng ta loại bỏ đi bụi bặm đã đọng lại bên trong và gương trở nên trong sạch...
và việc bơi được hiển lộ ra. Một khi nó được hiển lộ ra rồi, nó trở nên trong
trẻo; nghệ thuật này đã được thu lại, được học lại. Thế thì người ta có thể đi
vào ngay cả đại dương vĩ đại nhất. Một khi chúng ta đã phục hồi gương, chúng ta
có thể thấy trong nó không chỉ sự phản chiếu riêng của mình, mà còn cả sự phản
chiếu của cái toàn thể. Do đó hiền nhân này cũng có thể gọi nó là brahmalok,
cõi của thực tại tối thượng. Và ông ấy nói rằng thực tại tối thượng này chói
sáng bên trong hang của tâm. Dường như là ngọn đèn cháy sáng ở đó, dường như là
hang bị đóng kín khắp xung quanh: bên ngoài nó có bóng tối khắp xung quanh và
chúng ta đang sống trong bóng tối đó, nhưng bên trong hang ngọn đèn đang cháy
sáng. Nếu chúng ta đi vào bên trong hang chúng ta sẽ ngạc nhiên rằng ngọn đèn
này bao giờ cũng cháy sáng ở đó; ngọn lửa này, ánh sáng này, chưa bao giờ bị tắt.
Chính bởi vì ánh sáng này đang
cháy trong hang bên trong mà những người Zoroastrians đã chọn giữ ngọn lửa thường
xuyên cháy trong đền của họ như biểu tượng. Họ đã quên mất tại sao họ đốt lửa
suốt cả ngày. Điều ngọn lửa đó không được tắt và phải được giữ cho cháy suốt mọi
thời đại chỉ là biểu tượng thôi. Zarathustra đã kinh nghiệm ánh sáng cháy trong
hang bên trong đó. Ông ấy đã thấy rằng trong cái hang bên trong, ánh sáng tồn tại
- không có dầu, không có nhiên liệu nào; ánh sáng vĩnh hằng, không bao giờ tắt.
Nó là bản tính cố hữu của cuộc sống, nó là bản thân cuộc sống. Các tín đồ của
Zarathustra đã đặt lửa vào trong đền thờ như biểu tượng về điều Zarathustra đã
kinh nghiệm. Hành động đặt ánh sáng vào đó là hay, mang tính biểu tượng. Nó là
cách diễn đạt nghệ thuật.
Nhưng tất cả những kinh nghiệm
của bạn về chân lí đều bị thất lạc trong chủ nghĩa tượng trưng. Bây giờ họ liên
tục giữ ngọn lửa cháy, chiếc đèn thắp sáng, và đền thờ của họ đã trở thành
agiyari, lò sưởi lửa. Họ nói, “Giữ cho ngọn lửa cháy cả ngày, đảm bảo nó không
bị tắt.” Họ rất cố gắng để làm mọi điều này, nhưng ngọn lửa bên trong mà ngọn lửa
này chỉ là lời nhắc nhở thì đã hoàn toàn bị quên lãng rồi. Ngọn lửa đền thờ của
họ cần được nhóm lên, cần được đốt lên, và ngọn lửa cần việc nhóm lên thì không
phải là ngọn lửa vĩnh hằng. Ngọn lửa của họ cần được chăm sóc suốt cả ngày, và
cái mà cần được chăm sóc thì không phải là ngọn lửa của cuộc sống.
Có ngọn lửa, ngọn lửa bên
trong, liên tục cháy mãi không cần nỗ lực nào, không cần nhiên liệu nào, không
cần dầu nào, không cần chất liệu nào; cháy sáng vĩnh viễn. Nó là ngọn lửa mà lời
kinh này nói tới khi nó nói rằng thực tại tối thượng sáng lên từ bên trong và rằng
người tìm kiếm trung kiên sẽ tìm thấy nó.
Bây giờ là đúng lúc để hiểu đôi
điều về người tìm kiếm trung kiên. Nghĩa của "người tìm kiếm trung kiên là
gì”? Đâu là khác biệt giữa tin cậy và trung kiên? Vào buổi sáng chúng ta đã nói
về tin cậy, và trung kiên là điều thứ hai, một điều rất khác lạ. Chúng ta thường
dùng từ tin cậy và trung kiên theo cùng một nghĩa. Nhưng nghĩa của trung kiên
là ở chỗ việc tìm kiếm tâm linh là việc gay go gian khó, nó sẽ không được hoàn
thành trong một ngày đâu. Nhiều, nhiều thất bại là không tránh khỏi theo việc
tìm kiếm này.
