Read more
Yoga: Alpha và
Omega (Tập 9)
Bài giảng về Kinh Yoga của Patanjali
Chương 3. Nhận
thức tức thời
Thực hiện samyama trên quyền
năng nhận thức của họ, bản tính thực, tính bản ngã, tính toả khắp và các chức
năng đem tới việc làm chủ trên các giác quan.
Từ điều này nhận thức tức khắc
theo sau mà không dùng thân thể, và hoàn thành việc làm chủ trên pradhana, thế
giới vật chất.
Chỉ sau khi nhận biết về sự
phân biệt giữa sattva và purusha mà uy thế và tri thức mới nảy sinh qua mọi trạng
thái của sự tồn tại.
Kĩ năng của Patanjali trong diễn
đạt điều không thể diễn đạt được là siêu phàm. Không ai đã bao giờ có khả năng
vượt qua ông ấy. Ông ấy đã vẽ bản đồ thế giới bên trong của tâm thức chính xác
như nó có thể; ông ấy đã làm gần hết việc không thể được. Tôi đã nghe một câu
chuyện về Ramakrishna:
Một hôm ông ấy nói với đệ tử của
mình, "Ta sẽ nói cho ông mọi thứ hôm nay và sẽ không giữ cái gì bí mật."
Ông ấy đã mô tả rõ ràng các trung tâm và các kinh nghiệm tương ứng lên tới tim
và họng, và thế rồi chỉ vào điểm giữa hai lông mày, ông ấy nói, "Cái ta tối
cao và kinh nghiệm cá nhân về samadhi được biết trực tiếp khi tâm trí tới đây.
Thế rồi vẫn còn một màn mỏng trong suốt phân tách cái ta tối cao và cái ta cá
nhân. Sadhak vậy kinh nghiệm..." Nói điều này, khoảnh khắc ông ấy bắt đầu
mô tả việc nhận ra cái ta tối cao, ông ấy đã nhảy vào trong samadhi và trở nên
vô ý thức. Khi samadhi tới chỗ kết thúc và ông ấy quay lại, ông ấy lại cố mô tả
nó và lần nữa lại vào trong samadhi; lần nữa ông ấy lại trở nên vô ý thức. Sau
khi lặp lại các nỗ lực Ramakrishna buột rơi nước mắt, bắt đầu khóc, và nói với
đệ tử của ông ấy rằng không thể nào nói được về nó.
Nhưng Ramakrishna đã thử, đã thử
theo nhiều cách, từ các chiều hướng khác nhau, và điều này bao giờ cũng xảy ra,
cả đời ông ấy. Bất kì khi nào ông ấy sẽ tới cõi bên kia, trung tâm con mắt thứ
ba, và sẽ tới gần hơn với sahasrar, ông ấy đều bị bắt giữ bởi cái gì đó bên
trong, sâu tới mức chính việc nhớ lại nó, chính nỗ lực mô tả nó, và ông ấy mất
đi. Trong hàng giờ ông ấy sẽ vẫn còn vô ý thức. Điều đó là tự nhiên bởi vì phúc
lạc của sahasrar là như vậy, người ta gần như bị tràn ngập bởi nó. Phúc lạc là
có tính đại dương tới mức người ta bị nó sở hữu và tiếp quản. Người ta không
còn là bản thân mình nữa, một khi bạn siêu việt con mắt thứ ba.
Ramakrishna đã thử và thất bại,
không thể mô tả được nó. Nhiều người khác thậm chí đã không thử. Lão Tử chống lại,
trong cả đời ông ấy, chẳng nói gì về thế giới của Đạo bởi vì điều này. Không
cái gì có thể được nói về nó, và khoảnh khắc bạn cố nói nó, bạn bị nhảy vào
trong xoáy lốc, xoáy nước bên trong. Bạn mất hút, bị chìm ngập. Bạn được tắm
trong cái đẹp và vẻ đẹp tới mức bạn không thể thốt ra được một lời.
Nhưng Patanjali đã làm điều
không thể được. Ông ấy đã mô tả đích xác như có thể từng bước, từng việc hợp nhất,
từng luân xa, vận hành của nó, và cách siêu việt lên trên nó, mãi cho tới
sahasrar - và ông ấy thậm chí còn chỉ ra cõi bên kia. Trên từng luân xa, trên từng
bánh xe năng lượng, sự tích hợp nào đó xảy ra. Để tôi nói cho bạn.
Tại trung tâm dục, trung tâm thứ
nhất, phần lớn là nguyên thuỷ nhưng tự nhiên nhất, trung tâm sẵn có cho tất cả,
việc tích hợp xảy ra giữa cái bên ngoài và cái bên trong. Tất nhiên nó là nhất
thời. Đàn bà gặp gỡ với đàn ông hay đàn ông gặp gỡ với đàn bà chỉ trong một khoảnh
khắc, một phần khoảnh khắc, nơi bên ngoài và bên trong gặp gỡ và hoà quyện và hội
nhập vào nhau. Đó là cái đẹp của dục, cực thích, rằng hai năng lượng, năng lượng
bù nhau, gặp gỡ và trở thành một toàn thể. Nhưng nó sẽ là nhất thời bởi vì gặp
gỡ này là qua phần tử thô nhất, thân thể. Thân thể có thể chạm các bề mặt nhưng
nó không thể thực sự đi vào trong người kia. Nó giống như những tảng băng. Nếu
bạn để hai tảng băng lại với nhau, chúng có thể chạm nhau, nhưng nếu chúng tan
chảy và trở thành nước, thế thì chúng gặp gỡ và hoà quyện với nhau. Thế thì
chúng đi tới chính trung tâm. Và nếu nước bay hơi, thế thì gặp gỡ trở thành rất,
rất sâu. Thế thì không có cái tôi, không có người, không bên trong, không bên
ngoài.
Trung tâm thứ nhất, trung tâm dục,
cho bạn sự tích hợp nào đó. Đó là lí do tại sao có nhiều khao khát về dục thế.
Nó là tự nhiên, nó là phúc lành và tốt trong bản thân nó, nhưng nếu bạn dừng lại
đó, thế thì bạn đã dừng lại ở hành lang của cung điện. Hàng lang là tốt, nó dẫn
bạn vào trong cung điện, nhưng nó không phải là chỗ để làm thành chỗ trú ngụ của
bạn, nó không nên là chỗ để dừng lại mãi mãi... và phúc lạc đang chờ đợi bạn
trên các tích hợp cao hơn của các trung tâm khác sẽ bị bỏ lỡ. Và trong so sánh
với phúc lạc đó và hạnh phúc và vui vẻ, cái đẹp của dục chẳng là gì cả, hoan lạc
của dục chẳng là gì cả. Nó đơn giản cho bạn thoáng nhìn tạm thời.
Luân xa thứ hai là đan điền -
hara. Tại hara, sống và chết gặp gỡ. Nếu bạn đạt tới trung tâm thứ hai, bạn đạt
tới cực thích cao hơn của việc tích hợp. Sống gặp chết, mặt trời gặp mặt trăng.
Và gặp gỡ bây giờ là ở bên trong, cho nên gặp gỡ có thể thường hằng hơn, ổn định
hơn, bởi vì bạn không phụ thuộc vào bất kì ai khác. Bây giờ bạn đang gặp gỡ người
đàn bà bên trong hay người đàn ông bên trong của bạn.
Trung tâm thứ ba là rốn. Ở đó
tích cực và tiêu cực gặp gỡ - điện dương và điện âm. Gặp gỡ của chúng thậm chí
còn cao hơn sống và chết bởi vì năng lượng điện, prana, bioplasma hay sinh
năng, là sâu hơn sống và chết. Nó tồn tại trước sống, nó tồn tại sau chết. Sống
và chết tồn tại bởi vì sinh năng. Gặp gỡ này của sinh năng ở rốn, nabhi, cho bạn
kinh nghiệm thậm chí còn cao hơn việc là một, được tích hợp, là đơn vị.
Thế rồi đến tim. Tại trung tâm
tim cái thấp hơn và cái cao hơn gặp gỡ. Tại trung tâm tim prakriti và purusha,
dục và tâm linh, thế giới này và thế giới khác - hay bạn có thể gọi nó là gặp gỡ
của trời và đất. Nó vẫn là cao hơn bởi vì lần đầu tiên cái gì đó của cõi bên
kia bừng lên - bạn có thể thấy mặt trời lên tại chân trời. Bạn vẫn bị bắt rễ
vào trong đất, nhưng cành của bạn vươn lên trời. Bạn đã trở thành cuộc gặp gỡ.
Đó là lí do tại sao trung tâm tim cho kinh nghiệm cao nhất và tinh nhất thường
sẵn có - kinh nghiệm của yêu. Kinh nghiệm của yêu là sự gặp gỡ của đất và trời;
cho nên yêu theo cách nào đó là có tính đất và theo cách khác có tính trời.
