Chương 4. Quả bóng của bạn bị mất

Chương 4. Quả bóng của bạn bị mất

Price:

Read more

Yoga: Alpha và Omega (Tập 8)
Bài giảng về Kinh Yoga của Patanjali
Chương 4. Quả bóng của bạn bị mất

Câu hỏi 1
Liệu có thể có tâm thức về chứng ngộ, và được chứng ngộ không? Ý nghĩ về việc được chứng ngộ có thể tạo ra bản ngã trong người ta không? Xin thầy giải thích.
Điều thứ nhất cần được hiểu là: bản ngã là gì. Bản ngã không phải là bản chất gì mấy đâu. Thực ra nó là không có. Nó chỉ là ý tưởng, cái thay thế mà không có nó sẽ khó cho bạn sống. Bởi vì bạn không biết bạn là ai, bạn phải tạo ra một ý tưởng nào đó quanh bản thân bạn; bằng không bạn sẽ đơn giản phát điên. Bạn phải đặt ra chỉ báo nào đó để cho bạn có thể biết, "Vâng, đây là tôi."
Tôi đã nghe, có lần một người ngu tới một thành phố lớn. Người đó ở trong một nhà nghỉ. Có nhiều người ở đó; trước đây người đó chưa bao giờ ngủ với nhiều người thế. Người đó có chút ít lo và sợ. Nỗi sợ là ở chỗ khi người đó rơi vào giấc ngủ, đến sáng khi người đó thức dậy, làm sao người đó nhận ra được rằng người đó thực sự là bản thân mình. Nhiều người thế. Người đó bao giờ cũng ngủ trong phòng của mình, một mình, cho nên không có vấn đề gì bởi vì không có khả năng nào. Tất nhiên, người đó bao giờ cũng là bản thân người đó, nhưng ở đây với nhiều người ngủ quanh, cả đám đông, người đó có thể bị lạc. Khi bạn thức thì được, bạn có thể tiếp tục nhớ tới bản thân bạn, nhưng khi ngủ rồi bạn có thể lỡ; bạn có thể quên. Đến sáng bạn có thể bị hoang mang; bạn có thể bị lạc trong đám đông.
Thấy anh ta lo lắng thế và cứ ngồi mãi trên giường, ai đó hỏi, "Có chuyện gì với anh thế? Sao anh không đi ngủ?" Anh ta giải thích vấn đề của mình. Người này cười, bảo anh ta, "Điều này rất đơn giản. Nhìn vào góc kia, đứa trẻ nào đó đã bỏ lại quả bóng của nó. Đem nó lại và buộc nó vào chân anh để cho tới sáng anh sẽ hoàn toàn biết rằng đó là anh nếu quả bóng có đó."
Người ngu nói, "Phải rồi." Và anh ta phải đi ngủ, anh ta mệt thế, cho nên anh ta thắt quả bóng với cái dây vào chân mình và đi vào giấc ngủ.
Người này giở trò đùa. Trong đêm, khi người ngu đã ngáy, người này tháo quả bóng ra khỏi chân anh ta và buộc nó vào chân mình. Đến sáng, khi người ngu nhìn quanh, anh ta bắt đầu kêu khóc. Đám động tụ tập lại, và họ hỏi, "Có chuyện gì vậy?"
Anh ta nói, "Bây giờ tôi biết hoàn toàn rõ rằng anh ấy là tôi, nhưng tôi là ai?" Bây giờ đây mới là vấn đề.
Bản ngã có bởi vì bạn không biết bạn là ai. Cho nên cái tên, địa chỉ, khuôn mặt nào đó mà bạn đã thấy được phản xạ trong gương, trong ảnh chụp, trong album - tất cả những cái này đều giúp đỡ. Chúng là bóng được buộc vào bạn.
Nếu đột nhiên một ngày nào đó bạn thấy rằng đây không phải là mặt bạn bao giờ cũng quen nhìn, bạn sẽ phát điên - quả bóng bị mất. Mặt thường xuyên thay đổi, nhưng thay đổi chậm tới mức bạn chưa bao giờ nhận ra điều đó. Cứ về nhà và nhìn vào album về thời thơ ấu của bạn mà xem. Bạn biết rằng đó là bạn, đó là lí do tại sao bạn không thấy mấy khác biệt, nhưng cứ cân nhắc về nó đi. Bạn đã thay đổi bao nhiêu rồi. Mặt đó không phải là bạn; bởi vì sâu bên dưới cái gì đó vẫ còn lại thường hằng trong bạn. Và tên của bạn có thể thay đổi, tôi làm điều đó mọi ngày. Tôi liên tục đổi tên của bạn chỉ để cho bạn cảm giác rằng cái tên chỉ là quả bóng được buộc vào bạn, nó có thể bị thay đổi, để cho bạn không bị đồng nhất với cái tên.
Bản ngã không là gì ngoài cái thay thế giả cho cái ta. Cho nên khi bạn biết bạn là ai, không có khả năng nào cho bản ngã nảy sinh lần nữa.
Bạn hỏi tôi, "Ý nghĩ về chứng ngộ có thể tạo ra bản ngã được không?" Ý nghĩ có thể tạo ra nếu nó chỉ là ý nghĩ. Thế thì thực ra điều không tốt là nói rằng nó tạo ra: bản ngã đã có đó rồi. Ý nghĩ đã được nghĩ bởi bản ngã. Nếu bản ngã mà biến mất và bạn đã thực sự trở nên chứng ngộ... Và đó là nghĩa của chứng ngộ: dịch chuyển từ bản ngã sang cái ta, dịch chuyển từ cái không thực sang cái thực, dịch chuyển từ tâm trí sang vô trí, dịch chuyển từ thân thể sang được hiện thân. Một khi bạn biết bạn là ai, tôi không thể thấy được rằng ai đó có thể thuyết phục được bạn buộc quả bóng vào chân bạn để nhớ bản thân bạn. Điều đó là không thể được.
Người chứng ngộ không thể có bản ngã được. Bất kì cái gì người đó nói... Khẳng định của họ có thể rất bản ngã với bạn. Krishna nói trong Gita với Arjuna, với đệ tử của ông ấy, "Bỏ mọi thứ và tới chân ta. Ta là chính Thượng đế người đã tạo ra thế giới này." Rất bản ngã. Bạn có thể tìm ra một người nào bản ngã hơn không? Nghe điều Jesus nói: "Cha ta ở trên cõi trời và ta, cả hai là một." Ông ấy đang nói, "Ta là Thượng đế." Rất bản ngã. Mansoor tuyên bố, "Ta là chân lí, chính chân lí, chân lí tối thượng" - "ana'l haq." Người Mô ha mét giáo bị chọc giận ghê lắm; họ giết ông ấy. Người Do Thái giết Jesus. Những khẳng định rất bản ngã sao? Upanishads nói, "Aham brahmasmi" - "Ta là cái toàn thể, cái toàn bộ."
Nhưng họ không bản ngã, bạn hiểu lầm họ. Bất kì điều gì họ nói cũng đều đúng.
Tôi đã nghe nói về một người rất lo lắng về phức cảm tự ti của mình, cho nên anh ta tới một nhà phân tâm trường phái Adler. Và anh ta nói với nhà phân tâm, "Tôi đang khổ nhiều lắm bởi phức cảm kém cỏi. Ông có thể giúp tôi được không?" Nhà phân tâm nhìn anh ta và nói, "Nhưng anh đã kém cỏi rồi. Vấn đề không phải là phức cảm kém cỏi. Anh đã kém cỏi rồi, cho nên tôi có thể làm gì được?"
Khi Krishna nói, "Ta là Thượng đế," ông ấy là vậy. Ông ấy không có tính bản ngã. Ông ấy có thể làm gì được? Nếu ông ấy nói, "Ta không là Thượng đế," điều đó sẽ không đúng. Nếu ông ấy cư xử lễ phép, như cái gọi là các mahatmas vẫn làm - rằng tôi chỉ là hạt bụi dưới chân ông - ông ấy sẽ là không đúng; ông ấy sẽ là giả. Ông ấy sẽ che giấu sự kiện. Khi Mansoor nói, "Ta là chân lí," ông ấy là vậy.
Nhưng vấn đề không phải là với Mansoor, Krishna, hay Jesus, vấn đề là với bạn. Bạn không thể hiểu được ngôn ngữ của không bản ngã. Bạn cứ diễn giải nó theo cách riêng của bạn. Để tôi kể cho bạn một giai thoại:
Một người bán tạp hoá có con vẹt đẹp luôn mang theo mình, để làm vui lòng khách hàng, và khi anh ta vắng mặt thì nó chăm nom cửa hàng.
Một hôm khi anh ta ra ngoài tắm gội và con vẹt đậu trên giá cao nhất trông nom cửa hàng, con mèo của người bán tạp hoá nhảy lên vồ chuột mà không cảnh báo gì. Con vẹt sợ tới mức nó bay qua cửa hàng và làm đổ lọ dầu hạnh.
Khi người bán tạp hoá trở về, anh ta thấy cảnh tượng này và nổi giận. Anh ta lấy gậy và đánh liên hồi vào đầu vẹt cho tới khi sọ con chim đáng thương trụi hết lông.
Con vẹt, hói đầu và chán nản, đậu trong góc giá. Trong nhiều ngày nó không mở mồm. Người bán tạp hoá, người bây giờ rất hối hận về hành động của mình, cố gắng làm đủ mọi cách với người bạn đồng hành bị đối xử sai của mình. Anh ta thậm chí còn tìm sự giúp đỡ của khách hàng. Nhưng tất cả đều vô ích, con vẹt không nói.
Một hôm, khi con vẹt đang đạy ở chỗ im lặng thường lệ của nó, một thầy tu đạo Hồi hói bước vào cửa hàng. Ngay lập tức con vẹt đậu xuống quầy và nói, "Vậy là ông cũng làm đổ bình dầu hạnh chứ gì!"
