Read more
Yoga: Alpha và
Omega (Tập 10)
Bài giảng về Kinh Yoga của Patanjali
Chương 3. Trở về
tâm trí nguyên thuỷ
6. Chỉ tâm trí nguyên thuỷ được sinh ra từ
thiền mới tự do khỏi ham muốn.
7. Nghiệp của người yogi không thuần khiết,
không không thuần khiết, nhưng tất cả những người khác đều gồm ba phần: thuần
khiết, không thuần khiết và trộn lẫn.
8. Ham muốn nảy sinh từ nghiệp ba phần này
khi hoàn cảnh là thuận lợi cho việc hoàn thành của chúng.
9. Vì kí ức và ấn tượng giữ lại cùng hình dạng,
mối quan hệ nhân quả tiếp tục, cho dù bị phân tách bởi đẳng cấp, vị trí và thời
gian.
10. Và không có bắt đầu cho quá trình này,
vì ham muốn sống là vĩnh hằng.
Tatra dhyanajam anasayam.
"Chỉ tâm trí nguyên thuỷ
được sinh ra từ thiền mới tự do khỏi ham muốn." Đây là một trong những lời
kinh có ý nghĩa nhất. Thứ nhất, tâm trí nguyên thuỷ là gì? - bởi vì tâm trí
nguyên thuỷ là chính mục đích của mọi yoga. Phương Đông đã từng tìm kiếm liên tục
con đường tới tâm trí nguyên thuỷ. Tâm trí nguyên thuỷ là tâm trí mà bạn có trước
khi bạn được sinh ra, không trong kiếp này, nhưng trước khi bạn đi vào thế giới
của ham muốn; trước khi bạn bị giam vào các ý nghĩ, ham muốn, bản năng, thân thể,
tâm trí; không gian nguyên thuỷ đó, không bị ô nhiễm bởi bất kì cái gì; bầu trời
nguyên thuỷ đó, không mây - cái đó là tâm trí nguyên thuỷ.
Trên tâm trí nguyên thuỷ đó, hết
tầng nọ tới tầng kia của tâm trí có đó. Con người tựa củ hành, bạn liên tục bóc
nó ra. Bạn bóc tầng này, tầng khác có đó, bạn bóc tầng đó, tầng khác nữa lại tới.
Bạn không có một tâm trí, bạn có tầng tầng của nhiều tâm trí. Bởi vì trong từng
kiếp sống bạn đã trau dồi tâm trí nào đó, thế rồi trong kiếp sống khác lại tâm
trí khác, và cứ thế mãi. Và tâm trí nguyên thuỷ bị mất hút hoàn toàn đằng sau
những tâm trí này, những tầng tiếp tầng này. Nhưng nếu bạn cứ bóc mãi củ hành,
một khoảnh khắc tới khi chỉ trống rỗng còn lại trong tay bạn. Củ hành đã biến mất.
Khi tâm trí biến mất, thế thì nảy
sinh tâm trí nguyên thuỷ. Thực ra, gọi nó là tâm trí là không hay, nhưng không
có cách khác để diễn đạt nó. Nó là vô trí. Tâm trí nguyên thuỷ là vô trí. Khi tất
cả các tâm trí mà bạn có, đều đã tan biến, mất đi, tâm trí nguyên thuỷ xuất hiện
với sự thuần khiết tinh khôi, với sự trong trắng của nó. Tâm trí nguyên thuỷ
này bạn đã có rồi. Bạn có thể đã quên. Bạn có thể bị lạc trong rừng rậm của các
ước định của tâm trí bạn, nhưng sâu bên dưới, ẩn đằng sau tất cả những tầng này
bạn vẫn sống trong tâm trí nguyên thuỷ của bạn, và trong những khoảnh khắc hiếm
hoi, bạn xuyên thấu vào nó. Trong giấc ngủ say, khi ngay cả mơ cũng đã dừng lại,
trong giấc ngủ không mơ, bạn đạt tới việc nhúng vào trong tâm trí nguyên thuỷ.
Đó là lí do tại sao đến sáng bạn cảm thấy tươi tắn thế. Nhưng nếu đã có mơ liên
tục cả đêm, thế thì bạn cảm thấy mệt mỏi. Bạn cảm thấy mệt hơn là bạn đã cảm thấy
khi bạn đi ngủ. Bạn không thể đạt tới việc nhúng vào trong sông Hằng bên trong
của bạn, vào trong dòng suối của tâm thức thuần khiết của bạn. Bạn không thể đi
vào trong nó được, bạn không thể tắm trong nó được. Đến sáng bạn cảm thấy mệt mỏi,
lo lắng, căng thẳng, lẫn lộn, phân chia. Bạn không có hài hoà tới từ giấc ngủ
say. Nhưng nó không bắt ngồn từ giấc ngủ say, ngủ say chỉ là bước chuyển sang
tâm trí nguyên thuỷ. Đó là lí do tại sao Patanjali nói rằng samadhi giống như
ngủ say chỉ với một khác biệt duy nhất: trong samadhi, bạn đi vào trong cùng
tâm trí nguyên thuỷ mà bạn đi vào trong giấc ngủ, nhưng bạn đi với nhận biết đầy
đủ, trong giấc ngủ say bạn trượt vào trong nó một cách vô nhận biết, không biết
bạn đang đi đâu, không biết con đường nào bạn đang theo. Đó là tiếp xúc duy nhất
của bạn còn lại với tâm trí nguyên thuỷ.
Các bác sĩ và bác sĩ trị liệu
biết rõ rằng bất kì khi nào ai đó đang bị một bệnh nào đó, nếu người đó không
thể ngủ ngon được, thế thì không có cách nào chữa cho người đó. Ngủ là phép chữa
bệnh. Thực ra, điều đầu tiên cho bệnh nhân là: làm sao giúp người đó đi vào
trong giấc ngủ sâu, nghỉ ngơi sâu. Việc nghỉ ngơi đó chữa lành vì bệnh nhân lại
trở nên được kết nối với tâm trí nguyên thuỷ, và tâm trí nguyên thuỷ là nguồn
chữa lành. Nó là cội nguồn của bạn về sinh lực, tình yêu. Mọi điều bạn có đều bắt
nguồn từ thế giới đại dương của tâm trí nguyên thuỷ của bạn.
Tất nhiên, khi nó phải đi qua
nhiều tầng thế của tâm trí, nó bị nhiễm bẩn, ô nhiễm. Sinh thái bên trong của bạn
không còn nguyên thuỷ nữa. Nó đã bị chất đống, chất đầy với nhiều thứ chết. Tâm
trí của bạn không là gì ngoài kinh nghiệm chết của bạn.
Người muốn đi vào trong tâm trí
nguyên thuỷ mà tỉnh táo, nhận biết, thì phải học cách dỡ bỏ, cách dỡ bỏ kinh
nghiệm, cách làm chết đi quá khứ một cách liên tục, cách không níu bám lấy quá
khứ. Khoảnh khắc này bạn đã sống rồi - được kết thúc - được kết thúc với nó. Để
không có sự liên tục với nó; trở thành gián đoạn. Nó không còn thuộc vào bạn.
Nó được kết thúc và kết thúc mãi mãi. Để cho nó là dấu chấm hết, và bạn thoát
ra khỏi nó như con rắn trườn ra khỏi bộ da cũ và thậm chí không nhìn lại sau.
Chỉ mới khoảnh khắc trước, bộ da đó đã là một phần của thân thể nó; bây giờ,
không còn nữa. Đi ra khỏi quá khứ một cách liên tục để cho bạn có thể vẫn còn
trong hiện tại. Nếu bạn có thể vẫn còn trong hiện tại, bạn không thể đi ra khỏi
tâm trí nguyên thuỷ của bạn. Tâm trí nguyên thuỷ không biết tới quá khứ và
không biết tới tương lai.
Điều bạn gọi là tâm trí thì
không là gì ngoài quá khứ và tương lai, quá khứ và tương lai - việc đung đưa giữa
quá khứ và tương lai - và tâm trí bạn chưa bao giờ dừng lại ở đây-bây giờ. Đó
là nghĩa của thiền: thoát ra khỏi quá khứ, không tạo ra tương lai, và vẫn còn với
thực tại đang sẵn có ở đây-bây giờ. Còn lại với nó đi. Đột nhiên, bạn sẽ thấy
không có tâm trí giữa bạn và thực tại, giữa bạn và cái đang đấy, bởi vì tâm trí
không thể tồn tại trong hiện tại được. Bạn không thể nghĩ được về nó, bởi vì khoảnh
khắc bạn nghĩ về bất kì cái gì nó đã là quá khứ rồi, hay, nó chưa là hiện tại.
Suy nghĩ cần thời gian. Do đó mới có kinh này, rằng chỉ qua thiền người ta mới
đi tới tâm trí nguyên thuỷ.
Thiền không phải là suy nghĩ,
nó là vứt bỏ suy nghĩ.
Tôi đã nghe: Một ông già lang
thang sống nhờ của bố thí và ông ta được hỏi ông ta làm gì cả ngày. "Thế
này," ông ta nói, "đôi khi tôi ngồi và nghĩ ngợi, và lúc khác tôi chỉ
ngồi."
Cái 'chỉ ngồi' đó đích xác là
nghĩa của thiền. Ở Nhật Bản họ gọi thiền là zazen. 'Zazen' nghĩa là: chỉ ngồi
và không làm gì, chỉ hiện hữu và không làm gì; trong trạng thái của tâm lí dừng
lại. Và mây mở ra, và bạn có thể thấy không gian, bầu trời. Một khi bạn biết
cách đi vào không gian đó, nó bao giờ cũng sẵn có. Bạn có thể liên tục làm việc
bất kì khi nào bạn muốn, bạn có thể có việc chìm mình vào bên trong. Nó trở
thành dễ dàng thế, dường như bạn đi vào bên trong nhà và bên ngoài nhà. Một khi
bạn biết cánh cửa, không có vấn đề gì trong điều đó. Bạn thậm chí không nghĩ về
điều đó. Khi cảm thấy trời quá nóng, bạn đi vào bên trong nhà, vào chỗ mát mẻ
và chỗ trú ẩn. Khi cảm thấy quá lạnh và bạn đông cứng, bạn đi ra ngoài nhà vào
trong mặt trời nóng. Bạn trở thành linh động giữa cái bên trong và bên ngoài.
