Chương 5. Gặp gỡ của mặt trời và mặt trăng

Chương 5. Gặp gỡ của mặt trời và mặt trăng

Price:

Read more

Yoga: Alpha và Omega (Tập 8)
Bài giảng về Kinh Yoga của Patanjali
Chương 5. Gặp gỡ của mặt trời và mặt trăng

33. Bằng việc thực hiện samyama trên ánh sáng dưới đỉnh đầu, khả năng tiếp xúc với mọi sinh linh hoàn hảo xảy tới.
34. Qua pratibha, trực giác, tri thức về mọi thứ.
35. Thực hiện samyama trên trái tim đem tới nhận biết về bản chất của tâm trí.
Con người là sự tiến hoá. Không chỉ có chuyện con người tiến hoá, con người là chính phương tiện của bản thân việc tiến hoá: con người là sự tiến hoá. Một trách nhiệm vô cùng, và cái gì đó cũng được vui mừng nữa, bởi vì đó là vinh quanh của con người. Vật chất là cái bắt đầu, Thượng đế là cái kết thúc - vật chất là điểm alpha, Thượng đế là điểm omega. Con người là chiếc cầu - vật chất đi qua con người và được biến đổi thành Thượng đế. Thượng đế không phải là vật và Thượng đế không chờ đợi ở đâu cả. Thượng đế đang tiến hoá qua bạn; Thượng đế đang trở thành qua bạn. Bạn đang biến đổi vật chất thành Thượng đế. Bạn là thực nghiệm lớn nhất mà thực tại đã làm ra. Nghĩ về niềm vinh quang của nó, và nghĩ về trách nhiệm nữa.
Nhiều điều phụ thuộc vào con người, nhưng nếu bạn nghĩ rằng bạn đã ở đó bởi vì bạn có hình dạng con người, thế thì bạn sẽ bị tâm trí bạn dẫn sai đường. Bạn chỉ có hình dạng thôi; bạn chỉ mới là khả năng. Cái thực sắp xảy ra, và bạn phải cho phép nó xảy ra. Bạn phải mở hướng tới nó.
Đó là điều yoga tất cả là gì: cách giúp bạn đi lên hướng tới điểm omega nơi toàn thể năng lượng của bạn được xả ra, được biến đổi - toàn thể vật chất được chuyển hoá thành điều thiêng liêng. Yoga đã ánh xạ toàn thể cuộc hành trình, toàn thể cuộc hành hương của con người - từ dục tới samadhi, từ trung tâm thấp nhất, muladhar, tới trung tâm cao nhất, chính đỉnh cao, cực đỉnh của tiến hoá: sahasrar.
Những điều này phải được hiểu trước khi chúng ta có thể đi vào trong lời kinh của ngày hôm nay. Yoga phân chia con người thành bẩy tầng, bẩy bước, bẩy trung tâm. Trung tâm thứ nhất là muladhar, trung tâm dục, trung tâm mặt trời; và trung tâm cuối cùng, trung tâm thứ bẩy, là sahasrar, trung tâm Thượng đế, điểm omega.
Trung tâm dục về bản chất là đi xuống. Nó là kết nối của bạn với vật chất, điều yoga gọi là prakriti - tự nhiên. Trung tâm dục là quan hệ của bạn với tự nhiên, thế giới mà bạn đã bỏ lại đằng sau, quá khứ. Nếu bạn cứ giới hạn bản thân bạn vào trung tâm dục, bạn không thể tiến hoá được. Bạn sẽ vẫn còn ở chỗ bạn đang ở. Bạn sẽ vẫn còn trong tiếp xúc với quá khứ của bạn, nhưng bạn sẽ không được kết nối với tương lai. Bạn bị mắc kẹt ở đó; con người bị mắc kẹt ở trung tâm dục.
Mọi người nghĩ họ hiểu mọi thứ về dục. Chẳng có gì mấy được biết, ít nhất không được biết cho những người tưởng họ biết - các nhà tâm lí học. Họ tưởng họ biết, nhưng điều cơ sở bị thiếu: tri thức rằng dục có thể trở thành chuyển động đi lên, rằng không nhất thiết nó chỉ phải đi xuống. Nó đi xuống bởi vì cơ chế chuyển xuống tồn tại trong con người - đã tồn tại trong con người. Nó tồn tại trong con vật nữa; nó tồn tại trong cây cối nữa. Không có gì có ý nghĩa mấy về điều đó rằng nó tồn tại trong con người. Ý nghĩa của con người là ở chỗ cái gì đó nhiều hơn tồn tại trong con người mà chưa tồn tại trong cây cỏ, trong chim chóc, trong con vật. Chúng nhất định chuyển xuống; chúng không có cầu thang bên trong chúng.
Đó là điều chúng ta ngụ ý bởi bẩy trung tâm: cầu thang của tiến hoá. Nó tồn tại trong bạn. Bạn có thể rơi lên - nếu bạn chọn. Nếu bạn không chọn, bạn sẽ tiếp tục rơi xuống.
Cho nên bây giờ, với con người, tiến hoá sẽ là ý thức. Mãi cho tới giờ bạn đã được giúp đỡ. Tự nhiên đã mang bạn tới điểm này; từ giờ trở đi, bạn sẽ phải nhận trách nhiệm riêng của bạn. Bạn sẽ phải trở nên có trách nhiệm. Con người đã trưởng thành, con người đã tới tuổi; bây giờ tự nhiên không còn có thể chăm sóc bạn được. Cho nên nếu bạn không di chuyển một cách có ý thức, nếu bạn không làm nỗ lực có ý thức để tiến hoá, nếu bạn không chấp nhận trách nhiệm; bạn sẽ vẫn còn bị kẹt.
Cho nên nhiều người cảm thấy việc mắc kẹt, nhưng họ không biết nó mắc ở đâu. Hàng nghìn người tới tôi và họ bảo tôi họ đang cảm thấy bị mắc kẹt. Họ biết cái gì đó là có thể, nhưng họ không biết nó là gì. Họ biết rằng họ phải di chuyển, nhưng họ không biết cách di chuyển, chuyển đi đâu. Họ biết rằng họ đã ở tại chỗ mà họ đã ở đủ lâu rồi và họ muốn bùng nổ sang chiều hướng mới, nhưng họ bị kẹt.
Việc mắc kẹt này đang tới từ muladhar, từ trung tâm dục, trung tâm mặt trời.
Mãi cho tới giờ đã không có vấn đề cho bạn. Tự nhiên đã giúp; tự nhiên đã làm mẹ bạn mãi cho tới giờ. Nhưng bạn không còn là đứa trẻ, không còn là đứa bé, và tự nhiên không thể cứ nuôi bạn bằng bầu vú của nó. Bây giờ người mẹ nói, "Bỏ vú ra; sống theo cách riêng của con đi." Người mẹ đã nói thế từ lâu trước đây rồi. Những người đã hiểu nó, họ đã nhận trách nhiệm và đã trở thành những siddhas, chư phật, những người đã đạt tới.