Nhiều lần bạn sẽ phải kinh nghiệm
thất bại, nhiều lần bạn sẽ phải rời ra, nhiều lần bạn sẽ cảm thấy rằng chẳng
cái gì xảy ra hay thay đổi: “Để tôi dừng lại thôi, để tôi vứt bỏ toàn thể cái
điều vô nghĩa này.” Cho nên ý nghĩa của trung kiên là để giữ cho nỗ lực của bạn
tiếp diễn khi đối diện với mọi thất bại. Không lơ là một li trong nỗ lực của bạn
khi đối diện với mọi thất bại là điều được ngụ ý bởi trung kiên.
Khi bạn thành công, thế thì
không có nhu cầu quyết tâm nào, trung kiên nào; bản thân thành công sẽ giữ cho
bạn đi tiếp. Khi một người thành công trong bất kì lĩnh vực nào, chẳng cần gì tới
trung kiên từ người đó bởi vì bản thân thành công thúc đẩy người đó và làm cho
người đó lấy bước tiếp. Nhưng khi có thất bại, chân sẽ không chuyển động, thất
bại trở thành nặng nề. Người ta cảm thấy dường như đá bị buộc vào chân và người
ta từ chối đi thêm nữa. Trong tình huống như vậy chỉ quyết tâm và trung kiên mới
làm cho chân bạn vẫn giữ chuyển động. Ý nghĩa của trung kiên là ở chỗ bạn không
chấp nhận sai lầm là sai lầm, thất bại là thất bại; bạn liên tục bước tới. Dù
bao nhiêu thất bại có tới cũng chẳng thành vấn đề, bạn không chấp nhận chúng là
thất bại.
Tôi đã nghe nói rằng Thomas
Edison đã làm một thực nghiệm trong phòng thí nghiệm của mình và ông ấy có một
thanh niên làm trợ lí cho dự án này. Anh thanh niên rất thận trọng, rất hợp lí
- một thiên tài khoa học. Họ tiến hành thực nghiệm này, họ làm việc mọi ngày, họ
làm việc vì nó tới mười tám tiếng đồng hồ mỗi ngày, và ban đêm ông già Edison
và anh thanh niên đó sẽ về nhà, không thành công. Điều này kéo dài liên tục
trong ba tháng, mọi ngày. Sau ba tháng anh thanh niên bỏ cuộc. Anh ta đã từng
muốn bỏ cuộc trong nhiều ngày, nhưng bởi vì ngọn lửa của trung kiên bùng cháy
trong đôi mắt của ông già Edison, nên anh ta không dám nói gì.
Mọi sáng Edison đều tới sớm,
như đứa trẻ, gần như chạy tới phòng thí nghiệm. Anh thanh niên này tới với quyết
định, “Hôm nay mình sẽ nói, ‘Bây giờ cháu xin lỗi bác, việc này ngoài tầm của
cháu. Nhiệm vụ này sẽ chẳng bao giờ được hoàn thành cả. Dường như là chúng ta
đã chọn cái gì đó sai toàn bộ, thực nghiệm này chẳng bao giờ đi tới thành công
đâu. Chúng ta đã thấy biết bao nhiêu thất bại rồi, biết bao nhiêu lần. Chúng ta
đã thử nhiều hướng khác nhau và chẳng cái gì tới từ nó cả. Vậy mà bác liên tục
tiếp tục như người điên! Ta vứt nó đi! Ta làm cái gì đó khác mà thành công có
thể tới được trên đường.” Nhưng thấy ngọn lửa trong mắt của Edison, anh ta mất
hết can đảm để nói điều gì. Anh ta cảm thấy, “Ông già này sao trẻ thế, mà mình,
một thanh niên, lại nói như ông già. Không hợp.’”
Nhưng ba tháng là thời gian đủ
rồi. Họ đã không ngủ trong đêm mà cũng chẳng nghỉ ban ngày. Thực nghiệm này
không đi tới kết luận thành công nào và Edison cũng không bỏ nó. Mọi ngày họ đều
thất bại và ngày tiếp họ sẽ bắt đầu lại bằng cách tiếp cận mới.
Sau ba tháng giữ cho mắt nhìn
xuống và không nhìn vào mắt của Edison, anh thanh niên nói, “Cháu xin lỗi...”
Edison đáp, “Nhìn ta đây!”
Anh thanh niên nói, “Dạ không ạ,
bởi vì nhìn thẳng vào mắt bác liên tục giữ cháu trong đống lộn xộn này. Không
thể thêm được nữa! Hôm nay cháu sẽ không nhìn vào mắt bác đâu. Thực nghiệm này
sẽ không thành công đâu.”
Edison nói, “Cháu có điên hay
cái gì đó không? Bây giờ, khi chúng ta đang đi tới gần thành công thế?”
Người này nói, “Gần thành công
sao?! Chúng ta thậm chí không gần nó bằng ngày đầu tiên khi chúng ta bắt đầu.
