Read more
Thiền Osho -
Yoga: Alpha và Omega (Tập 5)
Bài giảng về Kinh Yoga của Patanjali
Chương 8. Tâm trí nam, Tâm trí nữ, vô trí
Powered by RedCircle
Powered by RedCircle
Câu hỏi thứ nhất
Nghe thầy hết sáng nọ tới sáng kia, tôi cảm
thấy quá bão hoà với ý nghĩ về cần nhìn vào bên trong và thấy. Thực ra tôi cảm
như con chó đuổi đuôi: nó càng cố gắng vất vả, nó càng ít cơ hội thành thành
công. Nhưng từ bỏ cố gắng đã không giúp gì mấy, vì là tỉnh táo và nhận biết hơn
đang biến thành việc làm tinh vi khác, và tôi trở lại cùng con đường mòn.
Điều này là tốt, rằng bạn đang
trở nên nhận biết là cả làm lẫn không làm đều không giúp ích gì, vì không làm của
bạn lại là làm một cách tinh vi. Với nhận biết này một cánh cửa mới sẽ mở ra bất
kì ngày nào, bất kì khoảnh khắc nào. Khi bạn không làm, không không làm, khi bạn
đơn giản ở đó, khi bạn là sự hiện hữu - không là người làm hay người không làm,
bởi vì người không làm cũng là người làm - nhị nguyên biến mất. Thế thì đột nhiên
bạn thấy bạn bao giờ cũng ở nhà rồi, bạn chưa bao giờ bỏ nó - bạn chưa bao giờ
đi bất kì chỗ nào khác. Thế thì con chó nhận ra không có nhu cầu đuổi đuôi,
đuôi đã thuộc vào nó rồi. Không có nhu cầu đuổi đuôi vì đuôi đã theo chó rồi.
Nhưng người ta phải làm để đạt tới không làm. Thế rồi người ta phải làm cái
không làm để đạt tới hiện hữu. Và mọi thứ đều giúp đỡ. Ngay cả thất bại, thất vọng
- mọi thứ đều giúp đỡ. Cuối cùng, khi bạn đạt tới, bạn hiểu rằng mọi thứ đã
giúp đỡ - đi lạc lối, rơi vào lối mòn và bẫy cũ - mọi thứ đã giúp đỡ; không cái
gì vô dụng. Và mọi thứ trở thành bước này tới bước khác.
Hôm qua tôi mới đọc một bài báo
của Swami Agehananda Bharti. Anh ấy kể lại rằng một lần anh ấy đã hỏi
Ravishankar về George Harrison chơi đàn sitar hay thế nào. Ravishankar nghĩ một
chốc và thế rồi nói, "Ồ, anh ta cầm nó vừa phải." Nhưng điều đó nữa
là bắt đầu tốt rồi. Nếu bạn muốn học chơi sitar, cầm đàn sitar tuyệt đối như nó
phải vậy là việc bắt đầu tốt; nó đã là cái gì đó rồi. Cho nên đừng cười.
Ravishankar đã ca ngợi George Harrison, rằng anh ấy cầm đàn tốt.
Đầu tiên bạn sẽ trở thành người
làm. Làm điều đó cho tốt vào, đó là toàn thể vấn đề. Nếu bạn không làm nó tốt bạn
sẽ phải tới đi tới lại, bởi vì không cái gì có thể bị bỏ lại không đầy đủ; nó
phải được hoàn thành. Thực ra bạn phải bị thất vọng toàn bộ tới mức bạn không
bao giờ quay lại làm lần nữa. Thế rồi làm việc không làm, và làm nó toàn bộ tới
mức cái đó nữa cũng được kết thúc. Và thế thì không có cách nào quay lại. Bạn
không thể rơi lại nếu mọi thứ đã được hoàn thành; chỉ kinh nghiệm chưa hoàn
thành mới cứ gọi bạn trở lại.
Kinh nghiệm không đầy đủ có lực
từ trong chúng; chúng đòi hỏi hoàn thành. Đó là lí do tại sao bạn cứ rơi đi rơi
lại vào đường mòn. Bạn hành động một cách không trưởng thành. Một kinh nghiệm
đã không chín - về mặt trí tuệ bạn bắt đầu hiểu nó nhưng không hiểu toàn bộ -
và bạn hành động. Điều đó sẽ không giúp ích. Toàn thể bản thể bạn nên hiểu nó rằng
"điều này là vô tích sự." Không phải bởi vì tôi nói - điều đó sẽ
không ích gì - nhưng vì toàn thể bản thể bạn nói, "Điều này là vô tích sự.
Mình đang làm gì? Nó là vô nghĩa."
Thế thì làm việc không làm. Nó
là việc làm, đó là lí do tại sao tôi nói "làm." Rất tinh vi. Cái thô
là cái thứ nhất, phần khi bạn làm. Thứ hai là cái tinh; bạn sẽ sớm nhận ra rằng
cái này, lần nữa, là cái bạn đang làm - bạn đang cố không làm, nhưng việc cố có
đó và đó là nỗ lực. Cái vô nỗ lực của bạn cũng là nỗ lực. Nhưng bạn có thể hiểu
được nó ngay bây giờ, điều tôi đang nói. Điều đó không phải là vấn đề: Bạn phải
cảm thấy nó, trải qua nó, nhận ra nó. Trưởng thành được cần tới - qua việc kinh
nghiệm - thế thì một ngày nào đó thô và tinh cả hai cùng biến mất. Đột nhiên bạn
ngồi đó - không cái gì để làm và không cái gì để không làm.
Thế thì bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ
đơn giản hiện hữu. Không có nhu cầu đuổi đuôi. Bây giờ, chó biết rằng đuôi thuộc
vào nó; bây giờ, chó đã trở thành vị phật. Đây là chứng ngộ.
Câu hỏi thứ hai
Trong buổi darshan hay bài giảng của thầy
tôi thỉnh thoảng được tràn ngập bởi hiện tượng rằng thầy hiện hữu. Và thế rồi
tôi nghĩ rằng điều đó chắc phải là giống như khi tôi ngồi dưới chân của Phật,
Christ, và các thầy khác - và đã thất bại. Xin thầy hứa với tôi không để lại bất
kì hòn đá nào chưa được lật lên để chắc rằng thầy sẽ là thầy cuối cùng của tôi?
Điều đó là tuỳ vào bạn chứ. Tôi
sẽ không để bất kì hòn đá nào chưa được lật lên, nhưng điều đó sẽ không giúp gì
mấy đâu - Phật cũng đã không để bất kì hòn đá nào còn chưa được lật lên, Jesus
cũng vậy. Không thầy nào đã bao giờ để bất kì hòn đá nào không được lật, nhưng
không thầy nào có thể trao chứng ngộ cho bạn được. Chừng nào bạn chưa hiểu,
không cái gì có thể được làm.
Thỉnh thoảng, chính nỗ lực của
thầy thậm chí có thể tạo ra kháng cự trong bạn. Tôi cảm thấy điều đó nhiều lần.
Nếu tôi theo bạn quá nhiều bạn bắt đầu trốn khỏi tôi. Nếu tôi cố gắng quá nhiều
để làm cái gì đó bạn trở nên sợ. Tôi phải cho bạn các liều tương ứng với năng lực
tiêu hoá của bạn.
Điều đó tuỳ vào bạn. Nếu bạn muốn,
mọi thứ là có thể; nhưng sâu bên dưới bạn không muốn nó. Đó là vấn đề bạn níu
bám nó. Bạn nói rằng bạn muốn được chứng ngộ, bạn nói rằng bạn được kết thúc với
toàn thể cuộc sống mục nát này và bạn muốn siêu việt lên trên nó - nhưng bạn có
thực sự được kết thúc với nó không? Bạn có thực sự đóng tài khoản của bạn với
nó không? Chẳng phải ở đâu đó sâu bên trong bạn vẫn có một hạm muốn le lói, một
hi vọng vẫn sống, một hạt mầm có thể đâm chồi bất kì khoảnh khắc nào trong cuộc
sống khác đó sao? Nếu bạn quan sát bạn sẽ hiểu rằng có ham muốn, hi vọng, rằng
bạn có thể đã không biết cái toàn thể của cuộc sống, rằng có thể có cái gì đó bạn
đã từng bỏ lỡ, rằng có thể đã có phúc lạc nào đó và bạn đã không gõ đúng cửa.