Bây giờ con đường sẽ là quyết định của bạn. Bây giờ bạn phải đi theo cách riêng của bạn. Khả năng này tồn tại trong trung tâm muladhar: nó có thể mở lên. Cho nên điều đầu tiên cần được hiểu ngày nay là: không nghĩ rằng bạn hiểu dục trong tính toàn bộ của nó. Bạn không hiểu nó. Tôi đã nghe một giai thoại:
Một người, đi cùng con trai tới lớp học, nói với thầy giáo rằng đứa con trai của người đó muốn biết mọi điều về chim và ong.
"Ông có ám chỉ tới các hướng dẫn dục sơ cấp không?" thầy giáo hỏi.
"Chết tiệt, không," người bố đáp. "Trẻ con biết tuốt về dục rồi. Nó muốn biết về chim và ong."
Nhưng tôi muốn nói với bạn chẳng ai biết tuốt về dục. Chừng nào Thượng đế còn chưa được nhận ra, bạn không thể biết tuốt về dục được, bởi vì Thượng đế là khả năng chung cuộc về năng lượng dục - biến đổi tối thượng của năng lượng dục. Chừng nào bạn còn chưa biết bạn là ai, bạn sẽ không có khả năng biết dục thực sự là gì trong tính toàn bộ của nó. Bạn sẽ không có khả năng để hiểu thấu nó. Chỉ một phần của nó là được biết, phần mặt trời. Ngay cả phần mặt trăng cũng còn chưa được biết tới. Tâm lí học cho năng lượng nữ tính còn phải tiến hoá. Freud và Jung và Adler và những người khác, bất kì điều gì họ đã làm đều ít nhiều được định tâm quanh đàn ông. Đàn bà vẫn còn là lãnh thổ chưa được vẽ bản đồ. Trung tâm mặt trăng, ngay cả trung tâm mặt trăng, vẫn còn chưa là sự kiện được biết tới.
Vài người đã có vài thoáng nhìn. Chẳng hạn, Jung có vài thoáng nhìn. Freud vẫn còn hướng mặt trời hoàn toàn. Jung đã đi được chút ít hướng tới mặt trăng; tất nhiên, rất lưỡng lự bởi vì toàn thể huấn luyện của tâm trí là khoa học, và đi tới mặt trăng là đi vào trong một thế giới khác hoàn toàn với khoa học. Nó là đi vào trong thế giới của thần thoại, nó là đi vào trong thế giới của thơ ca, tưởng tượng. Nó là đi vào trong thế giới của phi lí trí, phi logic.
Để tôi nói cho bạn đôi điều. Freud là hướng mặt trời; Jung đang nghiêng chút ít hướng tới mặt trăng. Đó là lí do tại sao Freud rất giận với đệ tử Jung của mình. Và những người theo Freud bị Jung làm cho rất bực bội; dường như là ông này đã phản bội lại thầy mình.
Người hướng mặt trời bao giờ cũng cảm thấy rằng người hướng mặt trăng là nguy hiểm. Người hướng mặt trời đi trên siêu xa lộ rõ ràng của lí trí, và người hướng mặt trăng bắt đầu đi trong mê cung. Người đó bắt đầu đi vào trong nơi hoang vu, nơi chẳng cái gì là rõ ràng - mọi thứ đều sống động, nhưng không cái gì rõ ràng.
Và nỗi sợ lớn nhất cho đàn ông là đàn bà. Bằng cách nào đó đàn ông nghi ngờ rằng cái chết đang đi tới từ đàn bà - bởi vì cuộc sống cũng đã đi tới từ cô ấy. Mọi người đều được sinh ra từ đàn bà. Khi cuộc sống đã tới từ đàn bà, thế thì bằng cách nào đó cái chết cũng sẽ xảy ra qua cô ấy. Bởi vì cái kết thúc bao giờ cũng tới để gặp gỡ cái bắt đầu. Chỉ thế thì vòng tròng mới được hoàn chỉnh.
Ở Ấn Độ, trong huyền thoại Ấn Độ, chúng ta đã nhận ra điều đó. Bạn phải đã thấy bức tranh hay tượng của Mẹ Kali, người là biểu tượng hoá cho tâm trí nữ tính, và bà ấy nhảy múa trên xác của chồng mình, Shiva. Bà ấy đã nhảy múa khủng khiếp tới mức Shiva chết, và bà ấy vẫn cứ nhảy múa. Tâm trí nữ tính đã giết chết tâm trí nam tính; đó là nghĩa của thần thoại này.
Và tại sao bà ấy được vẽ mầu đen? Đó là lí do tại sao bà ấy được gọi là Kali; kali nghĩa là "đen." Và tại sao nguy hiểm thế? Trong một tay bà ấy đang cầm cái đầu mới bị chặt với máu còn rỉ ra từ nó. Gần như việc nhân cách hoá cho cái chết. Và bà ấy đang nhảy múa một cách điên dại - và trên ngực của chồng bà ấy, và chồng chết và bà ấy cứ nhảy múa trong cực lạc lớn lao. Tại sao bà ấy lại đen? Bởi vì cái chết bao giờ cũng được nghĩ là đen, như đêm tối đen kịt.
Và tại sao bà ấy đã giết chồng mình? Mặt trăng bao giờ cũng giết mặt trời. Một khi trăng lên trong bản thể bạn, logic chết. Thế thì logic không thể còn lại được, thế thì lí trí không thể còn lại được. Bây giờ bạn đã đạt tới chiều hướng khác toàn bộ.
Bạn chưa bao giờ mong đợi logic từ nhà thơ. Bạn chưa bao giờ mong đợi logic từ hoạ sĩ, từ vũ công, từ nhạc sĩ. Họ đi trong thế giới tối toàn bộ, họ đi trong bóng tối.
Lí trí bao giờ cũng sợ, và đàn ông bao giờ cũng sợ vì đàn ông là hướng lí trí. Bạn không quan sát điều đó sao, rằng đàn ông bao giờ cũng cảm thấy khó hiểu đàn bà và tâm trí của đàn bà? Và cùng điều đó là cảm giác của đàn bà - họ không thể hiểu được đàn ông. Lỗ hổng tồn tại, dường như họ không phải là một phần của một nhân loại, dường như họ là khác. Để tôi kể cho bạn một giai thoại:
Một người Italy tranh cãi với một người Do Thái: "Dân Do Thái các anh tự kiêu thế. Đây là tuyên truyền quá mức cứ nói rằng các anh là dân tộc thông minh nhất trên thế giới. Cực kì vô nghĩa! Ở Italy, khai quật đã được tiến hành, và trong một số địa tầng đất cổ đại ít nhất cũng hai nghìn năm, người ta tìm thấy dây điện, điều chứng tỏ rằng các tổ tiên Roman của chúng tôi vào thời đó đã có điện tín."
Người Do Thái trả lời: "Ở Israel, khai quật đã được thực hiện ở mọi chỗ trên đất có tuổi bốn nghìn năm và chả tìm thấy gì cả, điều có nghĩa là chúng tôi đã có không dây trước khi các ông có điện tín."
Đây là cách logic vận hành. Đó là việc chẻ sợi tóc, nhưng nó có thể tiếp diễn mãi. Ngay cả trong yêu đàn ông vẫn còn hợp lí, biện luận. Đàn ông bao giờ cũng cố chứng minh cái gì đó.