Trong ba tháng chúng ta đã thám hiểm tất cả các con đường. Từ mọi phía, và mọi
thứ đều đã thất bại.”
Edison nói, “Dường như cháu
không biết toán học của nó rồi. Chúng ta đã thử biết bao nhiêu cách thức và
chúng ta đã không thành công - điều đó nghĩa là gì? Nó nghĩa là số những con đường
tắc bây giờ ít hơn. Nếu chúng ta đã thử hai trăm con đường và có tất cả ba trăm
con đường, thế thì chỉ còn lại một trăm con đường thôi. Chúng ta đang tới gần
thành công đấy! Nếu không phải là hôm nay, thì ngày mai, qua hết thất bại nọ tới
thất bại kia, chúng ta sẽ chiến thắng bởi vì chung cuộc phải có một con đường
là đường đúng chứ. Chúng ta đang đi lên trước và loại bỏ dần những đường sai là
sai; thắng lợi đang tới gần. Cháu phải là cái loại người điên nào rồi! Cháu
đang nghĩ tới việc từ bỏ chỉ sau ba tháng làm việc vất vả. Và bây giờ chúng ta
đang ở rất gần thế...”
Đây là trung kiên. Trung kiên
nghĩa là bạn tin cậy vào thắng lợi cho dù đang đối diện với thất bại và sai lầm.
Giả sử có một tảng đá ở trước tôi trên con đường. Nếu tôi muốn, tôi có thể coi
nó như một chướng ngại, cho nên với tôi con đường này sẽ đi tới chỗ kết ở đó.
Đây là dấu hiệu của người không trung kiên. Hay, nếu tôi muốn, tôi có thể xem
xét rằng tôi đã đi tới một bậc thang, một chiếc thang: bây giờ tôi sẽ trèo lên
tảng đá này và con đường của tôi sẽ bắt đầu tại điểm nào đó cao hơn. Cho nên tảng
đá trên con đường có thể trở thành hoặc là cái thang hoặc là chướng ngại. Bản
thân nó thì không phải là thang hay chướng ngại gì. Nó trở thành chướng ngại nếu
tôi không có trung kiên, nó trở thành cái thang nếu tôi có trung kiên.
Thực tại tối thượng, nước cam lồ
này ẩn kín sâu trong hang bên trong, trong chiều sâu của tâm, cõi này của thực
tại tối thượng nằm ở bên ngoài cõi trời, xảy ra qua thành công tới từ vô hạn lần
thất bại. Người ta sẽ biết tới thắng lợi chỉ sau nhiều thất bại. Người ta sẽ đạt
tới hoà nhập, kết tinh chỉ sau khi bị rời ra nhiều lần. Gặp gỡ này sẽ xảy ra chỉ
sau khi bỏ lỡ nó nhiều lần. Nhiều lần bạn sẽ đi qua gần nó, gần tới mức bạn bắt
đầu cảm thấy, “Bây giờ mình bỏ thôi, mình sẽ không bao giờ có khả năng làm được
nó.” Và bất kì khi nào cảm giác này tới, đó là khi cần tới trung kiên.
Không có tin cậy không ai có thể
bắt đầu được, không có trung kiên không ai có thể đạt tới được. Tin cậy làm cho
việc bắt đầu thành có thể, trung kiên cho phép việc hoàn thành. Đây là lí do tại
sao lời kinh này nói rằng chỉ người tìm kiếm trung kiên mới có khả năng kinh
nghiệm thực tại tối thượng.
Đủ cho hôm nay.
Bây giờ chúng ta sẵn sàng cho
việc thiền đêm.
Lưu ý tới vài điều. Không ai cởi
quần áo ra trong thiền đêm đâu nhé. Chỉ trong thiền sáng bạn mới có thể cởi quần
áo ra, nếu bạn cảm thấy cần cởi. Không ai làm điều đó trong thiền đêm đâu nhé,
nhớ điều này.
Những người sẵn sàng cho việc
thiền đêm thật mãnh liệt tụ tập lại gần tôi. Những người không muốn làm nó thật
mãnh liệt nên đứng ở vòng tròn phía sau. Mặc dầu mọi người phải hết sức nỗ lực,
bạn càng làm nó thật mãnh liệt, kết quả sẽ càng hiệu quả hơn.
Bạn nhìn tôi mà không chớp mắt;
tròng mắt của bạn phải không được chớp. Và bạn nên đánh thức năng lượng này bằng
việc nhảy và múa. Khi năng lượng này đã bắt đầu chuyển động thế thì bạn nên gõ
búa vào nó với âm thanh hu! hu!
Xem tiếp Chương 4 - Quay về Mục lục
0 Đánh giá