Nếu Jesus định nghĩa Thượng đế
là tình yêu, đây là lí do, bởi vì trong tâm thức con người yêu dường như là
thoáng nhìn cao hơn.
Người thường không bao giờ đi
ra ngoài trung tâm tim. Ngay cả đạt tới trung tâm tim dường như là khó, gần như
không thể được. Mọi người vẫn còn ở trung tâm dục. Nếu họ được huấn luyện sâu
trong yoga, karate, aikido, thái khí, thế thì họ đạt tới trung tâm thứ hai,
hara. Nếu họ được huấn luyện trong cơ chế thở sâu, prana, thế thì họ đạt tới
trung tâm rốn. Và nếu họ được huấn luyện về cách nhìn ra ngoài đất và cách nhìn
bên ngoài thân thể và cách nhìn sâu sắc và nhạy cảm tới mức bạn không còn bị giới
hạn bởi cái thô, và cái tinh có thể xuyên thấu các tia sáng đầu tiên của nó vào
trong bạn, chỉ thế thì mới tới trung tâm tim.
Mọi con đường của sùng kính,
bhakti yoga, đều làm việc trên trung tâm tim. Mật tông bắt đầu từ trung tâm dục,
Đạo bắt đầu từ trung tâm hara. Yoga bắt đầu từ trung tâm rốn. Bhakti yoga, con
đường của sùng kính và tình yêu, người Sufis và những người khác, họ bắt đầu từ
trung tâm tim.
Cao hơn tim là trung tâm họng.
Lần nữa ở đó xảy ra tích hợp khác, thậm chí còn cao siêu hơn, tinh tế hơn.
Trung tâm này là trung tâm của nhận và cho. Khi đứa trẻ được sinh ra nó nhận từ
trung tâm họng. Đầu tiên, cuộc sống đi vào trong nó từ trung tâm họng - nó bú
không khí, thở; và thế rồi nó bú sữa từ mẹ. Đứa trẻ vận hành từ trung tâm họng,
nhưng nó vận hành một nửa và chẳng mấy chốc đứa trẻ quên mất về điều đó. Nó chỉ
nhận. Nó chưa thể cho. Tình yêu của nó là thụ động. Và nếu bạn đang hỏi tình
yêu, thế thì bạn vẫn còn chưa lớn, bạn vẫn còn là đứa trẻ. Chừng nào bạn chưa
trưởng thành, tức là bạn có thể cho, bạn vẫn chưa trở thành người lớn. Mọi người
đều hỏi về tình yêu, đòi hỏi về tình yêu, và gần như không ai cho. Đó là khổ
trên khắp thế giới. Và mọi người đòi hỏi đều nghĩ rằng mình đang cho, tin rằng
mình đang cho.
Tôi đã nhìn vào trong hàng
nghìn người - tất cả đều đói vì tình yêu, khát vì tình yêu, nhưng không ai thử
cho theo bất kì cách nào. Và tất cả họ đều tin rằng họ cho nhưng họ không nhận.
Một khi bạn cho bạn nhận, một cách tự nhiên. Nó chưa bao giờ xảy ra theo cách
khác. Khoảnh khắc bạn cho, tình yêu xô vào trong bạn. Nó chẳng liên quan gì tới
từng người và mọi người. Nó có cái gì đó liên quan tới năng lượng vũ trụ của
Thượng đế.
Trung tâm họng là sự gặp gỡ của
nhận và cho. Bạn nhận từ nó và bạn cho từ nó. Đó là nghĩa của câu nói của
Christ rằng bạn phải trở thành đứa trẻ lần nữa. Nếu bạn dịch nó sang thuật ngữ
yoga nó sẽ có nghĩa: bạn phải đi tới trung tâm họng lần nữa. Đứa trẻ quên dần
đi.
Nếu bạn nhìn vào tâm lí học
Freud, bạn sẽ có sự tương tự. Freud nói giai đoạn đầu tiên của đứa trẻ là miệng,
giai đoạn thứ hai là đít, và giai đoạn thứ ba là sinh dục. Toàn thể tâm lí học
của Freud kết thúc với giai đoạn thứ ba. Tất nhiên nó là tâm lí học rất nghèo
nàn, rất thô sơ, phân mảnh, và liên quan với chức năng rất thấp của con người.
Miệng - vâng, đứa trẻ dùng trung tâm họng, chỉ để nhận. Và một ki nó bắt đầu nhận,
con người của nó đi tới đít.
Bạn có quan sát rằng vài người
bám lấy miệng, ngay cả tới cái chết của họ không? Đây là những người bạn thấy
hút thuốc; đây là những người theo miệng. Họ vẫn cứ... Hút thuốc, thuốc lá, xì
gà, cho họ cảm giác dường như cái gì đó nóng giống sữa mẹ đang chạy qua trung
tâm họng; và họ vẫn còn bị giới hạn vào miệng, và họ không thể cho được. Nếu một
người là người hút thuốc lá liên tục, người hút nặng, gần như người đó bao giờ
cũng không là người cho tình yêu. Người đó đòi hỏi, nhưng người đó sẽ không
cho.
Những người hút quá nhiều bao
giờ cũng quan tâm tới vú đàn bà quá nhiều. Nhất định là vậy, bởi vì thuốc lá là
cái thay thế cho đầu vú. Tôi không nói rằng những người không là người hút thuốc
thì không quan tâm tới vú đàn bà. Những người hút thuốc, họ quan tâm. Những người
không hút thuốc, họ cũng quan tâm; họ có thể nhai kẹo cao su hay kẹo gôm hay
cái gì đó khác, hay họ có thể đơn giản quan tâm tới khiêu dâm - hay họ có thể bị
ám ảnh bởi vú liên tục. Trong tâm trí họ, trong mơ của họ, trong tưởng tượng của
họ, trong hình dung, là bộ vú - vú và vú liên tục nổi khắp xung quanh họ. Có những
người theo miệng, bị mắc kẹt.
Khi Jesus nói bạn phải là đứa
trẻ lần nữa, ông ấy ngụ ý bạn phải quay lại trung tâm họng, nhưng với một năng
lượng mới để cho. Mọi người sáng tạo đều là người cho. Họ có thể hát bài ca cho
bạn hay nhảy múa điệu vũ hay viết bài thơ hay vẽ bức tranh hay kể cho bạn câu
chuyện. Với tất cả những người này trung tâm họng lại được dùng như trung tâm để
cho. Sự gặp gỡ của nhận và cho xảy ra ở họng. Năng lực để nhận và để cho là một
trong những tích hợp lớn nhất.
Có những người chỉ có năng lực
nhận. Họ sẽ vẫn còn khổ bởi vì bạn chưa bao giờ trở nên giầu bởi việc nhận. Bạn
trở nên giầu bởi việc cho. Thực ra bạn sở hữu chỉ cái bạn có thể cho. Nếu bạn
không thể cho được nó, bạn đơn giản tin rằng bạn sở hữu. Bạn không sở hữu nó; bạn
không là chủ. Nếu bạn không thể cho được tiền của bạn, thế thì bạn không là chủ
của nó. Thế thì tiền là chủ. Nếu bạn có thể cho nó, thế thì chắc chắn bạn là chủ.
Điều này sẽ có vẻ như ngược đời, nhưng để tôi nhắc lại nó: bạn là người sở hữu
chỉ cái bạn có thể cho. Khoảnh khắc bạn cho, trong chính khoảnh khắc đó bạn đã
trở thành người sở hữu, được giầu có. Việc cho làm giầu bạn.
Người keo kiệt là người khổ nhất
và là người nghèo trên thế giới - còn nghèo hơn người người nghèo. Họ không thể
cho được, họ bị mắc kẹt. Họ liên tục tích trữ. Việc tích trữ của họ trở thành
gánh nặng trên bản thể họ; nó không làm họ tự do. Thực ra nếu bạn có cái gì đó
bạn sẽ trở nên tự do hơn. Nhưng nhìn vào người keo kiệt. Họ có nhiều, nhưng họ
bị nặng gánh, họ không tự do. Ngay cả người ăn xin cũng còn tự do hơn họ. Điều
gì đã xảy ra cho họ? Họ đã dùng trung tâm họng của họ chỉ để nhận. Không chỉ có
thế họ đã không dùng trung tâm họng của họ để cho, họ thậm chí đã không di chuyển
tới trung tâm Freud thứ hai, đít. Những người này bao giờ cũng bị táo bón; những
người tích trữ, những người keo kiệt, bao giờ cũng bị táo bón. Nhớ lấy, tôi
không nói rằng mọi người bị táo bón thì là người keo kiệt; có thể có các lí do
khác. Nhưng người keo kiệt chắc chắn bị táo bón.