Quan sát. Đàn bà coi là đương nhiên là mọi thứ được chứng minh, và đàn ông cứ cố gắng chứng minh cái gì đó - bao giờ cũng phòng thủ. Ở đâu đó sâu trong tính dục của họ là căn nguyên của nó. Khi đàn ông và đàn bà làm tình, đàn bà không cần chứng minh cái gì. Cô ấy có thể chỉ thụ động, nhưng đàn ông phải chứng minh tính đàn ông của mình. Từ chính nỗ lực đó để chứng minh tính đàn ông của mình, đàn ông liên tục phòng thủ và bao giờ cũng cố chứng minh cái gì đó này khác.
Toàn thể triết học không là gì ngoài việc tìm chứng minh cho Thượng đế. Khoa học không là gì ngoài việc tìm chứng minh cho các lí thuyết. Đàn bà chưa bao giờ quan tâm tới triết học. Họ coi cuộc sống là đương nhiên có đó; họ chấp nhận nó. Họ không phòng thủ theo bất kì cách nào, dường như chúng đã chứng minh rồi. Bản thể của họ dường như là tuần hoàn hơn, vòng tròn dường như là đầy đủ. Điều đó có thể là nguyên nhân cho thân thể họ tròn trĩnh thế. Nó có hình dạng tròn. Đàn ông có góc cạnh, và bao giờ cũng sẵn sàng đấu tranh và tranh luận. Ngay cả trong khoảnh khắc của yêu. Tôi mới đọc về Somerset Maugham.
Khi Somerset Maugham, nhà văn, đã gần chín mươi, ông ấy bị bệnh cúm. Một hôm một quí bà ngưỡng mộ gọi điện tới và hỏi liệu bà ấy có thể gửi trái cây và hoa tới không.
"Trái cây thì quá trễ," Maugham đáp, "còn hoa thì quá sớm."
Một cử chỉ tình yêu đơn giản thế... Logic đi vào ngay lập tức. Một người đàn bà rất nổi tiếng, một vũ công, một nghệ sĩ, và một trong những người đẹp nhất, đã hỏi Bernard Shaw, "Anh có muốn lấy em không?" Bernard nói, "Để làm gì?"
Người đàn bà nói, "Em bao giờ cũng nghĩ rằng sắc đẹp của em - thân thể em, mặt em, mắt em - và thông minh của anh, cả hai sẽ làm ra đứa con đẹp. Nó sẽ là món quà đẹp cho thế giới."
Bernard Shaw cười và nói, "Đợi đã. Có thể chỉ là điều ngược lại: nó có thể có thông minh của cô, điều ngụ ý chẳng có gì; và nó có thể có sắc đẹp của tôi, điều gần như là xấu. Đứa con có thể theo cách khác chứ." Tâm trí nam bao giờ cũng cắt ra từng mảnh.
Jung tường trình trong tự truyện của ông ấy rằng ông ấy đang ngồi cùng Freud, và hôm đó đột nhiên ông ấy cảm thấy đầy ách trong dạ dầy mình, và ông ấy cảm thấy dường như cái gì đó sắp xảy ra, và đột nhiên có một loại tiếng nổ trong tủ. Cả hai trở nên cảnh giác. Điều gì đã xảy ra? Jung nói, "Nó có cái gì đó liên quan tới năng lượng của tôi" Freud cười và chế giễu và nói, "Vô nghĩa, làm sao có thể có cái gì liên quan tới năng lượng của ông được?" Jung nói, "Đợi đã, trong vòng một phút nó sẽ lại tới nữa" - bởi vì ông ấy lại cảm thấy dạ dầy chướng lên. Và trong vòng một phút - đích xác trong một phút - có tiếng nổ khác.
Bây giờ đây là tâm trí nữ tính. Và Jung viết trong tự truyện của ông ấy, "Kể từ ngày đó, Freud không bao giờ tin cậy tôi." Điều này là nguy hiểm bởi vì nó là phi logic. Và Jung bắt đầu nghĩ về một lí thuyết mới mà ông ấy gọi là "đồng bộ."
Lí thuyết làm cơ sở cho mọi nỗ lực khoa học là "nhân quả" - mọi thứ đều được nối với nguyên nhân và hậu quả. Bất kì cái gì xảy ra đều có nguyên nhân, và nếu bạn có thể tạo ra nguyên nhân, hậu quả sẽ theo sau. Nếu bạn đun nước nóng lên nó sẽ bay hơi. Đun nóng là nguyên nhân: đem nước tới một trăm độ và nó sẽ bay hơi. Bay hơi là hậu quả. Đây là cơ sở khoa học.
Jung nói có một nguyên lí khác, đó là "đồng bộ." Khó giải thích nó bởi vì mọi giải thích đều từ tâm trí khoa học, nhưng bạn có thể thử cảm thấy điều ông ấy ngụ ý. Để hai đồng hồ tương tự nhau tới mức chúng được đồng bộ với nhau: khi kim của đồng hồ này chỉ mười hai, đồng hồ kia điểm chuông mười hai giờ. Đồng hồ này đơn giản chạy, chỉ thời gian; đồng hồ kia điểm chuông - mười một, mười hai, một, hai. Bất kì ai nghe nó đều sẽ ngạc nhiên vì đồng hồ thứ nhất không phải là nguyên nhân cho việc điểm chuông của đồng hồ thứ hai. Chúng không có cách nào quan hệ cả. Đấy chỉ là người làm, thợ làm đồng hồ đã đồng bộ hoá chúng theo cách mà cái gì đó xảy ra trong cái này và đồng thời cái gì đó khác xảy ra trong cái kia. Chúng không được kết nối bởi bất kì nguyên nhân và hậu quả nào.
Jung nói bên cạnh nhân quả có nguyên lí khác. Người làm ra thế giới, nếu có người nào, ông ấy đã làm ra thế giới theo cách mà nhiều điều xảy ra mà không phải là nguyên nhân và hậu quả. Bạn thấy người đàn bà và đột nhiên tình yêu nở hoa. Bây giờ điều này được giải thích bằng nhân quả hay bằng đồng bộ? Jung dường như là chính xác hơn và gần với chân lí hơn. Người đàn bà đã không là nguyên nhân cho tình yêu trong bạn, bạn đã không là nguyên nhân cho tình yêu trong người đàn bà, nhưng đàn ông và đàn bà, hay năng lượng của mặt trời và mặt trăng, đã được làm ra theo cách mà khi chúng tới gần, tình yêu nở hoa. Nó là tính đồng bộ.
Nhưng Freud trở nên sợ. Họ chưa bao giờ ở gần nhau lần nữa. Freud đã chọn Jung là người kế tục mình, nhưng hôm đó ông ấy đã đổi ý. Thế rồi họ rời ra, ngày càng xa hơn.
Đàn ông không thể hiểu được đàn bà, đàn bà không thể hiểu được đàn ông. Điều đó gần giống như mặt trời và mặt trăng: khi mặt trời có đó, mặt trăng biến mất. Khi mặt trời đi xuống mặt trăng xuất hiện. Chúng chưa bao giờ gặp gỡ. Chúng chưa bao giờ tới mặt đối mặt. Trí tuệ của bạn, lí trí của bạn, biến mất khi trực giác của bạn bắt đầu vận hành. Đàn bà nhiều tính trực giác hơn. Họ không có suy luận về cái gì đó, nhưng họ có thể có linh cảm, và linh cảm của họ gần như bao giờ cũng đúng.
