Read more
Chuyến bay của
một mình tới một mình
Bài giảng về Kaivalya Upanishad
Chương 15. Tan
chảy là biết
Ta là thực tại tối thượng không
thể quan niệm nổi, không tay và không chân. Ta thấy không qua mắt, ta nghe
không qua tai. Tự do với mọi hình dạng, ta là người biết tất cả. Nhưng không ai
có thể biết ta. Ta là tâm thức vĩnh hằng.
Trước khi đi vào lời kinh này,
hiểu vài từ sẽ là tốt. Lời kinh này đang chỉ tới cái đang đó, vậy mà không có
thân thể, hướng tới cái đang đó, vậy mà không có hình, hướng tới cái đang đó, vậy
mà không có dạng.
Hình, dạng và thân thể là thấy
được với chúng ta, nhưng cái không thấy được với chúng ta cũng tồn tại. Tôi
nhìn vào bạn và điều tôi thấy không phải là bạn thực - bởi vì điều bạn là thực
thì không thể thấy được bằng mắt tôi. Tôi thấy tay bạn, tôi thấy chân bạn, tôi
thấy thân thể bạn, da bạn, mắt và tai bạn - nhưng tôi không thấy bạn. Không có
cách nào để biết bạn từ bên ngoài theo cùng cách mà bạn tự kinh nghiệm bản thân
mình từ bên trong.
Bạn tin rằng người khác có linh
hồn, nội tâm, chỉ bởi vì bạn có thể quan niệm về linh hồn bên trong bản thân
mình. Bằng không, chỉ thân thể người khác là thấy được; liệu có hay không cái
gì đó khác bên trong nó là không thấy được. Bên trong cái ta riêng của mình bạn
cảm thấy rằng có cái gì đó còn hơn thân thể: đây là lí do tại sao bạn suy luận
rằng điều đó cũng thế bên trong người khác. Nhưng bạn không thể thấy được nó
trong người khác, và điều bạn có thể thấy là khác với nó. Đó là lí do tại sao một
ngày nào đó chuyện xảy ra là điều bạn đã biết là sống hôm qua lại chết hôm nay.
Mọi thứ đều là một như nó bao giờ cũng thế cho tới hôm qua, vậy mà chẳng cái gì
còn là như cũ nữa. Điều đã là thấy được vẫn là thấy được, điều các giác quan có
thể cảm nhận vẫn có đó, nhưng cái gì đó ở bên ngoài việc hiểu thấu của các giác
quan đã biến mất rồi, đã đi mất rồi. Và cái đã đi mất đó cũng không bao giờ được
thấy khi nó đi mất. Thân thể chết, nó bị phá huỷ, nó bị phân huỷ, nhưng chẳng
cái gì đã được thấy là đang bỏ lại thân thể.
Đây là lí do tại sao các nhà khoa
học bao giờ cũng nói rằng con người không có linh hồn bên trong, rằng linh hồn
không là gì ngoài một phần của thân thể vật lí. Nó không là gì ngoài tổng của
các bộ phận của thân thể, cũng như khi cái đồng hồ chạy thì không linh hồn nào
cai quản nó cả; nó là sự lắp ghép các bộ phận cơ khí. Khi máy này vỡ ra, chúng
ta không hỏi linh hồn của nó đã đi đâu. Chưa bao giờ có linh hồn nào trong nó để
bắt đầu.
Cho tới giờ, các nhà khoa học,
các nhà tư tưởng khoa học, đã từng nói rằng thân thể cũng là cái máy, và rằng
hoạt động đang xảy ra như kết quả của việc hợp tác của tất cả những bộ phận máy
móc này là cuộc sống. Họ nói rằng cuộc sống không phải là cái gì đó tách rời khỏi
thân thể này. Đây đã từng là nguyên nhân cho những tranh luận sôi nổi thường
xuyên và, dù vô tình hay hữy ý, nhân loại đã trở nên bị phân chia thành hai
nhóm: nhóm này không tin rằng con người là máy, và nhóm kia tin rằng con người
là máy. Nhóm tin rằng con người không phải là máy cũng không thể nào tin được rằng
vũ trụ là máy. Với nhóm tin rằng con người là máy, họ chẳng khó khăn gì mà tin
rằng mọi thứ trong cuộc sống chỉ là máy mà thôi. Với họ, toàn thể vũ trụ chỉ là
máy.
Quan điểm của người duy vật là ở
chỗ vũ trụ mang tính máy móc, ở chỗ không có tâm thức trong nó. Quan điểm của
người tôn giáo là ở chỗ vũ trụ không phải là máy, ở chỗ điều có vẻ như máy móc
thì chỉ là cái vỏ ngoài thôi; tâm thức ẩn kín trong nó là không thấy được.
Làm sao sự tồn tại của cái
không thấy được có thể được chứng minh? Làm sao kinh nghiệm cái không thấy được
này? Làm sao chấp nhận được sự tồn tại của cái không thấy được? Làm sao bạn có
thể cảm thấy sự tin cậy và tôn kính nó được? Mãi cho tới giờ, nó đã không xảy
ra qua logic. Người tôn giáo đã đưa ra nhiều luận cứ, nhưng chúng tất cả đều đã
chứng tỏ là vô tích sự. Người tôn giáo đã đưa ra nhiều bằng chứng, nhưng tất cả
đều trẻ con; họ đã không có khả năng chứng minh điều đó qua logic. Logic của
người duy vật rất sâu sắc, rất có ý nghĩa. Và nếu một quyết định phải được đưa
ra chỉ dựa trên logic, thế thì người duy vật sẽ thắng. Nếu một mình logic mà
quyết định, người duy vật sẽ thắng. Người tôn giáo không thể thắng được qua
logic của mình. Vậy mà trên đường dài, chính người tôn giáo thắng - và lí do
cho điều đó không phải bởi vì logic. Lí do là ở chiều hướng khác: chiều của
kinh nghiệm.
Có một số điều trong cuộc sống
chỉ có thể được biết tới qua kinh nghiệm. Nhiều điều trong cuộc sống chỉ có thể
được kinh nghiệm. Và điều đó càng đúng và càng thực, điều đó càng đẹp, điều đó
càng sâu sắc - càng khó đạt tới, nó càng huyền bí hơn, con đường duy nhất tới
nó sẽ càng nhiều kinh nghiệm hơn.
Không có cách nào để giải thích
cho người mù qua logic rằng sáng tồn tại. Hay bạn cho rằng có logic nào đó có
thể thuyết phục được người mù rằng có sáng? Cho tới giờ, không logic nào đã từng
có khả năng thuyết phục người đó - nói gì về sáng? Bạn thậm chí không thể thuyết
phục được người mù về sự tồn tại của tối! Bình thường, bạn cho rằng người mù phải
thấy tối chứ, nhưng điều này không đúng: người mù không thấy ngay cả tối. Ngay
cả để thấy tối, vẫn cần có mắt. Cho nên đừng nghĩ rằng người mù sống trong tối:
để thấy tối bạn phải có mắt. Sáng và tối cả hai đều là kinh nghiệm của mắt.
Cho nên bạn không thể nói cho
người mù rằng sáng là cái đối lập của tối. Bạn thậm chí không thể nói được điều
này cho người đó, bởi vì người đó không có kinh nghiệm về tối. Người đó không
có kinh nghiệm chút nào về chiều hướng thấy. Với người đó, tối và sáng không tồn
tại. Người đó không nhận thông tin nào về bất kì cái gì ở bên trong mình về
sáng và tối. Cho nên bao nhiêu luận cứ chúng ta có thể trình bày cũng chẳng
thành vấn đề, nó tất cả đều vô nghĩa bởi vì nó sẽ chẳng tạo ra nghĩa nào cho người
đó. Không tin cậy nào có thể nảy sinh trong người mù dựa trên logic này. Thực tế
là ở chỗ bất kì ai dùng logic để chứng minh sự tồn tại của sáng cho người mù, đều
là kẻ ngu. Người mù đơn giản mù, nhưng người dùng logic là người ngu. Người đó
là người ngu bởi vì người đó không hiểu rằng chỉ có một luận cứ logic về sáng,
và đó là có mắt. Giống thế, nếu ai đó không có tai, thế thì không có cách nào
trong sự tồn tại để người đó biết rằng có điều như âm thanh.