Nó hiểu rằng nó đã trở nên hói bởi vì nó làm đổ bình dầu hạnh. Bây giờ thầy tu Hồi giáo tới, người cũng hói đầu; ngay lập tức có diễn giải. Chúng ta hiểu ngôn ngữ mà chúng ta sống cho tới giờ.
Người chứng ngộ không có bản ngã - không có cả khiêm tốn. Khiêm tốn là bản ngã được đánh bóng. Khi bản ngã biến mất, khiêm tốn cũng biến mất.
Người chứng ngộ biết mình là ai, cho nên không có nhu cầu mang căn cước giả. Trước đây nó là được cần tới; bằng không bạn chắc đã bị lạc trong đám đông. Chắc đã không thể nào sống được mà không có nó. Bản ngã là cần khi bạn dốt nát, nhưng khi bạn trở nên chứng ngộ, nó đơn giản mất đi theo cách riêng của nó. Điều đó cũng giống như người mù dò dẫm bằng chiếc gậy khi người đó bước đi; người đó có thể hỏi, "Khi mắt người ta được chữa lành người ta có mang gậy dò nữa hay không?" Chúng ta sẽ nói gì? Chúng ta sẽ nói, "Khi mắt được chữa, gậy bị bỏ đi. Ai mang gậy? Tại sao? Và tại sao người ta phải dò dẫm khi mắt có đó?" Gậy và việc dò dẫm là cái thay thế - cái thay thế rất nghèo nàn vào đó - nhưng nó được cần tới khi người ta mù.
Bây giờ câu hỏi này phải được hiểu: "Liệu có thể có tâm thức về chứng ngộ và được chứng ngộ không? Ý nghĩ về được chứng ngộ có tạo ra bản ngã trong người ta không?" Nếu bản ngã có đó, không có nhu cầu tạo ra nó - nó đã có đó rồi và ý nghĩ về chứng ngộ được nó tạo ra. Nếu bản ngã đã mất đi và thực sự nhận biết, tâm thức, cái ta đã nảy sinh từ bóng tối - mặt trời mọc đã xảy ra - thế thì không cái gì có thể tạo ra ý tưởng về bản ngã - không cái gì dù là bất kì cái gì. Bạn có thể tuyên bố bạn là Thượng đế; ngay cả điều đó sẽ không tạo ra hình mẫu cũ của bản ngã - không cái gì có thể tạo ra nó.
"Liệu có thể có tâm thức về chứng ngộ...?" Chứng ngộ là tâm thức. Lần nữa bạn dùng ngôn ngữ của bạn. Tôi có thể hiểu được nó, nhưng nó là sai. Bạn không thể có ý thức về tâm thức được; bằng không bạn sẽ trở thành nạn nhân của hồi qui vô tận. Thế thì bạn sẽ có ý thức về tâm thức của bạn, và vân vân đến vô hạn. Thế thì sẽ không có tận cùng: một tâm thức, bạn sẽ ý thức về nó; tâm thức thứ hai, bạn sẽ ý thức về nó; tâm thức thứ ba... Và bạn có thể tiếp tục. Bây giờ, điều đó không được cần, một tâm thức là đủ rồi.
Cho nên khi người ta chứng ngộ người ta là ý thức, nhưng người ta không ý thức tới tâm thức. Người ta có ý thức đầy đủ, nhưng không có đối thể trong nó. Người ta đơn giản ý thức, dường như ánh sáng liên tục chiếu sáng cái trống rỗng quanh nó. Không có đối thể, không có gì mà ánh sáng có thể rơi lên. Nó là tâm thức thuần khiết. Đối thể đã biến mất; chủ thể của bạn đã nở hoa trong tính toàn bộ. Bây giờ không có đối thể - và do đó, không thể có được chủ thể. Đối thể và chủ thể cả hai đã biến mất. Bạn đơn giản là ý thức. Không ý thức về cái gì, chỉ là ý thức. Bạn là tâm thức.
Để tôi giải thích điều đó cho bạn từ một chiều khác nào đó mà có thể dễ hiểu hơn. Khi bạn yêu, nếu bạn đã bao giờ yêu, bạn không là người yêu: bạn trở thành tình yêu. Không phải là bạn làm cái gì đó. Bạn không phải là người làm, cho nên làm sao bạn có thể gọi bản thân mình là người yêu được? Cách diễn đạt đúng sẽ là "bạn là tình yêu."
Khi mọi người tới tôi và tôi thấy hứa hẹn lớn trong mắt họ, tôi không nói, "Bạn có nhiều hứa hẹn." Tôi nói, "Bạn là việc hứa." Và xem sự khác biệt. Khi ai đó nói với ai đó, "Bạn có nhiều hứa hẹn," nó không nhiều nhặn gì mấy. Nhưng, "Bạn là việc hứa" - nó có giá trị vô cùng trong nó. Khi bạn nói với ai đó, "Bạn có nhiều hứa hẹn," bạn ngụ ý rằng người này dường như có cái gì đó mà bạn muốn hay có thể được dùng cho tham vọng nào đó của bạn. Khi người bố nói với đứa con, "Con có nhiều hứa hẹn," anh ta ngụ ý, "Bố muốn trở nên rất giầu; bố không thể làm được điều đó. Con sẽ có khả năng làm điều đó - con là niềm hứa hẹn." Đó là tham vọng của người bố mà anh ta đang thấy anh ta có thể được hoàn thành qua đứa con.
Khi tôi nói với bạn, "Bạn là việc hứa," tôi không có tham vọng nào để hoàn thành qua bạn. Tôi đơn giản làm một phát biểu về bạn; nó chẳng liên quan gì tới tham vọng của tôi. Tôi được hoàn thành rồi. Tôi không ham muốn bất kì hoàn thành nào qua bất kì ai. Khi tôi nói, "Bạn là việc hứa," tôi đưa ra phát biểu về sự kiện về bạn. Nó đơn giản chỉ ra tiềm năng của bạn, khả năng của bạn.
Và nhìn đi. Nếu bạn là nhạc sĩ, và con bạn sẽ không là nhạc sĩ, không có xu hướng nào, không ham muốn, không tài năng; bạn sẽ không gọi nó là niềm hứa hẹn. Cùng đứa con đó có thể hứa với người bố, nhà toán học, nhưng nó không hứa với bạn. Nếu bạn theo đuổi tiền, và đứa con muốn từ bỏ thế giới, nó sẽ không hứa hẹn gì với bạn; nó sẽ chỉ là cái đối lập. Khi bạn gọi là đó là niềm hứa hẹn, bạn đặt quan hệ người đó với ham muốn của bạn.
Khi tôi nói, "Bạn là việc hứa," tôi ngụ ý bạn có tiềm năng vô cùng để trưởng thành, để nở hoa - dù bất kì chiều hướng nào, bất kì chiều hướng nào bạn chọn để đi.
Bất kì lúc nào bạn trong tình yêu, bạn sẽ không cảm thấy rằng bạn là người yêu. Bạn sẽ cảm thấy bạn là tình yêu. Đó là lí do tại sao Jesus nói, "Thượng đế là tình yêu." Ông ấy đáng phải nói, "Thượng đế là rất đáng yêu;" ngôn ngữ của ông ấy là không đúng. Bạn ngụ ý gì bởi "Thượng đế là tình yêu"? Ông ấy đang nói "Thượng đế" và "tình yêu" là đồng nghĩa. Thực ra ông ấy đang nói việc nói "Thượng đế là tình yêu" là sự lặp lại. Điều đó có thể được nói rằng ông ấy đang nói, "Tình yêu là tình yêu," hay "Thượng đế là Thượng đế." Tình yêu không phải là một thuộc tính của Thượng đế; tình yêu là chính sự hiện hữu của ngài. Ngài không yêu, ngài đơn giản là tình yêu.
Cùng điều đó xảy ra khi người ta trở nên chứng ngộ. Người đó không ý thức về chứng ngộ, người đó đơn giản ý thức. Người đó sống trong tâm thức, người đó ngủ trong tâm thức, người đó đi trong tâm thức. Người đó sống, người đó chết trong tâm thức. Tâm thức trở thành cội nguồn vĩnh hằng trong người đó, ngọn lửa không lập loè, trạng thái không chập chờn của bản thể. Nó không phải là thuộc tính, nó không phải là ngẫu nhiên, nó không thể bị lấy đi. Toàn thể bản thể của người đó là ý thức.
Câu hỏi 2
Tôi thường ở trong hai tâm trí - mặt trời và mặt trăng. Xin thầy bình luận.
Tâm trí thường ở trong hai tâm trí, đó là cách tâm trí vận hành. Bạn sẽ phải hiểu toàn thể cơ chế của tâm trí, cách nó vận hành.
Vận hành của tâm trí là phân chia. Nếu bạn không phân chia, tâm trí biến mất. Tâm trí cần phân chia. Tâm trí tạo ra những cái đối lập. Tâm trí nói, "Tôi thích bạn, tôi không thích bạn. Tôi yêu bạn, tôi ghét bạn." Tâm trí nói, "Cái này đẹp, cái kia xấu." Tâm trí nói, "Cái này phải được làm, cái kia phải bỏ." Tâm trí là chọn lựa. Do đó, nhấn mạnh của Krishnamurti là nếu bạn trở nên vô chọn lựa bạn sẽ trở thành vô trí. Trở thành vô chọn lựa nghĩa là vứt bỏ phân chia thế gian.
Nghĩ mà xem. Nếu con người biến mất khỏi trái đất, sẽ có cái gì đẹp không? Sẽ có cái gì xấu không? Sẽ có cái gì tốt không, cái gì tồi không? Mọi phân chia đơn giản sẽ bay hơi cùng nhân loại. Thế giới sẽ vẫn còn như cũ. Hoa sẽ nở, sao sẽ dời, mặt trời sẽ mọc - mọi thứ sẽ tiếp tục như cũ. Nhưng phân chia sẽ biến mất cùng con người; con người mang phân chia vào trong thế giới. "Con người" nghĩa là "tâm trí."
