Chương 3. Chỉ Việc Mơ

Chương 3. Chỉ Việc Mơ

Price:

Read more

Bông Sen Trắng
Bài giảng về Thiền sư Bồ Đề Đạt Ma
Chương 3. Chỉ việc mơ

Hỏi: Thiền trong trống rỗng là gì?
Đáp: Người quan sát mọi sự trong thế giới hiện tượng, vậy mà bao giờ cũng cư ngụ trong trống rỗng. Đó là thiền trong trống rỗng.
Hỏi: Làm sao người ta có thể cư ngụ trong pháp?
Đáp: Người ta không nên duy trì pháp trong cư ngụ cũng không duy trì pháp không cư ngụ. Người đó nên sống một cách tự nhiên trong pháp. Đây là điều ông gọi là cư ngụ trong pháp.
Hỏi: Làm sao đàn ông có thể sống như không đàn ông và đàn bà như không đàn bà?
Đáp: Không có khác biệt trong bản tính Phật giữa đàn ông và đàn bà, không có thực thể nào được chỉ định là đàn ông hay đàn bà. Vật chất vật lí tạo ra cỏ và cây như nó tạo ra con người. Trong so sánh ông nói 'cỏ' hay 'cây'. Ông cho mọi loại tên cho ảo tưởng của ông. Phật nói, "Nếu người ta thấy rằng mọi thứ tồn tại như ảo tưởng, người ta có thể sống trong quyển cao hơn người thường."
Hỏi: Nếu người ta đạt tới niết bàn của a la hán, người đó có nhận ra thiền không?
Đáp: Người đó chỉ mơ và ông cũng thế.
Hỏi: Nếu người ta thực hành sáu toàn hảo (paramita), và trải qua mười giai đoạn bồ tát hạnh, và hoàn thành mười nghìn đức hạnh, người đó phải biết rằng mọi thứ là không sinh, do đó chúng sẽ không diệt. Nhận biết như vậy không là trực giác không là trí tuệ. Người đó không có gì để nhận và không có gì để nhận người đó. Người này có nhận ra thiền không?
Đáp: Người đó chỉ mơ và ông cũng vậy.
Hỏi: Nếu một người có mười quyền năng, và đạt tới bốn dạng can đảm, và hoàn thành mười tám hệ thống giáo huấn, người đó là hệt như phật, người đã đạt tới chứng ngộ dưới cây pippala. Người đó có thể cứu được sinh linh hữu tình và thế rồi đi vào trong niết bàn. Người đó không phải là vị phật thực sao?
Đáp: Người đó chỉ mơ và ông cũng vậy.
Câu hỏi quan trọng nhất mà con người đã từng đương đầu là "Thiền là gì?" Từ tiếng Anh meditation không hàm nghĩa như từ tiếng Phạn nguyên gốc dhyana.
'Meditation' có một nghĩa sai. Khoảnh khắc bạn nói meditation, ngay lập tức ý tưởng này nảy sinh "Về cái gì?" Meditation, theo nghĩa trong tiếng Anh của từ này, bao giờ cũng về đối thể nào đó. Nhưng theo nghĩa tiếng Phạn của từ dhyana - thiền, không có đối thể như vậy; ngược lại, phi đối thể tuyệt đối, hoàn toàn trống rỗng mọi nội dung, là dhyana.
Do đó, khi thông điệp của Phật đạt tới Trung Quốc, từ này đã được bỏ lại không dịch, bởi vì cũng không có từ tương đương trong ngôn ngữ Trung Quốc. Và ngôn ngữ Trung Quốc giầu có hơn nhiều so với bất kì ngôn ngữ nào của thế giới. Vậy mà đã không có từ nào có thể được gọi là đồng nghĩa với từ dhyana - bởi lẽ đơn giản: một từ như vậy bị thiếu bởi vì dhyana chưa bao giờ được thực hành ở bất kì chỗ nào khác ngoại trừ ở nước này. Nước này đã đóng góp một điều duy nhất cho thế giới, và đó là nghệ thuật dhyana - thiền. Và một đóng góp đó là đủ, quá đủ.
Toàn thể khoa học có thể được đặt sang một bên và dầu vậy nó sẽ không nặng hơn một từ thiền dhyana. Mọi tri thức của thế giới có thể được đặt sang một bên, nhưng từ thiền vẫn sẽ nặng hơn. Nó có ý nghĩa vô hạn, nó là một cách nhìn tâm thức mới toàn bộ: một tâm thức không có nội dung, một tâm thức không có ý nghĩ, ham muốn nào; một đại dương không gợn sóng, không sóng, hoàn toàn im lặng và tĩnh lặng, phản xạ toàn thể bầu trời với mọi vì sao. Như thế là thiền.
Ở Trung Quốc nó bị bỏ lại không được dịch, nhưng khi bạn viết ra một từ từ một ngôn ngữ này trong ngôn ngữ khác, cho dù bạn không dịch nó, nó vẫn đổi mầu sắc, hình dạng. Điều đó là tự nhiên; nó đã xảy ra nhiều lần.
Bây giờ, bạn biết từ Ấn Độ- India; nó đơn giản là một phát âm khác của Sindu, dòng sông lớn bây giờ đi qua Pakistan. Khi người Ba tư đi qua dòng sông đó lần đầu tiên họ đã phát âm nó là Indu chứ không là Sindu. Từ Indu nó trở thành Indus, từ Indus nó trở thành India - Ấn Độ. Và thế rồi một nhóm ngôn ngữ khác đi qua và đã phát âm nó không phải là Sindu mà là Hindu; do đó mới có Hindu, Hindu giáo, Hindustan. Nhưng chúng tất cả đều đã nảy sinh từ cái tên Sindu. Bây giờ nó dường như xa xăm tới mức Hindu và India dường như không có quan hệ chút nào.
Khi hiến pháp Ấn Độ được chuẩn bị, đã có thảo luận lớn về cần gọi tên nước này là gì: India hay Hindustan? Tranh cãi lớn về cùng một từ! - bởi vì chúng cả hai đều nảy sinh từ cùng một từ, tên của dòng sông lớn bây giờ đi qua Pakistan, Sindu. Nó đã du hành theo một hướng và trở thành Hindu và Hindustan, đã đi qua một hướng khác và trở thành Indus, India.
Cùng điều dó đã xảy ra cho dhyana. Phật chưa bao giờ nói tiếng Phạn; đó cũng là một trong những cái độc đáo của ông ấy. Ở Ấn Độ tiếng Phạn bao giờ cũng là ngôn ngữ của tu sĩ, của người có văn hoá, của người phức tạp. Phật đã là người đầu tiên mang tới thay đổi triệt để: ông ấy bắt đầu nói theo ngôn ngữ của mọi người.
Tiếng Phạn chưa bao giờ là ngôn ngữ của mọi người, nó bao giờ cũng là ngôn ngữ của tầng lớp cao nhất của xã hội. Và họ đã gìn giữ nó với chăm sóc lớn, để cho nó không bao giờ rơi vào trong tay của người thường. Nó đã là một trong những chiến lược của mọi tu sĩ trên khắp thế giới rằng ngôn ngữ của họ phải không được người thường hiểu, bởi vì nếu ngôn ngữ của họ được người thường hiểu thế thì họ sẽ bị phơi ra - bởi vì điều họ liên tục nói là đơn giản, rất bình thường, nhưng trong ngôn ngữ mà bạn không hiểu, có vẻ dường như họ đang nói cái gì đó cao siêu, cái gì đó rất siêu nhiên.
Nếu bạn đọc Vedas trong ngôn ngữ của bạn, bạn sẽ ngạc nhiên: chả có gì mấy ở đó - không quá một phần trăm các lời kinh là có ý nghĩa, chín mươi chín phần trăm đơn giản là rác rưởi. Nhưng nếu bạn đọc nó trong tiếng Phạn bạn sẽ bị mê say, bạn sẽ đơn giản bị thôi miên. Đấy cũng là trường hợp với Koran. Nếu bạn nghe nó trong tiếng A rập nó sẽ có cái gì đó thần lực. Được dịch sang tiếng riêng của nước bạn, bạn sẽ phân vân: nó có vẻ rất bình thường. Các tu sĩ bao giờ cũng nhận biết rằng kinh sách của họ có thể có giá trị và được đánh giá cao và được kính trọng và được tôn thờ chỉ nếu chúng không được dịch vào ngôn ngữ của người thường.
Phật là một trong những nhà cách mạng theo nghĩa đó, nữa. Ông ấy bắt đầu nói trong ngôn ngữ của mọi người. Ngôn ngữ của mọi người bao quanh Phật là tiếng Pali; trong tiếng Pali dhyana trở thành jhana - tròn trĩnh hơn, được dùng nhiều hơn. Khi một từ được dùng nhiều, nó bắt đầu có sự tròn trĩnh, nó mất đi góc cạnh. Điều đó giống như tảng đá trong dòng sông đang chảy: dần dần, dần dần nó trở thành tròn hơn, nhẵn hơn; nó đạt tới cái đẹp, nó đạt tới nông trại đáng yêu. Dhyana là thô, jhana là tròn trĩnh, mềm mại, dễ phát âm. Cho nên khi những sứ giả Phật giáo tới Trung Quốc, jhana trở thành ch'an trong tiếng Trung Quốc. Và khi cùng từ này đạt tới Nhật bản từ Trung Quốc nó trở thành zen. Gốc của nó là dhyana - thiền.