Điều đó tiếp tục.
Bạn tới tôi, nhưng bạn tới nửa
vời. Đó không phải là việc tới; đó không phải là việc tới chút nào. Bạn chỉ dường
như tới tôi, nhưng bạn chưa bao giờ tới. Tôi hứa với bạn tôi sẽ không để bất kì
hòn đá nào còn chưa được lật lên, nhưng bạn có ở đây không? Bạn có ở gần tôi, cạnh
tôi không? Bạn rất tinh ranh và láu lỉnh; ngay cả khi bạn ở gần bạn vẫn cứ bảo
vệ bản thân bạn theo cả nghìn lẻ một cách.
Chẳng hạn, ngay cả câu hỏi của
bạn, thái độ của bạn, đều có tính bảo vệ. Và bạn không biết chúng đang bảo vệ
cái gì. Tôi biết một người trong các bạn, một người đàn bà rất keo kiệt - cô ấy
ở đây để kiếm chứng ngộ. Nhưng từ khi cô ấy ở đây cô ấy đã từng hỏi các câu hỏi:
sao đạo tràng có xe hơi đắt thế, sao tôi đeo đồng hồ đắt thế. Cô ấy phải làm gì
với xe hơi hay đồng hồ? Sao chỉ những câu hỏi này nảy sinh trong tâm trí cô ấy?
Tính keo kiệt riêng của cô ấy - việc bảo vệ. Tôi biết cô ấy là người keo kiệt sắt
đá, và chừng nào tính keo kiệt của cô ấy còn chưa bị phá vỡ, cô ấy không thể
trưởng thành được.
Điều đó dành cho tôi quyết định,
có hay không có xe nào. Và tôi có lí do riêng của tôi, và bạn không thể hiểu được
lí do của tôi. Tôi chưa bao giờ dùng nó cả, nhưng tôi có nó. Nó chỉ đậu đó.
Nhưng nó đã làm phép màu; nó đã thay đổi nhiều thứ. Tôi được bao quanh bởi vài
người keo kiệt, marwadis, và họ sẽ không rời tôi. Tôi đã mua xe này - tất cả họ
bỏ đi. Họ đơn giản bỏ đi; họ không bao giờ quay lại. Chỉ có hai khả năng: hoặc
họ phải bỏ tính keo kiệt của họ, thế thì họ có thể đã ở lại đây; hoặc họ phải bỏ
tôi. Và từ khi họ đi đạo tràng có phẩm chất khác cho nó. Họ là những người bẩn
thỉu, nhưng tôi không thể bảo ai đó đi được. Tôi phải tạo ra phương cách. Xe đó
đã làm nhiều hơn giá của nó, nhưng bạn không biết đâu. Nhưng bạn cần không bị
liên quan tới những thứ này chút nào.
Gurdjieff hay nói, bất kì khi
nào ai đó tới ông ấy sẽ nói, "Đưa tất cả tiền cho ta." Nhiều người
đơn giản bỏ ông ấy vì điều này; vì họ đã tới thầy tâm linh và ông này lại theo
tiền của họ. Nhưng những người còn lại, họ đã được biến đổi. Không phải là
Gurdjieff quan tâm tới tiền của họ đâu - ông ấy quan tâm tới việc phá vỡ tính
keo kiệt của họ, bởi vì nếu bạn keo kiệt bạn không thể mở rộng được. Toàn thể
tâm thức của người keo kiệt co lại. Tính keo kiệt là chứng táo bón của bản thể:
bạn không thể mở rộng được, bạn không thể chia sẻ được, bạn không thể tuôn chảy
được. Tính keo kiệt là loạn thần kinh; mọi thứ đều bị chặn lại. Và tiền là Thượng
đế. Để cho bạn Thượng đế thực, Thượng đế giả của bạn phải bị đập tan. Điều đầu
tiên Gurdjieff sẽ hỏi sẽ là về tiền.
Ngay cả hỏi ông ấy một câu hỏi
cũng không dễ dàng như với bạn hỏi tôi đâu. Ông ấy thường đòi một trăm đô la
cho một câu hỏi, điều đó nghĩa là một nghìn ru pi cho một câu hỏi. Và có thể
ông ấy sẽ nói "có" hay "không" - "Bây giờ nếu ông có
câu hỏi khác, đưa một nghìn ru pi nữa ra đi." Khi ông ấy viết cuốn sách đầu
tiên của mình Tất cả và mọi thứ, ông ấy không xuất bản nó. Các đệ tử thúc ông ấy:
"Xuất bản nó đi; đây là công trình vĩ đại." Ông ấy nói, "Cứ đợi
đấy." Ông ấy sẽ cho phép một người nhìn vào bản thảo và ông ấy sẽ lấy một
nghìn đô la - chỉ để nhìn bản thảo thôi.
Ông ấy làm gì? Và ông ấy chả
quan tâm chút nào tới tiền: một tay ông ấy lấy, tay kia ông ấy sẽ cho. Ông ấy
chết đi là người nghèo; và ông ấy phải đã tích luỹ hàng triệu đô la nếu ông ấy
quan tâm tới tiền, nhưng ông ấy chẳng có gì - khi ông ấy chết thậm chí một đô
la cũng không tìm ra. Tiền đã biến mất đi đâu? Ông ấy lấy từ ai đó, cho nó cho
ai đó khác... Ông ấy chỉ là lối chuyển ở giữa cho tiền chảy.
Mọi người sẽ bỏ ông ấy ngay lập
tức vào khoảnh khắc họ thấy rằng ông ấy đòi tiền. Và ông ấy không giống tôi:
ông ấy sẽ đòi toàn thể số tiền - "Bất kì cái gì ông có, ông cho đi. Buông xuôi
đi." Nhưng những người đã buông xuôi, họ được ân huệ; họ đã được biến đổi
toàn bộ. Điều đó đã trở thành cái bắt đầu. Điều đó đã là điểm đập phá từ đó mọi
thứ trở thành khác. Với người quá bị gắn bó với tiền, cho đi tất cả chính là điều
vĩ đại.
Có lần chuyện xảy ra: Một người
đàn bà, một nhạc sĩ, tới ông ấy, và ông ấy đòi mọi đồ trang sức cô ấy có. Cô ấy
thực sự trong tin cậy sâu sắc với ông ấy; cô ấy lập tức đưa mọi đồ trang sức. Đến
tối, những đồ trang sức đó được trả lại cho cô ấy. Nhưng cô ấy không chỉ thấy
những đồ trang sức đó ở đó, còn thêm vài thứ nữa được Gurdjieff thêm vào trong
túi - còn giá trị hơn là đồ trang sức riêng của cô ấy. Cô ấy không thể hiểu được
điều gì đã xảy ra.
Thế rồi mười lăm ngày sau một
người đàn bà khác tới, một người đàn bà rất giầu, và Gurdjieff đòi bất kì cái
gì cô ta có - mọi đồ trang sức và tiền bạc và mọi thứ - cho vào trong túi và
đưa cho ông ấy; chỉ thế thì ông ấy mới bắt đầu công việc. Người đàn bà này sợ.
Cô ta nói, "Tôi sẽ nghĩ và ngày mai tôi sẽ trả lời." Thế rồi cô ta
nghe nói về người đàn bà nhạc sĩ này. Cô ta đi tới cô ấy và hỏi, "Điều gì
đã xảy ra?" Cô ấy kể toàn bộ câu chuyện. Thế rồi cô ta rất sung sướng. Cô
ta nói, "Thế thì tốt, làm ăn được - một phi vụ: mình cho vài thứ trang sức
và chúng gần như được gấp đôi." Ngay lập tức, trong đêm - cô ta không thể
đợi được tới ngày hôm sau - ngay lập tức, cô ta đổ mọi đồ trang sức vào trong
nó, trong túi, đưa nó cho Gurdjieff... Nó không bao giờ được trả lại. Người đàn
bà này đợi và đợi mãi mà nó không bao giờ được trả lại.