Đó là toàn thể nghĩa của câu chuyện Kinh Thánh. Thượng đế bảo Adam không được ăn quả của cây tri thức. Có lẽ chắc là tốt hơn nếu chúng ta có thể dịch "cây tri thức" là "cây tâm trí." Toàn thể câu chuyện này sẽ trở thành Thiền. Và đích xác đó là nghĩa. Cây tri thức là cây của tâm trí; bằng không tại sao Thượng đế muốn con mình dốt nát? Không, ngài muốn chúng sống mà không có tâm trí. Ngài muốn chúng sống không có phân chia, sống trong thống nhất, hợp nhất. Đó là nghĩa của câu chuyện Kinh Thánh. Nếu một Thiền sư định bình luận về nó, hay nếu tôi định bình luận về nó, tôi sẽ nói, "Tốt hơn cả là nói 'cây tâm trí.' " Thế thì toàn thể mọi sự trở nên rất rõ ràng.
Thượng đế muốn Adam sống không có tâm trí. Sống, nhưng không phân chia cuộc sống; thế thì cuộc sống có sự mãnh liệt vô cùng. Việc phân chia cũng phân chia bạn nữa. Bạn có bao giờ quan sát không? Bất kì khi nào bạn phân chia, cái gì đó co lại trong bạn, cái gì đó vỡ ra trong bạn. Khoảnh khắc bạn nói, "Tôi thích ai đó," tay được chìa ra hướng tới ai đó. Khoảnh khắc bạn nói, "Tôi không thích," tay co lại. Bạn không mở để sống trong tính toàn bộ của nó. Thượng đế muốn Adam vẫn còn toàn bộ.
Và câu chuyện Kinh Thánh nói chừng nào con người còn chưa vứt bỏ tri thức lần nữa, con người sẽ không được nhận trở lại trong vườn của Thượng đế. Jesus vứt bỏ tri thức. Đó là lí do tại sao Jesus có vẻ ngớ ngẩn, ngược đời. Điều Adam đã làm chống lại Thượng đế, Jesus đã chùi sạch, lau sạch nó ra khỏi tâm thức con người. Adam ra khỏi vườn, Jesus vào lại. Jesus đã vào lại thế nào? Vứt bỏ tâm trí, phân chia.
Tâm trí bao giờ cũng vận hành qua phân chia. Cứ thử không phân chia mà xem. Bạn nhìn đoá hoa: đừng nói nó đẹp. Không có nhu cầu. Nó đẹp mà chẳng có việc bạn nói vậy. Bạn không thêm cái đẹp nào cho nó bằng việc nói vậy. Cho nên vấn đề là gì?
Có một câu chuyện nhỏ về Lão Tử. Ông ấy thường hay đi dạo buổi sáng. Một người hàng xóm hay đi theo ông ấy, biết rõ rằng Lão Tử không muốn nói nhiều, ông ấy bao giờ cũng giữ bản thân mình im lặng. Nhưng có lần một người bạn tới ở cùng người hàng xóm này và anh ta cũng muốn đi, và anh ta đi cùng. Lão Tử và người hàng xóm của Lão Tử vẫn còn hoàn toàn im lặng. Người bạn có chút ít bối rối, nhưng người đó cũng giữ mình im lặng vì người hàng xóm đã bảo anh ta đừng nói gì. Thế rồi mặt trời mọc, và nó đẹp thế. Anh ta quên mất và anh ta nói, "Sáng đẹp thế." Chỉ ngần ấy thôi. Không ai bình luận gì về nó - cả người bạn lẫn Lão Tử.
Trở về nhà Lão Tử bảo người hàng xóm, "Thôi đừng đưa anh chàng này đi nữa nhé. Anh ta nói nhiều quá." Nói nhiều quá sao?
Ngay cả người hàng xóm cũng nói, "Anh ấy có nó gì đâu; anh ấy đơn giản nói, 'Sáng đẹp thế.' "
Lão Tử nói, "Tôi cũng có đó, cho nên phỏng có ích gì mà nói điều đó? Và nó là đẹp mà chẳng cần nói điều đó. Sao đem tâm trí vào? Không, người này nói quá nhiều; đừng mang anh ta đi nữa."
Anh ta đã phá huỷ toàn thể buổi sáng sao? Anh ta đã phân chia thế giới. Anh ta nói mặt trời mọc là đẹp. Bất kì khi nào bạn nói cái gì đó là đẹp, cái gì đó khác đã bị kết án, bởi vì đẹp không thể tồn tại được mà không có xấu. Khoảnh khắc bạn nói cái gì đó đẹp, bạn đã nói rằng cái gì đó khác là xấu. Khoảnh khắc bạn nói, "Anh yêu em," hay "Em yêu anh," bạn đã ngụ ý rằng bạn không yêu ai đó khác.
Nếu bạn sống mà không có phân chia... Chỉ quan sát đoá hoa. Để nó đó, dù nó là bất kì cái gì, bất kì cái gì nó là. Để nó ở trong thực tại của nó, đừng thốt ra cái gì. Chỉ nhìn nó. Không chỉ có việc bạn không thốt ra, đừng nói bên trong nữa. Đừng hình thành bất kì ý tưởng nào về nó. Để nó ở đó, và bạn sẽ đi tới có việc nhận ra lớn lao.
Khi buồn tới với bạn, đừng gọi nó là nỗi buồn. Tôi đã trao việc thiền này cho nhiều người, và họ trở nên ngạc nhiên. Tôi bảo họ, "Lần sau khi bạn cảm thấy buồn, đừng gọi nó là 'buồn.' Chỉ quan sát nó." Việc bạn gọi nó là nỗi buồn làm cho nó thành buồn. Chỉ quan sát nó thôi, dù nó là bất kì cái gì. Đừng đem tâm trí vào, đừng phân tích, đừng dán nhãn nó. Tâm trí là kẻ phân chia lớn thế, và liên tục dán nhãn lên mọi thứ, phân loại ra. Đừng phân loại. Để cho sự kiện tự khẳng định bản thân nó, để sự kiện ở đó, và bạn đơn giản là nhân chứng. Thế thì dần dần bạn sẽ nói, "Nhìn đấy, nỗi buồn không phải là nỗi buồn," và hạnh phúc không phải là hạnh phúc nhiều như bạn vẫn nghĩ.
Dần dần các biên giới hội nhập, gặp gỡ, và biến mất. Và thế thì bạn sẽ nói nó là một năng lượng - hạnh phúc, bất hạnh: cả hai là một. Diễn giải của bạn làm ra khác biệt; năng lượng là một. Cực lạc và đau khổ là một. Diễn giải của bạn làm cho chúng thành hai. Thế giới và Thượng đế là một. Diễn giải của bạn làm cho chúng thành hai.
Vứt bỏ diễn giải và nhìn vào cái thực. Cái không được diễn giải là cái thực; cái được diễn giải là ảo tưởng.
Câu hỏi là: "Tôi thường ở trong hai tâm trí..." Tâm trí bao giờ cũng ở trong hai tâm trí; đó là cách tâm trí vận hành, phát triển và sống.
Mặt trời và mặt trăng: điều đó cũng phải được hiểu. Bởi vì mọi đàn ông cũng là đàn bà và mọi đàn bà cũng là đàn ông.
Làm sao điều này là có thể: bạn có thể vẫn còn bị phân chia bên trong - đàn ông tách rời khỏi đàn bà, đàn bà bên trong tách rời khỏi đàn ông bên trong. Thế thì bao giờ cũng có xung đột, cuộc chiến gay go nào đó. Đây là trạng thái bình thường của nhân loại. Nếu người đàn ông và đàn bà bên trong của bạn có thể gặp gỡ, trong ôm choàng sâu sắc, hội nhập vào nhau; lần đầu tiên, bạn sẽ trở thành một - không đàn ông không đàn bà. Thế thì bạn sẽ siêu việt.
Để tôi kể cho bạn một câu chuyện, một trong những chuyện rất táo bạo và dũng cảm. Chuyện dũng cảm thế là có thể chỉ ở Ấn Độ thôi. Không phải là Ấn Độ ngày nay đâu, bởi vì Ấn Độ ngày nay đã trở thành rất hèn nhát.
Bạn phải đã thấy lingam, đại diện biểu tượng của Shiva như tượng dương vật. Có hàng triệu ngôi đền dành cho biểu tượng lingam của Shiva. Thực ra bạn sẽ không bao giờ tìm thấy tượng của ông ấy. Tượng của ông ấy đã hoàn toàn biến mất; chỉ mỗi biểu tượng là còn lại. Biểu tượng này không chỉ là về lingam; nó cũng là yoni bộ phận sinh dục nữ nữa. Nó là cả hai, đàn ông và đàn bà. Nó là đàn ông bên trong đàn bà, nó là mặt trời trong mặt trăng. Nó là nam gặp gỡ nữ. Nó là âm và dương trong ôm choàng dục sâu sắc. Đây là chỉ báo về cách đàn ông bên trong gặp gỡ với đàn bà bên trong, bởi vì bên trong không có mặt. Đó là lí do tại sao tượng của Shiva đã biến mất. Bên trong chỉ là năng lượng, cho nên lingam không có hình dạng; nó chỉ là năng lượng.
Nhưng chuyện này được kể... Đừng bị choáng bởi nó, bởi vì tâm trí phương Tây đã trở nên sợ quá nhiều về thực tại.