Trong tiếng Anh cũng không có từ tương đương. 'Meditation' có thể được dùng bởi vì đó là xấp xỉ gần nhất, nhưng điều đó phải được dùng với chăm nom rất lớn, bởi vì bản thân 'meditation' nghĩa là suy ngẫm về cái gì đó, và dhyana - thiền - nghĩa là hiện hữu trong thiền, không suy ngẫm về cái gì đó. Nó không phải là quan hệ với một đối thể, nó là trống rỗng tuyệt đối; không đối thể, thậm chí không Thượng đế. Đơn giản vô đối thể, tấm gương phản xạ cái không, tấm gương đơn giản trong bản tính của nó, như nó vậy. Khi bạn đi tới sự đơn giản đó, tới cái hồn nhiên đó, bạn ở trong thiền.
Bạn không thể làm thiền được, bạn chỉ có thể ở trong thiền. Vấn đề không phải là làm cái gì đó, vấn đề là hiện hữu. Nó không phải là hành động mà là trạng thái.
Đệ tử này hỏi Bồ đề đạt ma, thầy:
Thiền trong trống rỗng là gì?
Anh ta phải đã phân vân. Nhiều người hỏi tôi, "Chúng tôi nên thiền về cái gì? Về dạng nào? Chúng tôi nên quán tưởng cái gì? Chúng tôi nên tụng mật chú nào, hay chúng tôi nên tạo ra dạng ý nghĩ nào bên trong tâm trí chúng tôi, để cho chúng tôi có thể hội tụ vào nó?" Họ đang hỏi về tập trung nhưng họ nghĩ họ đang hỏi về thiền. Và có cả nghìn cuốn sách viết về tập trung nhưng chúng tất cả đều liên tục dùng từ thiền. Đây là một trong những từ bị hiểu lầm nhiều nhất - và kinh nghiệm này là hiếm hoi tới mức bạn sẽ không bao giờ hiểu rằng ai đó dùng từ này theo nghĩa sai tuyệt đối.
Tôi đã bắt gặp hàng trăm cuốn sách liên tục dùng từ thiền dường như nó là trạng thái cao hơn của tập trung. Nó chẳng liên quan gì tới tập trung cả; thực ra, nó chính là cái đối lập của tập trung. Trong tập trung có đối thể. Bạn phải hội tụ vào đối thể, bạn phải tuyệt đối được tập trung vào nó, toàn thể tâm thức của bạn rơi vào đối thể, không bỏ lỡ đối thể cho dù một khoảnh khắc: đó là tập trung. Tập trung có giá trị riêng của nó. Nó là phương pháp lớn trong tay của khoa học, nhưng nó không có giá trị tôn giáo chút nào. Nó có giá trị khoa học, nó có giá trị nghệ thuật, nhưng không có giá trị tôn giáo chút nào. Khoa học không thể tiến được một bước nếu không có tập trung. Nghệ thuật không thể sáng tạo nếu không có tập trung.
Nghệ sĩ trở nên được tập trung vào bức hoạ, hay bức điêu khắc, hay âm nhạc tới mức người đó quên mất toàn thế giới. Trong tập trung của người đó mọi thứ khác bị loại trừ, bị loại ra; duy nhất một thứ còn lại trong tâm trí người đó, dường như toàn thế giới bao gồm một điều đó. Điều đó là toàn thể thế giới cho khoảnh khắc đó; không cái gì khác tồn tại.
Có một chuyện cổ:
Một cuốn sách rất nổi tiếng, một trong những cuốn sách vĩ đại nhất đã từng được viết ra, là một bản luận về Brahma Sutras do Vrihaspati viết ra. Tên của bản luận này là rất kì lạ: tên của bản luận này là Bhamati. Nó là kì lạ vì nó chẳng liên quan gì tới Brahma Sutras, một trong những bản luận triết lí về advaita, bất nhị.
Bhamati là tên của vợ Vrihaspati. Kết nối nào có thể có đó giữa lời bài luận về Brahma Sutras và vợ Vrihaspati? Có bí mật nào đó ẩn kín trong nó. Vrihaspati phải đã là một con người của tập trung sâu sắc - ông ấy là một triết gia lớn. Ông ấy lấy vợ vì bố ông ấy đã già và ông cụ muốn Vrihaspati xây dựng gia đình. Và trong thời xưa ấy vâng lời là cách đơn giản; nó đã là tự nhiên thế - mọi người thường tuân theo ước nguyện của bố mẹ họ. Không có vấn đề nói không, cho nên Vrihaspati nói có.
Ông ấy lấy Bhamati nhưng ông ấy không phải là người đàn ông cần vợ hay cần gia đình. Toàn thể tập trung của ông ấy là vào bản luận lớn mà ông ấy đang viết về Brahma Sutras. Ông ấy bị cuốn hút tới mức ông ấy đem vợ về nhà và quên tất cả về cô ấy.
Người vợ chăm sóc mọi bề cho Vrihaspati. Điều đó nữa là không còn có thể - ai có thể chăm sóc cho người chồng mà đã quên hoàn toàn cô ấy? Ông ấy không có ý tưởng nào về cô ấy là ai và tên cô ấy là gì. Ông ấy chưa bao giờ hỏi tên cô ấy. Cô ấy phục vụ ông ấy như cái bóng. Cô ấy chưa bao giờ tới trước ông ấy vì ông ấy có thể bị sao lãng, quấy rối.
Và ông ấy liên tục viết bài luận của mình. Ông ấy đang vội bởi vì ông ấy đã lấy lời nguyện trong tim rằng ngày bài luận được hoàn thành ông ấy sẽ từ bỏ thế giới, và ông ấy muốn từ bỏ thế giới sớm nhất có thể được. Hết ngày nọ tới ngày kia, ông ấy miệt mài viết. Muộn trong đêm ông ấy liên tục viết. Thỉnh thoảng nến cháy hết, và người vợ sẽ tới đằng sau và chỉ đặt nến ở đó. Thỉnh thoảng ông ấy thấy tay vợ đem thức ăn tới, đem thức ăn thừa và đĩa đi, nhưng ông ấy tập trung thế vào công việc của mình, ông ấy không bao giờ hỏi. "Người đàn bà này là ai?"
Đó là câu chuyện hay; liệu nó có thực sự xảy ra hay không không phải là vấn đề. Nhưng tôi nghĩ rằng những người vợ chắc không thể tốt đến thế ngay cả trong những ngày xưa đó. Người ta hi vọng... nhưng các hi vọng chưa bao giờ được hoàn thành.
Nhiều năm trôi qua và đêm tới khi bài luận được hoàn thành. Vrihaspati đóng cuốn sách lại, người vợ tới và đem nến đi. Bây giờ ông ấy tự do với bài luận và sự cuốn hút. Ông ấy hỏi người đàn bà, "Cô là ai vậy? Và sao cô liên tục phục vụ tôi như thế này?"
Người đàn bà nói, "Em được ân huệ tuyệt đối rằng ít nhất anh hỏi tới tên em. Điều đó còn nhiều hơn là việc em có thể đã yêu cầu. Anh phải đã quên mất rồi... nhiều ngày đã trôi qua. Và anh bị cuốn hút thế vào trong công việc của anh, làm sao anh có thể nhớ được, làm sao người ta có thể mong đợi nhớ được? Em là Bhamati; anh đã cưới em vài năm trước. Kể từ đó em đã hầu hạ anh."
Và nước mắt lăn dài trên má Vrihaspati, và ông ấy nói, "Bây giờ thì quá trễ rồi vì ta đã lấy lời nguyện rằng ngày bản luận được hoàn thành ta sẽ từ bỏ thế giới. Quá trễ rồi; ta không thể là chồng cô được thêm nữa. Ta đã từ bỏ thế giới. Đóng sách lại là đóng chương này của đời ta. Ta bây giờ là một sannyasin. Nhưng ta cảm thấy cực kì biết ơn cô. Cô là người đàn bà hiếm hoi. Chỉ từ lòng biết ơn ta sẽ gọi bản luận của ta là Bhamati."
Do đó bản luận của ông ấy về Brahma Sutras có tên là Bhamati. Trên bề mặt không có quan hệ gì giữa Bhamati và Brahma Sutras, nhưng đó là điều Vrihaspati đã gọi nó. Và ông ấy nói với vợ mình, "Theo cách đó câu chuyện của em sẽ được ghi nhớ hàng thế kỉ." Vâng, nhiều thế kỉ đã trôi qua, và tôi đã nhớ nó, và bây giờ bạn sẽ nhớ nó. Một người đàn bà hiếm hoi, và người đàn ông hiếm hoi, và câu chuyện hiếm hoi...
Đây là tập trung, tuyệt đối tập trung. Có thể được tập trung vào cái gì đó tới mức mọi thứ khác đều bị loại trừ. Điều đó được nói tới cho Thomas Alva Edison, một nhà khoa học vĩ đại, vĩ đại nhất, bởi vì một mình ông ấy đã khám phá ra ít nhất là một nghìn thứ... Không ai khác đã làm nhiều thế. Nhiều thứ bạn đang dùng là phát minh của Edison: bóng đèn điện, máy ghi âm, radio - nhiều thứ.
Ông ấy thường trở nên bị cuốn hút vào công việc của mình tới mức có lần ông ấy quên mất cả tên mình. Rất khó quên được tên bạn cho dù bạn muốn quên. Nó trở thành ăn sâu thế, nó đi sâu vào trong trí nhớ tới mức nó trở thành một phần của vô thức của bạn. Ngay cả trong giấc ngủ bạn vẫn nhớ tới tên bạn. Nếu tất cả các bạn đều rơi vào trong giấc ngủ ở đây - vì bạn có thể làm điều đó nếu tôi cứ nói mãi về thiền... Bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ trốn đi đâu? Bạn sẽ bắt đầu rơi vào giấc ngủ. Nếu tất cả các bạn rơi vào giấc ngủ và đột nhiên tôi gọi tên ai đó - tôi gọi, "Mukta!" - thế thì không ai khác sẽ nghe thấy; duy nhất Mukta sẽ nghe thấy. Mukta sẽ mở mắt ra và sẽ nói, "Ai quấy rầy thế? Và sao lại tôi?" Ngay cả sâu trong giấc ngủ bạn vẫn nhớ tên bạn. Rất khó quên nó. Nhưng Edison có lần đã quên mất tên mình. Ai đó khác phải nhắc ông ấy.