Bạn không thể hiểu được, trên bề
mặt, điều gì đang xảy ra. Người đàn bà đã buông xuôi không bị gắn bó với tiền;
chẳng có vấn đề gì trong việc lấy nó. Gurdjieff trả lại nó với nhiều đồ trang sức
được thêm vào. Người đàn bà kia đã cho tiền như việc mặc cả. Cô ta bị ám ảnh với
tiền; tiền không thể được trả lại. Nhưng ngay cả người đàn bà kia thay đổi, sẽ
hiểu toàn thể hiện tượng về tại sao chúng đã không được trả lại.
Đừng bận tâm. Điều tôi làm và
điều tôi không làm - điều đó không phải là mối quan tâm của bạn, không phải lo
nghĩ của bạn. Bạn là đủ trong lo nghĩ riêng của bạn; bạn có quá nhiều vấn đề
riêng của bạn. Đừng bận tâm về tôi. Tôi có cách riêng của tôi. Và đừng thử
khuyên tôi - quên chuyện đó đó đi. Chỉ nghĩ về cái ta riêng của bạn thôi, tại sao
bạn ở đây. Và bạn có thể bỏ lỡ những điều nhỏ bé bởi vì những điều đó sẽ nhắm mắt
bạn lại. "Tại sao cái này?" và "Tại sao cái kia?" - cái đó
không dành cho bạn nghĩ tới.
Tôi biết cái gì đang diễn ra,
và mọi bước mà tôi lấy là được lấy rất, rất có cân nhắc. Và trong đời tôi, tôi
chưa bao giờ hối hận về bất kì cái gì tôi đã làm: nó là điều để làm.
Nhưng người đàn bà này, người cứ
hỏi về xe hơi, về nhà, cái này cái nọ - và cô ấy là đàn bà giầu, thực ra, rất
giầu - cô ấy sợ tiền riêng của mình: cô ấy bảo vệ tính keo kiệt riêng của mình.
Và cô ấy nghĩ cô ấy đang hỏi câu hỏi rất liên quan. Nhưng nếu cô ấy còn ở đây
tôi sẽ phá vỡ tảng băng này. Điểm duy nhất là nếu cô ấy có can đảm để ở đây
trong vài ngày. Và tính keo kiệt của cô ấy phải bị phá vỡ, bởi vì không có nó bị
phá vỡ cô ấy sẽ không bao giờ trưởng thành. Nếu cô ấy thực sự sợ, cô ấy nên trốn
đi - cô ấy nên trốn nhanh nhất có thể được - bởi vì sớm sẽ không có khả năng
thoát.
Hỏi các câu hỏi có liên quan tới
trưởng thành của bạn đi - câu hỏi của bạn, điều đã ở sâu bên trong bản thể bạn
và cần được trả lời.
Câu hỏi thứ ba
Có phải mọi tâm trí đều được làm ra từ cùng
vật liệu - sự ngu xuẩn?
Vâng. Tâm trí là ngu xuẩn.
Không có tâm trí nào thông minh cả. Tâm trí không thể thông minh được; tâm trí
là ngu xuẩn. Nói "tâm trí ngu" là không đúng; nó là lặp lại vì
"ngu xuẩn" và "tâm trí" cả hai đều ngụ ý cùng một thứ.
Tại sao tâm trí ngu xuẩn? Bởi
vì tâm trí không là gì ngoài quá khứ, bụi bám vào mà bạn đã thu thập trên đường
- hết tầng bụi nọ tới tầng bụi kia. Cái đó cản trở thông minh của bạn. Điều đó
giống như tấm gương bị che phủ bởi bụi; gương là tâm thức. Khi mọi bụi được
chùi sạch đi, thông minh nảy sinh: khi không có tâm trí bạn thông minh; khi có
tâm trí bạn ngu xuẩn.
Tất nhiên, có hai kiểu
"ngu" - ngu dốt nát, ngu thông thái: những người không biết gì và ngu
và những người biết quá nhiều và ngu. Và nhớ lấy, kiểu thứ hai là nguy hiểm hơn
kiểu thứ nhất bởi vì kiểu thứ hai có nhiều bụi trên gương hơn kiểu thứ nhất.
Người dốt có thể tiến hoá dễ dàng hơn bác học, người nghĩ mình biết. Chính suy
nghĩ rằng người đó biết trở thành cản trở. Tâm trí là không thông minh; thông
minh là của vô trí. Tâm trí là khối chắn.
Cố hiểu điều này. Tâm trí là mọi
điều bạn đã kinh nghiệm, mọi điều bạn đã trải qua, mọi điều đã chết - tâm trí
là phần chết của bản thể bạn. Thế rồi bạn cứ mang nó. Nó không cho phép bạn ở
đây; nó không cho phép bạn ở hiện tại. Nó không cho phép bạn được thông minh.
Trước khi bạn đáp ứng, nó bắt đầu phản ứng.
Chẳng hạn, nếu tôi hỏi một người,
"Có Thượng đế không? Thượng đế có tồn tại không?" - nếu người đó trả
lời từ tâm trí người đó sẽ là ngu. Nếu người đó nói, "Có, Thượng đế tồn tại,"
bởi vì người đó đã được nuôi lớn theo cách như vậy - được dạy, được trau dồi,
được ước định, rằng Thượng đế tồn tại - người đó nói, "Có, Thượng đế tồn tại";
nhưng đây không phải là đáp ứng thông minh. Người đó không biết; ai đó khác,
người khác, đã nói cho người đó. Họ cũng không biết; ai đó khác, người khác, đã
nói cho họ. Người đó đã nghe tin đồn, và người đó tin vào tin đồn. Không, người
đó không thông minh. Người đó thậm chí không đủ thông minh để hiểu điều người
đó đang nói. Hay người này có thể nói, "Không, Thượng đế không tồn tại,"
bởi vì người đó được nuôi lớn ở gia đình cộng sản hay ở Nga hay ở Trung Quốc. Điều
đó nữa cũng là cùng tâm trí ngu xuẩn - ước định thay đổi, nhưng tính ngu xuẩn
là một: người biết rằng Thượng đế không tồn tại, mà chẳng biết. Người đó đã
không tìm; người đó đã không điều tra. Người đó đã không đi vào trong vấn đề
này chút nào.
Nhưng nếu một người thông minh
được hỏi... Người thông minh: tôi ngụ ý người không nhìn qua tâm trid, gạt tâm
trí sang bên. Bạn hỏi người đó, "Thượng đế có tồn tại không?" - sẽ
không có câu trả lời. Nhiều nhất người thông minh có thể nói, "Tôi không
biết." Khi bạn nói, "Tôi không biết," bạn biểu lộ thông minh nào
đó, tính khả năng. Điều đó là rất nhỏ, nhưng nó có thể phát triển và có thể trở
thành hiện tượng lớn lao. Hay người đó sẽ nói, "Tôi không nghiên cứu. Tôi
đã nghe mọi người nói thế này và thế nọ, nhưng tôi không biết. Khi có liên quan
tới tôi, tôi không nhận biết thế này hay thế nọ, có hay không. Cả hai là không
thể được; tôi không thể nói được."
Đây là thông minh, và người này
một ngày nào đó có thể biết vì với thông minh này, khám phá là có thể. Nếu bạn
bị kẹt với lí thuyết, bị nặng gánh với kinh sách, bạn sẽ không bao giờ thông
minh; bạn bao giờ cũng vẫn còn ngu xuẩn.
Tâm trí là quá khứ - cái đã chết
lơ lửng trên cái đang sống. Nó giống như mây bao quanh bạn: qua nó bạn không thể
thấy được, cái nhìn không rõ ràng, mọi thứ bị bóp méo. Để cho mây này biến đi.
Vẫn còn với không câu trả lời, không kết luận, không triết lí, không tôn giáo.
Vẫn còn mở, chỉ mở; vẫn còn mong manh, và chân lí có thể xảy ra cho bạn. Mong
manh là thông minh. Biết rằng bạn không biết là thông minh. Biết rằng qua tâm
trí bạn bỏ lỡ là thông minh. Biết rằng qua vô trí cánh cửa mở ra là thông minh.