Nhiều đàn ông đã tới tôi và nói với tôi, "Điều này thực là lạ. Nếu chúng tôi có chuyện gì đó và chúng tôi không kể với vợ, bằng cách nào đó này khác cô ấy đi tới biết. Nhưng chúng tôi không bao giờ có khả năng biết liệu vợ có chuyện gì hay không."
Có một hoàn cảnh giữa Sheela và Chinmaya. Chinmaya có chuyện, và họ cả hai cùng tới tôi. Và Chinmaya nói, "Điều này thực là lạ. Bất kì khi nào tôi có chuyện, ngay lập tức Sheela tới - dù cô ấy ở bất kì chỗ nào, cô ấy lập tức quay lại đi tới phòng tôi. Bằng không thì cô ấy chẳng bao giờ tới - cô ấy đang làm việc ở văn phòng hay làm cái gì đó. Nhưng bất kì khi nào tôi quan tâm tới một người đàn bà và tôi đưa bất kì người đàn bà nào vào phòng tôi - cho dù chỉ là nói chuyện, và Sheela tới. Và điều này đã xảy ra biết bao nhiêu lần." Và tôi hỏi, "Nó có bao giờ xảy ra theo cách khác không?" Anh ta nói, "Không bao giờ."
Đàn bà sống theo linh cảm. Cô ấy không thể suy luận được nó ra. Cô ấy đơn giản cảm thấy nó, và cảm thấy nó sâu sắc tới mức nó gần như là đúng cho cô ấy. Đó là lí do tại sao chồng không bao giờ có thể đánh bại được bất kì đàn bà nào trong biện luận. Họ không nghe biện luận của bạn. Họ cứ khăng khăng, "Điều này là vậy." Và bạn cũng biết rằng điều này là vậy, nhưng bạn cứ bảo vệ. Bạn càng bảo vệ, họ càng biết điều này là vậy. Chuyện xảy ra, có một vụ kiện ở toà:
Ngày xử án đầu tiên tới, và người bị kiện mất điềm tĩnh khi mười hai đàn bà được chọn làm ban hội thẩm.
"Tôi có phải bị xét xử bởi hội thẩm quí bà không?" anh ta hỏi luật sư. "Cứ giữ yên tĩnh đi," luật sư nói.
"Giữ yên tĩnh chả là gì cả!" người bị kiện kêu lên. "Nếu tôi không thể lừa được vợ tôi, làm sao tôi có thể hi vọng lừa được mười hai đàn bà? Cho tôi thành có tội đi cho rồi."
Điều đó là không thể được. Họ có cách khác để biết, cách tách rời để biết: cách thức mặt trăng để biết.
Tâm lí học nữ tính vẫn còn phải được phát triển, và chừng nào tâm lí học mặt trăng còn chưa được phát triển, tâm lí học sẽ không có trạng thái của khoa học. Nó sẽ vẫn còn là định kiến; nó sẽ vẫn còn là định kiến nam tính. Nó sẽ không nói cái gì đó về con người như vậy.
Tâm lí học Freud là tâm lí học mặt trời; tâm lí học Jung nghiêng chút ít về mặt trăng. Và có một người, Roberto Assagioli, tâm lí học của ông ấy là sự tổng hợp giữa mặt trời và mặt trăng, mới là bắt đầu của nó. Ông ấy gọi tâm lí học của ông ấy là "tâm lí học tổng hợp." Freud gọi tâm lí học của ông ấy là "phân tâm học." Phân tích tới từ mặt trời; tổng hợp tới từ mặt trăng. Quan sát xem, bất kì khi nào có ánh sáng, mọi sự là tách rời. Thế thì cây này ở đây, cây kia ở kia, nhưng mọi sự là tách rời. Và thế rồi tới bóng tối của đêm và mọi thứ biến mất - việc tách rời. Mọi thứ trở thành một. Đêm tối, và mọi phân chia biến mất.
Tâm lí học mặt trăng sẽ là tổng hợp; tâm lí học mặt trời là phân tích, cắt mảnh, tranh cãi, chứng minh. Nhưng có một khả năng của tâm lí học cao hơn. Tôi muốn cho bạn vài hướng dẫn, điều tôi gọi là "tâm lí học của chư phật." Freud là mặt trời, Jung là mặt trăng, Assagioli mặt trời cộng với mặt trăng. Vị phật là mặt trời cộng với mặt trăng cộng với cõi bên kia, và về sau tôi sẽ giải thích cho bạn điều tôi ngụ ý bởi "cõi bên kia." Và thế thì cõi bên kia đó cũng có thể được nhìn vào, qua nhiều cách.
Mặt trời cộng với cõi bên kia: bạn có Patanjali, bạn có Mahavira, yoga. Ngôn ngữ là của mặt trời; kinh nghiệm là của cõi bên kia. Thế rồi, mặt trời cộng với mặt trăng cộng với cõi bên kia: bạn có mật tông, Shiva. Kinh nghiệm là của cõi bên kia, nhưng diễn đạt là cả mặt trời cộng với mặt trăng. Và thế rồi, bạn có mặt trăng cộng với cõi bên kia: Narad, Chaitanya, Meera, Jesus. Kinh nghiệm là của cõi bên kia, nhưng cách diễn đạt là của mặt trăng. Và thế rồi chỉ có cõi bên kia: Bồ đề đạt ma, Lão Tử, Trang Tử, Thiền. Họ không tin vào cách diễn đạt, cho nên họ không cần cách diễn đạt mặt trời hay mặt trăng; họ nói điều đó không thể được nói ra. Lão Tử nói, "Đạo có thể được nói ra không còn là Đạo. Chân lí có thể được thốt ra đã là dối trá; nó không thể được diễn đạt."
Đây là tất cả các khả năng, nhưng chúng còn chưa được hiện thực hoá. Đây đó có người đã đạt tới, nhưng việc đạt tới và nhận ra đó phải được hệ thống hoá theo cách nào đó, điều đó trở thành một phần của tâm thức con người tập thể.
Bây giờ là lời kinh:
Bằng việc thực hiện samyama trên ánh sáng dưới đỉnh đầu, khả năng tiếp xúc với mọi sinh linh hoàn hảo xảy tới.
Sahasrar ở ngay dưới đỉnh đầu. Sahasrar là chỗ mở tinh tế trong đầu bạn. Cũng như cơ quan sinh dục là chỗ mở tinh tế trong muladhar, từ chỗ mở tinh tế đó bạn đi xuống vào tự nhiên, vào cuộc sống, vào cái hữu hình, vật chất, vào hình dạng; đích xác giống như điều đó, bạn có cơ quan không vận hành trong đỉnh đầu, cũng có lối mở tinh tế. Khi năng lượng xô tới đó, lối mở đó bột phát mở ra, và từ đó bạn đi vào trong tiếp xúc với siêu nhiên, gọi nó là Thượng đế hay sinh linh hoàn hảo, siddhas - những người đã đạt tới.