Trong thế chiến thứ nhất ông ấy đang đứng xếp hàng; khi tên ông ấy được gọi, ông ấy nhìn quanh đây đó. Người thư kí gọi lần nữa, thế rồi một người đứng sau ông ấy bảo ông ấy, "Như tôi biết từ báo chí - tôi đã thấy ảnh ông - ông dường như là Thomas Alva Edison."
Ông ấy nói, "Vâng, ông đúng! Tôi đang nghĩ, người này là ai vậy? Âm này, dường như tôi đã nghe cái tên này từ trước. Tôi có thể nhận ra cái tên nhưng tôi hoàn toàn quên mất rằng đây là tên riêng của tôi." Ông ấy nói, "Tôi rất tiếc."
Điều này có thể xảy ra cho nhà khoa học. Ông ấy thường giữ các ghi chép, bởi vì ông ấy làm việc trên nhiều thứ cùng nhau thế, nhưng thế rồi ông ấy sẽ quên mất ông ấy để tờ ghi chép ở đâu. Và ông ấy sẽ dùng các mảnh giấy - đó là thói quen của ông ấy, cái gì đó lập dị - chỉ những mảnh giấy nhỏ để viết những điều lớn lao lên. Toàn thể nghiên cứu của ông ấy đầy những mảnh giấy, và mỗi mảnh giấy phải được gìn giữ bởi vì không ai biết ông ấy đã viết gì lên nó. Vợ ông ấy phải chăm lo để không mảnh nào bao giờ bị mất, bởi vì ông ấy sẽ hỏi, "Mảnh giấy đó đâu rồi?" và thế rồi tìm cả tiếng đồng hồ, bởi vì có nhiều mảnh giấy thế.
Vợ ông ấy bảo ông ấy, "Sao anh không dùng quyển vở?"
Ông ấy nói, "Ý tưởng hay đấy, sao em không nói cho anh từ trước?" Thế là ông ấy thường mang theo cuốn sổ tay nhưng thế rồi ông ấy lại quên luôn cả cuốn sổ tay - chỗ ông ấy đã để nó. Tập trung của ông ấy là toàn bộ vào bất kì cái gì ông ấy đang làm việc. Nó không phải là thiền, nhớ lấy.
Khoa học cần tập trung. Thiền chính là cái đối lập của tập trung. Tập trung nghĩa là loại ra ngoài toàn thể thế giới và đổ tâm thức bạn vào một đối thể. Thiền nghĩa là không đối thể nào cả; không cái gì bị loại trừ, không cái gì bị loại ra ngoài. Người ta đơn giản thảnh thơi, cởi mở, tỉnh táo, sẵn có cho mọi thứ đang đó. Tiếng hót xa xăm của con chim cúc cu, và tiếng ồn của tầu hoả, và ai đó bóp còi xe, và trẻ con cười khúc khích. Người ta sẵn có cho mọi thứ và vậy mà người ta ở xa xăm, siêu việt.
Câu hỏi thứ nhất đệ tử này hỏi là:
Thiền trong trống rỗng là gì?
Anh ta có thể hiểu thiền là gì, bởi vì thế thì anh ta sẽ có khả năng hiểu nó như tập trung. Nhưng hoàn cảnh là 'trong trống rỗng'; điều đó tạo ra vấn đề. 'Thiền trong trống rỗng' - bạn phải hoàn toàn trống rỗng, không ý nghĩ, không ham muốn, không đối thể, không nội dung của tâm trí. Bạn chỉ là sự trống rỗng; mọi thứ đi qua bạn không cản trở nào, không khối chắn. Gió tới và đi qua ngôi đền trống rỗng, ánh sáng mặt trời tới và đi qua ngôi đền trống rỗng, mọi người tới và qua ngôi đền trống rỗng, và ngôi đền vẫn còn trống rỗng. Mọi thứ tới và đi như cái bóng và không cái gì làm sao lãng bạn. Điểm đó phải được nhớ.
Trong tập trung mọi thứ đều làm sao lãng bạn. Nếu bạn đang làm việc một cách tập trung lên cái gì đó và vợ bạn bắt đầu nói với bạn, đó là sao lãng. Nếu con bạn muốn hỏi một câu hỏi, đó là sao lãng. Nếu chó bắt đầu sủa ở nhà hàng xóm, đó là sao lãng. Nếu bạn đang cố tập trung, mọi thứ đều là sao lãng, bởi vì tập trung là trạng thái phi tự nhiên, bị ép buộc; do đó bất kì cái gì cũng có thể làm sao lãng bạn.
Nhưng thiền là luồng chảy tự nhiên, tự phát; không cái gì có thể làm sao lãng bạn. Đó là cái đẹp của thiền: sao lãnh là không thể được. Chó có thể sủa, và trẻ con có thể hỏi câu hỏi, và máy bay có thể liên tục bay trên trời làm ra đủ mọi loại tiếng động, và không cái gì làm sao lãng bạn bởi vì bạn không tập trung chút nào. Từ đâu mà bạn có thể bị sao lãng? Nếu bạn đang hội tụ, bạn có thể bị sao lãng. Nếu bạn không hội tụ, làm sao bạn có thể bị sao lãng được? Thấy ra vấn đề đi.
Thiền không biết tới sao lãng. Đó là duyên dáng của nó, cái đẹp của nó, vĩ đại của nó: không cái gì có thể quấy rối nó được. Nếu thiền của bạn có thể bị quấy rối điều đó đơn giản nghĩa là bạn đang tập trung và còn chưa nếm trải thiền. Thiền là bao la thế nó có thể chứa mọi thứ, hấp thu mọi thứ, và vậy mà vẫn còn trống rỗng.
Đệ tử này hỏi:
Thiền trong trống rỗng là gì?
Đệ tử này phải đã nghĩ về thiền dưới dạng tập trung. Đó là cách nó bao giờ cũng xảy ra: thầy nói điều này, đệ tử hiểu cái gì đó khác. Điều đó nữa cũng là quá trình tự nhiên. Tôi không phàn nàn về điều đó; điều đó nhất định xảy ra, bởi vì thầy nói từ bình diện này và đệ tử hiểu từ bình diện khác. Cái gì đó tới từ những đỉnh cao phải đi xuống bóng tối của thung lũng, và thung lũng nhất định ảnh hưởng tới nó.
Nói gì về đối thoại của thầy và đệ tử khi ngay cả trong đối thoại giữa những người thường, khi bạn đang nói với mọi người, bạn thường xuyên cảm thấy bạn đã không được hiểu? Thỉnh thoảng bạn càng cố, điều đó càng trở nên không thể được, đặc biệt khi bạn có quan hệ thân thiết với mọi người. Chồng nói với vợ, vợ nói với chồng; bố mẹ nói với con cái, con cái nói với bố mẹ. Dường như không có khả năng năng trao đổi chút nào. Chồng nói điều này, vợ lập tức nhảy sang kết luận nào đó khác. Vợ nói cái gì đó, chồng bắt đầu nói về cái gì đó khác. Tâm trí họ không rảnh rang. Họ liên tục giải thích sai lẫn nhau. Do đó nhiều biện luận tiếp tục mà không có hiểu biết chút nào.
Anh ta gọi điện thoại tới bác sĩ và bắt đầu la lên điên cuồng, "Con trai năm tuổi của tôi vừa nuốt viên thuốc tránh thai!"
"Đừng lo. Tôi sẽ qua ngay."
Ngay khi bác sĩ vừa định rời khỏi văn phòng, điện thoại của ông ta lại reo lên và cùng người gọi tuyên bố, "Quên chuyện đó đi, bác sĩ. Tôi tìm ra viên khác rồi!"
Rất khó biết đích xác nghĩa của người khác.
Grant đi Pháp nhân kì nghỉ, gặp một cô gái Pháp xinh xắn, cưới cô ấy, và trở về nhà với cô dâu tới Cleveland. Sau khi ở nước này chỉ ba tuần cô gái Paris đáng thương vào bệnh viện tư để mổ.
Khi ra khỏi ảnh hưởng của ê te, cô ấy hỏi bác sĩ, "Chồng tôi và tôi có thể trở lại cuộc sống tình dục thông thường sớm bao lâu?"
"Tôi còn phải xem sách y đã," bác sĩ hít hơi. "Cô là bệnh nhân đầu tiên hỏi tôi điều đó sau cuộc mổ cắt ami đan."
Bạn đơn giản không biết về người Pháp và cách họ làm tình!
Tôi đã nghe một câu chuyện:
Một giáo sư người Pháp về tình dục học đang nói chuyện với một giáo sư Mĩ về cùng chủ đề, người ông ta đã gặp trong một cuộc hội nghị. Người Pháp nói, "Có một trăm cách làm tình."
Người Mĩ phân vân, "Một trăm sao?" Và khi người Pháp bắt đầu kể ra mọi cách, ông ta ngày một phân vân hơn. Cách thứ một trăm là: chồng làm tình với vợ khi treo trên đèn treo.
Người Mĩ nói, "Có một trăm linh một cách làm tình."
Người Pháp không thể nào tin được vào điều đó; ông ta nói, "Điều đó là không thể được, bởi vì không ai biết nhiều về yêu hơn chúng tôi." Nhưng người Mĩ cứ khăng khăng rằng có một trăm linh một cách. Thế là người Pháp nói, "Vâng, thôi được, ông bắt đầu kể đi."