Về điều này, có cái gì đó rất
sâu sắc đáng để ý. Sẽ hơi chút khó hiểu, nhưng về sau khoa học cũng đã nghiêng
về điều này ngày một nhiều hơn.
Bạn có thể đã thấy mây trên trời
sau khi trời mưa và chỗ mà từ một phía mặt trời ló ra và tạo ra cầu vồng. Bạn
đã bao giờ nghĩ về điều này chưa, rằng nếu bạn nhắm mắt lại, thì liệu cầu vồng
vẫn còn trên trời không? Bạn sẽ nói, “Cái gì liên quan tới mắt tôi? Tôi có thể
nhắm mắt, nhưng cầu vồng sẽ vẫn có đó chứ.” Nhưng khoa học nói rằng khoảnh khắc
bạn nhắm mắt lại, cầu vồng sẽ không tồn tại bởi vì để cầu vồng tồn tại, cần có
tia sáng mặt trời, cần có giọt nước, và cần có cả mắt nữa - ba điều này cần phải
có. Nếu tia sáng mặt trời đi qua hạt nước ở góc nào đó và gặp mắt ở góc nào đó,
chỉ thế thì cầu vồng mới được tạo ra. Đừng nghĩ rằng cầu vồng duy nhất có đó: mắt
bạn đang tham gia vào việc tạo ra nó đấy. Điều này nghĩa là nếu như không có
người nào trên trái đất để nhìn chúng, thì cầu vồng sẽ không bao giờ hình
thành! Mắt bạn đóng vai trò tương đương với tia sáng và hạt nước trong việc
hình thành cầu vồng.
Dễ dàng hiểu điều này về cầu vồng,
nhưng bạn cũng có thể hiểu rằng nếu như không có mắt trên trái đất, sẽ không có
ánh sáng sao? Điều này sẽ dường như khó hiểu thấu hơn chút ít, nhưng nó không hẳn
như vậy đâu. Bây giờ các nhà khoa học hoàn toàn đồng ý rằng nếu như không có
con mắt nào trên trái đất, cũng sẽ không có ánh sáng, bởi vì sự tồn tại của tia
sáng mặt trời và trong kinh nghiệm về ánh sáng mặt trời, mắt cũng cần như tia
sáng mặt trời vậy. Ánh sáng là sự gặp gỡ giữa tia sáng và mắt: nơi mắt gặp tia
sáng, ánh sáng được sinh ra. Ánh sáng là một kinh nghiệm, nó không phải là một
vật.
Cố hiểu điều đó theo cách này.
Bạn đang ngồi trong phòng: có bức màn mầu sắc khác nhau treo ở đó, đồ đạc có mầu
khác nhau, có sách với nhiều mầu khác nhau, tường được sơn với mầu nào đó; có
nhiều mầu khác nhau trong phòng. Bạn đã bao giờ để ý rằng khi bạn tắt đèn đi
thì ghế đỏ của bạn không còn đỏ nữa và màn xanh lục của bạn không còn xanh lục
nữa không? Đây là sự kiện khoa học, nó chẳng liên quan gì tới tâm linh cả. Khi
tia lục được phản xạ lại từ bức màn và chúng rơi vào mắt bạn, bức màn trông mầu
lục. Điều này sẽ có vẻ rất mâu thuẫn cho bạn, rằng bức màn mầu lục cho lại tia
lục; nó hấp thu tất cả các tia mầu khác ngoại trừ mầu lục - cho nên thực tế nó
có thể là bất kì mầu nào bên cạnh mầu lục. Nó cho lại tia lục, và khi những tia
trở lại này gặp mắt bạn thì bức màn có vẻ mầu lục bởi vì những tia lục quay lại
này.
Nhưng nếu không có mắt trong
phòng... Giả sử có ánh sáng trong phòng, nhưng không có mắt; căn phòng bị khoá
và không ai ở trong nó: thế thì bức màn sẽ không mầu lục đâu và ghế cũng không
mầu đỏ và tường sẽ không mầu vàng. Chữ in trong sách sẽ không đen và trang giấy
sẽ không trắng. Trong bóng tối của đêm, khi không có mắt không có ánh sáng, mọi
thứ đều thành không mầu. Kinh nghiệm về ánh sáng là kinh nghiệm tổ hợp của sự
hiện diện của tia sáng và sự hiện diện của mắt. Do đó, không có cách nào để làm
cho người mù kinh nghiệm được ánh sáng trong việc thiếu cái nhìn. Nói cách
khác, logic là vô dụng cho việc cảm nhận ánh sáng. Bất kì ai cũng có thể hiểu
được rằng nếu họ cố giải thích ánh sáng cho người mù, điều đó là vô tích sự; tốt
hơn cả là để mắt người đó được chữa đã.
Nhưng bạn cũng cố để quyết định
về linh hồn qua logic. Linh hồn cũng là kinh nghiệm - và chừng nào bạn còn chưa
có con mắt của thiền, bạn không thể kinh nghiệm nó được. Đây là lí do tại sao
thiền đã được gọi là con mắt thứ ba. Điều bạn thấy khi con mắt thứ ba này mở ra
là linh hồn đấy. Và thế thì điều bạn thấy không có tay không có chân; nó không
có thân thể, nó là vô hình. Nó là tâm thức thuần khiết. Và nếu điều bạn thấy được
kinh nghiệm trong sự thuần khiết toàn bộ của nó, chỉ thế thì bạn mới có khả
năng hiểu được lời kinh này.
Trong lời kinh này hiền nhân
này nói:
Ta là thực tại tối thượng không
thể quan niệm nổi, không tay và không chân...
...Bởi vì suy nghĩ là có thể chỉ
khi cái gì đó tới bên trong việc cảm nhận của các giác quan. Giới hạn của giác
quan là giới hạn của suy nghĩ. Suy nghĩ có thể xảy ra chỉ tới chừng mực mà giác
quan có thể cảm nhận được. Suy nghĩ là kẻ đi theo sau giác quan. Điều mắt bạn
thấy, tâm trí bạn có thể nghĩ tới, và điều mắt bạn không thấy, tâm trí bạn
không thể nghĩ tới được.
Mọi người nói rằng những điều
nào đó là "toàn tưởng tượng” - nhưng tưởng tượng cũng dựa trên kinh nghiệm
của bạn. Tưởng tượng không chỉ là tưởng tượng: nó là tổ hợp của hai hay nhiều
kinh nghiệm thực tế. Bạn có thể nói rằng bạn chưa bao giờ thấy bất kì con ngựa
vàng nào bay trên trời, nhưng bạn có thể tưởng tượng điều đó. Bạn đã thấy các vật
bay, bạn đã thấy các vật bằng vàng và bạn đã thấy ngựa: bây giờ, bạn chỉ tổ hợp
những kinh nghiệm này lại, không có tưởng tượng trong nó. Bạn đơn giản tổ hợp
ba kinh nghiệm lại, nhưng tất cả những kinh nghiệm này đều là của riêng bạn. Nếu
bạn có thể xoay xở để tưởng tượng ngay cả một điều mà không có trong kinh nghiệm
của bạn theo bất kì cách nào, bạn đã làm được phép màu đấy. Điều đó chưa bao giờ
xảy ra cho tới giờ.
Bất kì cái gì bạn có thể nghĩ tới
cũng đều dựa trên kinh nghiệm nào đó đã từng được trao cho bạn bởi giác quan của
bạn. Tâm trí không phải là người lãnh đạo các giác quan, nó là kẻ theo sau các
giác quan. Tâm trí không phải là người chủ của các giác quan, nó chỉ là người
phục vụ của chúng. Mắt đóng góp, tai đóng góp, tay đóng góp, mũi đóng góp, lưỡi
đóng góp, và tâm trí tích luỹ lại tất cả những kinh nghiệm này và đi theo
chúng. Tâm trí bạn có thể nghĩ về một điều mà không phải là đóng góp của năm giác
quan của bạn không, điều không có liên quan gì tới năm giác quan của bạn không?
Nó không thể nghĩ được về một điều mà không có giác quan.