Bằng không, tâm trí là ngu xuẩn.
Câu hỏi thứ tư
Thầy nói rằng thầy không bao giờ bắt gặp
đàn bà thực sự thông minh. Nhưng làm sao tới đạo tràng mọi người điều hành đều
là đàn bà?
Vì tôi không muốn đạo tràng được
quản lí bởi trí tuệ. Tôi muốn nó được quản lí bởi trái tim. Tôi không muốn nó
được quản lí bởi tâm trí nam. Tôi muốn nó được quản lí bởi trái tim nữ... bởi
vì, với tôi, có nữ tính là trở nên mong manh, trở nên cảm nhận. Có nữ tính là
trở nên thụ động, có nữ tính là cho phép; có nữ tính là không trong vội vàng và
căng thẳng; có nữ tính là trong tình yêu. Vâng, đạo tràng được quản lí bởi đàn
bà, bởi vì tôi muốn nó được quản lí bằng trái tim.
Tôi nói tôi chưa bao giờ bắt gặp
đàn bà thực sự thông minh. Tôi ngụ ý "trí tuệ," không phải là thông
minh khi tôi nói bây giờ. Thông minh đó không nam không nữ. Thông minh đó là của
vô trí. Tâm trí là nam, tâm trí là nữ - vô trí không là gì cả. Vô trí không có
giới tính cho nó. Vô trí chỉ là lối mở, không gian. Ở đó mọi nhị nguyên biến mất
- nam/nữ, âm/dương, khẳng định/phủ định, tồn tại/không tồn tại. Mọi nhị nguyên
biến mất trong vô trí, nhưng trước khi vô trí đó tới, nếu bạn phải chọn trong
tâm trí, thế thì chọn tâm trí nữ tính hơn là tâm trí nam tính - bởi vì tâm trí
nam tính có hùng hổ của nó.
Đó là điều tốt trong thế giới;
nếu bạn muốn thành công trong thế giới, thế thì tâm trí nam được cần: hùng hổ,
gây gổ - bao giờ cũng sẵng sàng đánh nhau, bao giờ cũng sẵn sàng cạnh tranh,
bao giờ cũng sẵn sàng giết và sát hại - bạo hành, ghen tị - bao giờ cũng tỉnh
táo và sống trong thế giới nơi mọi người bị coi là kẻ thù và bao giờ cũng cảnh
giác rằng mọi người khác đang cố đạt tới cùng điều mà bạn cố đạt tới... và có vật
lộn vô cùng.
Nếu bạn muốn thành công trong
thế giới, thế thì cần tâm trí nam. Nếu bạn muốn thành công trong thế giới bên
trong, thế thì cần tâm trí nữ. Nhưng đó chỉ là bắt đầu - tâm trí nữ chỉ là bắt
đầu. Nó là một bước hướng tới vô trí. Đây là vấn đề: tâm trí nam có chút ít xa
với vô trí hơn là tâm trí nữ. Đó là lí do tại sao tâm trí nữ có vẻ huyền bí.
Thực ra bạn có thể yêu người
đàn bà trong cả đời bạn, nhưng bạn sẽ không bao giờ có khả năng hiểu. Cô ấy sẽ
vẫn còn là một điều bí ẩn, không dự đoán được; sống nhiều qua các tâm trạng hơn
là qua ý nghĩ, giống như khí hậu hơn, ít như cái máy. Buổi sáng có mây và đến
trưa mây đã biến mất và trời rất nắng. Yêu người đàn bà và bạn sẽ biết. Buổi
sáng có mây và cô ấy buồn và, ngay lập tức, chẳng cái gì đặc biệt đã xảy ra, và
mây đã biến mất và trời lại nắng và cô ấy hát. Không thể tin được cho đàn ông.
Điều vô nghĩa nào cứ diễn ra trong đàn bà? Vâng, nó là vô nghĩa bởi vì, với đàn
ông, mọi thứ đáng phải có giải thích có lí. "Tại sao em buồn?' Đàn bà đơn
giản nói, "Em cảm thấy buồn." Đàn ông không thể hiểu được điều đó. Bạn
phải có lí do nào đó để buồn chứ. Chỉ buồn thôi sao? "Sao em sướng?"
Đàn bà nói cô ấy cảm thấy hạnh phúc. Cô ấy sống qua tâm trạng.
Tất nhiên, khó cho đàn ông sống
cùng đàn bà. Hừmm?... bởi vì nếu mọi sự đều hợp lí, mọi sự có thể được quản lí.
Nếu mọi sự mà bất hợp lí - từ trên trời rơi xuống và diễn ra - thế thì rất khó
quản lí. Không đàn ông nào đã bao giờ có khả năng quản lí đàn bà. Chung cuộc,
anh ta buông xuôi; chung cuộc, anh ta buông xuôi toàn thể nỗ lực quản lí.
Tâm trí đàn ông ở xa với vô
trí; nó máy móc hơn, hợp lí hơn, trí tuệ hơn - nhiều trong cái đầu. Tâm trí nữ
tính ở gần hơn, tự nhiên hơn, bất hợp lí hơn - nhưng gần trái tim. Và từ tim dễ
rơi vào bụng hơn, nơi vô trí tồn tại. Cái đầu ở vị trí của trí tuệ; trái tim ở
vị trí của tình yêu, trực giác; và ở ngay dưới rốn, sáu phân dưới rốn, là trung
tâm mà người Nhật Bản gọi là hara. Đó là trung tâm của vô trí - nơi sống và chết
gặp gỡ, nơi mọi nhị nguyên biến mất. Từ đầu bạn phải rơi sâu xuống vào trong
hara.
Đứa trẻ được sinh ra, thế thì
nó vận hành từ hara. Trong bụng mẹ đứa trẻ vận hành từ hara: nó không có tâm
trí, không ý nghĩ. Nó sống động - sống động hoàn hảo - thực ra nó sẽ không bao
giờ sống động nhiều thế lần nữa như nó trong bụng mẹ. Thế rồi đứa trẻ được sinh
ra. Thế nữa trong vài tháng đứa trẻ cứ vận hành từ hara. Nhìn đứa trẻ ngủ: nó
thở từ bụng, không thở từ ngực; ngực hoàn toàn được thảnh thơ. Việc thở đi tới
hara, và đập vào hara. Nó vận hành từ hara. Đó là lí do tại sao mọi đứa trẻ có
vẻ hồn nhiên thế. Bất kì khi nào bạn có thể có lại hara bạn sẽ lại trở thành hồn
nhiên, tấm gương không bụi.
Nữ tính không phải là mục đích
- nữ tính là ở gần với vô trí. Đó là lí do tại sao Lão Tử cứ khăng khăng,
"Trở nên thụ động. Chờ đợi, kiên nhẫn. Đừng vội vàng. Và đừng hung
hăng," bởi vì chân lí không thể bị chinh phục. Bạn chỉ có thể buông xuôi
theo nó.
Cho nên đạo tràng sẽ được quản
lí bởi đàn bà cho tới khi tôi tìm ra người có vô trí. Khi người vô trí sẵn có
thế thì sẽ không có vấn đề nam và nữ; thế thì đạo tràng sẽ được quản lí những
người vô trí. Thế thì một kiểu thông minh khác vận hàng. Thực ra chỉ thế, thông
minh mới hoạt động: nó không phải là trí tuệ; nó là toàn bộ.
Câu hỏi thứ năm
Ở cùng với thầy ở đây tại Pune cuộc sống của
tôi đã trở nên được làm giầu có vô cùng mà không có nỗ lực nào về phần tôi. Với
điều này tôi cảm thấy biết ơn sâu sắc. Nhưng tại sao phương thuốc hay dễ chịu
này chỉ dành cho một nhúm người khi toàn thế giới đang chết?
Đây bao giờ cũng còn là câu hỏi
liên quan, trong nhiều thế kỉ. Vị phật ở đó, cúng dường mọi điều ông ấy có thể
cúng dường, sẵn sàng chia sẻ hiện hữu của ông ấy, nhưng không ai dường như cần
cả - và mọi người đều đang cần. Mọi người đang ốm, và Phật có đó cúng dường thuốc,
nhưng không ai dường như quan tâm tới thuốc. Phải có nguyên nhân nào đó.