Người Mĩ nói, "Đầu tiên là: vợ nằm ngửa và chồng nằm trên cô ta."
Người Pháp nói, "Đợi đã! Tôi chưa bao giờ nghĩ tới điều đó!"
Người khác nhau, tâm trí khác nhau, ước định khác nhau, bận tâm khác nhau, định kiến khác nhau. Cho nên khi bạn nói, lời không thể có cùng nghĩa. Khi bạn nói cái gì đó, bạn nói nó với nghĩa này; khi nó đạt tới người khác nó có nghĩa mà người đó cho các lời đó. Điều này là vậy trong đối thoại bình thường - nói gì tới phật đang nói cho đệ tử.
Phật đang đứng ở bờ bên kia, và đệ tử ở bờ bên này. Phật đã thức tỉnh và đệ tử đang ngủ say và ngáy. Phật nói như một người đã thức tỉnh và đệ tử nghe như người đang ngủ. Trong mơ của mình anh ta bóp méo nghĩa, anh ta cho ý tưởng riêng của mình, áp đặt quan niệm, triết lí riêng của mình, kết luận riêng của mình lên lời.
Do đó chừng nào mối quan hệ thầy và đệ tử còn chưa là mối quan hệ của chuyện tình sâu sắc, trao đổi là không thể được; điều đó là không thể được. Chỉ trong mối quan hệ yêu sâu sắc, trong thân thiết sâu sắc nơi đệ tử đơn giản trong buông bỏ, nơi đệ tử gạt tâm trí của mình sang bên và lắng nghe không can thiệp chút nào, không bao giờ cho nghĩa riêng của mình, chỉ lắng nghe một cách chăm chú, không bị bận tâm liệu điều được nói là đúng hay sai, hay nó có nghĩa gì, chỉ thế thì người đó mới có thể lắng nghe và việc lắng nghe đó có thể là kinh nghiệm biến đổi. Từ phía đệ tử im lặng lớn là được cần, chỉ thế thì điều thầy nói mới có thể được hiểu.
Câu hỏi của đệ tử này là:
Thiền trong trống rỗng là gì?
Anh ta phải đã nghe Bồ đề đạt ma nói về thiền lặp đi lặp lại mãi, bởi vì ở phương Đông thầy đã từng nói chỉ về thiền. Bạn có thể hỏi bất kì câu hỏi nào và sớm hay muộn họ sẽ đem chủ đề về thiền - và nó là sẽ đi tới đó sớm hay muộn. Bạn có thể hỏi về Thượng đế và họ sẽ nói về thiền. Bạn có thể hỏi, "Tôi là ai?" và họ sẽ nói về thiền. Bạn có thể hỏi, 'Ai tạo ra thế giới?' và họ sẽ nói về thiền - vì phương Đông biết chìa khoá.
Thiền là chìa khoá cho mọi điều huyền bí của cuộc sống và sự tồn tại; do đó liên tục nói về các chủ đề khác là vô nghĩa. Nếu bạn có thể làm cho đệ tử hiểu thiền là gì, thế thì anh ta sẽ mở ra và tháo khoá mọi cánh cửa theo cách riêng của anh ta, và anh ta sẽ có khả năng thấy và kinh nghiệm theo cách riêng của anh ta. Và chỉ kinh nghiệm của bạn mới là giải thoát, bởi vì chỉ thế thì nó mới là chân lí của bạn một cách đích thực.
Jesus nói: Chân lí giải thoát. Một cách chắc chắn, chân lí giải thoát. Một cách tuyệt đối, chân lí giải thoát. Tôi đồng ý với ông ấy, nhưng phát biểu của ông ấy dường như chỉ là một nửa. Phát biểu đầy đủ nên là: Chân lí giải thoát, nhưng chân lí phải là của riêng bạn. Nếu nó là chân lí của ai đó khác, thế thì thay vì giải thoát bạn, nó trói buộc bạn, nó xiềng xích bạn, nó cầm tù bạn.
Bồ đề đạt ma nói:
Người quan sát mọi sự trong thế giới hiện tượng, vậy mà bao giờ cũng cư ngụ trong trống rỗng. Đó là thiền trong trống rỗng.
Câu trả lời đơn giản, chỉ là câu trả lời bản chất, nhưng nếu bạn có thể hiểu được câu trả lời này theo cách tồn tại, bạn sẽ không bao giờ như cũ lần nữa. Những lời đơn giản, nhưng chúng có thể trở thành chiếc thang sang thế giới kia.
Người quan sát mọi sự trong thế giới hiện tượng, vậy mà bao giờ cũng cư ngụ trong trống rỗng. Đó là thiền...
Nhìn toàn thể thế giới dường như nó bao gồm các cái bóng. Nó thực sự chứa các cái bóng. Nó được làm từ chất liệu mơ. Bởi vì chúng ta tin vào nó, nó thu được thực tại trong cùng tỉ lệ như chúng ta tin vào nó. Khoảnh khắc niềm tin của bạn biến mất, điều bạn tin vào cũng biến mất.
Bạn thấy người đàn bà và bạn phóng chiếu cái đẹp lên cô ấy và cô ấy có vẻ đẹp thế, như vàng thế, không của thế giới này chút nào, và bạn rơi vào tình yêu với giấc mơ riêng của bạn, nhớ lấy; người đàn bà chẳng có liên quan gì tới nó. Đó là lí do tại sao những người yêu đều bị coi là mù và điên, bởi vì không ai khác có thể đồng ý với họ.
Majnu điên về một người đàn bà, Laila, điên tới mức chưa bao giờ có một người yêu điên như thế; anh ta ở trên đỉnh danh sách. Vua triệu anh ta tới, vì ông ấy bắt đầu cảm thấy tiếc cho chàng thanh niên này. Và bởi vì anh ta ở trong tình yêu với Laila nhiều thế, ngay cả nhà vua cũng đã trở nên quan tâm, "Người đàn bà này là ai?" Ông ấy cũng quan tâm tới đàn bà đẹp, cho nên ông ấy làm cuộc điều tra. Ông ấy thấy người đàn bà này và ông ấy choáng - cô ấy rất đơn sơ, giản dị, rất bình thường.
Thế rồi ông ấy cảm thấy thậm chí còn tiếc hơn cho chàng thanh niên này. "Anh ta chỉ là kẻ ngu, hay điên, hay phát mù quáng. Điều gì đã xảy ra cho anh ta?" Và anh ta đã là chàng thanh niên thông minh nhất trong thủ đô, đẹp, mạnh khoẻ; đang phá huỷ mạnh khoẻ của anh ta, phá huỷ thông minh của anh ta vì một người đàn bà bình thường.
Nhà vua triệu anh ta tới triều đình. Ông ấy nói, "Anh phải điên rồi, bởi vì ta đã thấy Laila của anh và cô ta chỉ là người đàn bà bình thường. Nhưng ta cảm thấy tiếc cho anh. Chúng ta đã hi vọng nhiều về anh, chúng ta nghĩ rằng anh sẽ trở thành một người vĩ đại, nhưng anh đang phá huỷ bản thân mình. Ta sẽ cho anh một trong những người đàn bà đẹp nhất từ gia đình ta. Ta có nhiều đàn bà đẹp."
Ông ấy gọi một tá cô gái tới và ông ấy bảo Majnuj, "Anh có thể chọn bất kì người nào, và người đó sẽ là của anh."
Majnu nhìn lần lượt từng cô gái và lắc đầu và nói, "Không. Đây không phải là Laila, đây nữa cũng không là Laila." Anh ta bác bỏ tất cả mười hai cô gái. Anh ta nói, "Không ai là Laila cả."
Nhà vua nói, "Anh chắc chắn là điên rồi. Laila không là gì khi so sánh với những cô gái đẹp này. Họ thuộc vào gia đình hoàng gia đấy!"
Majnu nói, "Tâu bệ hạ, tôi có thể hiểu được từ bi của ngài với tôi, nhưng tôi lấy làm tiếc phải nói rằng ngài không thể thấy được Laila trừ phi ngài nhìn cô ấy qua mắt tôi."
Đây là phát biểu có ý nghĩa - từ một người điên, tất nhiên, nhưng đôi khi người điên đưa ra phát biết rất lành mạnh. "Trừ phi ngài nhìn qua mắt tôi," Majnu nói, "ngài sẽ không có khả năng thấy được cái đẹp của Laila." Theo một cách nào đó anh ta là đúng, bởi vì cái đẹp không có đó trong Laila, nó được phóng chiếu qua mắt anh ta. Laila chỉ là màn ảnh trên đó anh ta phóng chiếu ý tưởng nào đó.
Mọi người yêu đều làm điều đó. Bạn rơi vào tình yêu với phóng chiếu riêng của bạn. Đó là lí do tại sao nó bao giờ cũng gây thất vọng. Nếu bạn ngẫu nhiên có được người đàn bà của bạn hay người đàn ông của bạn, bạn sẽ bị thất vọng. Được ân huệ là những người chưa bao giờ lấy người người đàn ông hay người đàn bà của họ, bởi vì họ chưa bao giờ bị thất vọng. Họ bao giờ cũng vẫn còn yêu, họ bao giờ cũng vẫn còn hi vọng. Bị khổ là những người thành công, bởi vì thế thì sẽ rất khó mà mang được phóng chiếu cũ. Khi bạn tới gần màn ảnh hơn và bạn chạm vào màn ảnh, bạn có thể cảm thấy rằng có cái đẹp được bao lâu? Sớm hay muộn bạn sẽ thấy rằng chỉ có màn ảnh đơn sơ, rằng bạn đã phóng chiếu. Do đó mọi người yêu, nếu họ thành công, đều trở nên thất vọng.