Câu chuyện là ở chỗ Shiva đang làm tình với Devi, vợ của ông ấy. Và tất nhiên khi một Shiva làm tình với vợ mình, nó không phải là tình yêu thường. Và ông ta không làm tình với cửa đóng; cửa vẫn mở. Có tình hình khẩn cấp nào đó trong thế giới các thần, và Brahma và Vishnu và toàn thể đám đông các thần đã tới hỏi giải pháp của Shiva về vấn đề khẩn cấp nào đó. Thế là họ vào phòng - chỗ riêng tư của Shiva trở thành bãi chợ - nhưng ông ta đang ở sâu trong tình yêu tới mức ông ta không nhận biết rằng đám đông đang quan sát. Mọi thần đều trở thành người xem. Họ không thể bỏ đi được, vì cái gì đó cực kì lớn đang xảy ra. Năng lượng cao thế; họ cảm thấy nó. Họ không thể bỏ đi được. Họ không thể quấy rối được, vì nó thiêng liêng thế.
Và Shiva cứ liên tục làm tình, cứ tiếp diễn tiếp diễn mãi. Các thần trở nên lo nghĩ, liệu ông ấy có định kết thúc nó không. Và họ đang có vấn đề mà giải pháp khẩn thiết đang được cần tới. Nhưng Shiva hoàn toàn bị mất hút.
Ông ấy không có đó, Devi không có đó - đàn ông và đàn bà đã hoàn toàn được hội nhập vào nhau. Sự thống nhất nào đó đã xảy ra, sự tổng hợp lớn, dàn nhạc lớn của các năng lượng.
Họ muốn ở lại, nhưng thế rồi họ sợ các thần khác. Đó là cách tâm trí của người khắt khe đạo đức vận hành. Họ rất quan tâm tới việc nhìn và xem, nhưng họ sợ bởi vì nếu người khác thấy họ nhìn và xem và tận hưởng điều đó, danh tiếng của họ lâm nguy. Cho nên tất cả họ đều nguyền rủa Shiva: "Từ hôm nay hình dạng của ông sẽ biến mất khỏi thế giới và ông bao giờ cũng sẽ được nhớ như biểu tượng dương vật ": lingam trong yoni, mặt trời trong mặt trăng, ngọc trong hoa sen. "Bây giờ ông bao giờ cũng sẽ được nhớ như cực thích dục." Đây là lời nguyền rủa.
Điều này bao giờ cũng xảy ra. Tôi có một người bạn rất chống lại sách báo khiêu dâm, và toàn thể thư viện của ông ấy đầy những sách báo khiêu dâm. Cho nên có lần tôi tới thăm ông ấy; tôi nói, "Đây là cái gì?" Ông ấy nói, "Tôi phải đọc mọi sách báo khiêu dâm chỉ để phê phán chúng. Tôi phải nhận biết về điều xảy ra trong sách báo khiêu dâm vì tôi chống lại nó nhiều thế." Ông ấy ăn bánh và giữ cả nó nữa.
Các thần khác nguyền rủa Shiva, nhưng với tôi lời nguyền đó phải đã chứng minh là một phúc lành, bởi vì biểu tượng này thực sự đẹp. Nó là biểu tượng dương vật duy nhất trong thế giới được tôn thờ như Thượng đế, không có kết án nào. Người Hindu đã hoàn toàn quên mất rằng nó là dương vật; họ không nghĩ rằng nó là dương vật. Họ đã chấp nhận nó một cách sâu sắc. Và biểu tượng này là đẹp vì đó không chỉ là Shiva ở đó, còn có cả yoni nữa. Âm cũng có đó. Lingam được đặt vào trong yoni; cả hai gặp gỡ. Nó là biểu tượng của gặp gỡ, của cực thích, của năng lượng trở thành một.
Cùng điều đó xảy ra bên trong, nhưng nó sẽ xảy ra chỉ khi bạn bỏ tâm trí. Yêu là có thể chỉ khi bạn bỏ tâm trí. Nhưng nếu bạn bỏ tâm trí, thế thì không chỉ yêu mà Thượng đế cũng thành có thể; bởi vì yêu là Thượng đế.
Nếu xung đột bên tron tồn tại trong bạn giữa mặt trời và mặt trăng, thế thì bạn bao giờ cũng sẽ quan tâm tới người đàn bà bên ngoài. Nếu bạn là đàn ông, bạn sẽ quan tâm tới người đàn bà bên ngoài; bạn sẽ bị quyến rũ bởi người đàn bà bên ngoài. Nếu bạn là đàn bà, bạn sẽ bị quyến rũ bởi người đàn ông bên ngoài. Một khi xung đột bên trong được giải quyết và năng lượng mặt trời của bạn chuyển vào trong năng lượng mặt trăng và không còn kẻ hở nào, chúng được bắc cầu; thế thì bạn sẽ không bị quyến rũ bởi người đàn bà bên ngoài hay người đàn ông bên ngoài. Lần đầu tiên bạn sẽ được hài lòng về dục.
Tôi không nói rằng bạn sẽ bỏ người đàn bà bên ngoài. Không có nhu cầu. Hay bạn sẽ bỏ người đàn ông bên ngoài - không có nhu cầu. Nhưng bây giờ toàn thể mối quan hệ sẽ là khác toàn bộ - rất hài hoà. Nó sẽ không phải là quan hệ của nhu cầu; thay vì thế, nó sẽ là quan hệ của chia sẻ. Ngay bây giờ khi đàn ông tiếp cận đàn bà đó là vấn đề về nhu cầu. Anh ta muốn dùng đàn bà như một phương tiện. Đàn bà muốn dùng đàn ông như một phương tiện. Đó là lí do tại sao mọi đàn bà và mọi đàn ông liên tục trong đấu tranh: về căn bản họ đang đấu tranh bên trong bản thân họ. Cùng cuộc đấu này được phản ánh ra bên ngoài.
Và khi bạn dùng người đàn bà, làm sao bạn có thể nghĩ người đàn bà có thể thấy thoải mái toàn bộ với bạn được, trong hài hoà? Cô ấy cảm thấy cô ấy bị thu lại thành phương tiện. Và không đàn ông hay đàn bà nào là phương tiện cả. Cô ấy cảm thấy cô ấy bị dùng như một vật, bị thu lại thành đồ vật. Linh hồn của cô ấy bị mất; đó là lí do tại sao cô ấy giận. Và cô ấy cố thu người đàn ông thành một vật. Cô ấy biến chồng thành anh chồng sợ vợ; cô ấy ép buộc anh ấy. Và điều này cứ diễn ra.
Điều này nhiều tính xung đột hơn là yêu - cuộc vật lộn. Giống chiến tranh hơn là yêu - giống hận thù hơn là giống yêu.
Một khi bạn trong hoà điệu với người đàn bà và người đàn ông bên trong của bạn, đột nhiên bạn trong hoà điệu với người khác nữa. Xung đột bên trong của bạn biến mất; xung đột bên ngoài của bạn biến mất. Bên ngoài chỉ là cái bóng của bên trong. Thế thì bạn có thể được quan hệ; hay bạn có thể không được quan hệ. Bạn là độc lập toàn bộ. Thế thì bất kì cái gì bạn chọn nó đều hiện hữu. Nếu bạn muốn được quan hệ, bạn có thể được quan hệ; nhưng sẽ không có xung đột. Nếu bạn không muốn được quan hệ, nếu bạn muốn một mình, bạn có thể ở một mình; và sẽ không có đơn độc. Đây là cái đẹp khi người ta đi tới sự thống nhất hữu cơ bên trong.
Đó là điều toàn thể nỗ lực của Patanjali là gì: cách biến đổi từ năng lượng mặt trời thành năng lượng mặt trăng. Và thế rồi, cách là nhân chứng cho cả hai, gặp gỡ, hội nhập, trở thành một. Cách siêu việt lên chúng.
Tâm trí sẽ không bao giờ cho phép bạn, trừ phi bạn bỏ tâm trí. Tâm trí bao giờ cũng bị phân chia vì đó là chính máu của nó, nó phụ thuộc vào việc phân chia. Cho nên bạn là đàn ông, bạn là đàn bà - đây là phân chia, đây là tâm trí. Vị phật là ai - đàn ông hay đàn bà? Chúng ta có cách biểu diễn biểu tượng của Shiva là Ardhanarishwar - nửa đàn ông/nửa đàn bà. Điều đó là hoàn hảo. Và điều đó phải là vậy bởi vì bạn được sinh ra từ một bố và một mẹ - một nửa của bạn tới từ bố bạn, một nửa của bạn tới từ mẹ bạn. Cho nên nhiều nhất khác biệt giữa đàn bà và đàn ông là khác biệt về nhấn mạnh; nó không khác biệt về chất lượng. Đàn bà là đàn bà có ý thức, đàn ông vô ý thức; đàn ông là đàn ông có ý thức, đàn bà vô ý thức. Đó là mọi khác biệt có vậy.
Rất khó, bởi vì tâm trí bạn đã bị ước định để là đàn ông hay để là đàn bà, và xã hội nhấn mạnh vào các vai trò quá nhiều. Nó không cho phép sự hiện hữu linh động; nó làm ra thể rắn từ bạn. Khi con trai và con gái có thể hiểu được, bố mẹ bắt đầu nhấn mạnh, "Con là con trai. Không chơi với búp bê; trò đó không tốt cho con trai. Con sẽ là người đàn ông. Cái này dành cho con gái." Đàn ông không được coi là con gái chút nào. "Ẻo lả, như con gái. Không làm điều đó; là đàn ông đi." Và cậu nhỏ, chẳng biết mình bị dẫn tới đâu, bắt đầu hội tụ vào việc là đàn ông ngày càng nhiều hơn. Nó đi xa khỏi sự thống nhất nguyên thuỷ của nó, sự thống nhất thuần khiết của bản thể của nó. Nó trở thành đàn ông, đó là một nửa của bản thể của nó. Và con gái trở thành đàn bà, đó là một nửa bản thể của cô ấy. Cô ấy được bảo không trèo cây; việc đó chỉ dành cho con trai. Vô nghĩa làm sao. Cây dành cho mọi người. "Đừng đi bơi trong sông; điều đó dành cho con trai." Sông dành cho mọi người.