Tâm trí đang chắn con đường đi
vào cái bên trong. Bất kì khi nào bạn đi vào bên trong bản thân bạn, bạn thấy
đi thấy lại tầng tâm trí nào đó: mảnh mẩu ý nghĩ nào đó, ham muốn nào đó, lập kế
hoạch nào đó, mơ nào đó, cái gì đó của tương lai hay cái gì đó của quá khứ. Và
nhớ lấy, tương lai không là gì ngoài phóng chiếu của quá khứ. Tương lai lại là
đòi hỏi về quá khứ theo một cách hơi sửa đổi, tốt hơn chút ít. Trong quá khứ bạn
có hạnh phúc và bất hạnh, hoan lạc và đau đớn, gai và hoa. Tương lai của bạn
không là gì ngoài hoa, gai giảm đi, đau mất đi - chỉ còn hoan lạc và hoan lạc
và hoan lạc. Bạn cứ sắp xếp lại quá khứ của bạn, và bất kì cái gì bạn cảm thấy
tốt và đẹp, bạn phóng chiếu nó vào tương lai.
Một khi bạn biết cách thoát ra
khỏi quá khứ, tương lai tự động biến mất. Không có quá khứ bên trong, không thể
có tương lai nào cả. Quá khứ tạo ra tương lai. Quá khứ là mẹ của tương lai, bụng
mẹ. Khi không có quá khứ và không có tương lai, thế thì cái gì hiện hữu, là hiện
hữu. Cái gì hiện hữu, là hiện hữu! Thế thì đột nhiên, bạn ở trong vĩnh hằng.
Đây là điều tâm trí nguyên thuỷ
là gì: không mảy may lung linh ý nghĩ, không mây mù trong tầm nhìn, không bụi
quanh bạn. Chỉ không gian thuần khiết.
Tatra dhyanajam anasayam.
Chỉ tâm trí nguyên thuỷ mới tự
do khỏi ham muốn... bởi vì tâm trí nguyên thuỷ là tự do với quá khứ, tự do với
kinh nghiệm. Khi bạn tự do với kinh nghiệm, làm sao bạn có thể ham muốn được?
Ham muốn không thể tồn tại mà không có quá khứ. Nghĩ mà xem: nếu bạn không có
quá khứ nào, làm sao bạn có thể ham muốn được? Bạn sẽ ham muốn cái gì? Để ham
muốn bất kì cái gì, kinh nghiệm được tích luỹ là cần. Nếu bạn không thể ham muốn
được bạn sẽ ở trong chân không - trống rỗng cực kì đẹp.
Chỉ tâm trí nguyên thuỷ mới tự
do khỏi ham muốn, cho nên đừng tranh đấu với ham muốn. Tranh đấu đó sẽ không dẫn
bạn tới đâu cả vì để tranh đấu với ham muốn bạn sẽ phải tạo ra phản ham muốn.
Và chúng là ham muốn cũng như các ham muốn khác. Đừng tranh đấu với ham muốn,
nhìn vào sự kiện này. Tâm trí nguyên thuỷ không thể được tìm thấy qua tranh đấu
với ham muốn. Bạn có thể tìm ra một tâm trí tốt hơn, nhưng không phải là tâm
trí nguyên thuỷ. Bạn có thể có tâm trí của tội nhân, và nếu bạn tranh đấu với
nó, bạn có thể thu được tâm trí của thánh nhân, nhưng thánh nhân không là gì
ngoài tội nhân lộn ngược lại.
Tội nhân và thánh nhân không phải
là những người tách biệt, họ có thể lật đồng tiền theo cách này hay cách nọ. Tội
nhân có thể trở thành thánh nhân bất kì khoảnh khắc nào, và thánh nhân có thể
trở thành tội nhân vào bất kì khoảnh khắc nào. Và tội nhân bao giờ cũng mơ trở
thành thánh nhân, và thánh nhân bao giờ cũng sợ rơi trở lại vào trong bãi lầy của
tội lỗi. Họ là không tách rời, họ tồn tại cùng nhau. Thực ra, nếu mọi tội nhân
biến mất khỏi thế giới, sẽ không có khả năng nào cho thánh nhân. Họ không thể tồn
tại mà không có tội nhân.
Tôi đã nghe: một linh mục đi tới
nhà thờ. Trên đường, bên cạnh đường, ông ta thấy một người đã bị đâm bằng dao,
gần chết. Máy chảy đầm đìa. Ông ta chạy xô tới, nhưng khi ông ta tới gần và
nhìn khuôn mặt người này, ông ta giật lùi lại. Ông ta biết rõ khuôn mặt này.
Người này không phải là ai khác mà là đích thân quỉ. Ông ta có bức tranh trong
nhà thờ về quỉ. Nhưng quỉ nói, "Ông từ bi với tôi đi. Và ông nói về từ bi,
và ông nói về tình yêu đó! Và ông đã quên rồi sao? Nhiều lần ông đã thuyết giảng
trong nhà thờ của ông, ‘Yêu kẻ thù của ông.' Ta là kẻ thù của ông đấy, yêu ta
đi."
Ngay cả linh mục cũng không thể
phủ nhận được sự hợp thức của luận cứ này. Vâng, ai có nhiều kẻ thù hơn quỉ? Lần
đầu tiên ông ta trở nên nhận biết, nhưng dầu vậy ông ta không thể đem bản thân
mình ra để giúp quỉ sắp chết được. Ông ta nói, "Ông đúng, nhưng ta biết rằng
quỉ có thể trích dẫn kinh sách. Ông không thể lừa được ta. Điều tốt là ông sắp
chết. Điều đó rất tốt, thế giới sẽ tốt hơn nếu ông chết đi." Quỉ cười, cái
cười rất quỉ quái và nó nói, "Ông không biết đấy thôi, nếu tôi chết, ông sẽ
chẳng ở đâu được. Ông sẽ phải chết cùng tôi. Và bây giờ tôi không trích dẫn
kinh sách, tôi đang nói chuyện kinh doanh. Không có tôi ông sẽ ở đâu, và nhà thờ
của ông, và Thượng đế của ông?" Đột nhiên, linh mục hiểu ra. Ông ta cõng
quỉ trên vai và đi tới bệnh viện. Ông ta phải làm thế, bởi vì ngay cả Thượng đế
cũng không thể tồn tại được nếu không có quỉ.
Không có tội nhân, thánh nhân
không thể tồn tại được. Họ nuôi dưỡng lẫn nhau, họ bảo vệ lẫn nhau, họ phòng thủ
lẫn nhau. Họ không phải là hai điều tách rời, họ là hai cực của cùng một hiện
tượng.
Tâm trí nguyên thuỷ không phải
là tâm trí. Nó không là tâm trí của tội nhân không là tâm trí của thánh nhân.
Tâm trí nguyên thuỷ không có tâm trí trong nó. Nó không có định nghĩa, không
biên giới. Nó là thuần khiết tới mức bạn thậm chí không thể gọi nó là thuần khiết
được, bởi vì gọi bất kì cái gì là thuần khiết bạn phải đem khái niệm không thuần
khiết vào. Ngay cả điều đó sẽ làm nhiễm bẩn nó rồi. Nó thuần khiết, tuyệt đối
thuần khiết tới mức không ích gì mà nói rằng nó là thuần khiết.
Chỉ tâm trí nguyên thuỷ được
sinh ra từ thiền mới tự do khỏi ham muốn.
Bây giờ, tatra dhyanajam - 'được
sinh ra từ thiền' là việc dịch theo từng từ, nhưng cái gì đó bị mất trong nó.
Tiếng Phạn là tiếng rất thơ ca. Nó không chỉ là ngôn ngữ, nó không chỉ là văn
phạm, nó còn nhiều hơn thơ ca, thơ ca rất cô đọng. Nếu nó thực sự được dịch, nếu
nghĩa được dịch và không chỉ chữ, thế thì tôi sẽ dịch 'cái được tái sinh từ thiền';
không chỉ được sinh ra, bởi vì tâm trí nguyên thuỷ không được sinh ra. Nó đã có
đó rồi, chỉ được tái sinh, nó đã đấy rồi, chỉ được nhận ra; nó đã ở đó rồi, chỉ
khám phá lại thôi. Thượng đế bao giờ cũng là việc khám phá lại. Bản thể riêng của
bạn đã ở đó rồi. Không thể nhấn mạnh quá nhiều: nó đã đó rồi, bạn đòi lại nó.
Không cái gì mới được sinh ra, bởi vì tâm trí nguyên thuỷ là không mới, không
cũ, nó là vĩnh hằng, bao giờ và bao giờ và bao giờ cũng vậy.
Anasayam nghĩa là: không có động
cơ nào, không có hỗ trợ nào, không nguyên nhân nào, không nền tảng nào.
Tatra dhyanajam anasayam.
Tâm trí nguyên thuỷ tồn tại mà
không động cơ nào. Nó tồn tại không nguyên nhân nào. Nó tồn tại không hỗ trợ
nào: anasayam theo nghĩa của từ là không có hỗ trợ nào. Nó tồn tại không nền tảng
nào, vô nền tảng. Nó tồn tại trong bản thân nó, nó không có hỗ trợ từ bên
ngoài. Nó phải là vậy bởi vì điều tối thượng không thể có hỗ trợ nào - bởi vì
điều tối thượng nghĩa là cái toàn bộ - không cái gì ở bên ngoài nó. Bạn có thể
nghĩ rằng bạn đang ngồi trên đất, và thế rồi đất đang được hỗ trợ bởi lực từ
nào đó trong hệ thống hành tinh, và các hành tinh được hỗ trợ bởi lực từ nào đó
của siêu mặt trời nào đó. Nhưng cái toàn thể không thể có hỗ trợ nào, bởi vì hỗ
trợ sẽ tới từ đâu? Cái toàn thể không thể có nền nào cho nó được.
Bạn đi ra chợ, tất nhiên bạn có
động cơ: bạn đi để kiếm tiền. Bạn về nhà, bạn có động cơ nào đó: nghỉ ngơi. Bạn
ăn thức ăn bởi vì bạn đói, có nguyên nhân cho nó. Bạn đã tới tôi - có động cơ,
bạn đang tìm cái gì đó. Nó có thể mông lung, rõ ràng, đã biết, không biết,
nhưng động cơ có đó. Nhưng động cơ của cái toàn bộ có thể là gì? Nó là không động
cơ, nó là vô ham muốn - bởi vì động cơ sẽ đem tới cái gì đó từ bên ngoài. Đó là
lí do tại sao người Hindu gọi nó là leela, trò chơi. Trò chơi tới từ bên trong:
bạn chỉ đi dạo - không có động cơ, thậm chí không vì mạnh khoẻ. Người cuồng tín
sức khoẻ không bao giờ đi dạo cả, người đó không thể đi được bởi vì người đó
không thể tận hưởng chính việc đi dạo. Người đó tính toán, "Bao nhiêu dặm?"