Thế giới này bao gồm các phóng chiếu của chúng ta. Thực ra, khi Bồ đề đạt ma nói về thế giới, ông ấy đang nói chỉ về phóng chiếu của bạn. Ông ấy không nói về cây và đá và núi và sao, ông ấy đang nói về phóng chiếu của bạn. Hoa hồng là hoa hồng là hoa hồng - không đẹp không xấu. Nó đơn giản là bản thân nó; bạn phóng chiếu ý tưởng của bạn.
Mới một trăm năm trước không ai nghĩ rằng xương rồng là đẹp. Nhưng bây giờ chúng 'ở trong nhà', và hoa hồng ở bên ngoài. Bây giờ nói về hoa hồng có vẻ lạc thời thượng chút ít. Nếu bạn nói với người đàn bà của bạn, "Mặt em tươi như hoa hồng," cô ấy sẽ nghĩ bạn chỉ là kiểu mũ cũ. Nói với cô ấy, "Em trông như cây xương rồng," và cô ấy sẽ nghĩ, "Vâng, anh hiện đại, anh cập nhật. Anh hiểu Picasso và Dali và nghệ thuật hiện đại."
Mọi người bây giờ để xương rồng trong phòng khách, và trước đây họ thường để xương rồng chỉ ở hàng rào cánh đồng và vườn để bảo vệ chúng. Bây giờ xương rồng đã đi vào phòng khách. Đột nhiên cái đẹp được khám phá. Trong nhiều thế kỉ không ai đã bao giờ nghĩ tới - không Shakespeare không Kalidas, không Milton không Tennyson - không ai đã bao giờ nói về xương rồng và ca ngợi xương rồng. Nhưng bây giờ chúng ta đã bắt đầu phóng chiếu cái đẹp lên xương rồng. Chúng ta mệt mỏi với hoa hồng; thế là đủ rồi. Sau hàng nghìn năm chúng ta đã nói mọi điều về hoa hồng; chúng ta được kết thúc với chúng. Không cái gì mới có thể được nói về hoa hồng. Mọi thứ có thể được nói đều đã được nói - và được nói hay tới mức không có cách nào để cải tiến nó. Và chúng ta có nhu cầu lớn để phóng chiếu. Do đó mốt thời thượng thay đổi, bởi vì mọi người đều cần phóng chiếu ý tưởng của mình. Do đó chúng ta cần màn ảnh mới.
Và ý tưởng về cái đẹp liên tục thay đổi. Trong mọi nước đều có ý tưởng khác nhau về cái đẹp. Điều là đẹp cho người Mĩ không đẹp cho người Ấn Độ; và điều là đẹp cho người Ấn Độ không đẹp cho người Mĩ; và điều là đẹp cho người Mĩ là không đẹp cho người Trung Quốc. Các ý tưởng khác nhau.
Thế thì có cái gì đó giống như cái đẹp khách quan không? Không có đâu. Sự tồn tại đơn giản có đó mà không có tính từ; không có 'tốt' không có 'kém', không có 'đẹp' không có 'xấu'. Do đó Bồ đề đạt ma nói: Vứt việc thích và không thích đi. Dừng chọn lựa, dừng phóng chiếu, và thế giới biến mất. Không phải là cây sẽ không có đó và núi sẽ không có đó đâu, không phải là bạn sẽ có khả năng đi qua tường đâu. Tường sẽ có đó và cây sẽ có đó và núi sẽ có đó; mọi thứ sẽ có đó trong chân lí tuyệt đối nhưng mơ của bạn sẽ không có đó chút nào. Và chúng ta đã trở nên bị gắn bó thế với mơ của chúng ta - đó là lí do tại sao thiền dường như là khó.
Bệnh nhân: "Bác sĩ ơi, suốt cả đêm dài tôi đã mơ về bóng chày, và điều đó xảy ra hàng đêm."
Nhà tâm thần: "Được, điều đó có thể được chữa dễ dàng. Anh có nữ nghệ sĩ yêu mến nào không?"
Bệnh nhân: "Có chứ, Elizabeth Taylor."
Nhà tâm thần: "Vậy thì tốt, mọi thứ anh nghĩ về cô ấy trong đêm."
Bệnh nhân: "Cái gì! Và làm mất lượt đánh của tôi à!"
Tôi đã nghe: Mulla Nasruddin huých khuỷu tay vào vợ trên giường một đêm và nói, "Nhanh lên, đem kính của anh lại đây!"
Cô vợ nói, "Giữa đêm hôm...! Anh cần kính làm gì?"
Anh ta nói, "Đừng phí thời gian, mang kính của anh lại đi!"
Nhưng cô vợ cứ khăng khăng, "Trước hết em phải biết tại sao, để làm gì: giữa đêm hôm thế này, anh định nhìn cái gì?"
Anh ta nói, "Em sẽ phá huỷ toàn thể vấn đề. Anh vừa mới có giấc mơ. Ba người đàn bà đẹp: Elizabeth Taylor, Sophia Loren... hai người anh có thể nhận ra được; người thứ ba, người đẹp nhất, anh không thể nhận ra được. Đem kính của anh lại đi! Em biết rằng mắt anh không phải là điều chúng thường vẫn vậy. Anh già rồi và anh không thể thấy được mọi thứ một cách rõ ràng."
Mọi người đang sống trong mơ. Chỉ có hai loại người trên thế giới: những người sống trong mơ và những người sống trong nhận biết. Là một sannyasin nghĩa là bắt đàu của việc sống trong nhận biết.
Bồ đề đạt ma nói:
Người quan sát mọi sự trong thế giới hiện tượng, vậy mà bao giờ cũng cư ngụ trong trống rỗng. Đó là thiền trong trống rỗng.
Người ta liên tục thấy hình bóng, mơ, phóng chiếu, nhưng nhớ rằng tất cả những điều này chỉ là chất liệu mơ thôi. Nhớ điều đó, sâu bên dưới người ta vẫn còn hoàn toàn trống rỗng. Gương chưa bao giờ níu bám lấy bất kì phản xạ nào; dù mặt đẹp thế nào có thể nhìn vào trong gương, nó không bao giờ níu bám lấy điều đó. Mặt được phản xạ. Khi người này đã đi rồi, mặt biến mất. Gương vẫn còn trống rỗng, thiền nhân cũng vậy: người đó phản xạ mọi thứ và vậy mà vẫn còn trống rỗng, bởi vì người đó không níu bám.
Câu hỏi thứ hai:
Làm sao người ta có thể cư ngụ trong pháp?
Bồ đề đạt ma nói:
Người ta không nên duy trì pháp trong cư ngụ cũng không duy trì pháp không cư ngụ. Người đó nên sống một cách tự nhiên trong pháp. Đây là điều ông gọi là cư ngụ trong pháp.
Cách diễn đạt điều đó của Bồ đề đạt ma có thể dường như là hơi chút kì lạ, nhưng ông ấy chẳng thể giúp gì được nó; ông ấy phải nói nó như nó vậy.
Đệ tử hỏi:
Làm sao người ta có thể cư ngụ trong pháp?
Pháp, nhớ lấy, bình thường được dịch thành tôn giáo. Điều đó nữa là không đúng. Pháp không phải là tôn giáo, tôn giáo là thái độ hướng tới thực tại. Pháp không phải là thái độ hướng tới thực tại, Pháp đơn giản là sống một cách tự nhiên, tự phát. Sống trong hoà điệu với tự nhiên là Pháp.
Đó là kinh nghiệm của Bồ đề đạt ma, đó là kinh nghiệm của tôi nữa: sống một cách tự nhiên, không can nhiễu vào tính tự phát của bạn, sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc không bị chi phối bởi quá khứ hay tương lai là Pháp. Bồ đề đạt ma nói: Quên chuyện cư ngụ trong Pháp đi không cư ngụ trong Pháp đi. Đó là đang mang tâm trí của ông vào, tạo ra phân loại. Sống đơn giản và tự nhiên thôi.
Khi được hỏi, "Pháp là gì?" một Thiền sư tương truyền đã nói, "Khi cảm thấy đói ta ăn, và khi cảm thấy buồn ngủ ta ngủ."
Câu trả lời hay vô cùng thế! Cao làm sao, sâu làm sao! Người ta sẽ không bao giờ mong đợi được câu trả lời như vậy - và đơn giản thế, hồn nhiên thế: "Khi ta cảm thấy đói, ta ăn." Thầy đang nói: Tự nhiên đi, đó là Pháp.
Một Thiền sư khác được hỏi, "Trước khi thầy trở nên chứng ngộ, thầy thường làm gì?"
Ông ấy nói, "Ta thường chẻ củi và mang nước về từ giếng."
Và thế rồi ông ấy lại được hỏi, "Bây giờ thầy đã trở nên chứng ngộ, là vị phật, thầy làm gì?"
Ông ấy nói, "Ta còn có thể làm cái gì khác được? Ta chẻ củi và mang nước về từ giếng."
Người hỏi tự nhiên đâm phân vân; anh ta nói, "Thế thì khác biệt là gì? Trước khi chứng ngộ thầy đã làm cùng việc, và sau khi chứng ngộ thầy đang làm cùng một việc, thế thì khác biệt là gì?"
Và thầy cười và thầy nói, "Khác biệt là lớn lao chứ. Trước đây ta phải làm nó, bây giờ nó tất cả xảy ra một cách tự nhiên. Trước đây ta phải làm nỗ lực, trước khi ta trở nên chứng ngộ nó đã là nghĩa vụ phải được hoàn thành bằng cách nào đó, phải được thực hiện một cách miễn cưỡng, ngần ngại. Ta đã làm nó bởi vì ta bị ra lệnh phải làm nó; đó là lệnh của thầy ta phải chẻ củi, cho nên ta chẻ củi. Nhưng sâu bên dưới ta bực mình: lão già ngu này còn định ép mình chẻ củi và mang nước từ giếng về đến bao giờ? Bao lâu? - mặc dầu trên bề mặt ta chẳng nói gì.