Có lẽ sẽ dễ dàng hơn nếu bạn cố
hiểu điều đó hơi khác đi. Có nhiều loại sinh vật trên trái Đất, và có một số sinh
vật chỉ có bốn giác quan. Giả sử cái chúng thiếu là khả năng nhìn: thế thì ánh
sáng sẽ không bao giờ đi vào trong thế giới cảm nhận của chúng. Có một số sinh
vật chỉ có ba giác quan: giả sử chúng cũng không có khả năng nghe - thế thì sẽ
chẳng bao giờ có kinh nghiệm gì về ánh sáng hay âm thanh trong cuộc sống của
chúng. Chúng thậm chí sẽ không có khả năng nghĩ, suy tư hay mơ về điều đó.
Bây giờ nghĩ về tình huống đối
lập với điều này. Nếu có cuộc sống ở đâu đó khác, trên hành tinh khác nào đó -
các nhà khoa học nói rằng có khả năng về cuộc sống ở trên quãng năm mươi nghìn
hành tinh khác - và người ở đó có sáu giác quan, thế thì bạn thậm chí sẽ không
có khả năng để tưởng tượng kinh nghiệm về giác quan thứ sáu của họ là gì, họ có
thể biết gì qua nó. Nếu có thể có ba và bốn giác quan, thế thì cũng có thể có
sáu giác quan, bẩy giác quan hay mười giác quan chứ. Nếu bạn bắt gặp một sinh
linh với mười giác quan, bạn sẽ không quan niệm được ngay cả trong những giấc
mơ hoang dã nhất của mình điều người đó có thể cảm nhận. Và cho dù người đó có
nói với bạn, bạn cũng sẽ không hiểu điều đó. Phát biểu của người đó sẽ có vẻ ngớ
ngẩn và vô nghĩa với chúng ta. Chúng ta có năm giác quan, cho nên chúng ta nghĩ
rằng đấng sáng tạo đã đi tới cuối cùng với năm giác quan. Những kẻ có bốn giác
quan, với họ sự sáng tạo này đi tới cuối cùng với bốn giác quan đó; những người
có ba giác quan nghĩ rằng việc sáng tạo này là đầy đủ với ba giác quan.
Con amip, con vật đơn bào, là
sinh vật nhỏ nhất - chúng chỉ có thân thể và không có giác quan; hay chúng ta
có thể nói rằng chúng được "cơ cấu" bằng một giác quan bởi vì chúng
chỉ có thân thể. Con amip là con vật sơ cấp nhất bởi vì nó chỉ có thân thể -
không mắt, không tai; chẳng cái gì khác cả. Nó sống chỉ qua thân thể của nó. Nó
thở qua thân thể, lấy thức ăn qua thân thể, di chuyển qua thân thể - nó không
có chân - và thân thể của nó là cái duy nhất liên tục phát triển. Tại điểm nào
đó thân thể của nó phân chia thành hai, đó là cách nó sinh sản. Nó không có
giác quan, nhưng nó nữa cũng phải có kinh nghiệm nào đó về thế giới; kinh nghiệm
của nó về thế giới phải là qua động chạm. Nó phải va đụng vào mọi thứ, mọi thứ
phải đi vào tiếp xúc với nó, cho nên kinh nghiệm của nó sẽ chỉ là động chạm. Thế
giới của amip sẽ rất đơn giản bởi vì trong đó chỉ một hiện tượng xảy ra, và đó
là chạm. Không có cách nào giải thích cho con amip rằng cũng có các thứ khác để
kinh nghiệm.
Hiền nhân này đã nói:
Ta là thực tại tối thượng không
thể quan niệm nổi...
Bạn chỉ có thể nghĩ về điều
giác quan có thể kinh nghiệm. Và giác quan không bao giờ có thể biết về thực tại
tối thượng. Mắt không thể thấy được nó mà tai cũng không thể nghe được nó mà
tay cũng không thể sờ được nó - nó vẫn còn ở bên ngoài cảm nhận của các giác
quan. Và bất kì cái gì ở bên ngoài cảm nhận của giác quan cũng đều không thể được
nghĩ tới bởi tâm trí. Không thể nào suy tư, không thể nào ngẫm nghĩ được.
Ta là thực tại tối thượng không
thể quan niệm nổi, không tay và không chân.
Đó là ta, người không thể quan
niệm nổi, không thể định nghĩa nổi, bên ngoài phản xạ và bên ngoài các giác
quan.
Sẽ có ích nếu bạn có thể hiểu
điều này từ bên trong. Bạn cảm thấy bản thân bạn. Đến mức này là chắc chắn - rằng
bạn nhận biết về sự tồn tại của bạn. Bạn đã bao giờ nghĩ về điều đó chưa, rằng
khi bạn trở nên nhận biết về các vật bên ngoài điều đó là qua giác quan của bạn?
Nhưng qua giác quan nào bạn trở nên nhận biết về sự tồn tại của bạn? Bạn biết
ánh sáng qua mắt, bạn biết âm thanh qua tai - nhưng qua giác quan nào bạn kinh
nghiệm bản thân bạn? Qua giác quan nào bạn kinh nghiệm rằng bạn hiện hữu? Sau rốt,
mọi người đều kinh nghiệm sự tồn tại riêng của mình. Ngay cả người vô thần và
người duy vật cũng kinh nghiệm điều này. Và cho dù ai đó nói, “Tôi không tồn tại,”
người đó phải có đó ngay cả để làm lời phủ nhận này. “Tôi” không thể bị phủ nhận,
bởi vì trong việc phủ nhận này có điều không thể tránh được cố hữu của việc hiện
hữu.
Một hôm, Mulla Nasruddin đưa tất
cả bạn bè của mình về nhà chơi. Anh ta bị lôi cuốn vào việc nói trong khi ngồi ở
quán cà phê. Rồi tới điểm anh ta nói, “Không có người nào hào phóng hơn tôi
trong làng này đâu nhé.”
Đấy chỉ là nói thôi. Mulla chẳng
có ý tưởng gì rằng điều này sẽ đưa anh ta vào rắc rối. Có hai mươi hay hai mươi
nhăm người bạn ở đó, và họ tất cả đều nói, “Nếu điều này là đúng, thế sao anh
chưa bao giờ mời chúng tôi tới nhà anh? Anh chưa bao giờ mời bất kì ai một chén
trà ở nhà anh! Cho nên nếu anh thực sự là người hào phóng, đưa chúng tôi về chỗ
anh ăn tối đêm nay đi.”
Mulla kích động tới mức anh ta
nói, “Đến đi, tất cả các bạn! Tôi mời tất cả các bạn đấy!”
Nhưng khi anh ta về gần nhà
mình hơn, anh ta cũng về gần vợ hơn. Anh ta bắt đầu cảm thấy sợ. Tại cửa nhà
mình anh gần như run bắn khi anh ta nhận ra loại rắc rối mình bị dính vào. Anh
ta sẽ nói gì với vợ mình đây? Thế là anh ta nói, “Các bạn ơi, đợi ở ngoài cửa một
phút nhé, bởi vì tất cả các bạn đều biết chuyện với vợ là thế nào. Để tôi thuyết
phục bà xã trước, và thế rồi tôi sẽ mời tất cả các bạn vào.”
Anh ta vào nhà và nói với vợ,
“Anh bị khó khăn quá! Do nhầm lẫn anh đã kết thúc với việc mời hai mươi nhăm
người bạn về cùng anh, vậy em có thể thu xếp bữa ăn cho họ được chứ?”
Vợ anh ta đã trong tâm trạng bực
tức rồi bởi vì Mulla cả ngày đã không về nhà. Cô ấy nói, “Anh vừa về nhà và phí
cả ngày ngoài trời, và bây giờ anh tới với vấn đề này! Hôm nay em chẳng nấu gì
cả!”
Mulla nói, “Thế thì làm một điều
này: em ra cửa bảo với họ rằng Mulla không có nhà.”
Chị vợ nói, “Anh điên à? Anh vừa
đưa họ về cùng anh xong!”
Mulla nói, “Thì em cứ thử xem
sao.”
Vợ Mulla đi ra và nói, “Cái gì
dẫn các bạn tới đây thế, các bạn tôn kính?”
Họ nói, “Cái gì đưa chúng tôi tới
đây à? Mulla đã mời chúng tôi và chúng tôi đã tới ăn tối đây.”
Chị vợ nói, “Mulla không có
nhà.”
Sửng sốt, các bạn nói, “Chính mắt
chúng tôi đã thấy anh ấy đi vào nhà cơ mà! Chính tai chúng tôi đã nghe đối thoại
của anh ấy trong nhà! Chúng tôi thậm chí đã nghe thấy anh ấy bảo chị ra nói với
chúng tôi là anh ấy không có nhà!”