Freud nói rằng có cái gì đó
trong vàng và phân. Cả hai đều mầu vàng, và những người táo bón bị quá hấp dẫn
tới vàng. Bằng không vàng chẳng có giá trị tồn tại nào - một số giá trị tâm lí
nào đó, nhưng không có giá trị tồn tại. Bạn không thể ăn được nó, bạn không thể
uống được nó. Bạn có thể làm gì với nó? Ngay cả cốc nước còn giá trị hơn về mặt
tồn tại. Nhưng tại sao vàng đã trở thành giá trị thế? Tại sao mọi người bị ám ảnh
thế với vàng? Họ đã không di chuyển từ miệng tới đít. Họ bị táo bón trong con
người bên trong của họ. Bây giờ toàn thể cuộc sống của họ sẽ phản ánh táo bón của
họ, họ sẽ trở thành kẻ tích trữ vàng. Vàng là biểu tượng. Mầu vàng cho họ ý tưởng
nào đó.
Bạn có quan sát trẻ nhỏ không?
Khó mà thuyết phục được chúng đi nhà vệ sinh; chúng gần như bị buộc phải đi nhà
vệ sinh. Và cho dù thế chúng vẫn khăng khăng, "Chẳng cái gì xảy ra cả. Con
có thể ra được không?" Chúng đang học bài học đầu tiên về keo kiệt - cách
giữ lại. Cách giữ lại, cách không cho ngay cả cái là vô dụng, ngay cả cái có hại
nếu bạn giữ nó bên trong bạn. Ngay cả chất độc, cũng khó cho họ bỏ nó, từ bỏ
nó.
Tôi đã nghe nói về hai khất sĩ
Phật tử. Một người trong họ là người keo kiệt và tích trữ và người đó cứ thu thập
tiền và giữ nó, và người kia thường cười vào thái độ ngu xuẩn này. Bất kì cái
gì tới trên đường của người đó, người đó sẽ dùng nó, người đó sẽ không bao giờ
tích trữ nó. Một đêm họ đi qua một con sông. Lúc đó trời tối, mặt trời đã lặn,
và ở lại đó là nguy hiểm. Họ phải đi sang bờ bên kia, ở đó có một thị trấn. Bên
này đơn giản là hoang dã.
Người tích trữ nói, "Bây
giờ ông không có tiền gì, cho nên chúng ta không thể trả tiền cho người chở phà
được. Ông nói gì bây giờ về điều đó? Ông chống lại việc tích trữ; bây giờ nếu
tôi không có tiền cả hai chúng ta sẽ chết. Ông thấy ra vấn đề chưa?" Anh
ta nói, "Tiền là được cần." Người tin vào từ bỏ cười to, nhưng anh ta
chẳng nói gì. Thế rồi người tích trữ trả tiền và họ đi qua sông, họ sang tới bờ
bên kia. Người tích trữ lại nói, "Bây giờ nhớ lấy, lần sau đừng bắt đầu
tranh cãi với tôi. Ông thấy chưa? Tiền giúp ích. Không có tiền chúng ta chắc chết.
Cả đêm ở bờ bên kia, sự sống lâm nguy - đầy thú hoang."
Khất sĩ kia cười và anh ta nói,
"Nhưng chúng ta đã đi qua sông rồi bởi vì ông có thể từ bỏ nó. Không phải
bởi vì việc tích trữ mà chúng ta đã sống sót. Nếu ông mà khăng khăng vào tích
trữ nó và ông không định trả tiền cho người chở phà, chúng ta chắc đã chết.
Chính bởi vì ông có thể từ bỏ - bởi vì ông có thể bỏ nó, ông có thể cho nó - đó
là lí do tại sao chúng ta đã sống sót."
Tranh luận này phải vẫn tiếp tục.
Nhưng nhớ lấy, tôi không chống lại tiền. Tôi ủng hộ tất cả cho nó, nhưng dùng
nó. Sở hữu nó, làm chủ nó; nhưng quyền làm chủ của bạn nảy sinh chỉ trong khoảnh
khắc bạn đã trở nên có khả năng cho nó. Tại trung tâm họng sự tổng hợp mới này
xảy ra. Bạn có thể nhận và bạn có thể cho.
Có những người thay đổi từ cực
đoan này sang cực đoan khác. Đầu tiên họ không có khả năng cho, họ chỉ có thể
nhận; thế rồi họ thay đổi, họ đi sang cực đoan kia - bây giờ họ có thể cho
nhưng họ không thể nhận. Điều đó nữa lại là thiên lệch. Con người thực có khả
năng nhận món quà và cho chúng. Ở Ấn Độ chúng ta sẽ thấy nhiều sannyasins, nhiều
cái gọi là mahatmas, những người sẽ không chạm vào tiền. Nếu bạn cho họ tiền, họ
sẽ co lại, cứ dường như bạn đã tạo ra con rắn hay cái gì đó độc. Việc co lại của
họ chỉ ra rằng bây giờ họ đã đi sang cực đoan kia: bây giờ họ đã trở nên không
có khả năng nhận. Lần nữa trung tâm họng của họ vận hành một nửa - và một trung
tâm không bao giờ vận hành thực sự chừng nào nó chưa vận hành đầy đủ, chừng nào
bánh xe chưa chuyển đầy đủ, liên tục chuyển và tạo ra trường năng lượng.
Thế rồi có trung tâm con mắt thứ
ba. Tại trung tâm con mắt thứ ba phải và trái gặp gỡ, pingala và ida gặp gỡ, và
trở thành sushumna. Hai bán cầu não gặp gỡ tại con mắt thứ ba; điều đó ở giữa
hai con mắt. Một mắt biểu thị cho bên phải, mắt kia biểu thị cho bên trái, và
nó ở chính giữa. Những não trái và phải này gặp gỡ ở con mắt thứ ba, đây là sự
tổng hợp rất cao. Mọi người có khả năng mô tả cho tới điểm này. Đó là lí do tại
sao Ramakrishna có thể mô tả cho tới con mắt thứ ba. Và khi ông ấy bắt đầu nói
về cái cuối cùng, tổng hợp tối thượng xảy ra ở sahasrar, ông ấy cứ rơi đi rơi lại
vào trong im lặng, trong samadhi. Ông ấy bị chìm nghỉm trong nó; nó quá nhiều.
Nó tựa trận lụt; ông ấy bị đại dương tiếp quản. Ông ấy không thể giữ được bản
thân mình có ý thức, tỉnh táo.
Tổng hợp tối thượng xảy ra ở
sahasrar, luân xa đỉnh đầu. Bởi vì sahasrar này, trên khắp thế giới các nhà
vua, hoàng đế, quốc vương và hoàng hậu thường dùng mũ miện. Nó đã trở thành
hình thức, nhưng về căn bản nó đã được chấp nhận bởi vì chừng nào sahasrar của
bạn còn chưa vận hành, làm sao bạn có thể là quốc vương được, làm sao bạn có thể
là vua được? Làm sao bạn có thể cai trị mọi người, bạn thậm chí không trở thành
người cai trị của bản thân bạn? Trong biểu tượng vương miện có ẩn giấu một bí mật.
Bí mật là ở chỗ một người đã đạt tới trung tâm trên đầu, tổng hợp tối thượng của
bản thể người đó, chỉ người đó mới nên là vua hay hoàng hậu, không ai khác. Chỉ
người đó mới có khả năng cai trị người khác, bởi vì người đó đã đi tới cai trị
bản thân mình. Người đó đã trở thành người chủ của bản thân mình; bây giờ người
đó có thể có ích cho người khác nữa.
Thực sự, khi bạn đạt tới
sahasrar, vòng hoa nở ra bên trong bạn, hoa sen một nghìn cánh nở ra. Không
vòng hoa nào có thể sánh được với nó, nhưng thế thì nó trở thành chỉ là một biểu
tượng. Và biểu tượng đã tồn tại trên khắp thế giới. Điều đó đơn giản chỉ ra rằng
ở mọi nơi mọi người trở nên tỉnh táo và nhận biết theo cách này cách khác về tổng
hợp tối thượng trong sahasrar. Người Do Thái dùng mũ chỏm; nó đích xác là trên
sahasrar. Người Hindus cho phép một búi tóc, họ gọi nó là choti, đỉnh, để mọc
đích xác tại chỗ mà có sahasrar hay phải có. Có vài hội Ki tô giáo cạo đầu tới
phần đó của đầu. Khi thầy ban phúc lành cho đệ tử, thầy để tay vào sahasrar. Và
nếu đệ tử này thực sự cảm nhận, buông xuôi, người đó đột nhiên sẽ cảm thấy việc
dâng lên của năng lượng, chạy từ trung tâm dục tới sahasrar.