Đây là quan sát của tôi: rằng
quan tâm tới hạnh phúc là rất khó, quan tâm tới mạnh khoẻ là rất khó. Mọi người
có cái thích không lành mạnh về ốm yếu và mọi người có gắn bó không lành mạnh với
bất hạnh. Đó là lí do tại sao bạn bao giờ cũng sẵn sàng cho bất hạnh. Không chuẩn
bị nào được cần cả, không Patanjali nào được cần - không tám bước nào để trở
nên bất hạnh. Mọi người đều sẵn sàng nhảy. Khi có liên quan tới bất hạnh thì mọi
người đều theo Lão Tử và không ai đã bao giờ hỏi làm sao. Không ai tới tôi và hỏi
làm sao để bất hạnh; mọi người đều biết. Không ai đã từng dạy bạn bất hạnh -
không ai, không chút nào. Bạn biết nó theo bản năng. Bạn đã là thầy trong điều
đó.
Phải có đầu tư sâu sắc trong
nó. Sao mọi người thích bất hạnh? Khi tôi nói "thích" tôi không ngụ ý
rằng họ biết họ thích. Họ có thể nói họ không thích: "Ai thích bất hạnh!"
Họ muốn hạnh phúc, nhưng đó không phải là vấn đề - họ níu bám lấy bất hạnh. Họ
có thể nói họ thích hạnh phúc, nhưng họ níu bám lấy bất hạnh. Họ nói họ ham muốn
hạnh phúc, nhưng bất kì cái gì họ làm cũng đều tạo ra bất hạnh. Và điều đó
không mới; họ đã từng làm nó nhiều kiếp rồi. Lặp đi lặp lại họ làm cùng điều -
thế thì họ bất hạnh. Và họ nói họ muốn hạnh phúc.
Có đầu tư nào đó. Tôi muốn nói
cho bạn vài điều vì chúng có thể có ích. Khi bạn bất hạnh dễ dàng kết án toàn
thế giới, dễ đổ trách nhiệm lên mọi người khác. Khi bạn bất hạnh bạn có thể
thao túng người khác, những người ở gần bạn - bởi vì bạn bất hạnh, và họ có
trách nhiệm làm cho bạn hạnh phúc. Khi bạn bất hạnh bạn có thể đòi hỏi sự chú
ý: tôi đang ốm đây; tôi đang bất hạnh đây.
Bạn phải đã bắt gặp người bị chứng
nghi bệnh, người cứ nói mãi về ốm yếu và bệnh tật của họ và họ khuếch đại nó
lên nhiều tới mức, thực ra, ốm yếu lớn chừng đó không tồn tại. Nhưng nếu bạn
nói, "Anh đang khuếch đại," họ cảm thấy bị tổn thương nhiều lắm. Thực
ra họ thích thú chính ý tưởng rằng họ ốm thế. Họ đi từ bác sĩ nọ tới bác sĩ kia
chỉ để kể câu chuyện của họ. Không ai có thể giúp được họ với điều họ có - điều
họ biết. Không ai khôn ngoan vậy; không ai biết gì. Và họ có ốm yếu bí ẩn thế
quanh họ, họ biết từ chính lúc bắt đầu không ai sẽ giúp được. Họ đang làm gì
khi họ nói liên tục về ốm yếu của họ - dường như ai đó cứ phô ra cho bạn vết
thương của người đó lặp đi lặp lại và cứ sờ mó vào vết thương và chơi với vết
thương và tự làm đau mình? Người đó đòi hỏi thông cảm, chú ý.
Và từ chính thời thơ ấu đứa trẻ
học thủ đoạn này. Toàn xã hội, từ chính lúc đầu, đi sai. Bất kì khi nào đứa trẻ
ốm, bố mẹ sẽ chú ý nhiều hơn. Bất kì khi nào đứa trẻ bất hạnh cả gia đình cảm
thấy có trách nhiệm, và đứa trẻ trở thành kẻ độc tài nhỏ trong bản thân nó. Khi
đứa trẻ ốm nó có thể ra lệnh theo lời nó. Nó có thể nói đồ chơi này phải được
đem tới tối nay, và không ai có thể nói không - bởi vì nó ốm. Nhưng khi nó khoẻ
không ai bận tâm về nó; khi nó mạnh khoẻ không ai tới và ngồi bên nó. Khi nó ốm
bố tới, Bố lớn, người quan trọng tới mức đứa trẻ cảm thấy sung sướng; bây giờ
nó còn quan trọng hơn bạn. Bạn chỉ ngồi bên cạnh giường hỏi về sức khoẻ của nó;
thế rồi bác sĩ tới, những bác sĩ lớn, bác sĩ nổi tiếng; hàng xóm tới; mẹ liên tục
làm nhặng sị lên về ốm yếu của nó. Nó trở thành trung tâm của cả gia đình, và cả
gia đình là thế giới cho đứa trẻ. Cả thế giới quay quanh nó: nó trở thành mặt
trời và mọi thứ trở thành hành tinh. Điều đó đẹp thế, nó cảm thấy. Bây giờ nó học
thủ đoạn qua đó nó sẽ khổ cả đời - thủ đoạn rất nguy hiểm.
Nếu tôi được phép theo cách
riêng của tôi, tôi sẽ bảo các bố mẹ đừng bao giờ chú ý nhiều khi đứa trẻ ốm yếu
và bất hạnh. Chăm sóc, nhưng không chú ý nhiều. Thay vì thế, khi nó hạnh phúc
và mạnh khoả thì chú ý. Khi đứa trẻ hạnh phúc làm cho nó cảm thấy rằng nó là
trung tâm của gia đình. Khi nó bất hạnh chỉ để nó ở bên, cho nó thuốc, nhưng để
nó cảm thấy rằng không ai thực sự bận tâm về nó. Nó bị gạt sang bên. Điều đó có
vẻ rất, rất nghiệt ngã, độc ác - điều tôi đang nói có vẻ rất độc ác - nhưng tôi
bảo bạn đây là từ bi, nếu bạn hiểu toàn thể hiện tượng, bởi vì với lòng tốt bình
thường của bạn đứa trẻ sẽ khổ cả đời nó. Không chỉ một đời đâu - điều đó trở
thành hình mẫu bắt rễ sâu: trong nhiều kiếp người đó sẽ lặp lại cùng điều.
Bất kì khi nào trong cuộc sống
bạn cần sự chú ý... Và mọi người đều cần chú ý, bởi vì chú ý là thức ăn cho bản
ngã. Duy nhất vị phật không cần chú ý - bởi vì bản ngã không có đó, thức ăn
không được cần - bằng không mọi người đều cần sự chú ý. Và bất kì khi nào bạn cần
sự chú ý, bạn sẽ làm gì? Bạn biết mỗi một thủ đoạn: bất hạnh, rơi vào ốm yếu.
Chín mươi phần trăm ốm bệnh nảy sinh đầu tiên trong tâm trí, trong vô thức. Vợ
không bận tâm về bạn: thay vì thế ngược lại, khi bạn về từ văn phòng cô ấy đang
đợi để tranh cãi hay cô ấy bỏ lại bát đĩa cho bạn rửa. Nhưng khi bạn ốm, cô ấy
vây quanh bạn, cô ấy trở nên nồng nhiệt, cô ấy chăm sóc mọi thứ nhỏ bé, cô ấy
không tranh cãi... Bạn cảm thấy thoải mái.
Đây thực sự là chuyện không
lành mạnh: rằng khi bạn khó chịu, bạn cảm thấy thoải mái và khi bạn khoẻ bạn cảm
thấy khó chịu. Nhưng đây là tình huống này. Nếu vợ ốm chồng tới với hoa và kem.
Khi cô ấy ổn thoả, anh ta thậm chí không nhìn cô ấy - anh ta tới với tờ báo, mở
báo ra, và bắt đầu đọc.