Đó là cách nhân loại bị làm nghèo nàn đi. Hmm?... con gái được cho vai trò nào đó và con trai được cho vai trò nào đó. Tính toàn bộ của chúng bị mất đi hoàn toàn. Chúng trở thành cố định trong những cửa sổ của chúng, chúng không thể thấy được toàn thể bầu trời; khung cửa sổ trở thành quá nhiều.
Đàn ông là cái khung, đàn bà là cái khung - nó không phải là bản thể của bạn. Đừng bị quá đồng nhất với cái khung. Thoát ra khỏi nó đi.
Một khi bạn bắt đầu chùng lỏng, thảnh thơi, và một khi bạn bắt đầu hấp thu lại những thứ bị bác bỏ, phần bị phủ nhận, bạn sẽ trở nên giầu có thế bạn thậm chí không thể tưởng tượng, không thể mơ nổi. Thế thì bản thể của bạn sẽ là toàn thể.
Và đó là điều tôi ngụ ý khi tôi muốn bạn là linh thiêng. Tôi không ngụ ý trở thành tu sĩ Cơ đốc giáo hay trở thành sư Phật giáo hay sư Jaina. Mọi điều này đều ngu xuẩn. Tôi muốn bạn trở thành linh thiêng, linh thiêng theo nghĩa của việc là toàn thể. Trở thành toàn bộ đi. Giành lại bất kì cái gì đã từng bị phủ nhận bởi xã hội; đừng sợ trong việc đòi lại nó. Đừng sợ - nếu bạn là đàn ông, đừng sợ trong việc thỉnh thoảng là đàn bà.
Ai đó đã chết, bạn không thể khóc được vì bạn là đàn ông và nước mắt chỉ được ngụ ý cho đàn bà. Điều đẹp làm sao - nước mắt - bị phủ nhận cho đàn ông. Thế thì đàn ông trở nên ngày càng cứng rắn, bạo hành, lo âu. Và thế thì không có gì ngạc nhiên nếu Adolf Hitlers được sinh ra. Người mà nước mắt đã biến mất nhất định trở thành Adolf Hitler ngày này hay ngày khác. Người đó nhất định trở thành một Genghis Khan, người có nước mắt đã biến mất. Thế thì người đó sẽ trở thành không có khả năng cảm thấy sự thông cảm; thế thì người đó sẽ trở thành cứng rắn tới mức người đó sẽ không có khả năng cảm thấy điều người đó đang làm cho mọi người. Hitler giết hàng triệu người mà thậm chí không một day dứt nhỏ trong lương tâm ông ta. Ông ta thực sự là đàn ông; đàn bà đã hoàn toàn biến mất - từ bi, tình yêu, mọi thứ đã biến mất. Nước mắt đã biến mất.
Tôi muốn đàn ông cũng khóc như đàn bà. Nước mắt chảy ra, chúng sẽ làm mềm dịu trái tim bạn. Chúng sẽ làm cho bạn linh động và tuôn chảy hơn. Chúng sẽ làm tan chảy khung cửa sổ của bạn, và chúng sẽ cho phép bạn có bầu trời lớn hơn.
Đàn bà không được phép cười ha hả, như Gurudayal - không đàn bà nào được phép cười. Điều đó là ngược lại với duyên dáng nữ tính. Vô nghĩa làm sao. Nếu bạn không thể cười sâu sắc, bạn sẽ bỏ lỡ nhiều. Tiếng cười phải tới từ bụng. Tiếng cười phải khoái trá tới mức toàn thân rung lên cùng nó. Nó phải không nặng nề. Nhưng đàn bà mỉm cười; họ không cười phá lên. Tiếng cười khoái trá là không có dáng quí phái thế. Thế thì các quí bà sống trong cuộc sống rất háo hức. Dần dần họ trở nên ngày càng mờ mờ, ngày càng tựa giấc mơ, không thực, không đích thực.
Đừng trở thành quí bà và quí ông. Trở nên linh thiêng đi. Và cái toàn thể tích hợp tất cả và mọi thứ. Vì cái toàn thể tích hợp Thượng đế và Quỉ cả hai. Thế thì không có phân chia; thế thì tâm trí mất đi. Người linh thiêng không có tâm trí.
Nếu người linh thiêng vẫn là người Cơ đốc giáo, người đó không linh thiêng, bởi vì người đó có tâm trí Cơ đốc giáo. Nếu người linh thiêng vẫn là người Hindu, người đó là không linh thiêng, người đó có tâm trí Hindu.
Mới hôm nọ tôi đã đọc cuốn sách của Pagal Baba. Tên ông ấy nghĩa là "Bố Gàn" - và ông ấy phải là gàn dở. Và không chỉ gàn dở theo nghĩa của người Sufis, bởi vì họ gọi những người chứng ngộ là "điên," nhưng gàn dở là theo nghĩa của các nhà phân tâm. Ông ấy thần kinh. Ông ấy nói trong cuốn sách của ông ấy - tôi đơn giản ngạc nhiên bắt gặp nó, và ông ấy được coi là người linh thiêng - ông ấy nói trong cuốn sách này, "Nhiều người phương Tây bảo tôi họ muốn được cải đạo sang Hindu giáo, và tôi phải bảo họ rằng điều này là không thể được. Người Hindu được sinh ra, không ai có thể được cải đạo thành người Hindu." Người Hindu được sinh ra - bạn phải thu được nó trong nhiều kiếp. Nếu bạn làm nghiệp tốt trong nhiều kiếp, thế thì bạn được sinh ra là người Hindu. Bạn không thể được cải đạo - nó không rẻ thế như việc trở thành người Ki tô giáo.
Và người linh thiêng này Pagal Baba nói, "Tôi phải từ chối họ bởi vì trong nhiều kiếp họ sẽ phải kiếm lấy nó - thành người Hindu là chính cực đỉnh." Và ông ấy nói rằng cho dù bạn được sinh ra là người Hindu và nếu bạn không theo nghiệp tốt và liên tục trở thành ngày càng tôn giáo hơn và đức hạnh hơn, bạn sẽ rơi lại thành đẳng cấp thấp nhất của nhân loại - chẳng hạn, bạn có thể trở thành người Mĩ. Người này nói vậy. Và cái hay của nó là ở chỗ người đó đã tìm ra một nhà xuất bản Mĩ, Simon & Schuster, người đã xuất bản sách của ông ấy.
Đây không phải là người linh thiêng. Đây là chủ nghĩa sô vanh Hindu, những người ngu - thần kinh.
Nếu bạn có tâm trí, bạn không thể là linh thiêng được. Dù đức hạnh thế nào, tâm trí vẫn còn là không linh thiêng bởi vì tâm trí không thể là toàn thể. Nhớ điều đó.
Một tối Mulla Nasruddin nói với vợ, "Đem pho mát ra ăn đi, vì pho mát làm tăng ngon miệng và làm cho mắt sáng." "Chúng ta hết pho mát rồi," vợ nói. "Điều đó là tốt," Mulla đáp, "vì pho mát làm hỏng răng và lợi." "Vậy phát biểu nào của anh là đúng?" cô ấy hỏi. Mulla đáp, "Nếu có pho mát trong nhà, phát biểu thứ nhất là đúng; nếu không, phát biểu thứ hai là đúng."
Đây là cách tâm trí vận hành.
Bạn yêu người đàn bà nếu cô ấy trở thành sẵn có cho bạn; nếu không, bạn ghét. Nếu pho mát có trong nhà, phát biểu thứ nhất; nếu pho mát không có trong nhà, phát biểu thứ hai.
Vứt phân chia đi, vứt việc phân chia. Sống cuộc sống như một toàn thể. Điều đó sẽ là khó, tôi biết, bởi vì trong nhiều thế kỉ tâm trí đã bị ước định để phân chia. Thả lỏng nó ra, tháo nó ra, sẽ là khó, nhưng cũng đáng làm điều đó - bởi vì bạn đang bỏ lỡ nhiều thế.
Các nhà tâm lí nói rằng chín mươi tám phần trăm cuộc sống bị bỏ lỡ. Chín mươi tám phần trăm. Chỉ hai phần trăm là được sống bởi vì khung cửa số không cho phép nhiều hơn điều đó.
Phá cửa sổ ra, phá khung ra - đốt nó đi! Hindu giáo của bạn, Ki tô giáo của bạn, Jaina giáo của bạn - đốt chúng đi! Và thoát ra khỏi chúng. Nếu bạn có thể thoát ra khỏi mọi ý thức hệ của bạn, mọi thái độ, định kiến, bạn sẽ trở thành toàn thể.
Câu hỏi 3
Thầy thường nói rằng người chứng ngộ chưa bao giờ mơ. Nhưng thầy đã nói cho chúng tôi rằng có lần Trang Tử mơ rằng ông ấy đã trở thành bướm. Xin thầy bình luận.
Đây là từ Swami Yoga Chinmaya. Dường như anh ấy thậm chí không thể hiểu được chuyện hài hước. Và tôi biết tại sao anh ấy không thể hiểu được nó: anh ấy đã ở trong toán sai có quá nhiều người yogi và sadhu Ấn Độ - và anh ấy đã quên mất chính phẩm chất của hài hước. Và hài hước là phẩm chất cơ sở của việc là linh thiêng; người linh thiêng là người hài hước. Nhưng anh ấy bị cố định quá nhiều.