Qua dục bạn sinh sản ra nhiều thân thể giống bạn. Dục là sáng tạo; nó cho sinh ra nhiều trẻ con như bạn - bạn tái tạo bản thân bạn. Khi năng lượng của bạn đi qua sahasrar, luân xa thứ bẩy, bạn tái tạo bản thân bạn: đó là điều phục sinh là gì. Đó là điều được Jesus ngụ ý khi ông ấy nói, "Được tái sinh." Thế thì bạn trở thành bố và mẹ của bản thân bạn. Trung tâm mặt trời của bạn trở thành bố bạn, trung tâm mặt trăng của bạn trở thành mẹ bạn, và cuộc gặp gỡ của mặt trời và mặt trăng của bạn ở bên trong làm thoát ra năng lượng của bạn hướng tới đầu. Nó là cực thích bên trong - sự gặp gỡ của mặt trời và mặt trăng, hay gọi nó là sự gặp gỡ của anima và animus, nam tính và nữ tính bên trong bạn.
Toàn thân bạn được phân chia thành nam tính và nữ tính. Điều này phải được hiểu. Bạn có thấy bao nhiêu người thuận tay trái bị kìm nén không? Nếu đứa trẻ viết bằng tay trái, ngay lập tức toàn thể xã hội chống lại nó - bố mẹ, người cùng tuổi, thầy giáo. Toàn thể xã hội buộc nó viết bằng tay phải. Bên phải là đúng và bên trái là sai. Vấn đề là gì? Tại sao có chuyện bên phải là đúng và bên trái là sai? Cái gì sai với bên trái? Và mười phần trăm người trên thế giới là người thuận tay trái. Mười phần trăm không phải là thiểu số nhỏ. Cứ mười người bao giờ cũng có một người thuận tay trái. Người đó có thể không có nhận biết có ý thức về điều đó, người đó có thể đã quên mất về điều đó, bởi vì từ chính lúc ban đầu những người thuận tay trái đã bị ép buộc trở thành thuận tay phải. Tại sao?
Tay phải được nối với trung tâm mặt trời, với nam tính bên trong bạn. Tay trái được nối với nữ tính bên trong bạn, với trung tâm mặt trăng. Và toàn thể xã hội là hướng theo nam tính.
Lỗ mũi trái của bạn được nối với trung tâm mặt trăng; lỗ mũi phải của bạn được nối với trung tâm mặt trời. Bạn có thể thử điều đó. Bất kì khi nào bạn cảm thấy rất nóng, bịt mũi phải lại và thở từ bên trái, và trong vòng mười phút bạn sẽ cảm thấy mát mẻ tinh tế tới với bạn. Bạn có thể thực nghiệm; nó dễ dàng thế. Hay, nếu bạn đang run người và cảm thấy ớn lạnh, bịt lỗ mũi trái lại và thở từ mũi phải; trong vòng mười phút bạn sẽ vã mồ hôi.
Yoga đã đi tới hiểu điều đó, và người yogis nói - và người yogis làm điều đó: vào buổi sáng họ sẽ không bao giờ dậy mà thở từ mũi phải vì nếu bạn dậy mà thở từ mũi phải thì có nhiều khả năng là trong ngày đó bạn sẽ giận dữ, bạn sẽ đánh nhau, bạn sẽ trở nên hung hăng - bạn sẽ không bình thản và tự chủ. Cho nên trong yoga chính một phần của kỉ luật là mọi người dậy trước hết nhìn xem mũi nào đang vận hành. Nếu mũi trái đang vận hành thì hoàn toàn tốt, đó là khoảnh khắc đúng để ra khỏi giường. Nếu nó không vận hành, thì quay người, bịt mũi phải lại và thở từ mũi trái. Dần dần bên trái tiếp quản, thế rồi dậy.
Bao giờ cũng dậy với mũi trái vận hành và bạn sẽ thấy khác biệt toàn bộ trong hoạt động cả ngày của bạn. Bạn sẽ ít giận hơn, ít cáu bẳn hơn, bình thản hơn, tự chủ hơn, bình tĩnh. Việc thiền của bạn sẽ đi sâu hơn. Nếu bạn muốn tranh đấu, thế thì mũi phải là rất tốt. Nếu bạn muốn yêu, thế thì mũi trái là rất tốt.
Và việc thở này liên tục thay đổi. Bạn có thể đã không quan sát, nhưng quan sát nó đi. Y học hiện đại phải đi tới hiểu nó bởi vì nó có thể được dùng trong điều trị rất, rất có ý nghĩa. Có những bệnh mà có thể được giúp bởi mặt trăng, và có những bệnh có thể được giúp bởi mặt trời. Nếu bạn biết đích xác, thế thì việc thở có thể được dùng để chữa trị cho người. Nhưng y học hiện đại còn chưa vớ được sự kiện này. Việc thở của bạn thay đổi một cách liên tục. Bốn mươi phút mũi này hoạt động, thế rồi bốn mươi phút mũi kia hoạt động. Liên tục bên trong bạn mặt trời và mặt trăng thay đổi - bạn đung đưa từ mặt trời sang mặt trăng, từ mặt trăng sang mặt trời.
Đó là lí do tại sao bạn thay đổi tâm trạng thường xuyên thế. Thỉnh thoảng bạn cảm thấy cáu kỉnh - chẳng bởi lí do nào cả. Không cái gì đã xảy ra, mọi thứ đều như cũ, bạn chỉ ngồi trong cùng phòng - không cái gì đã xảy ra - đột nhiên bạn cảm thấy cáu kỉnh. Quan sát. Đưa tay bạn lại gần mũi và cảm: việc thở của bạn phải đã thay đổi từ trái sang phải. Mới khoảnh khắc trước bạn đã cảm thấy thoải mái thế; ngay khoảnh khắc sau bạn cảm thấy buồn thế, sẵn sàng đánh nhau hay làm cái gì đó.
Nhớ lấy, toàn thân bị phân chia. Não bạn cũng bị phân chia thành hai não. Bạn không có một não; bạn có hai não - hai bán cầu. Não trái là não mặt trời; não phải là não mặt trăng. Bạn có thể phân vân, bởi vì mọi thứ bên trái là mặt trăng, sao não phải là mặt trăng. Não phải được nối với thân thể bên trái của bạn. Tay trái của bạn được nối với não phải, tay phải của bạn được nối với não trái, đó là lí do tại sao. Bắt chéo.
Não phải là chỗ của tưởng tượng, thơ ca, tình yêu, trực giác. Não trái là chỗ của suy luận, logic, biện luận, triết lí, khoa học.
Và chừng nào bạn chưa đạt tới cân bằng giữa năng lượng mặt trời và mặt trăng, bạn sẽ không có khả năng siêu việt. Chừng nào não trái của bạn còn chưa gặp gỡ với não phải và được bắc cầu, bạn sẽ không đạt tới sahasrar. Bạn phải trở thành một để đạt tới sahasrar là điểm omega trong bản thể bạn. Bạn không thể đạt tới đó như đàn ông, bạn không thể đạt tới đó như đàn bà. Bạn phải đạt tới đó chỉ như tâm thức thuần khiết - một, toàn bộ, toàn thể.
Tính dục của đàn ông là hướng mặt trời, tính dục của đàn bà là hướng mặt trăng. Đó là lí do tại sao đàn bà có kinh nguyệt hàng tháng trong hai mươi tám ngày, bởi vì mặt trăng có một tháng hai mươi tám ngày. Họ bị ảnh hưởng bởi mặt trăng - mặt trăng có chu kì pha hai mươi tám ngày.