Người đó tính toán, "Bao nhiêu hơi thở sâu?" Người đó tính toán,
"Đổ mồ hôi bao nhiêu?" Người đó tính toán. Người đó coi đi dạo buổi
sáng như công việc được làm, như bài tập luyện. Nó không phải chỉ là chơi.
Từ tiếng Anh 'illusion - ảo tưởng'
gần như bao giờ cũng được dùng như việc dịch cho từ phương Đông 'maya'. Bình
thường, từ 'illusion' nghĩa là không thực, nhưng đó không phải là nghĩa đúng của
nó. Nó bắt nguồn từ gốc Latin, ludere, có nghĩa là chơi. ‘Illusion' đơn giản có
nghĩa là chơi, và đó là nghĩa thực của maya. Maya không có nghĩa là illusory - ảo
tưởng; nó đơn giản nghĩa là chơi đùa: Thượng đế đang chơi với bản thân ngài. Tất
nhiên, Ngài không là ai cả ngoại trừ Bản thân ngài, cho nên Ngài đang chơi trò
trốn tìm với Bản thân ngài. Ngài giấu một trong những bàn tay ngài và cố gắng
tìm nó bằng tay kia, biết mọi lúc nó ở đâu.
Tâm trí nguyên thuỷ không có động
cơ, không có nguyên nhân. Tâm trí khác mà không nguyên thuỷ nhưng bị áp đặt, tất
nhiên là có động cơ, và bởi vì động cơ chúng ta trau dồi chúng. Nếu bạn muốn trở
thành bác sĩ bạn sẽ phải trau dồi tâm trí nào đó: bạn sẽ phải trở thành bác sĩ.
Nếu bạn muốn trở thành kĩ sư bạn sẽ phải trau dồi loại tâm trí khác. Nếu bạn muốn
trở thành nhà thơ, bạn không thể trau dồi tâm trí của nhà toán học được. Thế
thì bạn sẽ phải trau dồi tâm trí của nhà thơ. Cho nên dù động cơ của bạn là bất
kì cái gì, bạn tạo ra tâm trí nào đó.
Tôi đã nghe: Một bà được ngồi
trên xe bus với con trai. Bà ấy mua một vé. Người soát vé hướng tới đứa con,
"Cháu bao nhiêu tuổi rồi, bé con?" "Cháu bốn tuổi ạ," chú
bé trả lời. "Và khi nào thì cháu lên năm?" người soát vé hỏi.
Đứa bé liếc nhìn mẹ nó, người
đang mỉm cười chấp nhận cuộc đối thoại, và nói, "Khi cháu ra khỏi xe bus
này."
Nó đã được dạy nói cái gì đó
nhưng dầu vậy nó không thể hiểu được động cơ. Nó đã được dạy nói 'bốn tuổi' để
tiết kiệm một vé, nhưng nó không biết động cơ của điều đó cho nên nó lặp lại
như con vẹt.
Mọi đứa trẻ đều hoà điệu với
tâm trí nguyên thuỷ nhiều hơn là người lớn. Nhìn đứa trẻ, đang chơi, chạy
quanh: bạn sẽ không thấy động cơ nào đặc biệt. Chúng đang tận hưởng, và nếu bạn
hỏi để làm gì, chúng sẽ nhún vai. Gần như không thể nào trao đổi được với người
lớn. Trẻ con đơn giản cảm thấy điều đó là gần như không thể được; không tồn tại
cây cầu nào, bởi vì người lớn hỏi câu hỏi rất đần: "Để làm gì?" Người
lớn sống với tâm trí kinh tế nào đó. Bạn làm cái gì đó để kiếm cái gì đó. Trẻ
con chưa nhận biết được về động cơ thường xuyên này. Chúng không biết ngôn ngữ
của ham muốn, chúng biết ngôn ngữ của chơi đùa. Đó là nghĩa khi Jesus nói,
"Ông sẽ không có khả năng vào trong vương quốc của Thượng đế chừng nào ông
chưa giống như đứa trẻ nhỏ." Ông ấy đang nói rằng chừng nào bạn chưa trở
thành đứa trẻ lần nữa, chừng nào bạn chưa vứt bỏ động cơ và trở thành chơi
đùa... Nhớ lấy, làm việc chưa bao giờ dẫn bất kì ai tới Thượng đế. Và người
đang làm việc theo con đường của họ hướng tới Thượng đế sẽ cứ đi trong vòng
tròn ở bãi chợ, họ sẽ không bao giờ đạt tới Ngài. Ngài là chơi đùa, và bạn phải
có tính chơi đùa. Đột nhiên, có giao cảm, đột nhiên, có chiếc cầu.
Thiền một cách vui đùa đi, đừng
thiền một cách nghiêm chỉnh. Khi bạn đi vào trong phòng thiền, bỏ mặt dài của bạn
ở chỗ bạn bỏ giầy dép. Để thiền là vui đùa. 'Vui đùa' là từ rất tôn giáo,
'nghiêm chỉnh' là rất phi tôn giáo. Nếu bạn muốn đạt tới tâm trí nguyên thuỷ, bạn
sẽ phải sống cuộc sống rất phi nghiêm chỉnh, tuy thế chân thành, bạn sẽ phải biến
đổi công việc của bạn thành chơi đùa, bạn sẽ phải biến đổi mọi nghĩa vụ của bạn
thành tình yêu. 'Nghĩa vụ' là từ bẩn, tất nhiên, loại từ thô bỉ.
Tránh nghĩa vụ ra. Đem nhiều
tình yêu vào vận hành. Thay đổi công việc của bạn ngày càng trở thành năng lượng
mới mà bạn có thể tận hưởng, và để cuộc sống của bạn nhiều vui đùa hơn, nhiều
tiếng cười hơn, và ít ham muốn và động cơ. Bạn càng có động cơ, bạn càng sẽ
càng níu bám lấy tâm trí nào đó. Bạn phải vậy, bởi vì động cơ có thể được đáp ứng
chỉ bởi tâm trí nào đó. Và nếu bạn muốn bỏ mọi tâm trí - và mọi tâm trí là để bị
vứt bỏ - chỉ thế thì bạn mới đạt tới bản tính bên trong nhất của bạn, tính tự
phát của bạn. Nó là một ngôn ngữ khác, khác toàn bộ với ham muốn. Để tôi kể cho
bạn một giai thoại.
Có vụ kiện ra toà chống lại
Mulla Nasruddin. Sau khi nghe phần đầu của bằng chứng trong vụ kiện được đem ra
trước Toà án quận, quan toà chỉ đạo rằng phần còn lại của vụ kiện phải được
nghe 'ở chỗ riêng tư'. Mulla Nasruddin, bị đơn, phản đối căn cứ vào chỗ anh ta
không biết nghĩa của từ 'ở chỗ riêng tư', nhưng quan toà bác bỏ phản đối, nói,
"Tôi biết nó nghĩa là gì, hội đồng bào chữa biết nó nghĩa là gì, đương đơn
biết nó nghĩa là gì, và bồi thẩm đoàn biết nó nghĩa là gì, bây giờ giải tán
phiên toà."
Điều này đã được thực hiện, hội
đồng bào chữa yêu cầu Mulla Nasruddin, bị đơn, nói cho toà theo lời riêng của
anh ta về điều đã xảy ra trong đêm đang xét. "Thế này," Mulla
Nasruddin nói, "tôi đã đi cùng cô gái này về nhà dọc con đường quê và
chúng tôi quyết định đi lối tắt qua cánh đồng. Đi nửa đường, cô ấy dường như mệt,
thế là chúng tôi ngồi xuống nghỉ. Lúc đó là đêm mùa hè đẹp và tôi cảm thấy hơi
lãng mạn, cho nên tôi cho cô ấy cái hôn, và cô ấy cho tôi cái hôn, và tôi cho
cô ấy cái hôn, và cô ấy cho tôi cái hôn, và mười phút sau, làm việc chỗ riêng
tư."
Quan toà nói, "Làm việc chỗ
riêng tư? - điều đó nghĩa là cái quái gì vậy?"
"Này," Nasruddin đáp,
"hội đồng bào chữa biết nó nghĩa là gì, hội đồng công tố biết nó nghĩa là
gì, và bồi thẩm biết nó nghĩa là gì - và nếu ông đã ở đó với chỗ riêng tư của
ông, ông lại không biết nó nghĩa là gì!"
Ham muốn có ngôn ngữ riêng của
nó, động cơ có ngôn ngữ riêng của nó, và mọi ngôn ngữ đều là của ham muốn và động
cơ - các ham muốn khác nhau. Để tôi nói với bạn điều này: Ki tô giáo là ngôn ngữ
cho ham muốn nào đó. Nó không phải là tôn giáo. Hindu giáo là ngôn ngữ cho ham
muốn nào đó, nhưng nó không phải là tôn giáo, vân vân và vân vân.
Tâm trí nguyên thuỷ không có
ngôn ngữ. Bạn không thể đạt tới nó bằng việc là người Hindu, người Ki tô giáo,
người Mô ha mét giáo, người Jaina, Phật tử, không. Đây toàn là những ham muốn.
Qua chúng bạn muốn đạt tới cái gì đó. Chúng là tham của bạn được phóng chiếu
lên.
Tâm trí nguyên thuỷ được biết tới
khi bạn bỏ mọi việc ham muốn, mọi ngôn ngữ, mọi tâm trí. Và bạn đột nhiên không
biết bạn là ai. Người tôn giáo là người đã bỏ mọi sự đồng nhất của mình với mọi
hình mẫu suy nghĩ và đơn giản đứng đó trần trụi, một mình, được bao quanh bởi sự
tồn tại mà không mặc cái gì, không che đậy gì bằng ngôn ngữ và tâm trí - củ
hành, bị bóc hoàn toàn, trống rỗng đã tới trong tay.
Tatra dhyanajam anasayam.
Chỉ tâm trí nguyên thuỷ được
sinh ra từ thiền mới tự do khỏi ham muốn.