Thỉnh thoảng khi tôi chạm vào đầu
bạn và bạn đột nhiên trở nên có tính dục thì đừng sợ, đừng co lại, bởi vì đó là
cách nó phải vậy. Năng lượng là ở tại trung tâm dục. Nó bắt đầu duỗi bản thân
nó ra. Bạn trở nên sợ, bạn co lại, bạn kìm nén nó - Cái gì đang xảy ra? Và trở
nên có tính dục dưới chân thầy dường như có chút ít thô kệch, bối rối. Nó không
vậy đâu. Cho phép nó, để nó là vậy, và chẳng mấy chốc bạn sẽ thấy nó đã đi qua
trung tâm thứ nhất và trung tâm thứ hai và, nếu bạn buông xuôi, trong vòng vài
giây năng lượng chuyển tới sahasrar và bạn sẽ có cảm giác về việc mở ra mới bên
trong bạn. Đó là lí do tại sao đệ tử được giả định cúi đầu xuống để cho thầy có
thể chạm vào đầu.
Sự tổng hợp cuối cùng là của đối
thể và chủ thể, bên ngoài và bên trong, lần nữa. Trong cực thích dục bên ngoài
và bên trong gặp gỡ, nhưng nhất thời. Trong sahasrar chúng gặp gỡ thường hằng.
Đó là lí do tại sao tôi nói người ta phải đi từ dục tới samadhi. Trong dục chín
mươi chín phần trăm là dục, một phần trăm là sahasrar; trong sahasrar chín mươi
chín phần trăm là sahasrar, một phần trăm là dục. Cả hai được gắn lại, chúng được
bắc cầu, bởi dòng chảy sâu của năng lượng. Cho nên nếu bạn tận hưởng dục, đừng
làm thành chỗ trú ngụ của bạn ở đó. Dục chỉ là một thoáng nhìn về sahasrar.
Sahasrar sẽ chuyển giao gấp nghìn lần, gấp triệu lần, phúc lạc cho bạn, phúc
lành cho bạn.
Cái bên ngoài và cái bên trong
gặp gỡ, ta và người gặp gỡ, đàn ông và đàn bà gặp gỡ, âm và dương gặp gỡ; và việc
gặp gỡ là tuyệt đối. Thế thì không có ra đi, thế thì không có li dị.
Điều này được gọi là yoga. Yoga
nghĩa là gặp gỡ của hai trong một. Trong Ki tô giáo các nhà huyền môn đã gọi nó
là unio mystica; đó là việc dịch đích xác của yoga. Unio mystica: sự hợp nhất
huyền bí. Tại sahasrar alpha và omega gặp gỡ, cái bắt đầu và cái kết thúc. Cái
bắt đầu là trong trung tâm dục, dục là alpha của bạn; samadhi là omega của bạn.
Và chừng nào alpha và omega chưa gặp gỡ, chừng nào bạn còn chưa đạt tới sự hợp
nhất tối cao này, bạn sẽ vẫn còn khổ, bởi vì định mệnh của bạn là điều đó. Bạn
sẽ vẫn còn không được hoàn thành. Bạn có thể được hoàn thành chỉ tại đỉnh cao
nhất này của sự tổng hợp.
Bây giờ là lời kinh.
Thực hiện samyama trên quyền
năng nhận thức của họ, bản tính thực, tính bản ngã, tính toả khắp và các chức
năng đem tới việc làm chủ trên các giác quan.
Điều đầu tiên cần được hiểu là ở
chỗ bạn có các giác quan nhưng bạn đã mất tính nhạy cảm. Giác quan của bạn gần
như đờ đẫn, chết. Chúng có đó treo cùng bạn, nhưng năng lượng không chảy trong
chúng; chúng không phải là các chi sống động của con người bạn. Cái gì đó đã chết
bên trong bạn, đã trở nên lạnh cóng, bị chặn. Điều đó đã xảy ra cho toàn thể
nhân loại bởi vì hàng nghìn năm kìm nén. Và hàng nghìn năm của ước định và ý thức
hệ, điều chống lại thân thể, đã làm bạn què quặt. Bạn sống chỉ trên danh nghĩa.
Cho nên điều đầu tiên cần được
làm là: các giác quan của bạn phải trở nên thực sự sống động và nhạy cảm. Chỉ
thế thì chúng mới có thể được làm chủ. Bạn nhìn nhưng bạn không nhìn sâu. Bạn
nhìn chỉ bề mặt của mọi sự. Bạn chạm nhưng cái chạm của bạn không có ấm áp;
không cái gì chảy vào và ra từ cái chạm của bạn. Bạn cũng nghe nữa. Chim liên tục
hót và bạn nghe và bạn có thể nói, "Vâng, tôi đang nghe," và bạn
không sai - bạn nghe đấy - nhưng nó không bao giờ chạm tới chính cốt lõi của bản
thể bạn. Nó không nhảy múa cùng bạn; nó không giúp việc nở hoa, và lộ ra bên
trong bạn.
Những giác quan này phải được
làm trẻ lại. Yoga không chống lại thân thể, nhớ lấy. Yoga nói đi ra ngoài thân
thể, nhưng điều đó không chống lại thân thể. Yoga nói dùng thân thể, đừng bị nó
dùng; nhưng điều đó không chống lại thân thể. Yoga nói thân thể là ngôi đền của
bạn. Bạn ở trong thân thể, phức tạp thế và tinh tế thế, bí ẩn thế, và nhiều chiều
thế mở ra qua nó. Và những giác quan đó chỉ là cánh cửa và cửa sổ qua đó bạn sẽ
đạt tới Thượng đế - cho nên đừng làm chết chúng. Làm cho chúng sống động hơn
đi. Để cho chúng rung động, đập rộn ràng, và điều Stanley Keleman đã nói, để
chúng thành "dòng suối." Điều đó đích xác là từ đúng: để cho chúng chảy
như dòng suối, xô đi. Bạn có thể có cảm giác. Tay bạn, nếu nó xô đi như dòng suối
năng lượng: bạn sẽ cảm thấy cảm giác rân rân, bạn sẽ cảm thấy cái gì đó bên
trong tay đang chảy và muốn tạo ra tiếp xúc, muốn được kết nối.
Khi bạn yêu người đàn bà hay
người đàn ông và bạn cầm tay cô ấy trong tay bạn, nếu tay bạn không chảy như
dòng suối, tình yêu này sẽ không hữu dụng gì. Nếu tay bạn không rần rật và đập
rộn ràng với năng lượng và rót năng lượng vào người đàn bà hay người đàn ông,
thế thì tình yêu này gần như chết từ chính lúc bắt đầu. Thế thì đứa trẻ này
không sống khi được sinh. Thế thì sớm hay muộn bạn sẽ được chấm dứt - các bạn
đã được chấm dứt rồi. Sẽ mất chút thời gian để nhận ra bởi vì tâm trí bạn cũng
đờ đẫn; bằng không bạn sẽ không đi vào trong nó đâu, bởi vì nó đã chết rồi. Bạn
đi vào để làm gì? Bạn để thời gian để nhận ra mọi điều bởi vì nhạy cảm, lỗi lạc,
thông minh của bạn, bị che mờ và lẫn lộn nhiều thế.
Chỉ luồng chảy tình yêu mới có
thể trở thành cội nguồn của phúc lạc, của vui vẻ, của vui sướng. Nhưng để có điều
đó bạn sẽ cần luồng chảy giác quan.
Thỉnh thoảng bạn cũng có thoáng
nhìn đó; và mọi người đều có nó khi người đó còn là đứa trẻ. Xem đứa trẻ chạy
đuổi bướm. Nó là luồng chảy, dường như bất kì khoảnh khắc nào nó cũng có thể nhảy
ra khỏi thân thể nó. Xem đứa trẻ khi nó nhìn hoa hồng. Nhìn mắt nó, loé sáng,
ánh sáng tới từ mắt nó. Nó là luồng chảy. Mắt nó gần như nhảy múa trên cánh
hoa.
Đây là cách để hiện hữu: như
dòng sông. Và chỉ thế thì mới có thể làm chủ những giác quan này. Thực ra mọi
người đã có thái độ rất sai. Họ nghĩ rằng nếu bạn muốn làm chủ các giác quan của
bạn thì bạn phải làm cho chúng gần chết. Nhưng thế thì phỏng có ích gì mà làm
chủ? Bạn có thể giết, và bạn là chủ. Bạn có thể ngồi trên cái xác. Nhưng phỏng
có ích gì mà là chủ? Nhưng điều này có vẻ dễ dàng hơn: trước hết giết chúng đi,
và thế rồi bạn có thể làm chủ. Nếu thân thể cảm thấy quá mạnh, nhịn ăn đi. Làm
cho nó yếu đi, và thế thì bạn bắt đầu cảm thấy rằng bạn là chủ. Nhưng bạn đã giết
chết thân thể. Nhớ lấy, cuộc sống phải được làm chủ, không phải là thứ chết.