Và nhiều đàn bà cảm thấy, khi đêm trăng tròn tới, có chút ít dở người, chút ít nổi cáu. Thận trọng vào, khi trăng tròn có đó, thận trọng với vợ bạn hay bạn gái. Cô ấy trở nên hoang dã chút ít, như đại dương trở nên hoang dã và bị ảnh hưởng bởi năng lượng mặt trăng.
Bạn có quan sát không? Đàn ông thích làm tình với mắt mở. Không chỉ điều đó, nhưng với ánh sáng bật lên đầy đủ. Nếu không có rắc rối, đàn ông muốn yêu vào ban ngày. Và họ đã bắt đầu, đặc biệt ở Mĩ, bởi vì rắc rối khác đã biến mất. Mọi người đang làm tình nhiều vào buổi sáng hơn là buổi đêm. Đàn bà thích làm tình trong bóng tối, và ngay cả trong bóng tối họ cũng muốn nhắm mắt lại.
Trăng chiếu sáng trong bóng tối, yêu mến bóng tối... ban đêm.
Đó là lí do tại sao đàn bà không quan tâm tới sách báo khiêu dâm. Bây giờ bởi vì phong trào giải phóng, vài tạp chí đã bắt đầu cạnh tranh với Playboy và kiểu tạp chí đó - Playgirl đã đi vào sự tồn tại. Nhưng đàn bà về căn bản không quan tâm tới sách báo khiêu dâm. Thực ra họ không bao giờ có thể hiểu được tại sao đàn ông thích xem ảnh đàn bà trần truồng nhiều thế. Họ có khó khăn nào đó trong việc hiểu sự kiện này.
Đàn ông là hướng mặt trời, hướng ánh sáng. Mắt là một phần của mặt trời; đó là lí do tại sao mắt có thể thấy. Chúng tương ứng với năng lượng mặt trời. Cho nên đàn ông hướng mắt nhiều hơn. Đó là lí do tại sao đàn ông là kẻ nhòm ngó và đàn bà là kẻ thích phô trương. Đàn ông không thể hiểu được tại sao đàn bà cứ trang điểm cho bản thân họ nhiều thế.
Tôi đã nghe, một đôi đi lên núi để làm tuần trăng mật của họ. Chàng thanh niên nằm trên giường và đợi cô vợ. Cô vợ đang trang điểm thân thể và chải tóc thế này thế nọ, đánh móng tay, và rồi cô ấy lấy vài giọt nước hoa và rắc vào sau tai. Thế là chàng thanh niên nhảy ra khỏi giường. Cô vợ hỏi, "Có chuyện gì vậy anh? Anh đi đâu thế?" Anh ta phóng ra chỗ va li của mình, và anh ta nói, "Nếu đấy là chuyện chính thức, ít nhất anh phải mặc quần áo vào."
Đàn bà là kẻ thích phô trương - họ muốn được mọi người nhìn. Nhưng điều đó là hoàn toàn được bởi vì đó là cách đàn ông và đàn bà khớp nhau: đàn ông muốn nhìn, đàn bà muốn phô trương. Họ khớp, hoàn hảo. Điều đó là tuyệt đối được. Nếu đàn bà không muốn phô trương, thế thì họ sẽ tạo ra rắc rối, và nếu đàn ông không phải là kẻ nhòm ngó, đàn bà chuẩn bị nhiều thế cho ai - cho ai? - Không ai sẽ nhìn vào họ.
Trong tự nhiên mọi thứ khớp theo cách hoàn hảo. Nó đồng bộ hoá.
Nhưng để đạt tới sahasrar bạn phải vứt nhị nguyên này của vận hành đi. Bạn không thể đạt tới Thượng đế như đàn ông hay đàn bà. Bạn phải đạt tới Thượng đế như một sự hiện hữu đơn giản, thuần khiết.
"Bằng việc thực hiện samyama trên ánh sáng dưới đỉnh đầu, khả năng tiếp xúc với mọi sinh linh hoàn hảo xảy tới." Năng lượng phải chuyển lên trên, và samyama là phương pháp để làm điều đó. Đầu tiên, nếu bạn là đàn ông, bạn phải hoàn toàn có ý thức về mặt trời của bạn, trung tâm năng lượng mặt trời của bạn, trung tâm dục của bạn. Bạn phải ở đó tại muladhar, trút tâm thức của bạn lên muladhar. Khi muladhar được tâm thức trút lên, bạn sẽ quan sát và bạn sẽ thấy rằng năng lượng đang đi lên và đi vào trong trung tâm hara, vào trong mặt trăng.
Và bạn sẽ cảm thấy phúc lạc thế khi năng lượng đi vào trung tâm mặt trăng. Mọi cực thích dục của bạn đều không là gì khi so sánh với nó - tuyệt đối không là gì. Có mười nghìn lần mạnh hơn khi năng lượng mặt trời của bạn đi vào trong năng lượng mặt trăng của bạn. Thế thì đàn ông thực gặp đàn bà thực. Khi bạn gặp người đàn bà bên ngoài, dù bạn tới gần đến đâu, bạn vẫn còn tách rời. Đó là cuộc gặp gỡ rất bề ngoài - chỉ hai bề mặt gặp gỡ, có vậy thôi. Chỉ hai bề mặt cọ vào nhau, có vậy thôi. Nhưng khi năng lượng mặt trời của bạn đi vào trong năng lượng mặt trăng, thế thì hai trung tâm của năng lượng gặp gỡ.
Và đàn ông có mặt trời và mặt trăng gặp gỡ vẫn còn vui vẻ, phúc lạc - liên tục, bởi vì không có nhu cầu đánh mất cực thích này. Đây là cực thích thường hằng.
Nếu bạn là đàn bà, đem ý thức của bạn vào trung tâm hara và bạn sẽ thấy năng lượng của bạn chuyển tới trung tâm mặt trời.
Một trung tâm không vận hành, một trung tâm vận hành. Vận hành phải được nối với không vận hành: ngay lập tức, trung tâm không vận hành bắt đầu vận hành.
Và khi năng lượng gặp gỡ - mặt trời và mặt trăng trở thành một - bạn sẽ thấy rằng bây giờ năng lượng liên tục dâng lên. Bạn bắt đầu rơi lên. Tôi đã nghe:
Một người điên là khách của một người họ hàng xa, được cho vào ở tầng hầm nơi có một chiếc giường. Vào giữa đêm người chủ thức dậy với tiếng cười của vị khách vọng từ tầng trên.
"Anh làm gì ở đó thế?" ông chủ hỏi. "Anh được bố trí ngủ ở tầng hầm cơ mà." "Tôi đã ở đó," vị khách trả lời. "Tôi đã lăn khỏi giường tôi." "Thế làm sao anh rơi lên tầng trên được?" "Đấy là điều mà tôi cười mãi."
Vâng, điều đó xảy ra. Một khi mặt trời và mặt trăng gặp gỡ, thế thì bạn giống như người điên đó. Bạn rơi lên. Và thế thì bạn sẽ cười bởi vì nó thực sự là cái gì đó buồn cười. Rơi lên sao? Người ta chưa bao giờ nghe về điều đó.