Mọi người cứ chơi trò chơi về
việc bị bất hạnh. Bạn muốn hạnh phúc, nhưng chừng nào bạn chưa cắt bỏ đầu tư
vào bất hạnh, bạn không thể hạnh phúc được. Và hạnh phúc không phải là trách
nhiệm của ai đó khác hướng tới bạn, nhớ lấy. Không ai khác có thể làm cho bạn hạnh
phúc được. Nó là trưởng thành riêng của bạn, nhận biết riêng của bạn, năng lượng
hoạt động riêng của bạn - ngày càng cao hơn - cái cho bạn phúc lạc. Nhưng bạn
phải hiểu cơ chế vô thức sâu bên dưới - rằng bạn nói về hạnh phúc nhưng bạn ham
muốn bất hạnh.
Đó là lí do tại sao... Và bất
kì cái gì bạn muốn đều xảy ra! Thế giới này thực sự là chỗ phép thần. Nếu bạn
muốn bất hạnh nó sẽ xảy ra, nếu bạn muốn hạnh phúc nó sẽ xảy ra - bởi vì bạn là
nhân tố quyết định; bạn là cơ sở của mọi điều xảy ra cho bạn. Đây là toàn thể
luật nghiệp: bất kì cái gì bạn muốn, bạn làm, và nó xảy ra. Nếu bạn bất hạnh đó
là vì bạn muốn nó. Tôi lại có vẻ độc ác rồi. Hừmm?... bởi vì bạn tới tôi để được
an ủi. Tôi đáng phải nói với bạn, "Bạn bất hạnh vì cả thế giới đang âm mưu
chống lại bạn." Bạn cảm thấy thoải mái, nhưng thế thì tôi không giúp cho bạn.
Tôi giúp cho ốm bệnh của bạn; tôi làm cho bạn ngày càng loạn thần kinh hơn.
Không. Không ai chịu trách nhiệm
cho bất hạnh của bạn ngoại trừ bạn. Và điều này dứt khoát là vậy. Không có ngoại
lệ cho nó. Điều này rất khoa học - tuyệt đối khoa học - luật: bạn chịu trách
nhiệm. Để điều này xuyên thấu vào trong tâm trí bạn rằng duy nhất bạn chịu
trách nhiệm. Bất kì khi nào bạn cảm thấy bất hạnh, đau khổ, buồn, biết rõ rằng
bạn đang tạo ra nó. Và nếu bạn muốn tạo ra, tốt thôi. Tận hưởng nó đi. Thế thì
đừng đòi về hạnh phúc. Thế thì cứ thảnh thơi trong nó: cứ buồn, cứ bất hạnh, trở
thành đêm tối đi. Tôi không nói rằng bạn phải trở thành ngày; không cần. Nếu bạn
thích là đêm tối, là nó đi - nhưng thế thì đừng đòi ngày. Rắc rối nảy sinh: bạn
níu bám lấy đêm và bạn đòi ngày. Bạn tới tôi và tôi thấy. Bạn đòi im lặng - và
tôi thấy bạn đang níu bám vào tiếng ồn, ý nghĩ, suy nghĩ. Bạn đòi an bình và bạn
níu bám lấy những thứ sẽ không cho phép bạn được an bình. Cho nên dọn sạch đống
lộn xộn này trong bạn đi.
Mọi người đều cần, họ bao giờ
cũng cần, nhưng họ sẽ không tới bởi vì họ có thể sợ. Mọi người tới tôi, và thỉnh
thoảng họ trở nên sợ hạnh phúc cái bắt đầu phát triển bên trong họ - cái gì đó
không quen thuộc thế.
Có lần chuyện xảy ra, George
Bernard Shaw nói về một người với ý rất kết án. Một người bạn chung cho hai người
này, người biết rõ George Bernard Shaw và biết rõ người kia, nói với George
Bernard Shaw, "Tôi biết rõ rằng ông không biết ông ấy chút nào; và ông
đang kết án ông ấy bằng những từ nào đó - và tôi biết rằng ông thậm chí chưa từng
được giới thiệu với ông ấy. Ông thậm chí không có quen biết xa xăm nào, cho nên
nếu ông thực sự muốn biết người này, có lẽ tôi nên đưa ông ấy tới và giới thiệu
ông ấy với ông chăng?" George Bernard Shaw nói, "Không, không - bởi
vì nếu ông giới thiệu ông ấy tôi dễ thích ông ấy."
Đó là rắc rối. Mọi người có thể
khổ, nhưng bạn đem họ tới tôi: có khả năng họ có thể trở nên hạnh phúc. Đó là nỗi
sợ. Có khả năng họ có thể trở nên an bình. Đó là nỗi sợ. Cho nên thay vì tới
tôi họ sẽ nói chống lại tôi. Họ đang nói chống lại tôi không phải để thuyết phục
ai đó khác; họ đang nói chống lại tôi để thuyết phục bản thân họ cho nên họ
không cần tới tôi. Tâm trí rất tinh ranh và cứ giở trò với bạn, và chừng nào bạn
chưa thực sự nhận biết bạn không bao giờ có thể thoát ra khỏi toàn thể đống lộn
xộn này mà chính là tâm trí.
Câu hỏi thứ sáu
Nếu Lão Tử và Patanjali gặp gỡ hôm nay họ
có thể hoà hợp giáo huấn của họ về phát triển tâm linh không? Nếu trong phật
tính của họ không tồn tại phân biệt giữa họ tại sao giáo huấn của họ khác nhau
thế. Và tại sao đã không có một thầy trước thầy trong mọi thời đại, người đã tổ
hợp và tổng hợp tất cả các giáo huấn của chư phật quá khứ?
Câu hỏi này có ba bước. Bước thứ
nhất: "Nếu Lão Tử và Patanjali gặp gỡ hôm nay họ có thể hoà hợp giáo huấn
của họ về phát triển tâm linh không?"
Nếu họ gặp gỡ họ sẽ không thấy
rằng có gì phải hoà hợp cả - mọi thứ đều được hoà hợp rồi. Họ sẽ ôm choàng
nhau, ngồi cầm tay nhau, nhưng sẽ không nói. Họ có thể đã làm điều đó ở đâu đó
trên cõi trời; bởi vì mọi thứ được hoà hợp rồi. Vấn đề là với bạn, không phải với
họ. Vấn đề dành cho những người đang trên đường, không dành cho người đã đạt tới
đích, bởi vì tại đích mọi thứ được hoà hợp. Đích là một; đường là nhiều. Đi
trên một đường bạn cảm thấy rằng ai đó khác đang đi trên đường khác, nhưng đạt
tới đích bạn đột nhiên trở nên nhận biết rằng mọi người đều đạt tới cùng một
đích. Chân lí là một.
Cho nên không có vấn đề về việc
hoà hợp nào. Không cần bất kì tổng hợp nào; mọi thứ là được tổng hợp tuyệt đối
rồi. Họ có thể có tiếng cười rõ to hay chén trà, nhưng sẽ không có bất kì thảo
luận triết lí nào - chừng nấy là chắc chắn. Họ có thể chơi bài hay cái gì đó
khác vô nghĩa, nhưng không có thảo luận lí trí nào diễn ra ở đó. Tôi bao giờ
cũng nghĩ rằng trên cõi trời, nơi những người được giải thoát ở, họ sẽ làm gì
nhỉ? Họ phải chơi bài, chơi cờ - toàn những thứ vô nghĩa. Cái gì?... bạn sẽ làm
cái gì ở đó? Chơi đùa thôi. Đấy không phải là trò chơi ở đó, bởi vì trò chơi trở
nên nghiêm chỉnh. Chơi đùa chỉ là chơi đùa. Bạn tận hưởng nó, cũng giống như trẻ
nhỏ.
Phần thứ hai của câu hỏi này:
"Nếu trong phật tính của họ không phân biệt nào tồn tại giữa họ, tại sao
giáo huấn của họ khác nhau thế?"
Giáo huấn là khác nhưng thầy
giáo không khác. Chỉ tồn tại một thầy giáo thôi. Giáo huấn là khác bởi vì học
sinh là khác, đệ tử là khác. Patanjali đang nói cho một loại người khác - bạn
phải hiểu điều này. Lão Tử nói cho người có phẩm chất khác.