Nghe toàn bộ cuộc tranh cãi
này, Mulla trở nên rất rối loạn. Anh ta thực sự bị kích động, cho nên anh ta mở
cửa sổ ra và hét lên, “Cũng có thể là mặc dầu Mulla có thể đã vào nhà trước mắt
các bạn đấy, anh ta cũng có thể đã đi ra theo lối cửa sau rồi chứ!”
Ai đó phủ nhận sự tồn tại riêng
của mình sẽ làm điều gì đó giống như Mulla. Ngay cả để phủ nhận, người này phải
có đó. Nhưng làm sao bạn đi tới biết về sự tồn tại của cái tôi này? Làm sao bạn
đã đi tới biết rằng bạn hiện hữu - bằng phương tiện nào, qua phương pháp nào, bằng
thiết bị nào? Qua giác quan nào hay qua trung gian nào bạn đã nhận được thông
tin rằng bạn hiện hữu? Điều này sẽ đẩy bạn vào khó khăn, bởi vì thông tin này
không được nhận qua bất kì giác quan nào của bạn. Kinh nghiệm về sự tồn tại
riêng của bạn không tới từ bất kì giác quan nào - bạn đơn giản biết rằng bạn hiện
hữu, chẳng có bằng chứng nào, chẳng có nhân chứng nào cho nó.
Hình dung rằng bạn bị kiện ở
toà, nơi bạn bị yêu cầu đưa ra nhân chứng, bằng chứng, rằng bạn hiện hữu. Vâng,
bạn có thể tìm ra các nhân chứng nói rằng đây là tên bạn, đây là tên của bố bạn.
Nhưng nếu toà nào đó cứ khăng khăng rằng bạn trước hết phải đưa ra nhân chứng
chứng minh rằng bạn tồn tại, thế thì bạn sẽ không thể nào làm thế được bởi vì
không có nhân chứng cho điều đó; đó là cảm nhận bên trong riêng của bạn, việc
nhận ra bên trong riêng của bạn. Nó là cảm nhận bên ngoài giác quan. Nó chẳng
liên quan gì tới giác quan của bạn cả; do đó không giác quan nào có thể là nhân
chứng cho nó.
Bạn cũng nên hiểu rằng cho dù tất
cả các giác quan của bạn có bị lấy đi khỏi bạn, dầu vậy, chẳng cái gì thay đổi
khi có liên quan tới tính hiện hữu của bạn. Nếu tay bạn bị chặt đứt, điều đó sẽ
không ảnh hưởng tới cảm nhận của bạn về sự hiện hữu của mình; nếu mắt bạn bị mất,
điều đó sẽ không tạo ra khác biệt gì cho việc cảm nhận sự hiện hữu của bạn; nếu
lưỡi bạn bị cắt đi, điều đó sẽ không tạo ra khác biệt gì cho cảm nhận về sự hiện
hữu của bạn. Thế giới của bạn sẽ trở nên nhỏ hơn, nhưng cái ta của bạn sẽ không
nhỏ hơn.
Nếu ai đó bị mất mắt, thế giới
ánh sáng sẽ chấm dứt cho người đó. Thế thì, trong thế giới này, chiều hướng của
ánh sáng sẽ mất đi với người đó. Thế giới của người đó sẽ trở nên nghèo hơn bởi
vì ánh sáng và mầu sắc sẽ biến mất khỏi nó. Nếu ai đó cũng định phá huỷ tai
mình, thế thì với người đó sẽ không có âm nhạc, không âm thanh, không lời và
không ngôn ngữ trong thế giới; thế giới của người đó thậm chí sẽ trở nên nhỏ
hơn. Nếu ai đó cắt đi chân và tay mình, thế thì mối tiếp xúc mà người đó đã có
với thế giới này qua chuyển động sẽ bị chấm dứt. Nhưng điều thú vị là ở chỗ tất
cả điều này thậm chí sẽ không làm hơi chút sứt mẻ nào trong cảm nhận của người
đó, trong nhận biết của người đó về sự tồn tại của riêng mình. Nếu, ngay chỗ đầu
tiên, nhận biết của người đó về sự hiện hữu của mình đã không tới qua mắt người
đó, thế thì làm sao nó sẽ biến mất bởi việc mất mắt của người đó được? Và nếu
tai người đó ngay chỗ đầu tiên đã không đóng góp gì cho nhận biết của người đó
về sự tồn tại của mình, thì làm sao sự tồn tại của người đó sẽ bị ít đi khi
không có chúng? Thế giới của người mù co lại, nhưng linh hồn người đó không co
lại. Thỉnh thoảng thậm chí nó còn có thể bành trướng! Nó có thể bành trướng, bởi
vì khi thế giới của người đó co lại, số những điều nắm giữ sự chú ý của người
đó ở bên ngoài ít đi, thì tự nhiên sự chú ý của người đó bắt đầu đi vào trong.
Hiện hữu không được cảm nhận bởi
các giác quan. Nhận biết về nó chẳng liên quan gì tới giác quan. Do đó, cho dù
tất cả các giác quan của bạn bị mất, bạn sẽ vẫn tồn tại như bạn đã tồn tại trước
đây. Cảm nhận mà không tới qua giác quan, vậy mà vẫn có đó, cần có cái tên
khác. Do đó nó được gọi là atmabodh, cảm nhận bên trong.
Để tôi thấy bạn, cần có ánh
sáng. Như trước, ánh sáng yếu đi và tôi không thể thấy bạn được. Nhưng cho dù mọi
ánh sáng biến mất khỏi thế giới và bóng tối sâu sắc bao quanh mọi thứ và bạn có
thể không thấy được cái gì cả, thế nữa bạn sẽ tiếp tục cảm nhận một điều - và
đó là bản thân bạn. Bản thể bên trong này trong tôi và trong bạn và trong tất cả,
là ở bên ngoài các giác quan.
Hiền nhân này đã nói về người
có cảm nhận không phụ thuộc vào các giác quan của mình :
...thực tại tối thượng, không
tay và không chân.
Cái ở trong tay và trong chân,
nhưng lại không có tay và chân, cái không có mắt không có tai... Ông ấy đang
nói về cái dùng tai và mũi và tay và chân, nhưng cái lại không phải là cái nào
trong những cái này; cái mà với nó giác quan là công cụ, nhưng không phải là điều
cần thiết. Lời kinh này là về cái tồn tại mà không có giác quan.
Cũng vậy, cố hiểu rằng bởi vì
tâm thức không có giác quan, nó có thể dùng giác quan. Nếu nó chỉ là giác quan
khác, nó sẽ không có khả năng dùng các giác quan này. Bản thân mắt không thể thấy
được: chính cái không có mắt mới thấy qua mắt. Cái bên trong bạn không có mắt,
thấy được qua mắt. Mắt chỉ là cửa sổ. Cái bên trong bạn không có tai, nghe được
qua tai; tai chỉ là cửa sổ.
Có điều thú vị nữa: rằng nếu bạn
cố, nếu bạn cứ thực nghiệm với nó, bạn sẽ có khả năng nghe được mà không có tai
và thấy mà không có mắt và nói mà không có lời. Bây giờ đã có nhiều nghiên cứu
về điều đó, và nhiều đại học đã làm các công trình khảo cứu và nghiên cứu về cận
tâm lí. Nhiều trong những phát kiến của họ đã trở thành sự kiện khoa học.
Tôi sẽ kể cho bạn về một số các
sự kiện đã có được vị thế khoa học, bởi vì thế thì sẽ không có hoài nghi về
chúng. Mặc dầu tôn giáo đã từng nói cùng những điều đó, những điều này là khó
cho mọi người chấp nhận chừng nào họ còn chưa thấy bằng chứng khoa học nào đó.
Người ta nói về Phật rằng bất
kì khi nào một đệ tử đi vào trong việc nhớ lại sâu sắc, sùng kính về ông ấy,
thì dù người đó có thể ở xa xôi đến đâu cũng không thành vấn đề, mối tiếp xúc
bên trong sẽ được thiết lập giữa họ. Dù khoảng cách lớn đến đâu cũng không
thành vấn đề, nếu người đó muốn hỏi điều gì đó người đó có thể nhận được câu trả
lời. Điều này dường như là việc tưởng tượng, chỉ là câu chuyện vu vơ, nhưng bây
giờ điều này đã trở thành sự kiện vững chắc. Ở phương Tây, họ đã chứng minh về
mặt khoa học rằng lỗ hổng thời gian hay khoảng cách không phải là cản trở chút
nào trong trao đổi ý nghĩ. Ý nghĩ có thể được trao đổi qua bất kì khoảng cách
nào.