Tôi đã nghe một câu chuyện, Newton đang ngồi trong vườn và một quả táo rụng xuống. Quả táo này dường như được kết nối với nhân loại quá nhiều - cùng quả táo đã có đó khi Adam bị mắc bẫy bởi rắn. Và lần nữa, ông Newton đáng thương này đã ngồi và một quả táo rụng xuống, và ông ấy đã khám phá ra lí thuyết hấp dẫn. Nhưng khi mặt trời và mặt trăng của bạn gặp gỡ, đột nhiên, bạn đi trong một thực tại khác, một thực tại tách rời: bạn bắt đầu rơi lên. Bạn bất chấp Newton - hấp dẫn là vô nghĩa. Bạn hấp dẫn lên! Và tất nhiên toàn thể huấn luyện đã từng là thế này: rằng nếu bạn ném một thứ nó rơi xuống - mọi thứ đều rơi xuống. Thế thì tiếng cười là có lí.
Người ta nói về Hotei, một Thiền sư, rằng khi ông ấy trở nên chứng ngộ ông ấy không bao giờ dừng cười. Ông ấy tiếp tục, tiếp tục, mãi cho tới khi ông ấy chết. Ông ấy đi từ làng nọ sang làng kia cười và cười. Người ta nói về ông ấy là ngay cả khi ông ấy ngủ bạn vẫn có thể nghe tiếng cười của ông ấy. Mọi người thường hỏi, "Sao thầy cười?" Ông ấy sẽ nói, "Làm sao ta có thể nói được? Nhưng cái gì đó đã xảy ra - cái gì đó rất buồn cười. Cái gì đó không nên xảy ra - nó không được giả định xảy ra - đã xảy ra."
Vâng, người điên này đã làm đúng. Nếu một ngày nào đó bạn rơi từ giường và đột nhiên bạn thấy bản thân mình ở trên gác, bạn sẽ cười. Nhưng điều này xảy ra, và người điên này không phải là người điên thường. Đây là câu chuyện Sufi. Người điên này phải đã là một thầy.
Lời kinh này nói: "Murdha jyotishi siddha darshanam." Khoảnh khắc tâm thức bạn gặp gỡ với sahasrar, bạn đột nhiên trở nên sẵn có cho thế giới bên kia - cho thế giới của siddhas.
Trong biểu tượng yoga, muladhar, trung tâm dục, được coi là giống như hoa sen đỏ bốn cánh. Bốn cánh biểu thị cho bốn hướng; mầu đỏ biểu thị cho nhiệt, bởi vì nó là trung tâm mặt trời. Và sahasrar được biểu diễn như hoa sen một nghìn cánh đủ mọi mầu. Một nghìn cánh - sahasrar padma - hoa sen một nghìn cánh đủ mọi mầu bởi vì nó chứa cái toàn thể. Trung tâm dục chỉ là mầu đỏ. Sahasrar là cầu vồng - bao gồm mọi mầu sắc, bao gồm một cách toàn bộ.
Thông thường, sahasrar, hoa sen một nghìn cánh, rủ xuống trong đầu bạn. Một khi năng lượng chuyển qua nó, năng lượng làm cho nó đi lên. Cứ dường như hoa sen đang treo đó mà không có năng lượng, hướng xuống - chính trọng lượng của nó làm cho nó rủ xuống - thế thì năng lượng xô vào trong nó, làm cho nó sống động. Nó chuyển lên trên, mở tới cõi bên kia.
Khi hoa sen này đi lên và nở hoa, điều đó được nói trong kinh sách yoga, "Nó chói lọi như mười triệu mặt trời và mười triệu mặt trăng." Một mặt trăng và một mặt trời trong bản thể bạn. Điều đó trở thành khả năng của gặp gỡ mười triệu mặt trời và mười triệu mặt trăng. Bạn đã tìm ra chìa khoá của cực thích tối thượng, nơi mười triệu mặt trăng gặp mười triệu mặt trời - mười triệu nữ gặp mười triệu nam. Bạn có thể nghĩ tới cực lạc.
Shiva phải đã ở trong cực lạc đó khi ông ấy được thấy đang làm tình với vợ Devi. Ông ấy phải đã ở sahasrar. Việc làm tình của ông ấy không thể có tính dục - nó không thể là từ muladhar. Nó phải đã từ điểm omega của bản thể của ông ấy. Đó là lí do tại sao ông ấy hoàn toàn quên lãng người xem, người đang đứng. Ông ấy không trong thời gian, ông ấy không trong không gian. Ông ấy ở bên ngoài thời gian, bên ngoài không gian. Đây là mục đích của yoga, của mật tông, của mọi nỗ lực tâm linh.
Gặp gỡ của năng lượng nam và nữ tạo ra khả năng của gặp gỡ tối thượng của Shiva và Shakti, sống và chết. Theo cách này các thần Hindu là cực kì đẹp, và cực kì nhân bản. Hmm?... nghĩ về Thượng đế của người Ki tô giáo mà xem - chẳng có vợ, không đàn bà nào. Có vẻ chút ít cứng nhắc, có vẻ chút ít một mình, có vẻ chút ít trống rỗng, có vẻ chút ít hướng nam tính, quá hướng mặt trời, cứng rắn. Không gì ngạc nhiên nếu khái niệm Do Thái và Ki tô giáo về Thượng đế là về một Thượng đế rất khủng khiếp.
Người Do Thái nói, "Phải sợ Thượng đế. Nhớ lấy, ngài không phải là ông bác của ông." Nhưng người Hindu nói, "Đừng lo nghĩ - ngài là mẹ bạn." Người Do Thái đã tạo ra một Thượng đế rất dữ tợn, người bao giờ cũng sẵn sàng ném lửa và sấm sét và phá huỷ và giết chóc. Và chỉ một tội nhỏ, có thể chỉ là một tội hồn nhiên, và ngài trở nên nổi giận khủng khiếp. Dường như là gần thần kinh.
Và toàn thể quan niệm Ki tô giáo về ba ngôi - Thượng đế, Thánh thần linh thiêng và Con trai - toàn thể ba ngôi này dường như giống câu lạc bộ con trai. Đồng dục. Không đàn bà chút nào. Và người Ki tô giáo sợ năng lượng mặt trăng thế, sợ đàn bà, sợ tới mức họ không có quan niệm nào. Bằng cách nào đó, về sau, họ đã cải tiến nó một chút bằng việc thêm Mary Đồng trinh. Bằng cách nào đó, bởi vì điều đó là chống lại toàn bộ ý thức hệ của họ. Và thế nữa họ cũng khăng khăng là bà ấy là người còn trinh.
Gặp gỡ của mặt trời và mặt trăng là không được phép chút nào. Cho dù họ cho phép Mary được kính trọng... Tất nhiên đó là trạng thái phụ bởi vì trong ba ngôi nguyên thuỷ không có chỗ cho bà ấy. Bằng cách nào đó cảm thấy sự không đầy đủ của nó, họ đã xoay xở đem Mary Đồng trinh vào từ cửa sau. Nhưng thế nữa họ vẫn khăng khăng bà ấy đồng trinh. Sao có khăng khăng này? Cái gì sai với việc gặp gỡ của năng lượng nam và nữ?