Vậy làm sao đạt tới tâm trí
nguyên thuỷ này? Bây giờ, một trong những vấn đề quan trọng nhất trong tôn giáo
phải được hiểu: tâm trí nguyên thuỷ là tự do khỏi ham muốn, và cách để đạt tới
nó là trở thành vô ham muốn. Vấn đề nảy sinh cho suy nghĩ trí tuệ: nguyên thuỷ
là gì? - liệu chúng ta phải bỏ ham muốn, và thế rồi chúng ta có thể đạt tới tâm
trí nguyên thuỷ không? Nhưng thế thì vấn đề nảy sinh rằng nếu chỉ ham muốn bị
loại bỏ khi tâm trí nguyên thuỷ được đạt tới, thế thì làm sao chúng ta có thể bỏ
ham muốn trước khi nó được đạt tới? Hay, nếu tâm trí nguyên thuỷ phải được đạt
tới, thế thì ham muốn tự chúng rơi rụng đi, hay theo cách riêng của chúng, như
một hậu quả của nó. Thế thì chúng ta phải đạt tới tâm trí nguyên thuỷ khi ham
muốn vẫn có đó, và tâm trí nguyên thuỷ không thể được đạt tới mà không có vứt bỏ
ham muốn, cho nên điều ngược đời nảy sinh. Nhưng điều ngược đời chỉ có bởi vì
trí tuệ của bạn phân chia. Thực ra, tâm trí nguyên thuỷ và vô ham muốn không phải
là hai thứ, nó chỉ là một hiện tượng được nói theo hai cách. Nó chỉ là một năng
lượng - gọi nó là vô ham muốn hay gọi nó là tâm trí nguyên thuỷ - nó không phải
là hai thứ. Nó xảy ra đồng thời, tôi biết mà.
Chừng nào tâm trí nguyên thuỷ
còn chưa được đạt tới bạn không thể trở thành vô ham muốn tuyệt đối được, nhưng
bạn có thể trở thành vô ham muốn chín mươi chín phẩy chín phần trăm, và đó là
cách thức. Bạn bắt đầu hiểu ham muốn của bạn. Qua hiểu biết, nhiều ham muốn
trong chúng biến mất vì chúng đơn giản là ngu xuẩn. Chúng đã không dẫn bạn tới
đâu cả ngoại trừ vào ngày càng nhiều thất vọng hơn. Chúng đã mở cánh cửa cho địa
ngục và không gì khác - nhiều phiền não hơn, nhiều lo âu hơn, nhiều đau đớn và
khổ sở. Nhìn vào chúng mà xem, chúng sẽ biến mất. Thứ nhất, ham muốn đã dẫn bạn
vào thất vọng sẽ biến mất, và thế rồi bạn sẽ đạt tới cảnh quan mãnh liệt hơn.
Thế rồi bạn sẽ thấy rằng các ham muốn mà bạn đã từng nghĩ cho tới giờ, các ham
muốn đã dẫn bạn vào hoan lạc, cũng không dẫn bạn vào hoan lạc - vì bất kì cái
gì dường như vui thú chung cuộc, cuối cùng, đều biến thành chua cay và đắng ngắt.
Cho nên hoan lạc dường như là
thủ đoạn của ham muốn: để bẫy bạn vào trong đau đớn. Đầu tiên đau đớn sẽ mất
đi, và thế rồi bạn sẽ có khả năng thấy rằng hoan lạc là ảo tưởng, không thật,
là mơ thôi. Chín mươi chín phẩy chín phần trăm các ham muốn sẽ biến mất qua hiểu
biết, và thế rồi điều chung cuộc xảy ra. Nó xảy ra đồng thời: một trăm phần
trăm các ham muốn biến mất, và tâm trí nguyên thuỷ nảy sinh trong một khoảnh khắc,
không như nguyên nhân và hậu quả, mà đồng thời, cùng nhau.
Tốt hơn cả là dùng thuật ngữ của
Carl Gustav Jung cho nó: tính đồng bộ. Chúng không có quan hệ là nhân quả.
Chúng xuất hiện cùng nhau đồng thời, và điều đó nữa cũng phải được nói theo
cách đó bởi vì tôi phải dùng ngôn ngữ. Bằng không thì chúng là một, hai mặt của
cùng một đồng tiền. Nếu bạn nhìn qua hiểu biết, thiền, bạn sẽ gọi nó là tâm trí
nguyên thuỷ. Nếu bạn nhìn qua ham muốn, đam mê của bạn, bạn sẽ gọi nó là vô ham
muốn. Khi bạn gọi nó là vô ham muốn nó đơn giản chỉ ra rằng bạn đã so sánh nó với
ham muốn, khi bạn gọi nó là tâm trí nguyên thuỷ, điều đó đơn giản chỉ ra rằng bạn
đã so sánh nó với tâm trí máy móc, nhưng bạn đang nói về một và cùng điều.
Dù bạn ở bất kì chỗ nào, bạn đều
ở trong tâm trí máy móc. Dù bạn là bất kì ai, bạn đều ở trong tâm trí máy móc,
bị cầm tù. Đừng cảm thấy tiếc cho bản thân bạn. Điều đó là tự nhiên. Mọi đứa trẻ
đều phải học cái gì đó, cái đó tạo ra tâm trí. Và mọi đứa trẻ đều phải học cách
sống sót trong thế giới này, điều đó tạo ra tâm trí. Đừng cảm thấy giận với bố
mẹ bạn hay với xã hội, điều đó sẽ không giúp ích gì đâu. Trong yêu họ đã giúp bạn,
điều đó là tự nhiên.
Bạn cần tâm trí để sống sót, và
mọi xã hội đều cố áp đặt cho mọi đứa trẻ bởi vì mọi đứa trẻ, khi được sinh ra,
đều hoang dã. Chúng phải được thuần hoá, chúng phải được lên khung. Chúng tới từ
vô khung. Sẽ khó cho chúng sống sót và sống trong thế giới mà nhiều đọ sức đang
diễn ra, nơi sống còn là vấn đề liên tục. Chúng phải trở nên hiệu quả theo cách
nào đó để bảo vệ bản thân chúng. Chúng phải được bọc sắt, được bảo vệ, được dán
xi chống lại các lực thù địch trên thế giới. Chúng phải đươc dạy cư xử như người
khác, chúng phải được dạy có tính bắt chước. Tâm trí máy móc được tạo ra qua bắt
chước. Tâm trí nguyên thuỷ được tạo ra bằng việc vứt bỏ bắt chước.
Tôi đã nghe: Ba con ma đang
chơi bài thì con ma thứ tư mở cửa bước vào. Gió từ bên ngoài thổi bay mọi con
bài trên sàn. Con ma mới là ma trẻ con - rất trẻ, rất mới với thế giới ma. Một
trong các con ma ngẩng lên và lầu bầu, "Mày không thể nhòm qua lỗ khoá như
mọi người khác được sao?"
Bây giờ ngay cả ma cũng phải được
đào tạo: "Không cần mở cửa ra, cứ tới mà nhòm qua lỗ khoá như mọi người
đang làm!"
Đó là cách bố mẹ cứ dạy bạn - bắt
chước - và những người là những kẻ bắt chước lớn lao được ca ngợi. Đứa trẻ
không bắt chước thì bị phạt. Đứa trẻ nổi dậy bị trừng phạt, và đứa trẻ vâng lời
được khen ngợi. Vâng lời được coi là có giá trị rất lớn, và nổi dậy là vô giá
trị lớn. Toàn thể xã hội cố làm cho bạn thành vâng lời, ép buộc bạn: qua thưởng,
qua phạt, sợ, khen, tôn cao bản ngã. Có cả nghìn lẻ một cách để ép buộc bạn chỉ
bắt chước người khác, bởi vì đó là cách duy nhất để cho bạn cái khung, để cho bạn
sự chật hẹp, để cho bạn kỉ luật được thuần hoá. Nhưng tất nhiên, điều này với
cái giá rất lớn. Nó phải xảy ra, nó đã xảy ra, và không có cách nào khác. Không
ai có thể tránh né được nó, và tôi không thấy là bao giờ có khả năng tránh được
nó một cách đầy đủ. Nhiều hay ít, nó sẽ có đó.
Mọi người hỏi tôi, nếu như tôi
phải dạy con, tôi sẽ dạy gì cho chúng? Nhưng bất kì cái gì bạn dạy cho chúng đều
sẽ cho chúng tâm trí. Bạn có thể dạy chúng nổi dậy, nhưng điều đó nữa sẽ cho
chúng tâm trí. Chúng sẽ bắt đầu bắt chước những người nổi dậy. Lần nữa chúng sẽ
bị đóng khung.
Krishnamurti có vài trường trên
khắp thế giới để dạy trẻ con để cho chúng không trở thành người bắt chước -
nhưng chúng vẫn trở thành những người bắt chước tất cả như nhau. Chúng bắt đầu
bắt chước Krishnamurti. Vấn đề rất tinh vi. Khi bạn dạy trẻ con không bắt chước,
chúng bắt đầu bắt chước bạn; chúng nói, "Không bắt chước!"
Bạn dạy chúng rằng bắt chước là
vô giá trị, và tất nhiên, bạn dùng cùng phương tiện. Nếu chúng bắt chước chúng
bị kết án, mọi người nhìn xuống chúng. Nếu chúng trở thành có tính nổi dậy,
chúng được ca ngợi. Nó là cùng cơ chế của thưởng và phạt, của sợ và tham. Chúng
trở thành người nổi dậy bắt chước, nhưng làm sao người nổi dậy có thể là người
bắt chước được?
Không có cách nào để tránh tâm
trí, nhưng có cách để thoát ra khỏi nó. Phải chấp nhận như cái dở cần thiết của
việc được sinh vào trong xã hội, của việc được sinh ra từ bố mẹ. Đó là cái dở cần
thiết cần được dung thứ. Tất nhiên, làm nó chùng lỏng nhất có thể được, có vậy
thôi. Làm cho nó thành linh động nhất có thể được, có vậy thôi. Một xã hội tốt
là xã hội cho bạn tâm trí, và vậy mà giữ cho bạn tỉnh táo rằng một ngày nào đó
tâm trí này phải bị bỏ đi - "Đây không phải là giá trị tối thượng, nó phải
đươc đi qua nhưng được đi ra bên ngoài nữa. Nó phải được siêu việt lên."
Tâm trí phải được trao cho, nhưng không cần cho sự đồng nhất với tâm trí. Nếu sự
đồng nhất vẫn còn được thảnh thơi chút ít, khi mọi người được trưởng thành lên
họ sẽ có khả năng đi ra khỏi nó dễ dàng hơn, ít đau đớn hơn, ít khổ cực hơn, ít
nỗ lực hơn.
Dù bạn giầu hay nghèo, dù bạn
da trắng hay da đen, dù bạn có giáo dục hay không có giáo dục, điều đó không tạo
ra khác biệt, chúng ta ở trong cùng con thuyền: con thuyền của tâm trí giả tạo.
Và đó là vấn đề. Cho nên bạn có thể trở thành giầu có từ việc là nghèo, hay bạn
có thể từ bỏ giầu có của bạn và có thể trở thành người ăn xin, thành khất sĩ Phật
tử, thành sư, nhưng điều đó sẽ không làm thay đổi bạn. Bạn sẽ vẫn còn trong
cùng con thuyền. Bạn sẽ đơn giản đổi vai. Bạn sẽ thay đổi nhân cách, nhưng bản
chất của bạn sẽ vẫn còn bị giới hạn.