"Bây giờ ta đơn giản chẻ củi bởi vì ta biết cái đẹp của nó, niềm vui của nó. Ta mang nước từ giếng về vì điều đó là được cần. Nó không còn là nghĩa vụ, nó là tình yêu của ta. Ta yêu ông già này. Trời đang lạnh dần, mùa đông đang gõ cửa, chúng ta cần củi. Thầy đang ngày một già hơn mọi ngày; thầy cần nhiều hơi ấm hơn. Chúng ta sẽ phải sưởi ấm chỗ thầy. Chính là từ tình yêu mà ta chẻ củi. Chính là từ tình yêu mà ta mang nước về cho thầy từ giếng. Nhưng bây giờ khác biệt lớn lao đã xảy ra. Không có ngần ngại, không có kháng cự; không có bản ngã, ta không theo mệnh lệnh của bất kì ai, ta không vâng lời, ta đơn giản đáp ứng với khoảnh khắc và sự cần thiết của nó."
Bồ đề đạt ma nói: Sống một cách tự nhiên là cư ngụ trong Pháp.
Bạn không cần là người Ki tô giáo hay người Hindu hay Phật tử, bạn chỉ phải tự nhiên, chỉ tự nhiên như việc thở của bạn. Sống cuộc sống của bạn đi. Đừng sống theo những lời răn nào đó. Đừng sống theo ý tưởng của người khác. Đừng sống bởi vì mọi người muốn bạn sống theo cách đó. Lắng nghe trái tim riêng của bạn. Im lặng và lắng nghe tiếng nói nhỏ bé, tĩnh lặng bên trong và cho phép nó. Và đó là cư ngụ trong Pháp.
Câu hỏi thứ ba:
Làm sao đàn ông có thể sống như không đàn ông và đàn bà như không đàn bà?
Phật đã nói: Ông càng đi sâu hơn ông càng trở nên nhận biết rằng ông không là thân thể, ông không là tâm trí, ông thậm chí không là trái tim. Ông chỉ là sự hiện hữu, tâm thức, nhân chứng thuần khiết. Do đó trong thiền không có người nào là đàn ông hay đàn bà. Trong thiền bạn ở sâu trong hiện hữu của bạn tới mức từ đỉnh cao đó mọi khác biệt - khác biệt sinh học, khác biệt tâm lí - đều biến mất.
Bồ đề đạt ma nói:
Không có khác biệt trong bản tính Phật giữa đàn ông và đàn bà, không có thực thể nào được chỉ định là đàn ông hay đàn bà. Vật chất vật lí tạo ra cỏ và cây như nó tạo ra con người. Trong so sánh ông nói 'cỏ' hay 'cây'. Ông cho mọi loại tên cho ảo tưởng của ông. Phật nói, "Nếu người ta thấy rằng mọi thứ tồn tại như ảo tưởng, người ta có thể sống trong quyển cao hơn người thường."
Người thường sống trong thân thể, nghĩ rằng mình là thân thể, sống trong tâm trí, nghĩ rằng mình là tâm trí. Khoảnh khắc bạn bắt đầu siêu việt lên trên phức hợp thân-tâm, bạn bắt đầu trở thành phi thường. Bạn bắt đầu sống trên những bình diện cao hơn, và từ những bình diện cao hơn mọi sự là khác toàn bộ.
Có một câu chuyện trong đời Phật...
Ông ấy đang thiền dưới gốc cây; lúc đó là đêm trăng tròn. Một nhóm thanh niên tới cắm trại trong rừng. Họ đã mang một gái mãi dâm theo họ, và nhiều rượu và thức ăn ngon. Họ uống, họ ăn, họ nhảy múa. Họ uống nhiều tới mức họ quên mất cô gái mãi dâm. Cô gái mãi dâm trốn đi, nhưng cô ấy phải trốn trần truồng, vì trước khi họ uống họ đã cởi hết quần áo của cô ấy.
Khi đêm ngày càng tới gần sáng hơn và làn gió mát bắt đầu thổi, họ trở nên chút ít tỉnh ra và họ nhớ, "Cô gái mãi dâm đâu rồi?" Quần áo của cô ấy vẫn đó, nhưng cô ấy thì không có. Thế là họ đi tìm cô ấy. Chỉ có một cách cho cô gái mãi dâm trốn về thị trấn và họ nhớ rằng họ đã thấy người nào đó đang thiền dưới cây. Thế là họ đi tới người này, bởi vì cô ấy phải đi qua người đó. Họ không nhận biết rằng người đó là Phật Gautama.
Họ hỏi Phật, "Thưa ngài, ngài có thấy một cô gái trần truồng, người đàn bà đẹp, đi về thị trấn không? - bởi vì đây là con đường duy nhất. Chúng tôi đã mang người đàn bà đi cùng chúng tôi; cô ấy đã trốn mất, và cô ấy trần truồng."
Phật nói, "Có, ai đó đã đi qua, nhưng ta không thể nói được người đã đi qua là trai hay gái. Có, ai đó đã đi qua đấy, nhưng ta khó mà nói được liệu người đó là trần truồng hay mặc quần áo."
Các thanh niên đâm ra phân vân; họ nói, "Nếu ông đã thấy người đó, ông phải đã thấy... bởi vì người đàn bà đó thực sự đẹp. Ông phải đã thấy rằng cô ấy là đàn bà, và ông phải đã thấy rằng cô ấy trần truồng."
Phật nói, "Các anh tới hơi muộn rồi. Ta thường nhìn đàn bà và đàn ông trước đây. Và, tất nhiên, khi các anh thấy đàn bà trần truồng, làm sao các ông không thể nhận ra được? Nhưng những ngày đó đã qua rồi. Ta đã trong thiền, cho nên khi ai đó đi qua ta bị giới hạn không thấy được họ."
Phật thường thiền với mắt mở một nửa. Ông ấy bao giờ cũng theo tiến trình ở giữa.
Có ba khả năng. Bạn có thể thiền với mắt nhắm. Phật đã nói: Đừng làm điều đó, vì có mọi khả năng là ông sẽ rơi vào giấc ngủ.
Với mắt nhắm xu hướng của tâm trí là rơi vào giấc ngủ, đi vào mộng mị, vào giấc mơ, vì trong nhiều thế kỉ, để sống cùng nhau, mắt nhắm đã trở nên được liên kết với ngủ và mơ. Cho nên khoảnh khắc bạn nhắm mắt, ngay lập tức nó lẩy cò một quá trình ngủ trong bạn. Rất khó duy trì thức tỉnh với mắt nhắm, cho nên Phật đã nói: Đừng làm điều đó.
Khả năng khác là tập trung với mắt mở - nhưng đó là tập trung. Tập trung có thể được thực hiện với mắt mở; bạn có thể hội tụ mắt bạn vào cái gì đó. Nhưng thiền là trạng thái thảnh thơi. Với mắt mở, mở to, sẽ có căng thẳng nào đó trong mắt.
Mắt là một phần của não bạn: tám mươi phần trăm năng lượng não vận hành qua mắt. Nếu mắt bạn căng thẳng não bạn sẽ căng thẳng. Đó là lí do tại sao nếu bạn xem ti vi hàng giờ, bạn trở nên mệt mỏi thế. Bạn đi vào rạp chiếu phim và trong nhiều giờ bạn liên tục xem và bạn quên nháy mắt. Đó là lí do tại sao bạn trở nên mệt: bạn không nháy mắt - bạn không thể đảm đương được điều đó - nhiều điều thế đang xảy ra trên màn ảnh. Bạn không muốn bỏ lỡ bất kì cái gì của nó, cho nên bạn bỏ nháy mắt. Nhìn vào màn ảnh trong ba giờ, không nháy mắt, nhất định làm mệt mắt bạn và não bạn nữa.
Bây giờ nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng những người xem ti vi bốn, năm, sáu giờ một ngày nhất định bị hư hỏng não nào đó. Có mọi khả năng là họ sẽ trở thành nạn nhân của ung thư não. Nhiều căng thẳng thế nhất định tạo ra hư hỏng cho hệ thống thần kinh rất tinh tế và mong manh của não bạn.
Phật nói: Thiền với mắt nhắm một nửa; đó là trạng thái thảnh thơi nhất.
Bạn không thể thấy được cái gì rõ ràng; mọi thứ trở nên mơ hồ. Và đó là điều Phật muốn bạn biết: rằng mọi thứ đều là mơ hồ, hình bóng, mơ màng. Bạn không thể rơi vào giấc ngủ được vì bạn phải giữ cho mắt bạn nửa mở, và bạn không thể bị mệt và căng thẳng được vì bạn không buộc mắt bạn phải mở đầy đủ. Mắt mở một nửa là trạng thái thảnh thơi nhất. Thử điều đó và bạn sẽ thấy. Bất kì khi nào bạn ngồi với mắt mở một nửa, bạn sẽ cảm thấy thảnh thơi lớn giáng xuống bạn.
Cho nên Phật nói, "Ta thiền với mắt mở một nửa. Ai đó đi qua, ai đó chắc chắn đi qua, nhưng ta không thể phân biệt được liệu người đó là đàn ông hay đàn bà. Bởi vì ta không còn bị đồng nhất với thân thể riêng của ta, do đó ta không nghĩ dưới dạng thân thể về người khác nữa. Và ai quan tâm liệu người đó là trần truồng hay mặc quần áo! Ta không quan tâm tới thân thể!"