Khi tôi nói Trang Tử mơ, bản thân Trang Tử đã kể lại giấc mơ đó. Không phải là ông ấy mơ đâu. Ông ấy bịa ra chuyện đùa hay về bản thân ông ấy thôi - ông ấy đang cười về bản thân ông ấy. Rất dễ cười người khác, khó cười bản thân người ta. Nhưng ngày bạn trở nên có khả năng cười bản thân mình, bạn trở thành vô ngã. Bởi vì bản ngã tận hưởng việc cười với chi phí của người khác. Khi bạn bắt đầu cười bản thân mình, bản ngã không thể tồn tại được.
Vâng, không người chứng ngộ nào đã bao giờ mơ, nhưng người chứng ngộ có tính hài hước. Họ có thể cười, và họ có thể giúp cho người khác cười.
Chuyện xảy ra, ba người cùng du hành, họ đang đi tìm chân lí. Một người là người Do Thái, người kia là người Ki tô giáo, và người thứ ba là người Hồi giáo. Họ đều là những người bạn lớn.
Một hôm họ nhặt được một đồng tiền và nhờ nó họ mua được một miếng bánh halvah. Người Hồi giáo và người Ki tô giáo đã ăn rồi, cho nên họ có chút ít lo nghĩ bởi vì người Do Thái sẽ ăn cả cái bánh halvah mất; mà họ thì no rồi, họ đã tọng vào người họ quá nhiều rồi. Cho nên họ gợi ý - họ mưu đồ chống lại người Do Thái - họ gợi ý, "Chúng ta đi ngủ bây giờ đi. Đến sáng chúng ta sẽ kể lại các giấc mơ của chúng ta. Bất kì ai có giấc mơ hay nhất sẽ được ăn bánh halvah." Và bởi vì hai người đã ủng hộ điều đó, người Do Thái phải đồng ý thôi - chỉ để cho có tính dân chủ. Chẳng có gì khác để làm.
Người Do Thái, đang rất đói, không thể ngủ được mấy. Và rất khó ngủ khi bánh halvah có đó và bạn đang đói và hai người kia đã âm mưu chống lại bạn.
Nửa đêm anh ta dậy và chén sạch cái bánh halvah rồi leo lại lên giường.
Đến sáng người Ki tô giáo là người đầu tiên kể lại giấc mơ của mình. Ông ta nói, "Christ tới, và khi ngài giáng xuống từ cõi trời, ngài đem tôi đi cùng ngài. Đó là giấc mơ hiếm hoi nhất mà tôi đã từng thấy."
Người Hồi giáo nói, "Tôi mơ thấy Mohammed, ngài đưa tôi đi một tua quanh thiên đường... toàn gái đẹp nhảy múa, và những dòng suối rượu chảy, và cây vàng và hoa kim cương. Nó cực kì đẹp."
Bây giờ đến lượt người Do Thái. Ông ta nói, "Moses tới tôi và nói, 'Anh bạn ngốc già ơi, anh còn chờ đợi gì nữa? Christ đưa một trong các bạn anh lên cõi trời rồi, Mohammed đang giải trí với người kia trên thiên đường - ít nhất thức dậy và ăn cái bánh halvah đi!'"
Hài hước là một phần của tính linh thiêng, và bất kì chỗ nào bạn thấy người linh thiêng nghiêm chỉnh, trốn ngay khỏi chỗ đó, bởi vì người đó có thể là nguy hiểm. Người đó phải ốm yếu bên trong. Nghiêm chỉnh là một loại bệnh tật, một trong những bệnh tai hoạ nhất - và nó là bệnh rất kinh niên trong tôn giáo.
Cố hiểu đi. Đừng trở nên quá láu lỉnh, bởi vì điều đó đơn giản chứng tỏ là ngu xuẩn và không gì khác. Bao giờ cũng cho phép chút ít ngu xuẩn có trong bạn, thế thì bạn sẽ tinh khôn hơn. Người ngu chống lại người trí huệ, nhưng người trí huệ hấp thu cả tính ngu nữa. Người đó không chống lại nó, người đó dùng nó nữa.
Trang Tử là một trong những người ngớ ngẩn nhất, người đã từng ở đây trên trái đất này. Đó là lí do tại sao tôi đã đặt tên cho thính phòng này là "Thính phòng Tranh Tử." Tôi yêu người này; ông ấy ngớ ngẩn thế. Làm sao bạn có thể tránh không yêu người này được?
Phật sẽ không nói, "Ta mơ." Ông ấy có chút ít nghiêm chỉnh. Patanjali sẽ không nói - bởi vì ông ấy sẽ sợ Chinmaya.
Một swami nào đó nhất định nêu ra câu hỏi: "Thầy và đã mơ sao? Người chứng ngộ không bao giờ mơ. Thầy nói gì vậy?" Trang Tử không sợ bất kì ai; ông ấy nói, "Ta mơ đấy." Ông ấy là con người rất đáng yêu. Ông ấy là linh thiêng. Ông ấy có thể cười và giúp người khác cười; tính linh thiêng của ông ấy là đầy tiếng cười.
Câu hỏi 4
Phương pháp luận của Patanjali hay kĩ thuật của thầy là gì để trở thành cá nhân tự chủ? Trong kết nối này xin thầy giải thích làm sao một người tâm linh như thế sống đúng từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Làm sao trau dồi thói quen sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc trong cuộc sống thực tế, mọi ngày?
Toàn thể câu hỏi này phải là từ ai đó người đã không hiểu tôi chút nào. Dường như là từ ai đó tuyệt đối mới. Nhưng, dầu vậy, nhiều người là mới, và sẽ có ích để hiểu nó.
"Kĩ thuật của thầy là gì để trở thành cá nhân tự chủ?" Tôi không quan tâm tới việc làm cho bạn thành cá nhân tự chủ chút nào, bởi vì điều đó là không thể được. Bạn được liên nối thế với cái toàn thể, làm sao bạn có thể trở thành tự chủ được? Đó là nỗ lực của bản ngã, trở thành tự chủ. Trở thành tuyệt đối độc lập với tất cả: đó là trò bản ngã, trò bản ngã tối thượng.
Không, bạn không thể trở thành tự chủ được. Bạn có thể trở thành cái toàn thể làm chủ, nhưng không tự chủ. Bạn có thể chứa cái toàn thể và bạn có thể được chứa bởi cái toàn thể, nhưng bạn không thể trở thành tự chủ được. Làm sao bạn có thể phân chia bản thân bạn khỏi vũ trụ, tách rời ra? Bạn không thể tồn tại cho dù một khoảnh khắc.
Nếu bạn không thở, bạn sẽ không có khả năng giữ sống động. Và bạn không thể giữ được hơi thở vào của bạn; nó phải đi ra. Nó phải đi vào lần nữa. Nó là chuyển động thường hằng giữa bạn và cái toàn thể. Những người biết, họ nói đấy không phải là bạn thở đâu; ngược lại, cái toàn thể thở bạn đấy.
Thỉnh thoảng quan sát hơi thở của bạn một cách im lặng. Có thể một ngày nào đó, một khoảnh khắc nào đó đột nhiên sự chú ý của bạn sẽ dịch chuyển sang kinh nghiệm huyền bí mới. Đầu tiên khi bạn quan sát hơi thở của bạn - kurma-nadi của bạn, điều Phật gọi là anapanasati yoga - khi bạn quan sát hơi thở của bạn, bạn nghĩ bạn đang thở. Dần dần bạn sẽ thấy, bạn sẽ phải thấy bởi vì điều đó là chân lí: bạn không thở. Bạn không được cần tới để thở; đó là lí do tại sao trong giấc ngủ bạn vẫn liên tục thở. Ngay cả khi bạn trở nên vô thức, ngay cả khi bạn đang trong cơn mê, bạn vẫn liên tục thở. Bạn không thở, bằng không thỉnh thoảng bạn sẽ quên và bạn sẽ chết bất đắc kì tử. Bạn không bao giờ quên, bởi vì điều đó không được cần.
Việc thở tiếp diễn bởi chính nó, theo cách riêng của nó. Một ngày nào đó bạn sẽ thấy, "Tôi đang thở" là vô nghĩa, ngược lại, "việc thở đang thở tôi."
Và thế thì một ngày nào đó bạn sẽ có cuộc cách mạng khác, triệt để, quay sang tâm thức của bạn. Bạn thấy rằng bạn thở ra, bạn thở vào: một ngày nào đó bạn sẽ thấy việc thở ra của bạn là việc thở vào của Thượng đế, việc thở vào của bạn là việc thở ra của Thượng đế. Cái toàn thể thở ra: đó là khoảnh khắc mà bạn cảm thấy bạn đang thở vào. Cái toàn thể thở vào: đó là khoảnh khắc bạn cảm thấy bạn đang thở ra.
Bạn là ai? Và bạn đang hỏi điều vô nghĩa gì - làm sao trở thành tự chủ. Không có mặt trời bạn sẽ không hiện hữu. Nếu mặt trời biến mất, bạn sẽ biến mất; toàn thể cuộc sống sẽ biến mất. Chúng ta được liên nối. Toàn thể sự tồn tại là một, và mọi thứ được liên nối. Độc lập là không thể được. Tôi không ủng hộ cho phụ thuộc, bởi vì khi độc lập là không thể được, làm sao phụ thuộc là có thể được? Từ của tôi là "liên thuộc"; đó là điều là đúng và thực.
Cho nên điều đầu tiên, đừng nghĩ dưới dạng tự chủ. "Cái ta" là bệnh của bạn. Bỏ nó đi! Để cho cái toàn thể trở thành sẵn có cho bạn. Và chỉ thế thì bạn mới có thể sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc được, bằng không bạn không thể sống thế được. Nếu bạn bảo vệ, canh gác, phòng thủ cho bản thân bạn, làm sao bạn có thể sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc được? Bạn sẽ phải chuẩn bị cho tương lai. Bạn sẽ phải chuẩn bị cho ngày mai. Ai sẽ chăm nom cho bạn? Bạn là cá nhân tự chủ - ai sẽ chăm nom cho bạn vào ngày mai? Bạn sẽ phải nhìn vào số dư ngân hàng. Bạn sẽ phải chuẩn bị. Bạn không thể sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc được.