Chúng sẽ không hữu dụng gì.
Nhưng điều này đã được tìm ra
là lối tắt, cho nên mọi tôn giáo của thế giới đã từng dùng nó. Phá huỷ thân thể
bạn dần dần. Ngắt kết nối bản thân bạn khỏi thân thể. Không ở trong tiếp xúc.
Loại bỏ bản thân bạn đi. Trở thành dửng dưng. Khi thân thể bạn gần như cây khô;
không còn lá tới với nó, không còn nở hoa nữa, chim không còn tới nghỉ ngơi. Nó
chỉ là cái gốc chết. Tất nhiên bạn có thể làm chủ nó, nhưng bây giờ bạn sẽ thu
được gì từ việc làm chủ này?
Đây là vấn đề; đó là lí do tại
sao mọi người không hiểu điều Patanjali ngụ ý.
"Thực hiện samyama trên
quyền năng nhận thức..." Mắt bạn nhìn, tai bạn nghe, mũi bạn ngửi, lưỡi bạn
nếm, tay bạn chạm, chân bạn làm kết nối với đất - đó là quyền năng của chúng về
nhận thức.
"Thực hiện samyama trên
quyền năng nhận thức..." Nhưng chúng phải là mạnh mẽ. Bằng không bạn sẽ
không có khả năng ngay cả để cảm thấy quyền năng là gì. Những giác quan này phải
đầy quyền năng, cao với quyền năng tới mức bạn có thể thực hiện samyama, tới mức
bạn có thể thiền trên chúng.
Ngay bây giờ khi bạn nhìn vào
đoá hoa, đoá hoa có đó, nhưng bạn đã bao giờ cảm thấy mắt bạn chưa? Bạn thấy
hoa, nhưng bạn có cảm thấy quyền năng của mắt bạn không? Nó phải có đó bởi vì bạn
đang dùng mắt bạn để nhìn đoá hoa. Và tất nhiên mắt là đẹp hơn bất kì đoá hoa
nào bởi vì mọi hoa đều phải tới qua mắt. Chính là qua mắt mà bạn đã trở nên nhận
biết về thế giới hoa, nhưng bạn đã bao giờ cảm thấy quyền năng của mắt chưa?
Chúng gần như đờ đẫn, chết. Chúng đã trở thành thụ động, cũng như cửa sổ, cảm
nhận. Chúng không đi vào đối thể của chúng. Và quyền năng nghĩa là có tính tích
cực. Quyền năng nghĩa là mắt bạn đi và gần như chạm vào hoa, tai bạn đi và gần
như chạm vào tiếng hót của chim, tay bạn đi cùng năng lượng toàn bộ trong bạn,
hội tụ ở đó và chạm vào người yêu của bạn. Hay bạn đang nằm trên cỏ, toàn thân
bạn, đầy quyền năng, gặp gỡ trong tiếp xúc với cỏ, có đối thoại với cỏ. Hay bạn
đang bơi trong sông và thì thào cùng sông và lắng nghe tiếng thì thào của sông.
Được kết nối, trong giao cảm, nhưng quyền năng là được cần tới.
Cho nên điều đầu tiên tôi muốn
bạn làm là khi bạn nhìn, thực sự nhìn, trở thành mắt. Quên mọi thứ đi. Để toàn
thể năng lượng của bạn tuôn chảy qua mắt. Và mắt bạn sẽ được lau sạch, được tắm
trong mưa rào bên trong, và bạn sẽ có khả năng thấy rằng những cây này không
còn như cũ nữa, mầu xanh không còn như cũ. Nó đã trở nên xanh hơn, dường như bụi
đã biến mất khỏi nó. Bụi không ở trên cây. Nó ở trên mắt bạn. Và bạn sẽ thấy lần
đầu tiên và bạn sẽ nghe lần đầu tiên.
Jesus nói mãi với đệ tử của ông
ấy, "Nếu các ông có tai, nghe đi. Nếu các ông có mắt, nhìn đi." Họ
không phải tất cả đều mù, và họ không phải tất cả đều điếc. Ông ấy ngụ ý gì?
Ông ấy ngụ ý rằng bạn đã gần như trở nên điếc và gần như trở nên mù. Bạn nhìn vậy
mà bạn không nhìn thấy. Bạn nghe vậy mà bạn không nghe thấy. Nó không phải là
quyền năng, nó không phải là năng lượng, nó không phải là sống.
"Thực hiện samyama trên
quyền năng nhận thức, bản tính thực..." Thế thì bạn sẽ có khả năng thấy bản
tính thực của giác quan của bạn là gì. Đó là thiêng liêng. Thân thể bạn hiện
thân cho điều thiêng liêng. Đó là Thượng đế đã nhìn qua mắt bạn!
Tôi nhớ tới câu nói nổi tiếng của
Meister Eckhart. Ngày ông ấy nhận ra và trở nên chứng ngộ, bạn và đệ tử và anh
em của ông ấy hỏi, "Ông đã thấy gì?" Ông ấy cười. Ông ấy là người duy
nhất trong toàn thể Ki tô giáo, người tới rất gần với Thiền sư, gần như là một
Thiền sư. Ông ấy cười; ông ấy nói, "Tôi đã không nhìn thấy ngài. Ngài đã
nhìn thấy bản thân ngài qua tôi. Thượng đế đã thấy bản thân ngài qua tôi. Đôi mắt
này là của ngài. Và trò chơi gì, trò đùa gì vậy. Ngài đã nhìn bản thân ngài qua
tôi."
Khi bạn thực sự cảm thấy bản
tính của giác quan của bạn, bạn sẽ cảm thấy nó là thiêng liêng. Chính Thượng đế
đã đi qua tay bạn. Đó là tay của Thượng đế. Mọi tay đều là của ngài. Chính Thượng
đế đã yêu qua bạn. Mọi chuyện tình đều là của ngài. Và làm sao nó có thể khác
được? Người Hindus gọi nó là leela trò chơi của Thượng đế. Chính ngài đang gọi
bạn qua tiếng con chim cúc cu, chính ngài đang nghe qua bạn. Chính ngài và một
mình ngài lan toả khắp nơi.
"Thực hiện samyama trên
quyền năng nhận thức của họ, bản tính thực, tính bản ngã, tính toả khắp và các
chức năng đem tới việc làm chủ trên các giác quan." Từ này "tính bản
ngã" phải được hiểu bởi vì trong tiếng Phạn chúng ta có ba từ cho bản ngã
và trong tiếng Anh chỉ có một từ. Điều đó tạo ra khó khăn. Từ tiếng Phạn trong
kinh này là asmita, cho nên để tôi giải thích nó cho bạn trước hết.
Có ba từ: ahankar, asmita,
atma. Tất cả đều có nghĩa "tôi." Ahankar có thể được dịch là "bản
ngã," rất thô, quá nhấn mạnh vào tôi. Với asmita không có từ trong tiếng
Anh. Asmita nghĩa là đây. Tôi đây; trong bản ngã nhấn mạnh là vào "tôi";
trong asmita nhấn mạnh là vào "đây." Tính đây, thuần khiết hơn bản
ngã. Dẫu sao nó vẫn có đấy, nhưng ở dạng rất khác. Tính đây. Và atma; ngay cả
tính đây đã biến mất. Trong bản ngã "tôi đây"; trong asmita chỉ có
"đây"; trong atma ngay cả điều đó cũng đã biến mất. Trong atma có bản
thể thuần khiết, không có tôi không có tính đây.
Trong lời kinh này asmita được
dùng, tính đây. Nhớ lấy, bản ngã là của tâm trí. Giác quan không có bản ngã.
Chúng có tính đây nào đó nhưng không có bản ngã. Bản ngã là của tâm trí. Mắt bạn
không có bản ngã nào; tay bạn không có bản ngã nào. Chúng có tính đây nào đó.
Đó là lí do tại sao da bạn phải được thay thế và da của ai đó khác được cấy lên
bạn, thân thể bạn sẽ bác bỏ nó, bởi vì thân thể biết "nó không phải của
mình." Cho nên da riêng của bạn phải được thay thế từ phần khác nào đó của
thân thể, từ bắp đùi của bạn. Da riêng của bạn phải được thay thế; bằng không
thân thể sẽ bác bỏ. Thân thể sẽ không chấp nhận nó: "Nó không phải là của
mình." Thân thể không có tôi nhưng nó có tính đây.
Nếu bạn cần máu, máu của bất kì
ai sẽ không có tác dụng. Thân thể sẽ không chấp nhận mọi loại máu, chỉ một loại
máu đặc biệt. Nó có tính đây riêng của nó. Máu đó sẽ được chấp nhận; máu khác
nào đó sẽ bị bác bỏ. Thân thể có cảm giác riêng của việc hiện hữu của nó. Rất
vô ý thức, rất tinh tế và thuần khiết, nhưng nó có đó.