Ở Ấn Độ ngay cả huyền môn cũng
là hiện tượng rất, rất logic. Ấn Độ là một nước rất, rất tư duy: nó nghĩ về
"điều không thể nghĩ được" nữa; nó lí thuyết hoá về cái mà không thể
được lí thuyết hoá; nó định nghĩa cái mà không thể được định nghĩa. Toàn thể
kinh sách Ấn Độ đầy những... Họ sẽ cứ nói, "Thượng đế không thể được định
nghĩa" - và họ sẽ định nghĩa. Và họ sẽ nói, "Chân lí là không thể được
định nghĩa" - và trong việc nói điều này họ đã định nghĩa nó; họ đã chỉ ra
một phẩm chất, về tính không định nghĩa được. Họ cứ nói, "Không cái gì có
thể được nói về Thượng đế” và ngay lập tức họ sẽ nói, "Ngài ở bên trong bạn"
hay "Ngài đã tạo ra tất cả" hay "Ngài là tất cả."
Ấn Độ là nước suy tư. Nó thích
suy nghĩ. Nó yêu suy nghĩ nhiều tới mức điều đó đã trở thành không thực dụng. Mọi
người thích suy nghĩ, và họ nghĩ và nghĩ và họ trở thành không thực tế, gần như
không thực tế. Ấn Độ đã không tạo ra bất kì công nghệ khoa học nào. Nếu tâm trí
có tính thực tế tâm trí quan tâm tới làm cái gì đó. Ấn Độ là một nước tư duy
không thực tế; nó cứ nghĩ. Toàn thể công việc của cuộc sống dường như là để
nghĩ.
Trung Quốc của Lão Tử là khác
toàn bộ, và đệ tử mà Lão Tử đã tụ tập quanh ông ấy...Và đây không phải là truyền
thống mới mà Lão Tử đang quảng bá. Nó đã tồn tại ít nhất năm nghìn năm trước
Lão Tử. Nó là rất, rất cổ đại. Trung Quốc trong những ngày đó là nước không suy
nghĩ: ít suy tư và nhiều tính thiền. Nó không quan tâm về suy nghĩ, lí thuyết
hoá, triết lí hoá. Trung Quốc đã không cho thế giới triết lí hay - Ấn Độ đã
cho. Với hầu hết các triết lí mà bạn có thể bắt gặp ở bất kì đâu, bạn bao giờ
cũng sẽ thấy hạt mầm ở Ấn Độ. Thỉnh thoảng điều đó trở hiện tượng đáng ngạc
nhiên.
Bạn không thể quan niệm được bất
kì triết lí nào trên thế giới mà không có điều song song ở Ấn Độ. Mọi thứ đã từng
được nghĩ tới ở bất kì đâu khác đều đã được nghĩ tới ở Ấn Độ. Trong suy nghĩ bạn
không thể cạnh tranh được với người Ấn Độ. Không phải người Ấn Độ ngày nay đâu
- tôi không nói về người Ấn Độ ngày nay. Họ chỉ là tàn tích của vinh quang quá
khứ. Thực ra, Ấn Độ không còn tồn tại. Ấn Độ của Phật, Ấn Độ của Patanjali, Ấn
Độ của Upanishads và Vedas, không tồn tại chút nào. Họ nghĩ và nghĩ và họ đã tạo
ra các lí thuyết hoành tráng về thế giới, nhưng chúng không theo kinh nghiệm,
chúng không thực tế.
Trung Quốc khác toàn bộ. Họ
không quan tâm tới suy tư về các lí thuyết; thay vì thế, họ quan tâm tới việc sống.
Họ quan tâm tới hiện hữu, nhiều hơn suy nghĩ. Và Lão Tử là cực đỉnh.
Khi Bồ đề đạt ma tới Trung Quốc
hai dòng chảy này gặp gỡ - thiền kiểu Lão Tử và suy tư của Phật. Họ gặp gỡ, và
một trong những điều đẹp nhất đã được sinh ra, đó là Thiền. Nó có phẩm chất của
Phật và nó có phẩm chất của Lão Tử. Nó không là Phật giáo không là Lão giáo; nó
là cả hai. Nó là con lai vĩ đại nhất đã từng xảy ra trên trái đất.
Patanjali là rất logic, logic
trong thế giới của điều bí ẩn. Ông ấy đi từng bước một, phân tích. Ông ấy có thể
đã thoả mãn cho bất kì Einstein nào, bất kì Wittgenstein hay Russell. Lão Tử có
thể đã không thoả mãn cho Einstein, ông ấy có thể đã không thoả mãn cho Russell
hay Wittgenstein, vì ông ấy sẽ có vẻ ngớ ngẩn. Ông ấy nói sáng chế vô nghĩa.
Nhưng Patanjali chắc đã thoả mãn cho bất kì tâm trí khoa học nào, dù lớn thế
nào, bởi vì ông ấy nói khoa học thế và ông ấy đi dần dần thế, từng bước một, chỉ
ra mọi móc nối.
Giáo huấn là khác vì Patanjali
được sinh ra ở Ấn Độ, nói cho người Ấn Độ - một nước rất suy tư. Lão Tử nói cho
các nhà huyền môn, một nước có tính rất thiền vào những ngày đó. Cả hai đã nói
cho những người khác nhau; các kiểu đệ tử khác nhau tụ tập quanh họ. Việc dạy
khác nhau vì việc dạy dành cho người được dạy. Thầy giáo không khác. Nếu bạn bỏ
Patanjali một mình và Lão Tử một mình họ sẽ hệt như nhau, nhưng nếu Patanjali ở
cùng với học sinh của ông ấy và Lão Tử ở cùng đệ tử của ông ấy, họ sẽ khác biệt.
Nếu Patanjali và Lão Tử im lặng, họ là như nhau, nhưng nếu họ nói với ai đó họ
sẽ khác. Thầy giáo phải dạy tương ứng theo đệ tử - hiểu biết của người đó, huấn
luyện của người đó, năng khiếu của người đó, thông minh của người đó, ước định
của người đó. Thầy phải mang giáo huấn của mình xuống mức của học sinh; bằng
không ông ấy không phải là thầy giáo. Đó là lí do tại sao các giáo huấn khác biệt.
Và một điều nữa: có hai kiểu
người. Một kiểu, người rất, rất dũng cảm và điên rồ lấy cú nhảy; thực ra, dũng
cảm một cách hiểm nguy, bất hợp lí. Trong tâm trạng nào đó họ có thể lấy cú nhảy;
họ không bận tâm về hậu quả. Và thế rồi có kiểu người khác - ngần ngại, sẽ làm
mọi điều chắc chắn về cái gì sẽ xảy ra, về hậu quả và kết quả; chỉ thế thì người
đó mới hành động. Patanjali có hấp dẫn với những người muốn được thuyết phục
trước cú nhảy. Lão Tử dành cho những người không bận tâm tới bất kì thuyết phục
nào; họ sẵn sàng nhảy. Với hai kiểu khác nhau này, hai giáo huấn khác nhau tồn
tại, nhưng thầy giáo là như nhau.
Phần thứ ba: "Và tại sao
đã không có một thầy trước thầy trong mọi thời đại, người đã tổ hợp và tổng hợp
mọi giáo huấn của chư phật quá khứ?"
Không có nhu cầu; bây giờ nhu cầu
tồn tại. Trong quá khứ thế giới đã bị phân chia. Thế giới là rất, rất lớn. Mọi
người vẫn còn bị hạn chế trong nước riêng của họ. Các giáo huấn đã không gặp gỡ:
người Mô ha mét giáo đã sống như người Mô ha mét giáo, chưa bao giờ nhận biết về
điều Vedas nói; người Hindu đã sống như người Hindu, chưa bao giờ biết thực sự
điều Zarathustra đã dạy. Nhưng bây giờ thế giới đã trở thành rất nhỏ, cái làng
toàn cầu; thế giới đã co lại vô cùng. Bây giờ mọi người đều biết mọi thứ khác:
người Ki tô giáo không chỉ là người Ki tô giáo - người đó biết Gita nói gì, người
đó biết điều Koran nói gì. Bây giờ có lẫn lộn; bởi vì Koran nói cái gì đó, Gita
nói cái gì đó, Kinh Thánh nói cái gì đó khác. Bây giờ mọi người đều nhận biết về
mọi thứ khác ở xung quanh. Mọi người liên tục di chuyển từ nước này sang nước
khác, từ thầy giáo này sang thầy giáo khác. Có nhiều người ở đây, những người
đã từng ở cùng nhiều thầy giáo; bây giờ họ là đống lộn xộn.