Chỉ người đã đi tới nhận ra, "Mình không có, cái toàn thể có," mới có thể sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc - bởi vì thế thì không có cách khác để sống. Tương lai còn chưa có, và nếu khoảnh khắc này cái toàn thể đã từng bảo vệ tôi, làm mẹ của tôi, giúp tôi, thế thì cái toàn thể sẽ chăm nom cả ngày mai nữa, như nó đã từng chăm nom mãi cho tới giờ. Nó sẽ chăm nom. Và nếu cái toàn thể quyết định rằng tôi không được cần tới, và tôi tan biến, hoàn toàn tốt - bởi vì tôi là ai mà phản đối?
Đây là điều người tôn giáo là gì: buông xuôi sâu sắc, buông xuôi toàn bộ cho cái toàn thể. Thế thì người đó sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc.
"Trong kết nối này xin thầy giải thích làm sao một người tâm linh như thế sống đúng từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc." Người đó không sống; người đó cho phép Thượng đế sống qua người đó. Thế thì người ta là tâm linh.
Người trần tục sống cuộc sống của người đó, người tâm linh không sống cuộc sống của người đó - người đó cho phép Thượng đế sống qua người đó. Người đó trở thành phương tiện. Người đó nói, "Lại đây. Vương quốc của ngài tới, ý chí của ngài sẽ được thực hiện. Lại đây, đi qua tôi đi, sống qua tôi đi, hiện hữu qua tôi đi. Tôi là trống rỗng và sẵn sàng. Tôi chỉ như cây trúc hổng. Lại đây, làm ra chiếc sáo từ tôi; ca bài ca từ tôi. Ca im lặng của ngài hay bài ca của ngài, nhưng mở hội qua tôi. Tôi sẵn sàng và chờ đợi ngài, và sẵn có."
Người tâm linh là sự sẵn có lớn lao. Người đó nói với Thượng đế, "Bất kì khi nào ngài sẵn lòng, tôi sẵn sàng. Tôi sẽ đợi, và tôi sẽ kiên nhẫn. Không có vội gì. Nếu ngài dính líu vào chỗ nào đó khác; và nhiều việc có đó, làm nó đi. Tôi có thể đợi tới vĩnh hằng."
Người tâm linh không phải là người sống cuộc sống của người đó. Nhưng ở Ấn Độ, hay ở các nước khác nữa, đó là ý tưởng này: rằng người tâm linh là người sống cuộc sống rất kỉ luật. Đây không phải là định nghĩa về người tâm linh; và đừng trở thành nạn nhân của nó, bởi vì nếu bạn bắt đầu sống cuộc sống của bạn, bạn sẽ thường xuyên trong tranh đấu với cái toàn thể. Đừng bơi trong sông, đừng cố đẩy nó. Nổi cùng với nó, đi cùng với nó - đi cùng với nó tới đại dương. Nó đã đi rồi, không cần lo nghĩ. Vứt mọi lo nghĩ đi, đừng cố bơi ngược dòng; bằng không bạn sẽ bị kiệt sức. Nhưng đó là điều được nghĩ về người tôn giáo, người tâm linh - người đang cho cuộc tranh đấu lớn với Thượng đế.
Gurdjieff thường nói, "Mọi cái gọi là tôn giáo đều chống lại Thượng đế." Và ông ấy đúng. Đây là những chiến lược tinh vi của bản ngã. Thận trọng về chúng đi.
Tôi ở đây không để làm cho bạn thành kẻ thù của Thượng đế. Tôi ở đây để dạy bạn cách nổi cùng ngài, cách thân thiết với ngài, cách không kháng cự lại ngài. Tôi ở đây để phá vỡ mọi chiến lược của bạn - đạo đức của bạn, luân lí của bạn, kỉ luật của bạn. Đây toàn là các chiến lược, cách bạn tự bảo vệ bản thân bạn, cách bạn đang cố được độc lập và tự chủ. Tôi ở đây để phá huỷ và triệt tiêu bạn hoàn toàn.
Và khi các chiến lược của bạn bị lấy đi, bạn sẽ biến mất. Trong sự biến mất của bạn xuất hiện ra con người tâm linh. Nó không phải là cái gì mà bạn có thể làm bằng nỗ lực của bạn. Nó là thất bại tuyệt đối, hoàn toàn của bạn, khi người tôn giáo đi vào trong bạn, khi bạn trở thành có tính tôn giáo và tâm linh. Bạn không thể thành công được trong việc là người tâm linh.
"Làm sao trau dồi thói quen này...?" Tôn giáo không phải là thói quen. Tính tâm linh không phải là thói quen, nó là nhận biết; và thói quen chính là cái đối lập của nhận biết. Thói quen là vô ý thức. Nhưng nhiều người làm điều đó. Chẳng hạn, bạn hút thuốc lá, nó trở thành thói quen. Khi nào bạn nói nó đã trở thành thói quen? Khi nó đã trở thành tự động tới mức bạn không thể bỏ được nó; thế thì bạn nói nó đã trở thành thói quen. Bây giờ nếu bạn không hút thuốc, bạn cảm thấy rối loạn lớn. Bạn cảm thấy một thôi thúc lớn tới mức bạn không thể kìm được nó, bạn phải đi cùng nó; bây giờ nó đã trở thành thói quen. Theo cùng cách, bạn cố làm lời cầu nguyện cũng thành thói quen của bạn. Bạn cầu nguyện mọi ngày, thế rồi dần dần nó trở thành như hút thuốc. Nếu bạn không cầu nguyện, bạn cảm thấy cái gì đó bị thiếu. Bạn có thể gọi nó là tính tôn giáo. Thế thì sao không gọi hút thuốc là tính tôn giáo? Cái gì sai với hút thuốc?
Hút thuốc là một mật chú. Bạn làm gì trong mật chú? Bạn lặp lại một âm thanh nào đó; bạn nói, "Ram, Ram, Ram, Ram..." Đó là điều hút thuốc là gì. Bạn hút khói vào, bạn nhả khói ra, bạn hút nó vào, bạn nhả nó ra, bạn hút nó vào, bạn nhả nó ra: nó trở thành mật chú. Nó đã là "Thiền siêu việt," TM.
Không, tôn giáo chẳng liên quan gì tới thói quen cả. Bạn phải nghĩ rằng tôn giáo có cái gì đó liên quan tới thói quen tốt chứ không có thói quen xấu - hút thuốc là thói quen xấu, lời cầu nguyện là thói quen tốt. Nhưng mọi thói quen đều là vô ý thức, và tôn giáo đang trở thành có ý thức.
Có thể là bạn sẽ trở thành quen thuộc với làm điều tốt tới mức bạn không thể nào làm được điều xấu, nhưng điều đó không làm cho bạn thành người tâm linh. Nó làm cho bạn thành con người rất thuận tiện. Nó làm cho bạn thành công dân rất tốt của thế gian, nó làm cho bạn thành thành viên rất tốt của xã hội, nhưng không là người tôn giáo. Xã hội giở thủ đoạn với bạn. Bạn có thể cứ làm điều tốt, cứ làm điều tốt, bởi vì bạn không thể làm điều xấu. Nó đã trở thành thói quen. Nhưng thói quen không là đức hạnh. Nhận biết mới là đức hạnh.
Và thỉnh thoảng chuyện xảy ra là tình huống không như cũ, nhưng bạn có thói quen làm cái gì đó - bạn cứ làm nó mà không nhìn vào tình huống. Thỉnh thoảng cái gì đó là xấu và cùng điều đó có thể là tốt vào lúc khác. Trong tình huống này đáp ứng này là đức hạnh, trong tình huống khác cùng đáp ứng đó có thể là tội lỗi. Nhưng nếu bạn đã trở nên quen thuộc, bạn cư xử như robot, máy tự động.
Tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện, một trong những câu chuyện rất hay tôi đã từng bắt gặp.
Ông Ginsberg chết và lên cõi trời và được đón chào bởi thiên thần ghi chép với sự hân hoan lớn lao.
"Tất cả chúng tôi đã từng đợi ông mãi, ông Ginsberg, vì ông đã từng là người tốt. Xem bản ghi về ông ở đây này " - và thiên thần ghi chép mở cuốn sổ cái khổng lồ ra và ngón tay lật hết trang nọ tới trang kia. "Nhìn chỗ kia: hành vi tốt - hành vi tốt - hành vi tốt - hành vi tốt. Ginsberg, ông được chất đầy toàn là hành vi tốt."
Nhưng khi lật qua các trang, thiên thần ghi chép trở nên nghiêm nghị và mặt ông ta đầy cái nhìn lo âu. Chung cuộc, ông ấy gập cuốn sổ cái lại và nói, "Ginsberg, chúng ta bị rắc rối rồi." "Sao vậy?" Ginsberg cảnh giác hỏi.
"Tôi đã không nhận ra điều đó, nhưng ông chẳng có gì ngoài hành vi tốt. Ông chẳng có tội nào cả." "Nhưng đó chẳng phải là toàn thể ý tưởng sao?" Ginsberg hỏi.
"Trong chừng mực nào đó, nó là vậy đấy," thiên thần ghi chép nói. "Nhưng trong thực hành thực tế, chúng ta bao giờ cũng phải có vài tội chứ. Anh chàng kia ở kia - một người tốt - chỉ phạm một tội, nhưng đó là nói dối trơ tráo thực. Bây giờ nếu ông vào mà không có tội nào hết cả, điều đó sẽ tạo ra ghen tị và cảm giác nặng nề, sẽ phải có xì xào và nói xấu sau lưng. Tóm lại, ông sẽ đem bất đồng và điều ác vào cõi trời."