Ở Nga, Feodorov đã thực hiện
thành công những thực nghiệm rất khoa học trong việc truyền ý nghĩ qua khoảng
cách hàng nghìn dặm. Feodorov có thể trao đổi ý nghĩ cho bất kì ai ở khoảng
cách một nghìn dặm. Ông ấy trở nên im lặng và nhắm mắt lại: ông ấy không chỉ nhắm
mắt, ông ấy đi vào một trạng thái gần như là hôn mê. Đầu tiên ông ấy thiền, thế
rồi sau mười lăm hay hai mươi phút ông ấy trở thành gần như cái xác, và khi ông
ấy trở thành như cái xác ông ấy có khả năng truyền các ý nghĩ. Thế rồi không
nói năng gì, không thốt ra một lời, không dùng thanh quản, ông ấy có thể truyền
ý nghĩa tới bất kì khoảng cách xa xăm nào.
Người Nga đã quan tâm tới hiện
tượng này trong hai mươi năm qua, đặc biệt trong hoàn cảnh du hành không gian.
Trong du hành không gian, chỉ tin vào thiết bị cơ khí có thể nguy hiểm. Tai nạn
xảy ra gần đây là ví dụ cho điều này. Nếu thiết bị radio chạy sai một khoảnh khắc
thôi... bạn không thể tin vào thiết bị được. Thiết bị có thể tin cậy đến đâu
cũng không thành vấn đề, chúng không thể nào tuyệt đối được đảm bảo là không hỏng.
Thỉnh thoảng chúng có thể hỏng, và thế thì mối liên hệ của chúng ta với con tàu
con thoi không gian đó có thể bị mất mãi mãi. Thế thì chúng ta sẽ không bao giờ
có khả năng biết liệu các nhà du hành vũ trụ là chết hay sống, họ đang ở đâu
hay điều gì đã xảy ra cho họ. Đó là cảnh quan đáng sợ.
Ở Nga, họ đã quan tâm về điều
này, cho nên họ đã thu xếp rằng bên cạnh các thiết bị, cũng phải có kế hoạch
thay thế nào đó: việc truyền ý nghĩ liệu có thể được dùng khi thiết bị bị hỏng
không? Nếu thiết bị bị hỏng, ít nhất một nhà du hành nên có khả năng nói cho mọi
người trên trái Đất họ đang ở đâu hay làm sao thiết lập lại liên hệ với họ. Phải
có phương tiện nào đó, phương pháp nào đó để truyền ngay cả vài từ cho chúng ta
từ bất kì chỗ nào họ đang ở. Đây là lí do tại sao họ đã nghĩ tới viễn cảm lần đầu
tiên. Lần đầu tiên họ nghĩ, “Tất cả các tôn giáo trên thế giới đều nói rằng ý
nghĩ có thể được truyền mà không dùng giác quan, vậy sao chúng ta không thử
nó?”
Trong hai mươi năm qua nước Nga
đã làm nhiều thực nghiệm về điều này, và họ đã có nhiều thành công. Họ đã thành
công trong trao đổi ý nghĩ bằng viễn cảm. Nếu ai đó đi vào bên trong, vào trong
thiền, ý nghĩ có thể được truyền ở bất kì khoảnh cách nào.
Bây giờ câu hỏi là, ý nghĩ truyền
đi như thế nào? Các giác quan không được dùng từ cả phía người truyền lẫn phía
người nhận. Giác quan không được dùng ở đầu của người nhận. Người nhận chỉ nằm
ra yên tĩnh và tĩnh lặng - có vậy thôi. Và người nhận, người bắt lấy ý nghĩ,
cũng nói rằng người đó không nghe nó qua tai. Người đó cũng nói rằng người đó
nghe nó ở bên trong, chẳng liên quan gì tới tai cả. Cho dù tai người đó có hoàn
toàn bị bít lại, thế nữa người đó vẫn sẽ nghe thấy. Tai người đó bị bít lại hiệu
quả tới mức người đó thậm chí không thể nghe thấy âm thanh của trống bên cạnh
mình, vậy mà người đó nghe thấy ý nghĩ của Feodorov đang ở xa một nghìn dặm. Một
điều là rõ ràng: chúng không tới người đó qua tai người đó. Thế thì qua trung
gian gì mà ý nghĩ truyền tới người đó?
Ở Mĩ có một người có tên là Ted
Serios: ông ấy có thể thấy các vật từ bất kì khoảng cách nào. Ông ấy thấy Taj
Mahal trong khi ông ấy đang ngồi ở New York. Không chỉ ông ấy thấy đối tượng,
mà hình ảnh xuất hiện trong mắt ông ấy và hình ảnh này trong mắt ông ấy có thể
được chụp ảnh. Hàng nghìn ảnh đã được chụp từ những ảnh xuất hiện trong mắt ông
ấy, và chúng đích xác biểu thị cho đối tượng ông ấy nói ông ấy đang thấy. Điều
gì xảy ra cho người này? Mí mắt ông ấy đóng lại khi hình ảnh xuất hiện trong mắt
ông ấy. Ông ấy thiền về Taj Mahal với mắt nhắm, và khi hình ảnh của nó xuất hiện
trong mắt ông ấy, ông ấy nói, “Bây giờ tôi sẽ mở mắt ra, cho nên máy ảnh sẵn sàng”
- bởi vì hình ảnh biến mất khỏi mắt ông ấy trong vài khoảnh khắc.
Một số điều rất thú vị đã xảy
ra. Chẳng hạn, lần cuối cùng ông ấy làm thực nghiệm này với Taj Mahal, ông ấy
nói với người chụp ảnh, “Được rồi, bức hình đã được tạo thành trong mắt tôi.” Mắt
ông ấy nhắm, và trong mắt nhắm không có vấn đề cái gì đó được phản xạ. Cho dù bạn
có đứng ngay trước Taj Mahal, sự phản xạ về nó cũng không thể được hình thành
trong mắt bạn nếu chúng nhắm. Khoảng cách giữa Agra và New York là khoảng cách
xa; không có cách nào để mắt bạn có thể thấy Taj Mahal. Mắt ông ấy còn nhắm và
ông ấy nói “Được rồi, để máy ảnh sẵn sàng đi. Tôi sắp mở mắt ra đây.” Ông ấy mở
mắt ra và nói, “Các anh bị lỡ rồi! Bây giờ là khách sạn Hilton tôi đang thấy.”
Và quả thực, bức ảnh họ chụp được trên phim là khách sạn Hilton, không phải Taj
Mahal.
Có thể thấy không bằng mắt, và
từ khoảng cách xa. Cho tới giờ chúng ta đã dùng cái được ẩn kín bên trong mình
chỉ qua giác quan. Chúng ta đã không dùng nó mà không có giác quan, cho nên
chúng ta không nhận biết về khả năng của nó bên ngoài các giác quan. Thông điệp
về khả năng đó được chứa trong lời kinh này. Thông điệp là:
Ta là thực tại tối thượng không
thể quan niệm nổi, không tay và không chân. Ta thấy không qua mắt, ta nghe
không qua tai. Tự do với mọi hình dạng, ta là người biết tất cả.
Khả năng này được giấu kín bên
trong mọi người - liệu chúng ta có dùng nó hay không là vấn đề khác. Ngay cả khả
năng cho phép màu lớn lao trong cuộc sống chúng ta cũng bị giấu kín trong tất cả
chúng ta - vấn đề chỉ là dùng nó.
Ramamurti đã có khả năng để voi
đứng lên ngực mình; anh ấy có thể để chiếc mô tô hộ tống đi qua ngực mình. Và
chẳng có gì đặc biệt về ngực anh ấy cả, ngực anh ấy cũng hệt như ngực mọi người
khác. Khác biệt duy nhất là ở chỗ anh ấy đã công phu trong thời gian dài. Dầu vậy,
dù bạn công phu bao lâu, để voi đứng lên ngực bạn là một kì công của pranayama,
công phu thở yoga nào đó. Chúng ta thấy điều đó mọi ngày, nhưng chúng ta không
để ý tới nó. Chỉ mỗi chiếc bánh xe cao su đơn giản mang chiếc xe tải lớn thế:
đó không phải là sức mạnh của cao su đâu, đó là sức mạnh của khí bên trong cao
su.