Tôi đã nghe: Nhà triệu phú nhìn
thấy một người lang thang già cả đang vẩn vơ quanh khu vườn của ông ta và quát
lên với ông ấy, "Ra ngay khỏi đây chính lúc này!" Kẻ lang thang nói,
"Nhìn đây thưa ông, khác biệt duy nhất giữa ông và tôi là ở chỗ ông làm ra
triệu thứ hai của ông, trong khi tôi vẫn làm việc trên triệu thứ nhất của
tôi" - chả mấy khác biệt.
Người nghèo, người giầu, người
có giáo dục, người không giáo dục, người có văn hoá, người không văn hoá, người
văn minh, người nguyên thuỷ, người phương Tây, người phương Đông, người Ki tô
giáo, người Hindu: điều đó không tạo ra khác biệt gì. Khác biệt có thể là ở số
lượng nào đó, nhưng không về chất lượng. Tất cả chúng ta đều ở trong tâm trí,
và toàn thể tôn giáo là nỗ lực để đi ra ngoài nó.
Karmasuklakrsnam yoginas
tri-vidham itaresam.
Nghiệp của người yogi không thuần
khiết, không không thuần khiết, nhưng tất cả những người khác đều là gồm ba phần:
thuần khiết, không thuần khiết và trộn lẫn.
Đây là cái gì đó đã từng là rất,
rất khó để được hiểu ở phương Tây, bởi vì ở phương Tây chỉ hai phân loại tồn tại:
thuần khiết và không thuần khiết, thánh thiện và tội lỗi, thiêng liêng và báng
bổ, cõi trời và địa ngục, đen và trắng. Toàn thể phương Tây đi theo logic
Aristotle, và nó vẫn chưa đi tới nhận biết về cái gì đó siêu việt đi ra ngoài cả
hai và không là cả hai. Những lời kinh như thế này là rất khó để được tâm trí
phương Tây hiểu bởi vì tâm trí có cái khung nào đó. Cái khung nói, "Làm
sao mà nó là có thể được? - một người thì hoặc là tốt hoặc là xấu! Làm sao một
người có thể, một tâm trí có thể không là cái nào cả? - bạn sẽ hoặc tốt hoặc xấu
chứ." Lưỡng phân, nhị nguyên là rất rõ ràng trong tâm trí phương Tây. Nó
có tính phân tích.
Kinh này nói, "Nghiệp của
người yogi không thuần khiết, không không thuần khiết bởi vì chúng bắt nguồn từ
tâm trí nguyên thuỷ." Bây giờ, nhiều điều được ngụ ý ở đây.
Bạn thấy ai đó chết và ngay lập
tức, trong tâm trí Aristotle, vấn đề nảy sinh: nếu Thượng đế là tốt, sao lại có
cái chết; nếu Thượng đế là tốt, tại sao có nghèo; nếu Thượng đế là tốt, tại sao
có ung thư? Nếu Thượng đế là tốt, thế thì mọi thứ đều phải là tốt chứ. Bằng
không, hoài nghi nảy sinh. Thế thì Thượng đế không thể vậy được. Hay, nếu Ngài
hiện hữu, thế thì Ngài không thể tốt được. Và làm sao bạn có thể gọi Thượng đế
là 'Thượng đế' người thậm chí không tốt? Cho nên toàn thể thượng đế học của người
Ki tô giáo, trong hàng thế kỉ, đã từng làm việc về vấn đề này, làm sao giải
thích nó được? Nhưng điều đó là không thể được - bởi vì với tâm trí Aristotle
điều đó là không thể được. Bạn có thể né tránh nó, nhưng bạn không thể hoàn
toàn làm tan biến nó bởi vì nó nảy sinh ra từ chính cấu trúc của tâm trí đó.
Ở phương Đông chúng ta nói rằng
Thượng đế không tốt không xấu, cho nên bất kì cái gì xảy ra, thì xảy ra. Không
có giá trị đạo đức trong nó. Bạn không thể gọi nó là tốt hay xấu. Bạn gọi nó là
như vậy bởi vì bạn có tâm trí nào đó. Chính là trong tham chiếu tới tâm trí bạn
mà cái gì đó mới trở thành tốt và cái gì đó mới trở thành xấu.
Bây giờ xem... Adolf Hitler được
sinh ra, nếu người mẹ mà giết chết Adolf Hitler, điều đó sẽ là tốt hay xấu?
Bây giờ, chúng ta có thể thấy rằng
nếu người mẹ đã giết Adolf Hitler, điều đó chắc đã rất tốt cho thế giới. Hàng
triệu người đã bị giết, giết một người chắc đã là tốt hơn. Nhưng nếu người mẹ
mà giết chết Adolf Hitler cô ấy chắc đã bị trừng phạt vô cùng. Cô ấy có thể đã
đã bị án chung thân, hay cô ấy có thể đã bị bắn bởi chính phủ, bởi toà án, bởi
cảnh sát. Và không ai sẽ nói rằng chính phủ là sai, bởi vì đó là tội giết chết
đứa trẻ. Nhưng bạn có thấy hậu quả không? Thế thì Adolf Hitler đã giết hàng triệu
người. Ông ta đã gần như mang cả thế giới tới bờ của cái chết. Không ai đã từng
là thảm hoạ như thế trước đây. Mọi Genghis Khan và Tamerlanes trở thành nhạt
nhoà trước ông ta. Ông ta là kẻ giết hại lớn nhất đã từng có. Nhưng nói gì đây?
- liệu ông ta đã làm tốt hay không thì vẫn khó bởi vì cuộc sống chưa bao giờ đầy
đủ, và chừng nào nó chưa đầy đủ làm sao bạn có thể đánh giá được nó? Có thể bất
kì cái gì ông ta đã làm là tốt. Có thể ông ta đã dọn sạch trái đất hết mọi người
sai - ai biết được? Và ai có thể quyết định được điều đó? Có thể không có ông
ta thế giới đã tồi hơn nó vậy.
Bất kì cái gì chúng ta nói là tốt
cũng chỉ là tương ứng với tâm trí hạn hẹp nào đó. Bất kì cái gì chúng ta nói là
xấu cũng tương ứng với tâm trí hạn hẹp nào đó.
Có chuyện ngụ ngôn Đạo: Một người
có con ngựa rất đẹp, quí tới mức ngay cả hoàng đế cũng thèm muốn và ghen tị.
Nhiều lần đề nghị đã gửi tới ông ấy, mọi người sẵn sàng trả bất kì số tiền nào
mà ông ấy mong đợi hay yêu cầu. Nhưng ông già toàn cười. Ông ấy nói, "Ta
yêu con ngựa này và làm sao ông có thể bán tình yêu của ông được? Cho nên cám
ơn về đề nghị của ông, nhưng ta không thể bán nó được."
Thế rồi một hôm, vào ban đêm
con ngựa bị đánh cắp, hay cái gì đó đã xảy ra. Con ngựa không còn được thấy
trong chuồng ngựa vào sáng hôm sau. Cả thị trấn tụ tập lại và họ nói, "Bây
giờ trông đấy, ông già đần ơi! - con ngựa mất rồi. Và ông đáng ra có thể đã trở
thành rất giầu. Một thảm hoạ như thế chưa bao giờ xảy ra trong thị trấn này. Và
ông lại là người nghèo và già cả rồi. Ông đáng phải bán nó đi, ông đã làm
sai."
Ông già cười. Ông ấy nói,
"Đừng đi vào đánh giá, và đừng nói gì về tốt hay xấu, và đừng nói về thảm
hoạ hay phúc lành. Ta chỉ biết một điều này: rằng đêm qua con ngựa có trong chuồng
ngựa, sáng nay nó không có đó, có vậy thôi. Nhưng ta không nói gì về điều đó cả.
Cứ còn lại với sự kiện này đi: con ngựa không có trong chuồng ngựa - được kết
thúc. Sao đem bất kì tâm trí nào vào cho nó? - liệu điều đó là tốt hay xấu, liệu
nó có không đáng xảy ra không, liệu nó là thảm hoạ không, quên mọi chuyện về nó
đi."
Mọi người choáng. Họ cảm thấy bị
xúc phạm rằng họ đã tới để bầy tỏ thông cảm của họ, và kẻ ngu này đang nói triết
lí! - "Vậy điều đó là tốt. Người này cần bị phạt, và Thượng đế bao giờ
cũng công bằng."
Nhưng sau mười lăm ngày, con ngựa
trở lại. Nó đã không bị đánh cắp, nó đã trốn vào rừng. Và có mười hai con ngựa
khác đi cùng nó - ngựa hoang, rất đẹp, rất khoẻ. Cả thị trấn tụ tập lại. Họ
nói, "Ông già này biết cái gì đó... Ông ấy đúng, đó không phải là thảm hoạ.
Chúng ta sai." Và họ nói, "Chúng tôi lấy làm tiếc. Chúng tôi đã không
hiểu toàn thể tình huống, nhưng đó là phúc lành lớn. Không chỉ ngựa của ông
quay về, mà mười hai con ngựa khác! Và chúng tôi chưa bao giờ thấy những con ngựa
khoẻ đẹp như thế. Ông sẽ thu được nhiều tiền."
Ông già lại nói, "Đừng bận
tâm về liệu đó là phúc lành hay tai hoạ. Ai mà biết được? Tương lai là không biết
được, và chúng ta không nên nói gì chừng nào chúng ta không biết tương lai. Các
ông lại phạm phải cùng sai lầm. Chỉ nói, ‘Con ngựa quay lại rồi, và quay lại
cùng với mười hai con ngựa khác,' có vậy thôi." Họ nói, "Bây giờ đừng
lừa chúng tôi. Chúng tôi biết ông đã thu được nhiều tiền."
Nhưng sau một tuần, con trai
duy nhất của ông già đang dạy ngựa, con ngựa hoang, cố gắng thuần hoá nó. Anh
ta ngã nhào từ con ngựa này. Khắp người anh ta bị chấn thương - nhiều gãy
xương. Anh ta là người hỗ trợ duy nhất của ông già, và mọi người nói, "Ông
già này biết, thực sự biết... bây giờ đây là thảm hoạ lớn. Việc tới của con ngựa
này đã là điều không may. Người hỗ trợ duy nhất trong tuổi già của ông ấy, con
ông ấy, gần chết. Anh ta đã từng hỗ trợ cho ông già này, bây giờ ông già sẽ phải
hầu hạ cho anh thanh niên vì anh ta sẽ còn nằm trên giường cả đời. Và anh ta lại
sắp cưới vợ. Bây giờ hôn nhân sẽ là không thể được!"