"Vậy phải làm gì? Tôi phải làm gì?" ông Ginsberg đáng thương nói.
"Tôi bảo ông điều phải làm," thiên thần ghi chép nói, "điều này là bất thường, nhưng có thể tôi tìm cách tránh được điều đó. Tôi sẽ xoá trang cuối ghi chép về ông và ông sẽ có sáu giờ sống nữa. Ông sẽ có cơ hội khác. Xin ông, ông Ginsberg, phạm một tội đi - và một tội thực vào - và thế rồi quay lại."
Nói còn chậm hơn làm, ông Ginsberg đột nhiên thấy bản thân mình trở lại thành phố quê hương. Ông ấy có vài giờ để phạm tội và thoát ra khỏi hành vi tốt liên tục của mình, và ông ấy hăm hở liều lĩnh làm như vậy vì ông ấy muốn lên cõi trời. Nhưng ông ấy có thể phạm loại tội gì được? Ông ấy đã đức hạnh thế, ông ấy chắc chắn không biết tội lỗi là gì.
Sau khi nghĩ mãi, ông ấy nhớ lại rằng nếu người ta có quan hệ dục với người đàn bà không phải vợ mình, đó là tội. Với ông ấy dường như là một người đàn bà chưa chồng nào đó đã qua tuổi thanh niên đầu tiên của cô ấy vẫn thường liếc nhìn ông ấy đầy ý nghĩa, mà, vì là người đức hạnh, tất nhiên ông ấy đã bỏ qua.
Ông ấy sẽ không bỏ qua những cái liếc đó nữa. Và thời gian trôi nhanh. Với bước đi cả quyết, ông ấy bước tới nhà của bà cô trẻ, cô Levine, và gõ cửa. Cô ấy mở cửa, thấy ông ấy đứng đó, và nói trong sự ngạc nhiên, "Sao thế ông Ginsberg, em nghe nói ông bị ốm, và sợ ông sắp chết, nhưng ông trông hoàn toàn đích thị là ông rồi."
"Tôi hoàn toàn khoẻ," Ginsberg nói. "Tôi có thể vào được chứ?"
"Tất nhiên rồi," cô Levine háo hức nói, và khoá cửa lại đằng sau ông ấy.
Điều gì xảy ra sau đó là không thể tránh được. Trong gần như không có thời gian, họ rõ ràng phạm tội và ông Ginsberg, với linh ảnh về cõi trời đang chờ đợi, quyết định làm một cách nhiệt tình cho điều ông ấy thiếu kinh nghiệm.
Lo âu để phạm tội, một tội thực tốt, và cái gì đó sẽ làm thoả mãn sâu sắc thiên thần ghi chép, ông ấy bỏ công sức để không hấp tấp. Ông ấy giữ cho sự việc diễn ra mãi cho tới khi cảm giác bên trong bảo ông ấy rằng thời gian của ông ấy đã gần hết.
Thấy trước cõi trời với niềm vui mê li, Ginsberg đứng dậy và xin lỗi. "Cô Levine," ông ấy nói, "Tôi phải đi bây giờ. Tôi có cuộc hẹn quan trọng."
Và cô Levine, mỉm cười với ông ấy từ trong giường, thủ thỉ dịu dàng, "Ôi, ông Ginsberg, anh yêu, anh đã làm hành vi tốt làm sao cho em hôm nay."
Hành vi tốt làm sao! Ginsberg đáng thương thế.
Đừng bị quen thuộc với cái tốt. Đừng bị quen thuộc thế; đừng trở nên máy móc thế. Đừng hỏi, "Làm sao trau dồi thói quen sống này từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc?" Nó không phải là thói quen chút nào, nó là nhận biết.
Không có gì khác. Quá khứ qua rồi, tương lai còn chưa tới. Bạn có thể sống trong quá khứ, cái đã qua rồi không? Làm sao bạn có thể sống trong nó được? Bạn có thể sống trong tương lai được không, cái mà còn chưa có? Làm sao bạn có thể sống trong nó được? Đó là hiểu biết đơn giản, hiểu biết ngầm ẩn, rằng cuộc sống có thể duy nhất là trong hiện tại. Không có nhu cầu làm thành thói quen về nó. Nó chẳng liên quan gì tới tôn giáo, nó có cái gì đó liên quan tới thông minh đơn giản, đơn thuần. Quá khứ qua rồi, làm sao bạn có thể sống trong nó được? Tương lai còn chưa tới, làm sao bạn có thể sống trong nó được? Chỉ chút ít thông minh là được cần.
Duy nhất hiện tại đang có đó. Mọi điều có đó là hiện tại, không có cách khác. Cho nên sống nó đi nếu bạn muốn sống nó. Nếu bạn nghĩ về quá khứ và tương lai, bạn làm phí hoài nó. Và khi nó sẽ trở thành quá khứ, bạn sẽ bắt đầu nghĩ về nó. Và khi nó là tương lai, bạn lập kế hoạch cho nó. Và khi nó tới, bạn không có đó. Bạn hoặc đi vào trong kí ức hoặc bạn đi vào tưởng tưởng.
Vứt bỏ kí ức và tưởng tượng đi. Ở đây bây giờ. Và vấn đề không phải là thói quen. Làm sao bạn có thể ở đây bây giờ chỉ bằng thói quen? Thói quen tới từ quá khứ - thói quen lôi bạn tới quá khứ. Hay bạn có thể làm cho nó thành kỉ luật - nhưng thế thì bạn đang làm nó cho tương lai. Bạn đang đợi: "Hôm nay mình sẽ trau dồi thói quen, và ngày mai mình sẽ tận hưởng." Nhưng lần nữa bạn ở trong tương lai.
Thói quen không phải là vấn đề, không liên quan chút nào. Chỉ trở nên tỉnh táo. Nếu bạn ăn, thì ăn - chỉ ăn. Để cho toàn thể bản thể bạn được thu hút vào trong nó. Nếu bạn làm tình, trở thành một Shiva và để cho bạn tình của bạn là Devi. Yêu, và để mọi thần quan sát và tới và đi - đừng lo nghĩ. Bất kì cái gì bạn đang làm... Bước đi trên phố, thế thì chỉ bước thôi. Tận hưởng làn gió thoảng, mặt trời, cây cối - hiện tại.
Và nhớ lấy, tôi không bảo bạn thực hành. Điều đó có thể được thực hiện ngay lập tức, không có thực hành nào. Nó có thể được thực hiện ngay lập tức; chỉ chút ít thông minh là được cần. Thói quen, trau dồi, là dành cho người ngu. Bởi vì họ không thể sống một cách thông minh, họ phải lấy sự giúp đỡ của thói quen, kỉ luật, thế này thế nọ. Nếu bạn thông minh - và tôi có thể thấy bạn là thông minh, tôi thấy bạn có hứa hẹn - không có nhu cầu. Cứ bắt đầu đi! Đừng hỏi tại sao. Bắt đầu ngay bây giờ. Bạn đang lắng nghe tôi? Chỉ lắng nghe thôi. Nhiều người trong các bạn sẽ nghĩ, không lắng nghe, so sánh các ghi chép với định kiến riêng của bạn.
Người đã hỏi câu hỏi này không lắng nghe. Tôi có thể nói điều đó với chắc chắn tuyệt đối - không biết ai đã hỏi. Từ đâu mà chắc chắn của tôi tới? Bởi vì tôi có thể hiểu được tâm trí từ câu hỏi. Người đó phải đã phát giận và bực dọc.
Mọi người hỏi các câu hỏi để được khuây khoả, an ủi, nhưng tôi không ở đây để an ủi bạn. Tôi ở đây để quấy rối bạn toàn bộ tới mức bạn vứt bỏ - từ chán ghét cùng cực với các chiến lược của bạn, bạn vứt bỏ. Và tôi tuyệt đối chắc chắn, chắc chắn nhiều như có lần chuyện xảy ra:
Sheikh Farid, một nhà huyền môn, nhà huyền môn Sufi, được nhà vua mời tới. Ông ấy tới đó, và nhà vua nói, "Ta đã từng nghe nói nhiều phép màu về ông, và nếu ông thực sự công bố rằng ông là thánh nhân và nhà huyền môn lớn, thế thì chỉ cho ta xem phép màu đi, bởi vì những người tâm linh bao giờ cũng huyền bí."
Farid nhìn vào mắt nhà vua và nói, "Tôi có thể đọc được ý nghĩ của ngài, và chỉ để làm thí dụ tôi có thể nói rằng đây là ý nghĩ ngay bây giờ trong tâm trí ngài: rằng ngài không thể tin được vào điều đó. Tôi có thể đọc được ý nghĩ của ngài, và ngay bây giờ tôi có thể đọc rằng ngài không thể tin được điều đó. Ngài đang nói bên trong, 'Ta không thể tin được điều đó.' Tôi có đúng không?" Nhà vua nói, "Ông bắt đúng ý ta."
Người đã hỏi câu hỏi này phải cảm thấy bị khó chịu rất nhiều. Thế thì bạn lỡ, bởi vì qua khó chịu bạn không thể nghe được tôi; bạn không thể ở đây-bây giờ.
Câu hỏi 5
Osho thân mến ơi, người ta nói thầy bảo Ram anh ấy đã chứng ngộ - theo nghĩa của nhận ra. Người khác nói thầy có cả hai lưỡi ở hai má. Ram nói thầy đùa và rằng tôi nên hỏi thầy. Tôi tự nhủ đó có thực không phải là việc của tôi không, nhưng dẫu sao, anh ấy có là vậy không? Anh ấy có không?
Đây là từ Anurag. Nếu anh ấy đã hiểu rằng tôi đùa, thế thì anh ấy phải đã chứng ngộ.
Xem tiếp Chương 5Quay về Mục lục

0 Đánh giá

Ads Belove Post