Mắt của bạn là của bạn, cũng
như dấu ngón cái của bạn. Mọi thứ của bạn là của bạn. Bây giờ các nhà sinh lí
nói rằng tim mọi người là khác nhau, có hình dạng khác. Trong các sách của sinh
lí học bức tranh mà bạn sẽ thấy không phải là tranh thực. Nó chỉ là trung bình;
nó chỉ là được tưởng tượng. Bằng không tim của từng người có hình dạng khác
nhau. Ngay cả thận của từng người cũng có hình dạng khác. Những bộ phận này tất
cả đều có dấu hiệu của chúng; mọi người là duy nhất thế. Đó là tính đây.
Bạn sẽ không bao giờ ở đây lần
nữa, bạn chưa bao giờ ở đây trước kia, cho nên di chuyển thận trọng và tỉnh táo
và hạnh phúc đi. Nghĩ mà xem, vinh quanh đó của bản thể bạn. Nghĩ mà xem, rằng
bạn là siêu phàm và duy nhất thế. Thượng đế đã đầu tư nhiều vào trong bạn. Đừng
bao giờ bắt chước, bởi vì điều đó sẽ là phản bội. Là chính bản thân bạn. Để điều
đó là tôn giáo của bạn. Mọi thứ khác đều là chính trị. Đừng là người Hindu, đừng
là người Mô ha mét giáo, đừng là người Ki tô giáo. Có tính tôn giáo, nhưng chỉ
có một tôn giáo, và đó là chỉ là bản thân bạn, đích thực bản thân bạn.
"Thực hiện samyama trên
quyền năng nhận thức của họ, bản tính thực, asmita (tính đây tinh tế), tính toả
khắp và các chức năng đem tới việc làm chủ trên các giác quan." Và nếu bạn
thiền trên những điều này, bạn sẽ trở thành người chủ. Thiền đem tới tính làm
chủ; không cái gì khác đem tới tính làm chủ ngoại trừ thiền. Nếu bạn thiền trên
mắt bạn, đầu tiên bạn sẽ thấy hoa hồng; dần dần bạn sẽ có khả năng thấy mắt
đang nhìn. Thế thì bạn đã trở thành người chủ của mắt. Một khi bạn đã thấy mắt
đang nhìn, bạn đã trở thành người chủ. Bây giờ bạn có thể dùng mọi năng lượng của
nó; và chúng là lan toả khắp. Mắt bạn không bị giới hạn như bạn nghĩ chúng vậy.
Chúng có thể thấy nhiều điều mà bạn đã không thấy. Chúng có thể xuyên thấu nhiều
điều huyền bí mà bạn thậm chí đã không mơ tới. Nhưng bạn không là người chủ của
mắt bạn, và bạn đã dùng chúng theo cách rất lung tung bừa bãi, không biết bạn
đang làm gì.
Và đã từng ở trong tiếp xúc với
các đối thể quá nhiều, bạn đã quên mất tính chủ thể của mắt bạn. Nó xảy ra nếu
bạn giữ việc đồng hành cùng ai đó, dần dần bạn trở nên bị ảnh hưởng bởi người
đó. Bạn đã ở trong tiếp xúc với các đối thể quá nhiều và bạn đã quên mất phẩm
chất bên trong của giác quan của bạn. Bạn thấy mọi thứ, nhưng bạn chưa bao giờ
thấy việc thấy của bạn. Bạn nghe bài ca, nhưng bạn chưa bao giờ nghe thấy rung
động tinh tế vẫn diễn ra bên trong bạn, âm thanh của bản thể bạn. Để tôi kể cho
bạn một giai thoại.
Tôi đã nghe rằng một kẻ lang
thang cực kì tự tin có khí phách cực lớn. Anh ta vừa mới ăn xong một bữa ăn rất
thịnh soạn trong một nhà hàng sang trọng, anh ta công bố với người quản lí,
"Ông bạn tốt của tôi ơi, tôi đã thực sự tận hưởng thức ăn của ông, nhưng
không may tôi không thể đảm đương trả tiền cho nó chút nào. Tôi không có lấy một
xu cho tên tôi. Bây giờ đừng nổi giận. Tôi về nghề chuyên nghiệp là kẻ ăn xin,
như ông có thể thấy. Tôi ngẫu nhiên là một kẻ ăn xin cực tài nữa. Tôi có thể đi
ra ngoài và trong một giờ kiếm được số tiền tôi nợ ông vì bữa ăn này. Nghĩ một
cách tự nhiên, ông không thể tin tôi quay lại, và điều này tôi hiểu đầy đủ. Ông
sẽ được đón chào nhiều nhất khi đi cùng tôi, nhưng liệu một người như ông, một
người chủ nhà hàng nổi tiếng, có chịu được việc bị nhìn thấy đi với một người tầm
cỡ như tôi không? Không. Cho nên tôi có giải pháp hoàn hảo cho vấn đề nhỏ của
chúng ta, thưa ông. Tôi sẽ đợi ở đây và ông đi ra ngoài và ăn xin cho tới khi
ông có được chi phí của bữa ăn này."
Nếu bạn đồng hành cùng với người
ăn xin, bạn sẽ trở thành người ăn xin. Anh ta sẽ gợi ý cả nghìn lẻ một cách cho
bạn trở thành giống anh ta.
Chúng ta đã đồng hành cùng với
các đối thể lâu tới mức chúng ta đã quên tính chủ thể của mình. Chúng ta vẫn
còn hội tụ ra ngoài vào mọi thứ lâu tới mức chúng ta đã quên mất rằng chúng ta
là các cá thể. Sự liên kết lâu dài này với đối thể đã hoàn toàn phá huỷ hình ảnh
của bạn về bản thân bạn. Bạn phải đi về nhà.
Trong yoga, khi bạn bắt đầu thấy
con mắt nhìn của bạn, bạn bắt gặp một năng lượng tinh tế. Họ gọi nó là
tanmatra. Khi bạn có thể thấy mắt nhìn của bạn, ẩn ngay ở đằng sau đôi mắt, bạn
thấy một năng lượng vô cùng. Đó là tanmatra, năng lượng của mắt. Đằng sau tai bạn
thấy năng lượng vô cùng được tích luỹ, tanmatra của tai. Đằng sau bộ phận sinh
dục bạn thấy năng lượng vô cùng được tích luỹ, tanmatra của dục tình. Và vân
vân và vân vân. Ở mọi nơi, đằng sau giác quan của bạn có vũng năng lượng -
không được dùng tới. Một khi bạn biết tới nó, bạn có thể rót năng lượng đó vào
trong mắt bạn, và thế thì bạn sẽ thấy các linh ảnh mà chỉ thỉnh thoảng các nhà
thơ mới thấy, các hoạ sĩ mới thấy. Thế thì bạn sẽ nghe thấy âm thanh mà chỉ thỉnh
thoảng các nhạc sĩ nghe thấy, nhà thơ nghe thấy. Và thế thì bạn sẽ chạm tới những
thứ mà chỉ thỉnh thoảng trong những khoảnh khắc hiếm hoi những người yêu biết
cách chạm tới. Bạn sẽ trở nên sống động, như luồng chảy.
Bình thường bạn đã được dạy kìm
nén giác quan của bạn, không biết tới chúng. Điều đó là rất ngu xuẩn, nhưng rất
thuận tiện. Chuyện xảy ra:
Sau đám cưới ở vùng sâu vùng
xa, cô dâu và chú rể lên xe và khởi hành về nông trại của họ. Đi quãng một dặm
trên đường, con ngựa lưỡng lự không muốn đi. "Đó là một!" chú rể kêu
lên.
Họ tiếp tục đi và con ngựa lại
lưỡng lự. "Đó là hai!" chú rể kêu lên.
Khi họ về tới gần tới nông trại,
con ngựa lại lưỡng lự lần nữa. "Đó là ba!" chú rể quát lên, lôi khẩu
súng đằng sau chỗ ngồi, bắn viên đạn vào đầu ngựa. Cô dâu ngồi chết khiếp. Thế
rồi, với sự nhấn mạnh, cô ấy bảo người chồng mới điều cô ấy nghĩ về hành động của
anh ta. Anh ta ngồi yên tĩnh cho tới khi cô ấy ngớt đi, rồi chỉ vào cô ấy và
quát lên, "Đó là một!" Đôi này đã sống hạnh phúc trong sáu mươi năm.