Sự tổng hợp lớn được cần. Trong
tương lai, tôn giáo sẽ không có khả năng tồn tại tách biệt, không. Điều đó sẽ
trở thành không thể được. Tôi đang tạo ra cơ sở cho ngôi đền mới - mà cũng sẽ
là nhà thờ nữa, là nhà thờ hồi giáo, nhà thờ Do Thái giáo. Tôi đang tạo ra cơ sở
cho người tôn giáo mà không là người Ki tô giáo không là người Hindu giáo không
là người Mô ha mét giáo, chỉ là người tôn giáo. Bây giờ thời gian đang chín cho
việc tổng hợp lớn lao; nó chưa bao giờ như vậy.
Phật đã nói với những người
không phải là người Mô ha mét giáo. Jesus đã nói cho những người là người Do
Thái; Jesus nói dường như không tồn tại ai khác hơn người Do Thái. Ông ấy ấy
nói cho người Do Thái, nhưng bây giờ tôi đang nói cho ai? Ở đây có người Do
Thái, người Ki tô giáo, người Mô ha mét giáo, người Jaina, Phật tử, người Sikhs
- tất cả đều ở đây. Bạn ở đây là thế giới thu nhỏ. Chẳng mấy chốc, khi mọi người
sẽ hiểu lẫn nhau nhiều hơn, khác biệt sẽ mất đi. Khi người Ki tô giáo sẽ hiểu
Gita thực sự, phân biệt giữa Gita và Kinh Thánh sẽ mất; chúng sẽ trở thành một
toàn thể.
Đó là lí do tại sao tôi đang cố
gắng nói về mọi hệ thống và mọi thầy, để cho cơ sở có thể được tạo ra. Ngôi đền
của tương lai, con người tôn giáo của tương lai sẽ đứng trên cơ sở đó. Người đó
sẽ không là người Ki tô giáo. Thực ra trong tương lai nếu ai đó là người Ki tô
giáo, người đó sẽ có vẻ hơi lạc hậu, và nếu ai đó là người Hindu người đó sẽ có
vẻ hơi ngu, và nếu ai đó vẫn cứ khăng khăng rằng mình là người Mô ha mét giáo,
người đó sẽ không là người đương đại - người đã chết. Tương lai là dành cho tôn
giáo - trong đó mọi tôn giáo sẽ quyện lẫn và gặp gỡ và tan biến.
Đó là lí do tại sao nó đã không
được cần tới trong quá khứ. Bây giờ nó được cần tới. Bây giờ con người đang ở
quanh một trong những điểm ngoặt vĩ đại nhất. Điều đó bao giờ cũng xảy ra sau
hai mươi nhăm thế kỉ rằng nhân loại lấy lối ngoặt; vòng tròn là đầy đủ. Tâm thức
con người đã lấy một lối ngoặt vào thời của Phật. Bây giờ hai mươi nhăm thế kỉ
đã qua rồi và lối ngoặt ở ngay trong tương lai gần. Những người tỉnh táo sẽ được
lợi nhất bởi việc rẽ đó bởi vì họ có thể dùng con sóng triều đó. Họ có thể cưỡi
lên con sóng đó; họ có thể về tới nhà dễ dàng. Khi biển đang lúc triều xuống
khó mà đạt tới bờ. Khi biển đang lúc triều lên, sóng đi tới bờ theo cách riêng
của nó - bạn chỉ bỏ thuyền cho chúng và chúng mang bạn.
Trong vòng hai mươi nhăm năm nữa
một trong những điểm có ý nghĩa nhất của lịch sử sẽ được đạt tới và tâm thức
con người sẽ lấy lối ngoặt. Nếu bạn sẵn sàng và có tính thiền vào khoảnh khắc
đó, nhiều điều là có thể mà sẽ không có thể lần nữa trong hai mươi nhăm thế kỉ.
Vào thời của Patanjali đã có lối ngoặt; Patanjali đã tồn tại hai mươi nhăm thế
kỉ trước Phật. Điều này bao giờ cũng là vậy.
Nó cũng giống như trái đất quay
một vòng quanh mặt trời trong một thời kì thời gian nào đó: toàn thể tâm thức
con người đi theo vòng tròn và tới cội nguồn trong một thời gian nào đó, đó là
hai mươi nhăm thế kỉ. Khoảnh khắc mấu chốt đang ở gần. Nó có thể trở thành rất
triệt để. Nếu trong tâm trí mình bạn được tổng hợp, bạn sẽ có khả năng dùng lối
ngoặt đó. Nếu bạn không được tổng hợp - bạn vẫn còn là người Mô ha mét giáo, bạn
vẫn còn là người Ki tô giáo - bạn vẫn còn lạc hậu, bạn vẫn còn của quá khứ. Bạn
không ở đây; bạn không sẵn có cho hiện tại. Làm cho bạn thành sẵn có cho hiện tại,
làm bạn có năng lực hiểu điều sắp xảy ra sớm, đó là điều toàn thể việc tổng hợp
này tất cả là gì.
Câu hỏi thứ bẩy
Thầy ngụ ý gì bởi việc nói cho chúng tôi,
"Nghe theo tiếng nói bên trong của bạn và hành động tương ứng," trong
khi vẫn biết rõ rằng chúng tôi chỉ có tiếng nói của tâm trí? Trống rỗng có tiếng
nói nào không?
Vâng. Trống rỗng có tiếng nói
riêng của nó. Đúng theo từ, nó không phải là tiếng nói; nó là thôi thúc. Nó
không phải là âm thanh, nó là im lặng. Không ai nói cái gì đó để làm; bạn đơn
giản cảm thấy thích việc làm. Lắng nghe tiếng nói bên trong nghĩa là để mọi thứ
cho cái trống rỗng bên trong. Thế thì nó hướng dẫn bạn. Bạn bao giờ cũng đi
đúng nếu bạn đi vào trống rỗng. Nếu bạn có trống rỗng bên trong, không cái gì
có thể đi sai. Trong trống rỗng không cái gì đã bao giờ đi sai - đó là chính
tiêu chuẩn của việc là đúng, bao giờ cũng đúng. Vâng, trống rỗng có tiếng nói
riêng của nó, im lặng có âm nhạc riêng của nó, bất động có điệu vũ riêng của
nó; nhưng bạn sẽ phải đạt tới nó.
Tôi không nói nghe theo tâm
trí. Thực ra tâm trí không phải là của bạn. Khi tôi nói, "Nghe theo tiếng
nói riêng của bạn," tôi ngụ ý vứt bỏ mọi cái mà xã hội đã trao cho bạn -
tâm trí bạn được xã hội trao cho. Tâm trí bạn không phải là của bạn. Nó là xã hội,
là ước định; nó có tính xã hội. Trống rỗng là của bạn; tâm trí không phải là của
bạn. Tâm trí là có tính Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Ki tô giáo; tâm trí có tính
cộng sản, chống cộng sản, tư bản. Trống rỗng là không cái gì, không có ai; nó
là shunya. Trong cái shunya, cái không đó là sự trong trắng của bản thể bạn.
Nghe theo nó đi.
Khi tôi nói nghe theo nó, tôi
không ngụ ý có ai đó nói với bạn. Khi tôi nói nghe nó tôi ngụ ý sẵn có cho nó,
trao tai bạn và bản thể bạn cho nó; và nó sẽ hướng dẫn bạn. Và nó không bao giờ
dẫn sai bất kì ai. Từ cái không bất kì cái gì tới đều đẹp, đều đúng, đều tốt, đều
là phúc lành.
0 Đánh giá