Ramamurti đã công phu để cho
anh ấy có thể giữ được khối lượng không khí nào đó bên trong ngực mình, và ngực
của anh ấy vận hành như chiếc lốp xe. Thế thì cho dù voi có đứng lên nó và trọng
lượng của voi không dồn vào ngực anh ấy, nó rơi vào khối lượng khí trong ngực
anh ấy. Khí mang trọng lượng này và không hại nào xảy ra cho ngực anh ấy -
nhưng bất kì ai cũng có thể giữ khối lượng khí đó trong ngực mình. Có sáu nghìn
túi khí trong phổi chúng ta có thể giữ khí, nhưng thông thường ít hơn một nghìn
rưởi túi được dùng bởi vì việc thở của chúng ta nông thế - nó không đi đủ sâu.
Bốn nghìn rưởi túi khi kia chất đầy với các bô nic trong toàn thể cuộc sống
chúng ta. Ô xi chưa bao giờ đạt tới chúng.
Yoga nói rằng nếu tất cả bốn
nghìn rưởi túi khí này cũng có thể được dùng và chất đầy với ô xi, khoảng sống
của con người sẽ được kéo dài gấp ba lần so với nó bây giờ - bởi vì khoảng sống
của con người chỉ là vấn đề về ô xi. Khả năng này có ở trong mọi người. Nó
không xảy ra thường xuyên thế bởi vì nó cần công phu có kỉ luật.
Theo cùng cách này, tâm trí mọi
người có những khả năng không thể nào tin nổi như vậy, nhưng nó cần kỉ luật và
công phu. Và linh hồn, cái ở bên ngoài các giác quan, thậm chí còn có nhiều khả
năng hơn. Bạn thậm chí không biết cái gì là có thể, nói gì tới việc nhận ra
chúng? - bạn chẳng có ý tưởng gì về cái gì là có thể. Và bởi vì điều này, những
thứ này dường như là phép màu với bạn. Bây giờ nếu ai đó bảo bạn rằng người đó
có thể nghĩ không có tâm trí hay nhìn không bằng mắt hay nghe không bằng tai,
làm sao bạn có thể tin được điều đó? Lí do cho việc không tin của bạn không phải
bởi vì những điều này là không thể nào tin được thế: lí do là ở chỗ chúng không
có điểm tham chiếu nào trong kinh nghiệm của bạn.
Nếu bạn làm thực nghiệm một
chút, bạn sẽ ngạc nhiên. Có bốn trăm người ở đây. Nếu tất cả bốn trăm người các
bạn đều thực nghiệm, các bạn sẽ tìm thấy ít nhất bốn người có khả năng này ngay
bây giờ. Thậm chí bản thân họ cũng không nhận biết về nó.
Chuyện xảy ra ở Nga. Một thập kỉ
trước đây, một người đàn bà bỗng nhiên bắt đầu thấy qua đầu ngón tay của mình.
Cô ấy đã mất thị lực và cô ấy rất thích đọc. Việc đọc là ham thích duy nhất của
cô ấy và bỗng nhiên thị lực của cô ấy bị mất, cho nên cô ấy rất đau buồn. Người
ta có thể hiểu được sự đau buồn của cô ấy: cô ấy chỉ có một mối quan tâm trong
cuộc sống: sách. Một khi thị lực của cô ấy mất rồi, toàn thể cuộc sống của cô ấy
mất đi đối với cô ấy. Hai lần cô ấy đã cố tự tử, nhưng cô ấy được cứu sống.
Tình yêu của cô ấy với một số cuốn sách lớn tới mức sau khi bị mù cô ấy vẫn giữ
những cuốn sách đó trong tay và liên tục chạm vào chúng và cảm thấy chúng. Bỗng
nhiên, một hôm, cô ấy thấy rằng mình đang thấy tiêu đề cuốn sách. Cô ấy phân
vân. Cô ấy chuyển bàn tay qua cuốn sách và bỗng nhiên cô ấy có thể thấy tiêu đề.
Cô ấy bối rối. Cô ấy lật vài trang và từ dần dần bắt đầu trở nên rõ ràng ngay
trước cô ấy, thế là cô ấy bắt đầu đọc nó bằng ngón tay!
Nga là đất nước có tâm trí khoa
học: nó không coi rằng điều xảy ra cho một người là phép màu. Họ tin rằng cùng
điều đó có thể xảy ra cho tất cả. Cho nên họ đã thực nghiệm trên hàng trăm và
hàng trăm trẻ em, và họ đã phát hiện ra rằng hàng trăm người trong số đó cũng
có thể đọc được qua ngón tay, nhưng những người này chưa bao giờ nhận ra điều
đó. Bây giờ ngón tay không có mắt. Ngón tay phải không thấy được chứ. Nhưng
ngón tay chỉ là trung gian. Chân lí là ở chỗ khả năng này, chiều hướng này
trong con người, có thể thấy mà không có mắt. Nó chưa bao giờ được dùng cả.
Bắt đầu thực nghiệm với điều
này chút ít thời gian đi, và bạn sẽ sửng sốt. Ngồi xuống với mắt nhắm, mở cuốn
sách ra và chỉ thiền xem nó đang mở trên trang số mấy. Đừng bận tâm rằng một
hay hai chục lần bạn có thể sai, liên tục làm thực nghiệm này. Một số trong các
bạn thực tế sẽ có khả năng thấy được số trang. Và nếu số trang có thể được thấy,
thế thì bất kì cái gì cũng có thể được thấy. Thế thì, vấn đề chỉ là công phu;
thế thì, chẳng có mấy khó khăn trong nó. Nhiều thực nghiệm đã được tiến hành về
điều tôi đang nói tới mức ngay cả người có tâm trí khoa học cũng sẽ không thể
nào hoài nghi nó được.
Các giác quan là cánh cửa thường
của chúng ta mở tới cảm nhận, nhưng chúng không phải là cánh cửa chủ yếu. Việc
biết và cảm nhận cũng có thể xảy ra bên ngoài các giác quan - và đó là khả năng
bên trong của chúng ta.
Người ta nói về Mahavira rằng
ông ấy không bao giờ nói cho đệ tử. Người Jaina đã thấy khó giải thích làm sao
ông ấy có thể vẫn còn im lặng và nói với họ trong im lặng. Người Jaina đã thấy
rằng điều này là khó hiểu. Tất cả mọi điều họ có thể nói về nó là ở chỗ nó là
phép màu của một tirthankara, rằng điều đó là không thể được cho mọi người. Nhưng
không, điều đó chẳng liên quan gì tới tirthankara, nó cũng có thể xảy ra cho mọi
người.
Ba mươi năm trước đây, George
Gurdjieff đã bắt đầu một thực nghiệm với các đệ tử của mình nơi ông ấy liên tục
nhất quyết rằng họ phải duy trì im lặng đầy đủ trong ba tháng. Im lặng toàn bộ!
Điều đó là gian nan lắm. Nhưng nếu người ta kiên trì trong ba tháng, suốt ngày,
thế thì điều đó xảy ra - tất cả bên trong trở thành sự trống rỗng. Và Gurdjieff
hay nói, “Cái ngày các ông im lặng toàn bộ, tôi sẽ bắt đầu nói cho các ông mà
không nói.” Và hiện tượng này đã xảy ra với các đệ tử của ông ấy.
Không mấy thời gian đã trôi qua
từ cái chết của Gurdjieff. Hàng trăm đệ tử mà ông ấy thường nói trong im lặng vẫn
còn trên khắp thế giới. Nhưng họ phải trải qua ba tháng im lặng đầy đủ. Khi ai
đó im lặng toàn bộ trong ba tháng, tất cả tiếng động trong tâm trí người đó dừng
lại. Và trong việc làm yên tĩnh tiếng động, tiếng nói nhỏ bé, tĩnh lặng không
thể nghe được bằng tai nhưng qua tâm lại có thể được cảm nhận. Nó cũng đạt tới
bạn, nhưng có đám đông ý nghĩ bên trong bạn, có bãi chợ bên trong bạn tới mức bạn
không nghe thấy nó.