Nhưng hạnh phúc đó không thể là
hạnh phúc thực được. Dễ dàng kìm nén tại đầu họng súng, nhưng thế thì loại tình
yêu nào sẽ xảy ra giữa hai người này? Súng bao giờ cũng đứng ở giữa, và vợ bao
giờ cũng sợ từ giờ bất kì khoảnh khắc nào anh ta sẽ nói, "Bây giờ đây là
hai! Bây giờ đây là ba!" và bị kết thúc.
Đó là điều bạn đã làm với các
giác quan của bạn, với thân thể bạn. Bạn đã kìm nén nó. Nhưng bạn bất lực. Tôi
không nói rằng bạn chịu trách nhiệm cho việc kìm nén nó. Bạn đã được nuôi dưỡng
lớn lên theo cách như vậy, không ai cho phép các giác quan của bạn được tự do.
Nhân danh tình yêu, chỉ kìm nén tiếp tục. Mẹ, bố, xã hội, họ liên tục kìm nén.
Dần dần họ dạy bạn thủ đoạn, và thủ đoạn là không chấp nhận bản thân bạn, phủ
nhận. Mọi thứ phải được đổi kênh vào sự tuân thủ. Tính hoang dã của bạn phải bị
tống vào phần tối của linh hồn bạn và một góc nhỏ phải được dọn sạch, như một
chỗ ngăn kéo, nơi bạn có thể gặp mọi người, và sống và quên tất cả về bản thể
hoang dã hơn của bạn, sự tồn tại thực của bạn. Bố bạn và mẹ bạn cũng không chịu
trách nhiệm, vì họ đã được nuôi lớn theo cùng cách.
Cho nên không ai chịu trách nhiệm
cả. Nhưng một khi bạn biết điều đó, và bạn không làm gì, thế thì bạn trở nên có
trách nhiệm. Ở gần tôi, tôi sẽ làm cho bạn rất, rất có trách nhiệm, bởi vì bạn
sẽ biết điều đó, và thế thì nếu bạn không làm gì, thế thì bạn không thể đổ
trách nhiệm lên bất kì ai khác được. Thế thì bạn sẽ chịu trách nhiệm.
Bây giờ bạn biết về cách bạn đã
phá huỷ các giác quan của bạn và bạn cũng biết cách làm sống lại chúng. Làm cái
gì đó đi. Vứt súng hoàn toàn đi, vứt tâm trí kìm nén hoàn toàn đi. Tháo dỡ khối
chắn bản thân bạn ra. Bắt đầu tuôn chảy lần nữa. Bắt đầu kết nối lại với bản thể
bạn. Bắt đầu kết nối lại với các giác quan của bạn. Bạn giống như đường dây điện
thoại bị ngắt kết nối. Mọi thứ có vẻ hoàn toàn được, điện thoại có đó, nhưng đường
dây bị ngắt kết nối. Mắt bạn có đó, tay bạn có đó, tai bạn có đó, nhưng đường
dây bị ngắt kết nối. Kết nối lại nó đi. Nếu nó có thể bị ngắt kết nối, nó có thể
được kết nối lại. Người khác đã ngắt kết nối nó bởi vì họ cũng được dạy theo
cùng cách, nhưng bạn có thể kết nối lại nó.
Mọi cách thiền của tôi là để
cho bạn năng lượng luồng chảy. Đó là lí do tại sao tôi gọi chúng là phương pháp
động. Các cách thiền cũ chỉ là ngồi im lặng, không làm gì. Tôi cho bạn phương
pháp tích cực bởi vì khi bạn tuôn chảy cùng năng lượng bạn có thể ngồi im lặng,
điều đó sẽ có tác dụng, nhưng ngay bây giờ đầu tiên bạn phải trở nên sống động.
Từ điều này nhận thức tức khắc
theo sau mà không dùng thân thể, và hoàn thành việc làm chủ trên pradhana, thế
giới vật chất.
Nếu bạn có thể thấy tanmatra,
năng lượng tinh tế của giác quan của bạn, bạn sẽ trở nên có khả năng dùng nhận
thức của bạn mà không cần các công cụ thô hơn. Nếu bạn biết rằng đằng sau mắt
có vũng năng lượng được tích luỹ, bạn có thể nhắm mắt và dùng năng lượng đó một
cách trực tiếp. Thế thì bạn sẽ có khả năng thấy mà không mở mắt. Đó là điều viễn
cảm, viễn thị, viễn thính là gì.
Ở nước Nga xô viết có một người
đàn bà đã được nghiên cứu một cách khoa học, người đứng cách xa bất kì vật gì nửa
mét và bắt đầu kéo nó chỉ bằng năng lượng. Cô ấy làm các chuyển động bằng bàn
tay, ở xa nửa mét. Như bạn đã thấy nhà thôi miên huơ tay lên, cô ấy đơn giản
kéo, làm các cử chỉ. Trong vòng mười lăm phút, mọi thứ bắt đầu di chuyển về
phía cô ấy. Cô ấy đã không chạm vào chúng. Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành để
biết điều gì xảy ra. Và người đàn bà đó mất ít nhất một phần tư cân trọng lượng
trong thực nghiệm nửa giờ. Chắc chắn cô ấy mất một loại năng lượng nào đó.
Đây là điều yoga gọi là
tanmatra. Bình thường bạn dùng năng lượng qua tay, khi bạn nhặt cái gì đó lên,
hòn đá, tảng đá. Bạn có thể thử nó; bạn dùng cùng năng lượng đó qua tay. Nhưng
nếu bạn biết năng lượng một cách trực tiếp, bạn có thể bỏ việc dùng tay. Năng
lượng có thể di chuyển vật một cách trực tiếp. Cùng cách đó là với viễn cảm - bạn
có thể nghe hay đọc ý nghĩ của người khác hay có thể được bỏ đi. Một khi bạn biết
rằng không phải thực là giác quan vận hành mà là năng lượng, bạn được tự do với
giác quan.
Tôi đã nghe một câu chuyện.
Thế là anh chàng này gọi điện tới
cho Cohen & Goldberg, nhà bán sỉ. "Xin nối cho tôi nói với ông
Cohen." "Tôi e là ông Cohen đã đi ra ngoài rồi, thưa ông," cô
gái chuyển điện thoại nói. "Thế thì cho tôi nói với ông Goldberg."
"Thưa ông, tôi e là ông Goldberg hiện không hoạt động ạ." "Thôi
được, tôi sẽ điện thoại lại sau." Mười phút sau: "Xin được gặp ông
Goldberg." "Tôi e là ông Goldberg vẫn đang không hoạt động, thưa
ông." "Tôi sẽ gọi lại." Nửa giờ sau: "Cho tôi nói với ông
Goldberg." "Tôi cực kì lấy làm tiếc, thưa ông, ông Goldberg vẫn không
hoạt động." "Tôi sẽ gọi điện lại sau." Nửa giờ sau:
"Goldberg!" "Tôi có tin rất xấu cho ông, thưa ông, ông Goldberg
vẫn không hoạt động." "Nhưng trông đấy, điều này là nực cười. Các ông
buôn bán kiểu gì vậy? Một đối tác đi ra ngoài cả sáng còn đối tác kia thì không
hoạt động hàng giờ đến cuối. Cái gì xảy ra ở đó vậy?" "Thế này, ông
thấy đấy, thưa ông, bất kì khi nào ông Cohen đi ra ngoài ông ấy đều không cho
ông Goldberg hoạt động."
Đây là điều đang xảy ra bên
trong bạn nữa. Bất kì khi nào bạn đi ra ngoài, qua mắt, qua tay, qua bộ phận
sinh dục, qua tai, bất kì khi nào bạn đi ra ngoài, liên tục là một kiểu tù túng
và trói buộc được tạo ra. Dần dần bạn trở nên sít sao với giác quan đặc biệt -
mắt, tai - bởi vì đó là nơi bạn đi ra, lặp đi lặp lại. Dần dần bạn quên mất
năng lượng đang đi ra.
Việc lâm vào tù túng với các
giác quan là toàn thế giới, samsar. Làm sao hợp nhất bản thân bạn từ các giác
quan? Và một khi bạn bị trói buộc với giác quan, bạn bắt đầu nghĩ dưới dạng của
chúng. Bạn quên mất bản thân bạn. Một chuyện khác:
Một đệ tử rất muốn từ bỏ thế giới
và theo guru của anh ta, nhưng anh ta nói rằng vợ và gia đình anh ta yêu anh ta
lắm và anh ta không thể bỏ nhà mình được.
Guru đi tới một kế hoạch. Người
này được dạy cho bí mật yoga nào đó để cho anh ta có thể tạo ra dáng vẻ mà mọi
người nhìn vào thân thể anh ta đều thấy anh ta đã chết. Ngày hôm sau người này
tuân theo hướng dẫn và vợ và gia đình anh ta xúm quanh thân thể anh ta mà than
khóc và thổn thức.