Và họ lần nữa tụ tập lại, và lần
nữa họ nói, và ông già nói, "Nói với các ông thế nào đây? Các ông cứ làm
đúng một điều lặp đi lặp lại. Chỉ nói ngần này thôi: rằng con trai tôi bị gẫy
nhiều xương, có vậy thôi. Sao đi vào tương lai? Sao các ông đi nhanh thế vào
tương lai? Và các ông đã thấy trong vài ngày này rằng lặp đi lặp lại các ông đã
sai, nhưng các ông cứ đi khỏi hiện tại và các ông bắt đầu đánh giá đi đánh giá
lại."
Và chuyện xảy ra là vài ngày
sau, nước này lâm vào chiến tranh với nước lân bang, và mọi thanh niên của thị
trấn này bị buộc phải đi lính. Chỉ con trai của ông già này được ở lại vì anh
ta bị gẫy xương. Họ lại tụ tập lại, nhưng trước khi họ tụ tập ông già nói,
"Yên tĩnh đi các ông! Khi nào các ông sẽ hiểu? - cuộc sống là phức tạp."
Đây là thái độ phương Đông, về bản chất.
Người yogi sống trong tâm trí
nguyên thuỷ, trong tính như vậy. Bất kì cái gì xảy ra, xảy ra, người đó không
bao giờ đánh giá nó. Và người đó không làm gì theo cách riêng của mình, người
đó trở thành chỉ là phương tiện của cái toàn thể. Cái toàn thể chảy qua người
đó. Người đó trở thành giống như cây trúc hổng, cây sáo. Người yogi mang cái tới
từ Thượng đế, từ cái toàn bộ. Đó là lí do tại sao Krishna nói với Arjuna trong
Bhagavadgita, "Đừng lo lắng, và đừng nghĩ dưới dạng bất kì cái gì anh làm
sẽ là bạo hành và anh sẽ giết nhiều người. Nếu Thượng đế có ý chí vậy, thì cứ để
nó là vậy đi. Nếu Ngài muốn giết, Ngài sẽ giết, dù là qua anh hay qua ai đó
khác. Thực ra," Krishna nói, "Ngài đã giết rồi. Anh chỉ là công cụ,
cho nên đừng trở nên quá bị đồng nhất với hành động của anh. Vẫn còn là nhân chứng
đi."
Nghiệp của người yogi không thuần
khiết, không không thuần khiết, nhưng tất cả những người khác đều là gồm ba phần:
thuần khiết, không thuần khiết và trộn lẫn.
Bất kì cái gì người thường làm
- với thường tôi ngụ ý người đã không đạt tới cốt lõi bên trong nhất của bản thể,
người sống với tâm trí của họ là người thường, người sống với các ý tưởng và ý
nghĩ và ý thức hệ và kinh sách, bất kì cái gì người đó làm - hoặc là hành động
của họ là thuần khiết, hoặc hành động của họ là không thuần khiết, hoặc hành động
của họ là trộn lẫn; nhưng hành động của họ không tự phát, không nguyên thuỷ. Họ
phản ứng, họ không hành động. Đáp ứng của họ là phản ứng. Nó không phải là việc
tuôn tràn của năng lượng. Họ không sẵn có cho khoảnh khắc này, ngay bây giờ.
Ai đó hỏi Lin Chi, một Thiền
sư, "Nếu ai đó tới và tấn công thầy, thầy sẽ làm gì?" Ông ấy nhún
vai. Ông ấy nói, "Cứ để người đó tới, và ta sẽ xem. Ta không thể được chuẩn
bị trước. Ta không biết. Ta có thể cười, hay ta có thể khóc, hay ta có thể nhảy
lên và giết người đó. Hay, ta có thể không bận tâm về điều đó chút nào. Nhưng
ta không biết. Để người đó tới đi. Khoảnh khắc sẽ quyết định, không phải ta.
Cái toàn thể sẽ quyết định, không phải ta. Làm sao ta có thể nói ta sẽ làm cái
gì?"
Người chứng ngộ không sống qua
tâm trí. Người đó không có khung bao quanh mình. Người đó là trống rỗng bao la.
Không ai biết cách Thượng đế sẽ hành động qua người đó trong khoảnh khắc đó.
Người đó sẽ không can thiệp - có vậy thôi - bởi vì không có ai để can thiệp.
Tâm trí can thiệp, người đó không còn là tâm trí. Người đó sẽ không cố làm cái
gì đó mà người đó nghĩ là tốt, và người đó sẽ không cố tránh cái gì đó mà người
đó nghĩ là xấu. Người đó sẽ không cố gắng cái gì. Người đó sẽ đơn giản ở trong
tay của điều thiêng liêng và để cho sự việc xảy ra. Người đó sẽ không can thiệp
về sau về điều bất kì cái gì đã xảy ra là tốt hay xấu. Không, người chứng ngộ
không bao giờ nhìn lại sau, không bao giờ đánh giá, không bao giờ nhìn lên trước,
không bao giờ lập kế hoạch. Dù bất kì cái gì vào khoảnh khắc đó... và người đó
cho phép khoảnh khắc đó quyết định. Trong khoảnh khắc đó, mọi thứ hợp tụ. Toàn
thể sự tồn tại tham gia, cho nên chẳng ai biết cả.
Lin Chi nói, "Nếu ai đó tấn
công ta, chẳng ai biết. Điều đó sẽ là tuỳ. Ai đó có thể là Phật Gautam, và nếu
người đó tấn công ta, ta sẽ cười. Ta có thể chạm chân người đó vì từ bi làm sao
mà người đó tấn công ta, Lin Chi đáng thương. Nhưng điều đó sẽ là tuỳ vào khoảnh
khắc đó, vào bao nhiều điều mà không thể dự đoán được."
Ngay đầu thế kỉ này, vào năm
1900, một nhà khoa học vĩ đại, Max Planck, đã đi tới một trong những khám phá
vĩ đại nhất đã từng có. Ông ấy đã đi tới cảm thấy và ông ấy đã đi tới khám phá
ra rằng sự tồn tại dường như là gián đoạn, rằng nó là không liên tục. Không phải
là như bạn đổ dầu từ bình này sang bình khác đâu. Thế thì dầu có sự liên tục,
nó rơi trong luồng liên tục. Max Planck nói, "Sự tồn tại là như thế: dường
như ông đang rót hạt đậu từ thùng này sang thùng khác - gián đoạn - từng hạt
rơi một cách tách biệt." Ông ấy nói, "Toàn thể cuộc sống là gián đoạn.
Những phần tử gián đoạn này ông ấy gọi là 'quanta - lượng tử'. Đó là Lí thuyết
lượng tử của ông ấy. 'Quanta - lượng tử' nghĩa là: mỗi thứ đều tách rời khỏi
các thứ khác, và gián đoạn, và giữa hai thứ có một không gian. Bây giờ, không
gian đó giữ mọi thứ bởi vì hai thứ không được kết nối, hai nguyên tử không được
kết nối giữa bản thân chúng. Không gian, cái trống rỗng đang giữ cả hai. Chúng
không được kết nối một cách trực tiếp, chúng được kết nối qua không gian. Dầu vậy,
không ai đã thử một lí thuyết song song về tâm trí, nhưng đích xác cùng điều đó
là hoàn cảnh.
Hai ý nghĩ không được kết nối với
nhau, và các ý nghĩ là gián đoạn. Ý nghĩ này, ý nghĩ khác, ý nghĩ khác, và giữa
các ý nghĩ này, có lỗ hổng, lỗ hổng rất nhỏ - đó là không gian bên trong của bạn.
Đó là điều tâm trí nguyên thuỷ là gì. Một đám mây bay qua, đám mây khác bay
qua, giữa hai đám mây là bầu trời. Một ý nghĩ qua, ý nghĩ khác qua, giữa hai ý
nghĩ này là tâm trí nguyên thuỷ. Nếu bạn nghĩ ý nghĩ của bạn là liên tục, thế
thì bạn nghĩ bản thân bạn là tâm trí.
Thực ra, không có gì giống như
tâm trí - chỉ có các ý nghĩ, các ý nghĩ gián đoạn vẩn vơ bên trong bạn, di chuyển
nhanh tới mức bạn không thể thấy được lỗ hổng. Những ý nghĩ này được giữ lại bởi
không gian bên trong của bạn. Nguyên tử được hỗ trợ bởi không gian bên ngoài, ý
nghĩ được hỗ trợ bởi không gian bên trong. Nếu bạn quan tâm tới vật chất, bạn
trở thành người duy vật; nếu bạn quan tâm tới ý nghĩ của bạn, bạn trở thành người
duy tâm. Nhưng tâm trí và vật chất, cả hai đều là giả. Chúng là các quá trình,
gián đoạn. Và tôi muốn nói với bạn rằng đây là sự tổng hợp tối thượng của yoga:
rằng không gian bên trong và không gian bên ngoài không phải là hai. Tâm trí
nguyên thuỷ của bạn và tâm trí nguyên thuỷ của Thượng đế không phải là hai. Tâm
trí giả tạo của bạn là khác với Thượng đế, nhưng tâm trí nguyên thuỷ của bạn
không là gì khác. Nó là cùng một.
Ham muốn nảy sinh từ nghiệp ba
phần này khi hoàn cảnh là thuận lợi cho việc hoàn thành của chúng.
Nếu bạn làm một nghiệp thuần
khiết, một hành động tốt, một hành động thánh thiện, thế thì ham muốn sẽ nảy
sinh, tất nhiên, để làm nhiều điều tốt hơn. Nếu bạn làm một hành động không thuần
khiết, ham muốn sẽ nảy sinh để làm nhiều hành động không thuần khiết, bởi vì bất
kì cái gì bạn làm đều tạo ra thói quen nào đó trong bạn để lặp lại nó. Mọi người
liên tục lặp lại. Bất kì cái gì bạn đã làm, bạn trở nên khéo léo trong việc làm
nó. Nếu bạn làm hành động trộn lẫn, tất nhiên ham muốn trộn lẫn nảy sinh trong
đó cả hai tốt và xấu đều trộn lẫn. Nhưng tất cả đều là tâm trí giả tạo. Cho dù
tâm trí của thánh nhân thì vẫn là tâm trí. Tôi đã nghe:
Abe Cohen, một doanh nhân lớn,
người Do Thái, bị kết tội giết người trước khi bị kết án tử hình. Giám đốc nhà
tù tới thăm ông ta vào buổi sáng ngày hành hình. "Ông Cohen," ông này
nói, "để treo cổ ông đất nước phải tốn 100 pound đấy." "Kinh
doanh kém thế," Abe nói. "Đưa tôi 95 pounds, và tôi sẽ tự bắn
tôi."