Nghe thấy nó không phải là rất
đặc biệt gì. Thay vì thế, bạn là rất đặc biệt - và đó là khó khăn. Có đám đông,
chợ nhộn nhịp bên trong bạn, và chính bởi vì chợ đó mà bạn không thể nghe thấy
tiếng nói này. Thỉnh thoảng bạn có nghe thấy nó đấy, nhưng bạn không tin nó bởi
vì bạn không có kinh nghiệm về nó.
Một hôm bạn sẽ bỗng nhiên để ý
rằng bạn nghĩ tới người bạn, và chẳng từ đâu cả, người đó gõ cửa nhà bạn. Thế rồi
bạn nghĩ điều đó liên tục như sự trùng hợp ngẫu nhiên bởi vì bạn chẳng có ý tưởng
nào về thế giới bên trong. Một hôm bạn hạnh phúc và thế rồi bỗng nhiên bạn khám
phá ra rằng bạn đã trở nên buồn. Bạn không thể hiểu được điều đó. Về sau, một bức
điện tín gửi tới nói rằng một người bạn đã chết hay một người thân bỗng nhiên bị
ốm rất nặng. Thế rồi bạn nghĩ về nó như sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng nó không
ngẫu nhiên chút nào.
Bất kì khi nào ai đó thân thiết
với bạn mà chết, lo âu, e sợ, chạm vào bên trong bạn mà không đi qua bất kì
giác quan nào. Nó nhất định là như thế đấy, bởi vì cái chết không phải là hiện
tượng bình thường; nó là hiện tượng lớn lao. Có mối nối bên trong giữa bạn và
người bạn có quan hệ sâu sắc. Có cánh cửa bên trong giữa các bạn mà qua đó
thông điệp có thể đi theo cả hai đường. Nhưng bạn không bận tâm về những điều
này: bạn nói, “Nó chỉ ngẫu nhiên thôi,” bởi vì bạn không nhận biết về mọi thứ.
Nếu mà bạn nhận biết, từng người trong các bạn sẽ thấy các ví dụ và điều xảy ra
trong cuộc sống của mình chứng minh rằng điều đang ẩn kín bên trong bạn có thể
vận hành mà không có giác quan.
Nếu bạn trở nên nhận biết về nó
và liên tục làm những thực nghiệm có ý thức với nó, trong một hay hai năm bạn sẽ
là người hoàn toàn khác. Bạn sẽ bắt đầu thấy điều phi thường qua mắt mình và bạn
sẽ bắt đầu nghe thấy điều phi thường qua tai mình. Mọi sự mà bạn thường không
bao giờ kinh nghiệm qua phương tiện bên ngoài sẽ trở thành một phần của kinh
nghiệm của bạn. Thế giới của giàu có bên trong sẽ bắt đầu hiển lộ bản thân nó
bên trong bạn, một thế giới hoàn toàn khác của kinh nghiệm bên trong sẽ mở ra.
Những hoa không biết, cái mà bạn tuyệt đối chưa quen thuộc, sẽ nở ra; âm nhạc sẽ
được nghe thấy mà chẳng có gì liên quan tới tai bạn. Theo cách này bạn sẽ đi
vào thế giới của âm nhạc và ánh sáng và mầu sắc và những kinh nghiệm mà các
giác quan vật lí của bạn chưa bao giờ có tiếp xúc trước đây.
Vứt bỏ từ trùng hợp ngẫu nhiên
khỏi từ vựng của bạn ngày một nhiều vào. Nếu có thể, gạt bỏ từ trùng hợp ngẫu
nhiên này hoàn toàn khỏi cuộc sống của bạn. Và bất kì khi nào cái gì đó của các
cõi bên ngoài giác quan xảy ra trong cuộc sống của bạn, thế thì chấp nhận nó
như sự kiện và bắt đầu làm việc theo hướng đó. Tin vào trùng hợp ngẫu nhiên là
một loại khuynh hướng thoát li cuộc sống. Nó là thủ đoạn để bỏ qua sự kiện, để
xoá đi sự kiện khỏi việc ghi nhớ của bạn, để bằng cách nào đó giải thích nó. Sự
kiện làm cho bạn ngạc nhiên, bạn có thể làm nó thành bình thường bằng việc dán
nhãn cho nó là trùng hợp ngẫu nhiên. Không có trùng hợp ngẫu nhiên trong cuộc sống
đâu. Chẳng cái gì là trùng hợp ngẫu nhiên cả trong thế giới này.
Mọi sự tồn tại trong thế giới
này đều được nối bởi nhân-quả sâu sắc, đều có quan hệ sâu sắc theo cách nhân-quả.
Có nguyên nhân đằng sau bất kì điều gì xảy ra ở đây.
Bằng việc gọi mọi sự là trùng hợp
ngẫu nhiên, bạn sẽ không tìm được nguyên nhân. Nhưng nếu bạn đi tìm nguyên
nhân, bạn sẽ bắt đầu kinh nghiệm quyền năng bên trong của bạn. Vào cái ngày bạn
kinh nghiệm quyền năng của việc thấy không bằng mắt và việc nghe không bằng
tai, bạn đã bước ra khỏi thế giới này. Vào ngày đó bạn đã bước vào trong ngôi đền
của brahman, thực tại tối thượng.
Tự do với mọi hình dạng, ta là
người biết tất cả. Nhưng không ai có thể biết ta. Ta là tâm thức vĩnh hằng.
“Tự do với mọi hình dạng, ta là
người biết tất cả” - ta chắc chắn biết tất cả mọi hình dạng, nhưng ta cũng biết
cái ở bên ngoài hình dạng. “Nhưng không ai có thể biết ta” - lời kinh này có
hơi khó, khó bởi vì có sáng suốt triết lí rất sâu sắc ẩn kín trong nó. Và đó là
với điều thiêng liêng, toàn thể sự tồn tại này đều trong suốt. Quên điều thiêng
liêng bao la đi: sẽ dễ cho bạn hơn nếu bạn thử hiểu nó trong mối quan hệ với ngọn
lửa nhỏ bé của điều thiêng liêng đang cháy bên trong bạn.
Tôi thấy bạn, tôi thấy cây, tôi
thấy trời, mặt trời, mặt trăng, sao, tôi thấy mọi thứ - nhưng tôi không thể thấy
được bản thân tôi. Không có cách nào cho tôi thấy cái ta riêng của tôi. Tôi
kinh nghiệm bản thân tôi, tôi cảm thấy bản thân tôi, nhưng tôi không thể thấy bản
thân tôi được. Và sẽ không bao giờ tôi có thể thấy được bản thân tôi bởi vì chỉ
cái ở khoảng cách nào đó mới có thể được thấy, cái tách rời, cái là “khác.” Làm
sao tôi có thể thấy được cái ta riêng của mình? Để thấy, cần có khoảng cách nào
đó, khác biệt nào đó, kẽ hở nào đó ở giữa. Nếu tôi là người thấy riêng của
mình, tôi sẽ phải chia bản thân mình ra làm đôi: người nhìn và người được nhìn.
Điều này là không thể được, tôi không thể bị phân chia thành hai phần được. Và
nếu tôi có thể bị phân chia, thế thì điều tôi sẽ thấy sẽ không phải là “tôi.”
Tôi bao giờ cũng là người thấy.
Hiểu điều đó theo cách này: tôi
mang định mệnh không tránh được là người quan sát, và tôi không thể trở thành
cái được quan sát. Dù tôi làm gì cũng chẳng thành vấn đề, tôi sẽ vẫn còn là người
quan sát và tôi không bao giờ có thể trở thành cái được quan sát. Làm sao tôi,
người biết, có thể trở thành cái được quan sát? Người biết sẽ vẫn là người biết
trong mọi tình huống. Tâm thức ẩn kín bên trong con người là người quan sát chủ
yếu, nó không bao giờ có thể trở thanh cái được quan sát.
Đây là lí do tại sao lời kinh
này nói:
Ta là người biết tất cả. Nhưng
không ai có thể biết ta.
Ta là tâm thức vĩnh hằng.