Bình thường chính điều đối lập xảy ra. Khi bạn thấy một người đàn bà đẹp đi qua, bạn bắt đầu bóp méo cô ấy - ít nhất là trong tâm trí bạn. Bạn bắt đầu xuyên qua quần áo cô ấy, bạn bắt đầu hình dung cô ấy - cô ấy sẽ thế nào khi cô ấy trần truồng. Đó là lí do tại sao đàn bà ẩn kín đằng sau quần áo còn đẹp hơn nhiều khi so với cô ấy trần truồng. Vì một lí do: khi cô ấy mặc quần áo, tưởng tượng của bạn có thể hình dung ra bất kì cái gì; bạn có tự do đầy đủ để hình dung. Nhưng khi cô ấy trần truồng không còn phạm vi nào bị bỏ lại cho tưởng tượng. Và tính dục của đàn ông được bắt rễ trong tưởng tượng của anh ta. Cho nên bất kì khi nào người đàn bà che giấu thân thể mình, bạn trở nên quan tâm nhiều hơn tới cô ấy, bởi vì bạn bắt đầu tưởng tượng... những đường cong đó - điều có thể không có đó - sự cân xứng - điều có thể không có đó.
Quần áo có tính rất lừa dối; quần áo, điều đã từng được khám phá ra, tạo ra nhiều dâm dục hơn trên thế giới. Chính bởi vì quần áo mà mọi người bị ám ảnh với dâm dục. Nếu quần áo biến mất khỏi thế giới, dâm dục sẽ giảm đi tới tỉ lệ tự nhiên của nó. Nếu quần áo biến mất khỏi thế giới, không ai sẽ quan tâm tới sách báo khiêu dâm. Sách báo khiêu dâm được quan tâm bởi vì quần áo. Nếu mọi người trở nên tự nhiên hơn chút ít - tôi không nói bạn đi trần truồng tới văn phòng, nhưng nếu mọi người tự nhiên thế thì ít nhất ở nhà mình họ sẽ ở trần truồng. Ít nhất với con cái họ chúng sẽ chơi đùa trần truồng trong vườn riêng của chúng.
Nếu con cái biết bố mẹ chúng ở trần truồng từ chính lúc bắt đầu chúng sẽ không bao giờ quan tâm tới các tạp chí như Playboy. Những tạp chí đó sẽ có vẻ ngu xuẩn. Nhưng các tu sĩ chống lại sự khoả thân. Dường như có âm mưu giữa tu sĩ và những người kinh doanh khiêu dâm; có thương vụ bí mật. Khiêu dâm duy nhất có thể tồn tại, và khiêu dâm có thể vẫn còn là mối quan tâm, chỉ nếu các tu sĩ vẫn liên tục kết án sự trần truồng. Cho phép trần truồng trên mọi bãi biển và chẳng mấy chốc bạn sẽ thấy không ai quan tâm tới trần truồng chút nào. Và bởi vì tưởng tượng không có tự do nữa, bạn sẽ thấy mọi sự hệt như chúng vậy.
Ngay bây giờ bạn tưởng tượng, do đó người đàn bà hàng xóm là thú vị hơn là vợ riêng của bạn. Hàng xóm của bạn quan tâm nhiều tới vợ bạn hơn là anh ta quan tâm tới vợ anh ta. Dường như mọi người đều quan tâm tới vợ của mọi người khác, chồng của mọi người khác. Không ai quan tâm tới vợ riêng hay chồng riêng của họ. Bạn đã biết toàn thể địa lí của người đàn bà hay người đàn ông. Bạn biết toàn thể địa hình. Bây giờ chẳng có gì để khám phá; nó là lãnh thổ đã biết. Tưởng tượng chết đi, và với tưởng tượng chín mươi chín phần trăm của dục biến mất. Và đó sẽ là điều lớn lao trên thế giới nếu chín mươi chín phần trăm tính dục biến mất, bởi vì thế thì chín mươi chín phần trăm năng lượng của bạn sẽ sẵn có cho các mục đích cao hơn.
Điều tôi đang nói nhất định bị hiểu lầm, đang bị hiểu lầm. Trong nhiều năm tôi đã từng nói những điều này nhưng tôi đã bị kết án vì những điều này. Và điều mỉa mai là ở chỗ nếu tôi được mọi người lắng nghe, tôi sẽ chứng tỏ là người nguy hiểm lớn nhất cho dâm dục trên thế giới. Nếu tôi được phép, thế giới có thể trở thành tuyệt đối không dâm dục. Dục sẽ có đó nhưng dâm dục sẽ biến mất.
Dục là hiện tượng sinh học, dâm dục là hiện tượng tâm lí. Trong xã hội nguyên thuỷ, nơi mọi người đều trần truồng, có dục nhưng không có dâm dục. Và trong xã hội có văn hoá có dâm dục và không mấy dục.
Phật nói, "Ai đó đã đi qua, ai đó chắc chắn đã đi qua, nhưng bởi vì ta không còn quan tâm tới dâm dục, ta không thể nói một cách tuyệt đối, ta không thể đảm bảo được rằng người đó là đàn bà."
Thiền nghĩa là đi ngày càng sâu hơn, gần hơn tới bản thể bạn. Bản thể không là 'đàn ông' không là 'đàn bà'; bản thể đơn giản siêu việt lên trên mọi phân loại.
Câu hỏi thứ tư:
Nếu người ta đạt tới niết bàn của a la hán, người đó có nhận ra thiền không?
Đệ tử này vẫn đang nghĩ dưới dạng tâm trí, trong phân loại. Khi bạn nghĩ, bạn bao giờ cũng đầy những cái nếu và nhưng. Khi bạn biết, không có nếu và không có nhưng.
Đệ tử hỏi:
Nếu người ta đạt tới niết bàn...
Ngay chỗ đầu tiên niết bàn chưa bao giờ được đạt tới - nó là bản tính của bạn - nó đơn giản được khám phá ra, được nhớ ra thì đúng hơn. Nó không được đạt tới. Và niết bàn của a la hán...
Các học giả Phật giáo chia niết bàn thành hai loại. Các học giả không thể vẫn còn đấy mà không tạo ra phân loại; đó là toàn thể công việc của họ, toàn thể chức năng của họ. Có hai loại chư phật theo các học giả này: một loại được gọi là a la hán, loại kia được gọi là bồ tát. A la hán là người đạt tới phật tính và biến mất vào trong điều tối thượng, người không quan tâm tới người khác, người không bận tâm về chia sẻ sáng suốt của mình với người khác. Và bồ tát là người đạt tới phật tính nhưng chống lại cám dỗ biến mất vào điều tối thượng và giúp mọi người, người từ bi. Bây giờ ngay cả với niết bàn, tâm trí của học giả đã tạo ra phân loại; ông ta đã tạo ra phân chia, nhị nguyên.
Bồ đề đạt ma đơn giản trả lời theo cách duy nhất, riêng của ông ấy, cách không thể bắt chước được. Ông ấy nói:
Người đó chỉ mơ và ông cũng vậy.
Những học giả này đều là người mơ. Người tìm kiếm thực chẳng liên quan gì tới những cái nếu và nhưng cả. Người tìm kiếm thực không bận tâm về cái gì xảy ra sau niết bàn; đầu tiên người đó đi tới nó, biết nó qua kinh nghiệm riêng của mình, và thế rồi bất kì cái gì xảy ra, cứ xảy ra. Người ta trở thành tự nhiên và cho phép nó xảy ra, người ta vẫn còn trong buông bỏ. Người ta không liên tục suy nghĩ và triết lí.
Câu hỏi thứ năm:
Nếu người ta thực hành sáu toàn hảo (paramita), và trải qua mười giai đoạn bồ tát hạnh, và hoàn thành mười nghìn đức hạnh, người đó phải biết rằng mọi thứ là không sinh, do đó chúng sẽ không diệt. Nhận biết như vậy không là trực giác không là trí tuệ. Người đó không có gì để nhận và không có gì để nhận người đó. Người này có nhận ra thiền không?
Toàn những câu hỏi suy đoán, câu hỏi của tâm trí, không liên quan, không ý nghĩa, vô nghĩa, ngớ ngẩn. Nhưng chúng có vẻ giống như những câu hỏi lớn và các học giả dành cả đời họ cho những câu hỏi như vậy.
Vào thời Trung cổ đã có một tranh cãi lớn trong những người theo thượng đế học Ki tô giáo. Tranh cãi này vẫn còn đó, không được quyết định, không kết luận nào đã từng được đạt tới, nhưng toàn thể sự việc bắt đầu có vẻ ngu xuẩn tới mức dự án này bị vứt bỏ. Nhưng vào thời Trung cổ trong ba trăm năm tranh cãi này đã tới mức toàn thể thế giới Ki tô giáo đã được tham gia vào trong nó. Vấn đề là: bao nhiêu thiên thần có thể nhảy múa trên đầu kim? Bây giờ điều đó có vẻ ngu xuẩn, nhưng nó đã không là ngu xuẩn cho những người đó. Và họ đều là các học giả lớn, những người biết các kinh sách và những điều tinh vi của logic. Với họ đó thực sự là câu hỏi lớn, bởi vì các thiên thần không có trọng lượng nào và các thiên thần có năng lực trở thành lớn hay nhỏ tuỳ ý họ, cho nên bao nhiêu thiên thần bạn có thể thu xếp trên đầu kim? Bây giờ bạn sẽ vứt cầu hỏi này vào thùng rác, nhưng trong ba trăm năm mọi người vẫn còn quan tâm tới nó.