Doanh nhân là doanh nhân. Ông
ta liên tục nghĩ dưới dạng kinh doanh, dưới dạng tiền. Ông ta đã trở nên khéo
léo về điều đó. Cứ xem bất kì cái gì bạn đang từng làm - bạn có xu hướng lặp lại
nó, vô nhận biết, vô ý thức. Bạn liên tục lặp lại cùng điều lặp đi lặp lại mãi,
và tất nhiên, bạn càng lặp lại nhiều, bạn càng bị mắc vào thói quen. Một thời
điểm tới khi cho dù bạn muốn bỏ thói quen, thói quen đã trở thành được bắt rễ
sâu tới mức bạn muốn bỏ nó, nhưng nó không muốn bỏ bạn.
Tôi đã nghe, chuyện xảy ra: Một
thầy giáo nào đó, do nghèo khó, đã mặc mỗi bộ quần áo vải bông mỏng trong mùa
đông. Một cơn bão đẩy một con gấu từ núi xuống theo dòng sông. Đầu nó ẩn trong
nước. Lũ trẻ, thấy lưng nó, kêu lên, "Thầy ơi, nhìn kia! Một chiếc áo
choàng lông đã rơi xuống nước, và thầy đang bị lạnh. Thầy ra lấy nó đi!"
Thầy giáo, với nhu cầu cực kì cần, nhảy xuống sông để vớt chiếc áo choàng lông.
Con gấu nhanh chóng tấn công thầy và bắt luôn thầy. "Thầy ơi," bọn trẻ
kêu lên từ trên bờ, "hoặc là lấy chiếc áo, hoặc bỏ nó nó và lên đi!"
"Thầy đang bỏ chiếc áo đấy," thầy giáo kêu lên, "nhưng chiếc áo
không bỏ thầy!"
Đó là vấn đề với thói quen: đầu
tiên bạn trau dồi chúng, thế rồi, dần dần, chúng trở thành gần như là bản tính
thứ hai của bạn. Thế rồi bạn muốn bỏ chúng, nhưng không dễ mà bỏ được chúng. Phải
làm gì? Bạn sẽ phải trở nên nhận biết nhiều hơn.
Thói quen không thể bị loại bỏ.
Chỉ có hai cách để bỏ chúng: một là thay đổi thói quen này thành thói quen thay
thế - nhưng đó chỉ là thay vấn đề này bằng vấn đề khác, nó sẽ không giúp gì mấy;
cách kia là trở nên nhận biết nhiều hơn. Bất kì khi nào bạn lặp lại một thói
quen, trở nên nhận biết. Ngay cả nếu bạn phải lặp lại nó, lặp lại nó đi, nhưng
lặp lại với việc chứng kiến, tỉnh táo, nhận biết. Nhận biết đó sẽ làm cho bạn
tách rời khỏi thói quen này, và năng lượng mà bạn cứ trao cho thói quen này một
cách không có ý thức, sẽ không được trao thêm nữa. Dần dần, thói quen này sẽ co
lại; nước sẽ không chảy qua nó, kênh sẽ bị chặn lại. Dần dần, nó sẽ biến mất.
Đừng bao giờ đổi thói quen này
thành thói quen khác, bởi vì mọi thói quen đều xấu. Ngay cả thói quen tốt cũng
là xấu, bởi vì chúng là thói quen. Đừng cố thay đổi thói quen không thuần khiết
thành thói quen thuần khiết. Điều tốt cho xã hội là bạn đổi thói quen xấu của bạn
thành thói quen tốt. Thay vì đi tới quán rượu mọi ngày, nếu bạn đi tới nhà thờ
hay tới đền chùa mọi ngày, điều đó là tốt cho xã hội. Nhưng khi có liên quan tới
bạn, nó sẽ không giúp ích gì mấy. Bạn phải đi ra ngoài thói quen. Thế thì nó là
có ích.
Xã hội muốn bạn trở thành đạo đức,
bởi vì bằng việc là vô đạo đức bạn tạo ra rắc rối - xã hội không được kết thúc.
Một khi bạn trở thành đạo đức, xã hội được kết thúc. Bây giờ bị bận tâm với bạn
không phải là việc của xã hội. Nếu bạn là vô đạo đức, xã hội không bị kết thúc
với bạn, cái gì đó phải được làm về bạn. Một khi bạn là đạo đức, xã hội được kết
thúc. Xã hội đeo vòng hoa cho bạn và chào mừng bạn và nói, "Bạn là người rất
tốt" - được kết thúc. Xã hội không còn trong rắc rối với bạn, nhưng bản
thân bạn vẫn còn mong ước đi, cuộc hành trình chưa hoàn thành. Thói quen xấu là
ngược lại bản tính nguyên thuỷ của bạn.
Một con bọ chét xô vào trong
quán rượu ngay trước giờ đóng cửa, gọi năm chai đúp rượu Scot, uống thẳng một mạch,
xô ra phố, nhảy lên cao trong không trung và ngã sóng xoài đập mặt. Nó tự nâng
nó dậy, nhìn một cách chập chờn xung quanh và lầm bầm, "Chết tiệt! Ai đó
đã chuyển con chó của mình đi mất rồi."
Trong nhiều kiếp bạn đã từng
say sưa và say từ vô thức. Mọi người đều là người nghiện rượu, và tất nhiên bạn
cứ ngã đi ngã lại mãi.
Vấn đề sâu sắc là: làm sao trở
nên nhận biết, làm sao không vô ý thức. Bắt đầu từ đâu? Đừng cố tranh đấu với thói
quen nào đó bắt rễ rất sâu. Bạn sẽ bị thất bại. Chiếc áo choàng lông sẽ không bỏ
bạn dễ dàng thế đâu. Bắt đầu với chính thói quen trung lập đi.
Chẳng hạn: bạn đi dạo, nhận biết
rằng bạn đi dạo. Nó là thứ trung lập. Không cái gì được đầu tư vào trong nó. Bạn
đang nhìn vào cây; chỉ nhìn cây và nhận biết. Không nhìn bằng mắt bị che mờ. Bỏ
mọi suy nghĩ. Dù chỉ trong vài khoảnh khắc, chỉ nhìn vào cây, và chỉ nhìn thôi.
Nhìn lên sao. Bơi, chỉ tỉnh táo với cảm giác bên trong điều xảy ra bên trong
thân thể bạn trong khi bạn bơi, cái bên trong. Cảm thấy nó. Bạn đang tắm nắng mặt
trời; cảm thấy cách bạn bắt đầu cảm thấy bên trong: ấm áp, lắng đọng, nghỉ
ngơi. Trong khi rơi vào giấc ngủ, chỉ quan sát cách bạn đang cảm thấy bên
trong. Bên trong, bên ngoài - cố gắng nhận biết về cái mát mẻ của ga giường,
bóng tối trong phòng, im lặng bên ngoài, hay tiếng ồn bên ngoài. Đột nhiên, chó
sủa - những thứ trung lập; đem ý thức của bạn tới chúng trước. Và thế rồi, dần
dần, tiến lên.
Thế rồi, thử nhận biết về thói
quen tốt của bạn, bởi vì thói quen tốt không bắt rễ sâu như thói quen xấu. Thói
quen tốt cần nhiều hi sinh về phần bạn, cho nên rất ít người cố gắng trau dồi
thói quen tốt. Và ngay cả những người cố gắng trau dồi thói quen tốt, cũng cố gắng
với rất ít thói quen tốt; ở ngay bên dưới, nhiều thói quen xấu có đó.
Đầu tiên thử thói quen trung lập,
thế rồi thói quen tốt, thế rồi di chuyển dần tới thói quen xấu. Và chung cuộc,
nhớ rằng từng thói quen đều phải được làm có nhận biết. Một khi bạn đã trở nên
nhận biết về toàn thể hình mẫu thói quen, hình mẫu thói quen đó là tâm trí bạn.
Bất kì ngày nào việc dịch chuyển sẽ xảy ra. Đột nhiên, bạn sẽ ở trong vô trí.
Khi mọi thói quen của cuộc đời bạn đã trở thành nhận biết, bạn không làm chúng
một cách vô ý thức và bạn không hợp tác với chúng một cách vô ý thức, bất kì
ngày nào, khi điểm tình huống xảy đến - tại một trăm độ - đột nhiên, việc dịch
chuyển sẽ xảy ra. Bạn sẽ thấy bản thân bạn trong trống rỗng. Đó là tâm trí
nguyên thuỷ cái không thuần khiết, không không thuần khiết.
Ham muốn nảy sinh từ nghiệp ba
phần này khi hoàn cảnh là thuận lợi cho việc hoàn thành của chúng.
Bất kì cái gì bạn làm vẫn còn
giống như hạt mầm trong bạn. Và bất kì khi nào một hoàn cảnh nào đó nảy sinh mà
có thể giúp ích cho bạn, hạt mầm đâm chồi. Thỉnh thoảng chúng ta mang hạt mầm
trong nhiều kiếp. Hoàn cảnh đúng, mùa vụ đúng có thể không tới, nhưng bất kì
khi nào nó tới nó đều tạo ra những vấn đề rất phức tạp. Đột nhiên, bạn bắt gặp
một người trên đường và bạn cảm thấy rất, rất muốn đẩy ra, và bạn chưa bao giờ
biết tới người này. Bạn thậm chí đã không nghĩ về người đó, không nghe về người
đó; một người tuyệt đối xa lạ, và đột nhiên bạn cảm thấy bị đẩy ra, hay bạn cảm
thấy bị hút vào. Đột nhiên bạn cảm thấy dường như bạn đã gặp người đó trước
đây. Đột nhiên bạn cảm thấy dường như một thôi thúc sâu sắc của năng lượng yêu
đang nảy sinh trong bạn với người lạ này, dường như bạn bao giờ cũng đã từng ở
gần, bao giờ cũng gần gũi. Một hạt mầm đã được mang từ kiếp khác nào đó - một
hoàn cảnh nào đó - và hạt mầm đó bắt đầu mọc ra. Đột nhiên, bạn khổ chẳng vì lí
do nào cả. Và bạn nghĩ, "Sao mình khổ thế này? Sao thế?" Dường như
không có nguyên nhân trong thế giới thấy được. Bạn có thể đang mang hạt mầm cho
khổ này; chỉ khoảnh khắc đúng đã tới.
Julia đi tới bố cô ta với cái đầu
cúi gằm. "Bố ơi," cô ta nói, "bố biết ông Wolfe giầu có không?
Thế này, ông ấy đã phản bội con, và con sắp có con."