Điều thiêng liêng là người quan
sát tối thượng, chung cuộc. Không có cách nào để quan sát nó, để thấy nó. Cách
diễn đạt này, nói Paramatma ka darshan, thấy điều thiêng liêng, là dùng ngôn ngữ
rất không phù hợp. Nhưng người ta bất lực, bởi vì không thành vấn đề điều người
ta nói, nó sẽ không phù hợp. Ngôn ngữ của chúng ta là sai. Theo chiều hướng
này, ngôn ngữ của chúng ta bao giờ cũng sai. Nói “thấy điều thiêng liêng” là
sai lầm, bởi vì thấy điều thiêng liêng nghĩa là bạn đã trở thành người quan sát
điều thiêng liêng.
Bạn có thể đã không nghĩ về những
dòng này. Bạn nói “thấy điều thiêng liêng” - nhưng điều đó có nghĩa gì? Nó
nghĩa là bạn cũng có thể là người quan sát điều thiêng liêng. Nó nghĩa là bạn
cũng có thể thu gọn điều thiêng liêng thành một vật có thể được thấy. Nhưng
không có cách nào để thấy điều thiêng liêng đâu. Điều thực tế xảy ra là ở chỗ bạn
cố mô tả nó bằng từ darshan, kiến, bởi vì bạn không có từ nào khác. Trong mọi
trường hợp, bất kì từ nào cũng sai theo cùng cách. Nếu chúng ta gọi nó là “kinh
nghiệm,” thế nữa đó cũng vẫn là cùng một thứ - điều thiêng liêng bị thu gọn lại
thành một vật. Bất kì cái gì chúng ta nói, bất kì từ nào chúng ta dùng, đều qui
điều thiêng liêng về thành một đối thể.
Do đó, người trí huệ như Phật Gautam
từ chối nói điều gì về Thượng đế, không phải bởi vì Thượng đế không tồn tại cho
ông ấy, mà bởi vì bất kì điều gì ông ấy nói về Thượng đế cũng đều sẽ sai. Mọi
người cho rằng Phật là người vô thần, nhưng chưa bao giờ có người hữu thần nào
vĩ đại hơn Phật. Hữu thần của ông ấy là tuyệt đối và tuyệt đỉnh, chung cuộc và
cực đoan tới mức ông ấy đã không sẵn sàng dùng cho dù một từ sai về Thượng đế.
Ông ấy thậm chí không sẵn sàng dùng từ “Thượng đế.” Ông ấy nói ngay cả từ đó
cũng sai, bởi vì khi chúng ta dùng một từ chúng ta đã trở thành người biết của
nó - và một cách tự nhiên, người biết phải cao hơn từ đó.
Upanishads nói rằng bất kì khi
nào ai đó nói rằng mình đã biết Thượng đế, hiểu cho kĩ rằng người đó đã không
biết Thượng đế chút nào. Người nói rằng mình đã biết Thượng đế thì tuyệt đối
không có khả năng hiểu được rằng Thượng đế không thể nào được biết. Điều có thể
được biết là thế giới, chưa bao giờ là Thượng đế. Bạn có thể nói điều đó như thế
này: cái có thể được biết là thế giới, còn cái còn lại bên ngoài việc biết là
brahman, điều thiêng liêng. Nhưng thế thì làm sao chúng ta có thể gọi ai đó là
brahmagyani hay brahmavetta, người biết về Thượng đế hay hiền nhân?
Nếu bạn hiểu điều này từ góc độ
khác, sẽ dễ dàng hơn: Thượng đế không thể nào được biết tới - nhưng bạn có thể
tan biến vào trong nó, bạn có thể biến mất trong nó. Không thể nào biết được
nó, nhưng bạn có thể trở thành nó. Để biết nó, cần có khoảng cách, nhưng để là
nó, mọi khoảng cách đều phải bị tan biến. Trong việc biết cái gì đó có khoảng cách,
lỗ hổng; trong việc là cái gì đó, mọi khoảng cách đều phải biến mất. Cho dù giọt
nước có thể biết đại dương, nó sẽ biết gì? Nhưng chắc chắn giọt nước có thể rơi
vào đại dương và trở thành một với nó. Và biết qua việc hội nhập cũng chính là
cách người ta biết bản thân mình - không qua giác quan, không qua trung gian.
Ngày bạn trở thành một với điều
thiêng liêng, bạn sẽ không còn biết điều thiêng liêng như một đối thể, như vấn
đề, mà như bản thể riêng của bạn. Làm sao bạn biết tới bản thân bạn? Theo cùng
cách đó, người ta sẽ biết điều thiêng liêng. Không có nguyên nhân đằng sau nó.
Nó không bị gây ra bởi cái gì đó, không có giác quan, không ánh sáng của những
giác quan này tham gia vào trong nó. Việc biết này không là gì ngoài sự bành
trướng của việc biết trước đó, của cách chúng ta biết bản thân mình. Việc biết
này không phải là loại việc biết về thế giới.
Đây là lí do tại sao nó đã được
nói trong lời kinh này:
Tự do với mọi hình dạng, ta là
người biết tất cả. Nhưng không ai có thể biết ta. Ta là tâm thức vĩnh hằng.
Đây là lời kinh rất giá trị. Nó
phải được giữ trong tim của những người đang tìm kiếm brahman - rằng điều đó
không thể được biết tới, nó chỉ có thể được sống. Bạn có thể là một với nó, bạn
có thể tan biến trong nó, bạn có thể biến mất trong nó, bạn có thể là nó, nhưng
bạn không thể biết nó được. Trong việc biết, có khoảng cách, do đó có lỗ hổng.
Và với điều thiêng liêng, chừng nào mà vẫn còn lỗ hổng dù nhỏ nhất, sẽ không có
cách nào để biết nó.
Bạn có thể làm gì để thu hẹp lỗ
hổng này? Bạn có phải cố đem điều thiêng liêng lại gần hơn không?
Bạn có phải mời nó, nói nó, thỉnh
cầu nó không? Dù bạn có nói nó và mời nó đến đâu cũng chẳng thành vấn đề, không
có cách để đem nó lại gần được - bởi vì nó đã ở gần rồi. Và vậy mà bạn liên tục
la hét, bạn mời gọi. Điều đó chỉ làm cho một điều thành rõ ràng: rằng cái ở gần
nhất là không được bạn kinh nghiệm. Không có lí do khác cho việc mời gọi này.
Nếu bạn muốn ở gần điều thiêng
liêng, mời gọi và thỉnh cầu sẽ không có tác dụng đâu. Điều đó có thể xảy ra chỉ
nếu bạn làm tan biến bản thân bạn. Tới mức độ nào đó mà bạn tan biến và biến mất,
nó sẽ bắt đầu ở gần. Ngày bạn đã hoàn toàn tan biến, hoàn toàn biến mất, nó sẽ ở
ngay đây, nơi bạn đang ở.
Hiểu điều đó theo cách này: một
tảng băng đang nổi trên nước, nó muốn gặp đại dương - nó kêu, nó la, nhưng nó
không tan ra. Và nó đã ở trong đại dương rồi, cho nên kêu và la sẽ chẳng ích
gì, thỉnh cầu đại dương sẽ chẳng ích gì. Đại dương đang ở đây, tảng băng đang nổi
trong nó. Nhưng nó muốn gặp đại dương, cho nên tìm điều đó ở đâu đây? Nó càng
tìm, nó sẽ càng chẳng thấy dấu hiệu nào của điều đó cả.
Tình huống của bạn hệt thế: bạn
giống như tảng băng đó. Và điều duy nhất mà tảng băng có thể làm là tan chảy
ra, là biến mất. Thế thì ở đây, ngay dưới nó, tại chính chỗ này, nó sẽ thấy đại
dương, điều thiêng liêng.
Bạn cũng sẽ phải tan biến, tan
chảy.
Đây là lí do tại sao từ mà
chúng ta đã chọn cho quá trình tan chảy này được gọi là apa. Nó là từ hay. Nó
nghĩa là nhiệt. Nếu tảng đá mà tan ra, nó sẽ phải trải qua nhiều nhiệt. Nếu nó
trải qua nhiệt nó sẽ tan chảy ra.
Bạn cũng sẽ phải trải qua nhiệt
đó. Nếu trong nhiệt đó bạn tan chảy, bản ngã của bạn, miếng kem của bạn tan ra,
thế thì bạn sẽ trở thành một với đại dương. Thế thì bạn sẽ là đại dương. Thế
thì bạn sẽ không nói rằng bạn biết đại dương; bạn sẽ nói, “Bây giờ tôi không
có, chỉ đại dương có.”
Bây giờ sẵn sàng thiền đi.
0 Đánh giá