Guru xuất hiện ở cửa trá hình
nhà ảo thuật và bảo gia đình nếu họ yêu mến người này nhiều thế thì thầy có thể
đem anh ta trở lại cuộc sống. Thầy nói rằng người này sẽ sống nếu ai đó chết
thay chỗ anh ta bằng việc uống thuốc độc thầy mang.
Từng thành viên của gia đình đều
có cớ để cần giữ cuộc sống riêng của mình, và người vợ nói thêm, "Dẫu sao
đi chăng nữa, anh ấy đã chết rồi; chúng tôi sẽ xoay xở."
Lúc này người yogi đứng dậy và
nói, "Đồ đàn bà, nếu cô có thể sống không có tôi thế thì tôi có thể đi với
guru của tôi." Anh ta đối diện thầy và nói, "Chúng ta đi thôi, thầy
tôn kính. Tôi sẽ theo thầy."
Toàn thể gắn bó với các giác
quan là dường như bạn là giác quan, dường như bạn không thể sống được nếu thiếu
chúng, dường như toàn thể cuộc đời của bạn bị giới hạn vào chúng. Nhưng bạn
không bị giới hạn vào chúng. Bạn có thể từ bỏ chúng, và bạn có thể vẫn sống, và
sống trên bình diện cao hơn. Khó đấy. Cũng dường như bạn muốn thuyết phục hạt mầm
rằng "Chết đi, và chẳng mấy chốc cây đẹp sẽ được sinh ra." Làm sao
người đó có thể tin được, bởi vì người đó sẽ là người chết? Và không hạt mầm
nào đã bao giờ biết rằng bằng cái chết của mình, chồi mới nhú ra, cuộc sống mới
bắt đầu. Cho nên làm sao tin được vào điều đó? Hay nếu bạn tới gần quả trứng và
bạn muốn thuyết phục con chim bên trong rằng "Ra đi," nhưng làm sao
con chim tin được điều đó, rằng có khả năng cuộc sống nào mà không có trứng?
Hay nếu bạn nói với đứa trẻ trong bụng người mẹ và bảo nó, "Ra đi, đừng sợ,"
nhưng nó chẳng biết gì bên ngoài bụng mẹ. Bụng mẹ đã là cả cuộc sống của nó; nó
chỉ biết chừng nấy thôi. Nó sợ. Cùng điều đó là tình huống này: được bao quanh
bởi các giác quan, chúng ta sống trong một loại giam cầm, tù đầy.
Người ta phải bạo dạn, dũng cảm
chút ít. Ngay bây giờ, dù bạn ở bất kì đâu và dù bạn là bất kì cái gì, không
cái gì xảy ra cho bạn. Thế thì nhận mạo hiểm đi. Thế thì đi vào trong cái không
biết. Thế thì cố gắng tìm ra cách sống mới.
"Từ điều này nhận thức tức
khắc theo sau mà không dùng thân thể, và hoàn thành việc làm chủ trên pradhana,
thế giới vật chất." Mãi cho tới giờ bạn đã bị sở hữu bởi thế giới vật chất.
Một khi bạn biết rằng bạn có năng lượng riêng của bạn, độc lâp toàn bộ với thế
giới vật chất, bạn trở thành người chủ. Thế giới không còn sở hữu bạn nữa; bạn
sở hữu nó. Chỉ những người từ bỏ mới trở thành người chủ thực.
Chỉ sau khi nhận biết về sự
phân biệt giữa sattva và purusha mà uy thế và tri thức mới nảy sinh qua mọi trạng
thái của sự tồn tại.
Và phân biệt tinh tế nhất phải
được nhận ra giữa sattva và purusha - thông minh và nhận biết. Rất dễ phân tách
bản thân bạn khỏi thân thể. Thân thể là thô thế bạn có thể cảm thấy nó; bạn
không thể là nó. Bạn phải ở bên trong nó. Dễ thấy rằng bạn không thể là mắt. Bạn
phải là ai đó ẩn kín đằng sau người nhìn qua mắt; bằng không ai sẽ nhìn qua mắt?
Kính của bạn không thể nhìn được. Đằng sau kính, mắt được cần tới. Mắt bạn cũng
giống như kính thôi. Chúng là kính, chúng không thể nhìn được. Bạn được cần ở
đâu đó đằng sau để nhìn.
Nhưng đồng nhất tinh vi nhất là
với thông minh. Quyền năng suy nghĩ của bạn, quyền năng trí tuệ của bạn, hiểu
biết, đó là điều tinh tế nhất. Rất khó phân biệt được giữa nhận biết và thông
minh. Nhưng nó có thể được phân biệt.
Dần dần, từng bước một, biết rằng
bạn không là thân thể. Để hiểu biết đó trưởng thành sâu, kết tinh lại. Thế rồi
biết rằng bạn không là các giác quan. Để hiểu biết đó trưởng thành, kết tinh lại.
Thế rồi biết rằng bạn không là tanmatra, vũng năng lượng đằng sau các giác
quan. Để cho điều đó trưởng thành và kết tinh. Và thế rồi bạn sẽ có khả năng thấy
rằng thông minh cũng là một vũng năng lượng. Nó là vũng năng lượng chung, trong
đó mắt rót năng lượng của chúng, tai rót năng lượng của chúng, tay rót năng lượng
của chúng. Mọi giác quan đều giống như sông, và thông minh là điều trung tâm,
trong đó chúng đem lại thông tin và rót vào.
Bất kì cái gì tâm trí bạn biết
đều được giác quan đem lại. Bạn đã thấy mầu sắc: tâm trí bạn biết. Nếu bạn mù mầu,
nếu bạn không thể thấy được mầu lục, thế thì tâm trí bạn không biết gì về mầu lục
cả. Bernard Shaw sống cả đời không nhận biết rằng ông ấy bị mù mầu. Rất khó để
đi tới biết điều đó, nhưng một sự vụ ngẫu nhiên cho phép ông ấy trở nên nhận biết.
Vào một trong những ngày sinh của ông ấy ai đó tặng cho ông ấy bộ com lê, nhưng
lại thiếu cà vạt, cho nên ông ấy đi ra chợ tìm cà vạt hợp với bộ com lê này. Bộ
com lê mầu lục, và ông ấy bắt đầu mua chiếc cà vạt vàng. Thư kí của ông ấy
nhìn, và cô ấy nói, "Ông làm gì thế? Nó không hợp. Bộ com lê mầu lục và cà
vạt mầu vàng." Ông ấy nói, "Có khác gì đâu giữa hai chiếc này?"
Trong bẩy mươi năm ông ấy đã sống, chẳng biết rằng ông ấy không thể thấy được mầu
vàng. Ông ấy thấy mầu lục. Dù đó là vàng hay lục, cả hai mầu trông đều là lục.
Bây giờ vàng không phải là một phần của tâm trí ông ấy, mắt chưa bao giờ rót
thông tin đó vào trong tâm trí.
Mắt giống như người hầu, kẻ thu
thập thông tin, những kẻ ủng hộ, lang thang khắp thế giới, thu thập mọi thứ,
rót vào trong tâm trí. Chúng cứ nuôi dưỡng tâm trí, tâm trí là vốn góp chung
trung tâm.
Đầu tiên bạn phải trở nên nhận
biết rằng bạn không phải là mắt, không là năng lượng ẩn đằng sau mắt, thế rồi bạn
sẽ có khả năng thấy rằng mọi giác quan đang đổ vào trong tâm trí. Bạn không là
tâm trí này nữa. Bạn là người đang nhìn nó được rót vào. Bạn đang đứng trên bờ,
mọi dòng sông đều đổ vào đại dương - bạn là người quan sát, nhân chứng.
Swami Ram đã nói: "Khoa học
khó định nghĩa, nhưng có lẽ tính năng bản chất nhất của nó bao gồm việc nghiên
cứu về cái gì đó ở bên ngoài người quan sát. Các kĩ thuật thiền cung cấp cách
tiếp cận cho phép người ta ở bên ngoài trạng thái bên trong riêng của người
ta." "Các kĩ thuật thiền cung cấp cách tiếp cận cho phép người ta ở
bên ngoài trạng thái bên trong riêng của người ta" - và điều tối thượng của
thiền là biết rằng bất kì cái gì bạn có thể biết, bạn đều không là nó. Bất kì
cái gì có thể được thu lại thành đối thể được biết, bạn không là nó, bởi vì bạn
không thể bị thu lại thành đối thể. Bạn vẫn còn là chủ thể vĩnh hằng - người biết,
người biết, người biết. Và người biết không bao giờ có thể bị thu lại thành cái
biết.
Đây là purusha, nhận biết. Đây
là hiểu biết chung cuộc nảy sinh từ yoga. Suy ngẫm về nó đi.
Xem tiếp Chương 4 - Quay về Mục lục Tập 9
0 Đánh giá