Những câu hỏi này thuộc cùng một kiểu. Nếu người ta thực hành sáu toàn hảo... sáu phương pháp của việc là hoàn hảo... Và chư phật nói bạn đã hoàn hảo rồi, cho nên không có vấn đề thực hành hoàn hảo. Và người thực hành toàn hảo sẽ vẫn còn là bất toàn; toàn hảo của người đó sẽ chỉ trên bề mặt, sâu bên dưới người đó sẽ là bất toàn. Người đó sẽ kìm nén cái bất toàn của mình và trau dồi một loại hoàn hảo và sẽ vẫn còn bị phân chia. Người đó không thực sự hoàn hảo. Bạn không thể là bất kì cái gì khác hơn cái mà bạn đang là. Bạn đã hoàn hảo rồi. Bạn là thượng đế trá hình. Bạn là chư phật ngủ. Thức dậy đi, và không cần thực hành cái gì cả.
Trong mơ bạn có thể liên tục thực hành cả nghìn lẻ một thứ và không cái gì sẽ xảy ra. Khi bạn thức dậy, bạn sẽ thấy rằng mọi nỗ lực đó là vô dụng.
Bây giờ sáu toàn hảo này...
... và trải qua mười giai đoạn bồ tát hạnh.
Không có giai đoạn nào cả. Có giai đoạn giữa ngủ và thức không? Không có giai đoạn; hoặc bạn ngủ hoặc bạn thức. Nó là cú nhảy, cú nhảy lượng tử. Có các giai đoạn khi nước bay hơi không? Không có giai đoạn nào cả. Tại chín mươi độ nước vẫn là nước. Tại chín mươi chín độ nước vẫn là nước mặc dầu nóng. Tại chín mươi chín độ nước vẫn là nước mặc dầu hoàn toàn nóng. Và một bước thêm nữa, chỉ một bước thôi, một cú nhảy, và nước bay hơi. Không có giai đoạn dần dần trong bay hơi. Một người hoặc sống hoặc chết; bạn chưa bao giờ thấy ai đó nửa chết hay chết một phần tư hay chết một phần mười. Nó không được đạt tới trong các bộ phận.
Tôi đã nghe một câu chuyện:
Trong thế chiến thứ hai một tướng Anh bắn rơi một máy bay Đức và viên phi công bị thương nặng. Tướng Anh nói chuyện với viên phi công - ông ta cũng là tướng, cho nên ông ấy cho ông này mọi sự kính trọng do là tướng của quân đội kẻ thù. Ông ta được đưa tới bệnh viện, hưởng mọi sự chăm sóc, nhưng một chân ông ta bị thương tới mức phải bị cắt đi, phẫu thuật cắt bỏ. Tướng Anh hỏi người Đức, "Tôi có thể giúp được gì không?"
Người Đức nói, "Điều này sẽ biểu lộ cái gì đó từ bi lớn lao với tôi nếu ông có thể gửi cái chân tôi về nhà tôi, vì đây đã từng là ham muốn lâu dài nhất trong tôi - được chôn ở đất cha của riêng tôi."
Tướng Anh nói, "Điều đó không phải là vấn đề chút nào."
Họ gói cái chân lại, gửi nó về Đức, về nhà ông ta. Nhưng thế rồi một tay ông ta phải bị cắt; cái đó nữa cũng được gửi đi. Thế rồi chân kia, thế rồi tay kia.
Khi tay cuối cùng được gửi đi, tướng Anh hỏi, "Tôi có thể hỏi ông một câu hỏi không? Ông có định trốn thoát từng phần một không đấy?"
Bạn không thể trốn thoát từng phần một được, và bạn không thể trở nên chứng ngộ từng phần được. Nó không phải là quá trình dần dần, nó là chứng ngộ bất thần. Nhưng các học giả cần công việc nào đó, cho nên họ liên tục phân chia. Chư phật liên tục nói rằng đó là bước nhảy lượng tử và các học giả liên tục phân chia: có mười giai đoạn bồ tát hạnh và mười nghìn đức hạnh. Một đức hạnh là đủ: nhận biết. Họ nói về mười nghìn đức hạnh; chỉ có một đức hạnh thôi: thức dậy. Mọi đức hạnh khác đi theo theo cách riêng của nó.
Đệ tử này hỏi:
…người đó phải biết rằng mọi thứ là không sinh, do đó chúng sẽ không diệt. Nhận biết như vậy không là trực giác không là trí tuệ. Người đó không có gì để nhận và không có gì để nhận người đó. Người này có nhận ra thiền không?
Bồ đề đạt ma nói:
Người đó chỉ mơ và ông cũng vậy.
Bồ đề đạt ma thậm chí không bận tâm trả lời và giải thích. Ông ấy không phải là triết gia, ông ấy đơn giản gạt câu hỏi sang bên. Ông ấy nói: Đừng nói điều vô nghĩa. Ông đang mơ, và không chỉ ông đang mơ đâu: nếu có ai đó nghĩ rằng người đó ở giai đoạn thứ chín của bồ tát hạnh, người đó cũng mơ nữa. Nếu ai đó nghĩ rằng mình đã hoàn thành sáu toàn hảo, mọi thứ của sáu toàn hảo, người đó đang mơ nữa. Thực ra, người nghĩ, "Mình đã đạt tới phật tính," đơn giản là mơ, bởi vì phật tính không phải là cái gì đó được đạt tới.
Khi bạn đạt tới nhận ra đó, bạn đơn giản nhận biết rằng chẳng có gì để đạt tới từ chính lúc bắt đầu. Từ chính lúc bắt đầu bạn là phật - bạn bao giờ cũng là phật rồi - bạn chỉ ngủ say, bạn chỉ quên mất bạn là ai. Vấn đề duy nhất là nhớ lại, là nhận ra, là khám phá lại.
Câu hỏi cuối cùng:
Nếu một người có mười quyền năng, và đạt tới bốn dạng can đảm, và hoàn thành mười tám hệ thống giáo huấn, người đó là hệt như phật, người đã đạt tới chứng ngộ dưới cây pippala. Người đó có thể cứu được sinh linh hữu tình và thế rồi đi vào trong niết bàn. Người đó không phải là vị phật thực sao?
Bồ đề đạt ma phải cảm thấy rất tiếc cho người này, vì anh ta cứ hỏi cùng câu hỏi theo những cách khác nhau. Nó là cùng sự ngu xuẩn - có tên là học thức. Lặp đi lặp lại anh ta đem cùng câu hỏi tới trong những dạng khác nhau. Nhưng thầy bao giờ cũng kiên nhẫn; họ phải vậy, bằng không sẽ không thể nào làm việc được với đệ tử.
Bồ đề đạt ma lại nói:
Người đó chỉ mơ và ông cũng vậy.
Một phát biểu đơn giản nhưng với tiềm năng lớn lao. Khoảnh khắc bạn bắt đầu nghĩ rằng bạn đã trở nên chứng ngộ, cảnh giác. Nếu bạn nghĩ bạn đã trở nên chứng ngộ thế thì bạn vẫn chưa trở nên chứng ngộ đâu. Nếu bạn nghĩ bạn đã trở thành phật và bạn bắt đầu chứng minh rằng bạn đã trở thành phật, biết hoàn toàn rõ bạn chưa là phật đâu. Vị phật không cần bằng chứng; ông ấy không tranh cãi về điều đó, ông ấy đơn giản biết điều đó. Và không có cách nào để chứng minh điều đó. Ông ấy biết rằng nó không phải là cái gì đó lớn lao mà ông ấy đã làm; nó không phải là phi vụ lớn. Nó là hiện tượng đơn giản: ông ấy đã nhìn vào trong. Ông ấy có thể đã nhìn vào bất kì lúc nào, bất kì ngày nào, và ông ấy đã thấy phật bên trong.
Khi Phật trở nên chứng ngộ, câu hỏi thứ nhất được người ta hỏi ông ấy là: "Ông đã đạt được cái gì?"
Ông ấy cười. Ông ấy nói, "Chẳng cái gì cả. Ta đã không đạt tới cái gì; ngược lại, ta đã mất nhiều thứ."
Một cách tự nhiên, người hỏi bị choáng. Ông ta nói, "Chúng tôi bao giờ cũng nghe nói rằng trở thành phật là đạt tới điều hoàn hảo, điều tối thượng, cái vĩnh hằng - và ông nói rằng thay vì đạt tới cái gì, ông đã mất nhiều thứ. Ông ngụ ý gì?"
Phật nói, "Đích xác điều ta đã nói. Ta đã mất bản ngã, ta đã mất tri thức, ta đã mất dốt nát. Ta đã mất việc là một người, ta đã mất thân thể, tâm trí, trái tim. Ta đã mất hàng nghìn thứ và ta đã không thu được một thứ gì - bởi vì bất kì cái gì ta đã thu được bao giờ cũng là của ta rồi, nó là bản tính của ta. Cái không tự nhiên đã bị mất đi, và cái tự nhiên đã nở hoa. Nó không phải là đạt tới chút nào. Nghĩ dưới dạng đạt tới là vẫn còn trong mơ."
Bồ đề đạt ma là đúng:
Người đó chỉ mơ và ông cũng vậy.
Nhớ lấy những lời này của Bồ đề đạt ma, để cho chúng vang vọng trong bản thể bạn, bởi vì bạn sẽ mơ những điều này nhiều lần.
Nhiều người liên tục viết cho tôi: "Osho ơi, điều này đã xảy ra. Đây là satori đầu tiên hay thứ hai hay thứ ba? Tôi đã kinh nghiệm ánh sáng lớn. Bây giờ tôi còn cách phật tính bao xa?" Mọi ngày mọi người liên tục hỏi.
Nhớ tới Bồ đề đạt ma đi. Lần sau một câu hỏi như vậy nảy sinh trong bạn và bạn bắt đầu viết thư cho tôi, đừng gửi nó cho tôi, cứ viết lên đầu thư của bạn: "Mình đang mơ."
Đủ cho hôm nay.
Xem tiếp Chương 4 Quay về Mục lục

0 Đánh giá

Ads Belove Post