"Trời đất!" ông bố
nói. "Ông ta ở đâu? Bố sẽ giết nó! Cho bố địa chỉ của nó. Bố sẽ giết
nó!" Nhảy bổ tới nhà của người giầu này, ông ta dồn ông này vào góc tường
và lớn tiếng bảo ông này điều ông ta định làm. Nhưng ông Wolfe giầu có hoàn
toàn bình thản. "Đừng có kích động thế," ông này nói. "Tôi không
có chạy đâu, và tôi dự định làm điều đúng cho con gái ông. Nếu cô ấy có con
trai, cô ấy được $50,000; nếu nó là con gái, cô ấy được $35,000. Như thế sòng
phẳng chứ?"
Người bố dừng lại, trong khi vẻ
giận dữ trên mặt ông ta thay đổi. "Và nếu nó bị sẩy thay," ông ta cầu
xin, "ông sẽ cho nó cơ hội khác chứ? "
Đột nhiên, hoàn cảnh đã thay đổi.
Bây giờ hạt mầm của tham nhú ra. Ông ta đã tới để giết người, nhưng chỉ nhắc tới
tiền và ông ta đã quên hết mọi chuyện giết người; ông ta hỏi, "Ông sẽ cho
nó cơ hội khác chứ?"
Quan sát... quan sát bản thân bạn
liên tục, hoàn cảnh thay đổi và bạn ngay lập tức thay đổi. Cái gì đó trong bạn
bắt đầu nhú ra, cái gì đó bắt đầu đóng lại.
Con người của tâm trí nguyên
thuỷ vẫn còn như cũ. Bất kì điều gì xảy ra, người đó quan sát nó, nhưng không
có bất kì hạt mầm nào của ham muốn còn lại từ quá khứ. Người đó không hành động
qua quá khứ của mình, người đó đơn giản đáp ứng; đáp ứng của người đó bắt nguồn
từ cái không. Thỉnh thoảng bạn cũng hành động theo cách đó, nhưng rất hiếm khi.
Và bất kì khi nào bạn hành động theo cách đó, bạn cảm thấy hoàn thành và thoả
mãn và mãn nguyện vô cùng. Điều đó thỉnh thoảng xảy ra.
Ai đó sắp chết, chìm trong
sông, và bạn đơn giản nhảy xuống mà không có ý nghĩ nào. Bạn không nghĩ liệu có
cứu người này hay không, liệu người này là người Hindu hay người Mô ha mét
giáo, hay tội nhân hay thánh nhân, hay tại sao bạn phải lo nghĩ. Không, bạn
không nghĩ. Đột nhiên, điều đó xảy ra. Đột nhiên, tâm trí bạn bị đẩy đi mất và
tâm trí nguyên thuỷ của bạn hành động. Và khi bạn cứu người đó lên, bạn cảm thấy
mãn nguyện vô cùng, như bạn chưa bao giờ cảm thấy trước đây. Hài hoà nảy sinh
trong bạn. Bạn cảm thấy rất được hoàn thành. Bất kì khi nào cái gì đó từ cái
không của bạn xảy ra, bạn đều cảm thấy phúc lạc. Phúc lạc là chức năng của cái
không của bạn.
Vì kí ức và ấn tượng giữ lại
cùng hình dạng, mối quan hệ nhân quả tiếp tục, cho dù bị phân tách bởi đẳng cấp,
vị trí và thời gian.
Và điều đó tiếp diễn... cuộc đời
của bạn thay đổi: bạn chết đi trong thân thể này, bạn đi vào trong bụng mẹ
khác, nhưng dạng bên trong nhất bám lấy bạn. Bất kì điều gì bạn đã làm, ham muốn,
kinh nghiệm, tích luỹ, chiếc áo khoác lông thú đó bám lấy bạn, bạn mang nó đi
cùng bạn. Cái chết, cái chết thường, chỉ là cái chết của thân thể, tâm trí tiếp
tục. Cái chết thực, cái chết tối thượng chúng ta gọi là samadhi, không chỉ là
cái chết của thân thể, nó là cái chết của tâm trí như vậy. Thế thì không có
sinh thêm nữa, vì không có hạt mầm nào còn lại để quay lại, không ham muốn nào
để được hoàn thành. Không cái gì còn lại, người ta đơn giản biến mất như hương
thơm...
Và không có bắt đầu cho quá
trình này, vì ham muốn sống là vĩnh hằng.
Các triết gia liên tục hỏi,
"Khi nào thế giới này bắt đầu?" Yoga là chính điều mênh mông này: thế
giới chưa bao giờ bắt đầu. Ham muốn không có bắt đầu, bởi vì ham muốn sống là
vĩnh hằng. Nó bao giờ cũng có đó. Yoga không tin vào bất kì sáng tạo nào. Không
phải là Thượng đế đã tạo ra thế giới vào ngày nào đó, vào khoảnh khắc nào đó.
Không, ham muốn bao giờ cũng có đó. Không có bắt đầu cho ham muốn, nhưng có chấm
dứt cho nó. Điều này phải được hiểu. Nó rất logic, nhưng nếu bạn hiểu bạn sẽ có
khả năng cảm thấy vấn đề.
Ham muốn không có bắt đầu,
nhưng có kết thúc. Vô ham muốn có bắt đầu, nhưng không có kết thúc, và vòng
tròn là đầy đủ. Ham muốn không có bắt đầu nhưng có kết thúc. Nếu bạn trở nên nhận
biết, kết thúc tới, và bắt đầu vô ham muốn. Vô ham muốn có bắt đầu, nhưng thế rồi
không có kết thúc cho nó. "Thế giới không có bắt đầu"; chúng ta đã từng
nói ở phương Đông, "nó đã liên tục bao giờ cũng như bao giờ, nhưng nó có kết
thúc." Với vị phật, nó kết thúc. Thế thì nó không còn đó nữa. Hệt như mơ,
nó biến mất. Nhưng vô thế giới - niết bàn, kaivalya, moksha - cái đó có bắt đầu
nhưng không có kết thúc. Cho nên chúng ta chưa bao giờ hỏi khi nào thế giới bắt
đầu. Chúng ta đã không bận tâm về nó bởi vì nó chưa bao giờ bắt đầu.
Chúng ta đã không chú ý nhiều tới
ngày sinh của Krishna, Phật, Mahavira, nhưng chúng ta đã chú ý nhiều tới ngày họ
đạt tới chứng ngộ - bởi vì đó mới là bắt đầu thực của cái gì đó mà sẽ không bao
giờ kết thúc. Ngày chứng ngộ của Phật là rất có ý nghĩa, điều đó chúng ta đã
ghi nhớ, điều đó chúng ta đã tôn thờ lặp đi lặp lại mãi. Không ai biết khi nào
ông ấy đã được sinh ra, không ai đã bận tâm về điều đó. Thực ra, huyền thoại
nói rằng ông ấy đã được sinh ra và cùng ngày như ngày ông ấy chết, và ông ấy đã
trở nên chứng ngộ cũng vào cùng ngày. Cảm giác của tôi là, chúng ta đã quên mất
ngày sinh của ông ấy và ngày mất của ông ấy, chúng ta chỉ nhớ ngày chứng ngộ của
ông ấy. Nhưng chỉ điều đó là có ý nghĩa: rằng ngày sinh cũng là ngày chết, bởi vì
đó là điều có ý nghĩa duy nhất xảy ra trong cuộc sống - sự bắt đầu của cái vô tận.
Ham muốn không có bắt đầu, bao
giờ cũng ở đây, nhưng nó có thể kết thúc. Vô ham muốn có thể bắt đầu và sẽ
không bao giờ kết thúc. Và giữa ham muốn và vô ham muốn, vòng tròn được đầy đủ.
Nó là cùng năng lượng. Cái mà đã từng là ham muốn trở thành vô ham muốn. Nó là
cùng năng lượng. Và tất nhiên, vô ham muốn không bao giờ kết thúc. Người đã đạt
tới đã trở nên được giải thoát, không bao giờ quay lại, bởi vì tiến hoá không
thể đi lùi lại. Không có cách nào để đi lùi lại. Chúng ta đi ngày càng cao hơn,
cho tới khi điều tối thượng được đạt tới. Nhưng từ đó, không có điểm để ngã trở
lại.
Và không có bắt đầu cho quá
trình này, vì ham muốn sống là vĩnh hằng.
Cố gắng nhận biết về ham muốn của
bạn đi bởi vì đó đã từng là cuộc sống của bạn mãi tới giờ. Đừng bị mắc vào
trong nó. Cố hiểu nó. Đừng cố tranh đấu nữa, bởi vì đó lại là bị mắc vào trong
nó theo cách khác. Chỉ cố hiểu nó: cách nó nắm bắt bạn, cách nó đi vào trong bạn
và làm cho bạn tuyệt đối vô ý thức. Tôi đã nghe:
"Abe, tớ có phi vụ tuyệt vời
cho cậu đây. Tớ có thể kiếm được con voi với giá $200." "Nhưng Izzy
này, đừng có làm thằng ngốc. Tới sẽ làm gì với voi?"
"Cậu sẽ làm gì với voi á?
Bản thân cậu đừng có là kẻ ngốc ấy! Nghĩ về giá hời ấy. Cậu có thể kiếm đâu ra
con voi với giá $200, nói cho tớ nào?"
"Nhưng tớ có căn hộ hai
phòng thôi. Tớ sẽ nhét con voi vào đâu?"
"Vấn đề là gì với cậu thế?
Cậu không nhận ra món hời khi cậu nhìn thấy một món à? Thực ra, tớ thậm chí còn
có tin tốt hơn cho cậu đây. Nếu cậu muốn, tớ có thể kiếm cho cậu hai con voi với
giá $300."
"A, bây giờ cậu đang
nói."
Bây giờ người chỉ có căn hộ hai
phòng đã quên hoàn toàn.
Nhìn ham muốn đi. Nó cứ lừa bạn,
nó cứ dẫn bạn đi lạc lối. Nó cứ dẫn bạn đi vào ảo tưởng, vào mơ. Nhìn đấy.
Trước khi bạn lấy một bước,
nhìn xem, tỉnh táo. Và dần dần, bạn sẽ thấy ham muốn biến mất, và năng lượng đã
được đầu tư vào trong ham muốn được đưa ra. Hàng triệu ham muốn, và khi năng lượng
được đưa ra từ tất cả những ham muốn này bạn trở nên bột phát vô cùng của năng
lượng. Bạn bắt đầu soải cánh bay cao. Một cách tự nhiên, năng lượng cứ đọng
vũng bên trong. Mức năng lượng cứ lên ngày càng cao hơn, và một ngày nào đó, bạn
bắt đầu tuôn tràn từ sahasrar. Bạn trở thành hoa sen, hoa sen một nghìn cánh.
Xem tiếp Chương 4 - Quay về Mục lục Tập 10
0 Đánh giá