Và nếu bạn sợ thế về việc gặp gỡ của năng lượng nam và nữ trong thế giới bên ngoài, làm sao bạn sẽ sẵn sàng cho cùng việc gặp gỡ trong thế giới bên trong?
Các thần Hindu còn nhân bản hơn, con người hơn - nhiều tính đất hơn, và tất nhiên, nhiều từ bi, nhiều tình yêu chảy qua họ.
Pratibhad va sarvam.
Qua pratibha, trực giác, tri thức về mọi thứ.
Từ pratibha là một từ khó; nó không thể được dịch sang tiếng Anh. "Trực giác" là cái thay thế rất, rất nghèo nàn cho nó, và tôi sẽ phải giải thích nó cho bạn. Nó không thể được dịch; tôi chỉ có thể mô tả nó.
Mặt trời là trí tuệ, mặt trăng là trực giác. Khi bạn siêu việt lên trên cả hai thế thì pratibha tới - và không có từ cho nó. Mặt trời là trí tuệ, phân tích, logic. Mặt trăng là trực giác, linh cảm, chỉ là một chớp nhoáng - đột nhiên bạn nhảy vào kết luận. Trí tuệ đi qua phương pháp, quá trình, tam đoạn luận. Trực giác đột nhiên đi tới kết luận - không quá trình, không phương pháp, không tam đoạn luận. Bạn không thể hỏi trực giác tại sao. Không có "do đó" trong trực giác. Một khải lộ bất thần - dường như tia chớp đã xảy ra và bạn đã đi tới thấy cái gì đó, và thế rồi tia chớp biến mất và bạn không biết làm sao nó đã xảy ra và tại sao nó đã xảy ra, nhưng nó đã xảy ra và bạn đã thấy cái gì đó. Mọi xã hội nguyên thuỷ đều trực giác; mọi đàn bà đều trực giác; mọi đứa trẻ đều trực giác; mọi nhà thơ đều trực giác.
Pratibha là khác toàn bộ. Nó đã được dịch là "trực giác" trong mọi bản dịch tiếng Anh của Kinh Yoga của Patanjali, nhưng tôi không thích dịch nó theo cách đó. Pratibha nghĩa là khi năng lượng đã đi ra ngoài nhị nguyên của trí tuệ và trực giác. Nó ở bên ngoài cả hai. Trực giác ở bên ngoài trí tuệ, pratibha ở bên ngoài cả hai. Bây giờ không có logic trong nó, không có ánh chớp bất thần nào trong nó - mọi thứ là được khải lộ vĩnh hằng. Trong pratibha người ta trở thành toàn thức, toàn quyền, ở khắp mọi nơi. Mọi thứ đều được khải lộ đồng thời - quá khứ, hiện tại, tương lai - tất cả. Đó là nghĩa - pratibhad va sarvam - "Qua pratibha, tất cả."
Khi năng lượng của bạn di chuyển qua sahasrar và mười triệu mặt trăng và mười triệu mặt trời gặp gỡ bên trong bạn và bạn trở thành kinh nghiệm đại dương về cực thích - điều diễn ra mãi và mãi, vĩnh hằng; thế thì không có kết thúc cho nó - có pratibha. Thế thì bạn thấy - bạn thấy mọi thứ hoàn toàn, bạn biết mọi thứ hoàn toàn. Thế thì không gian và thời gian cả hai biến mất, với mọi giới hạn của chúng.
Cho nên, một tâm lí học là hướng mặt trời, tâm lí học khác là hướng mặt trăng, nhưng tâm lí học thực - tâm lí học thực của hiện hữu sẽ là hướng pratibha. Nó sẽ không bị phân chia thành đàn ông và đàn bà. Nó sẽ là sự tổng hợp cao nhất và lớn lao nhất, và siêu việt.
Trí tuệ giống như người mù: nó dò dẫm trong bóng tối. Đó là lí do tại sao nhiều biện luận thế được cần. Trực giác không mù nhưng giống như người què: nó không thể đi được. Pratibha giống như người mạnh khoẻ, mọi chi đều mạnh khoẻ.
Có một câu chuyện Ấn Độ rằng có lần rừng bị cháy. Có một người mù và một người què trong rừng. Người mù không thể thấy được, người đó có thể chạy. Nhưng chạy mà không biết bạn đang chạy đi đâu là nguy hiểm - lửa có khắp mọi nơi, khắp xung quanh. Người què không thể bước được, nhưng người đó có thể thấy. Họ đi tới một hiểu biết ngầm ẩn: người mù cho phép người què cưỡi lên lưng mình và nhìn hộ anh ta, và người què đồng ý nhìn hộ người mù nếu anh ta định chạy hộ cho người què. Trong việc tổng hợp của họ, họ có thể thoát ra khỏi rừng và lửa.
Trí tuệ là một nửa, trực giác cũng là một nửa. Trực giác không thể chạy được - nó chỉ có trong chớp nhoáng. Nó không thể là cội nguồn liên tục của khải lộ. Và trí tuệ cứ dò dẫm trong bóng tối, liên tục dò dẫm trong bóng tối.
Pratibha là tổng hợp và siêu việt.
Nếu bạn quá trí tuệ, bạn sẽ bỏ lỡ đôi điều trong cuộc sống mà rất đẹp. Bạn sẽ không có khả năng tận hưởng thơ ca, bạn sẽ không có khả năng vui sướng trong ca hát, bạn sẽ không có khả năng mở hội trong nhảy múa. Họ sẽ có vẻ hơi ngu xuẩn, hơi bên dưới bạn. Bạn sẽ bồn chồn, bạn sẽ kìm bản thân bạn lại, bạn sẽ vẫn còn hơi bị kìm nén. Tâm trạng của bạn sẽ khổ.
Nếu bạn chỉ là trực giác, bạn có thể có khả năng tận hưởng nhiều, nhưng bạn sẽ không có khả năng giúp người khác nhiều bởi vì trao đổi sẽ thiếu. Bạn có thể có khả năng sống cuộc sống đẹp cho bản thân bạn, nhưng bạn sẽ không có khả năng tạo ra thế giới đẹp quanh bạn bởi vì điều đó là có thể chỉ qua trí tuệ.
Khi khoa học và thơ ca gặp gỡ, thế thì thế giới hoàn hảo là có thể. Bằng không, trí tuệ cứ kết án trực giác; trực giác cứ kết án trí tuệ. Tôi đã nghe:
Một người đàn bà hỏi một người mới quen, "Chị kết hôn được bao lâu rồi?'' "Hai mươi năm lạc lõng," người kia đáp. "Sao chị gọi những năm đó là lạc lõng?" "Đợi đã," người đàn bà nói, "cho tới khi chị thấy chồng tôi."
Trực giác nghĩ trí tuệ là lạc lõng; trí tuệ nghĩ trực giác là lạc lõng. Một cách tách biệt chúng là lạc lõng. Cùng nhau chúng tạo ra dàn nhạc lớn, hài hoà lớn.
Nhà huyền môn vĩ đại người vịnh Péc xích Rumi trong một bài thơ hay kể cho chúng ta cách một hôm Moses, nhà tiên tri, gặp một linh mục trên đường, đang kêu khóc, "Hỡi Trời ơi, ngài ở đâu? Tôi khao khát phục vụ ngài và chải tóc cho ngài và giặt quần áo của ngài và giết rận cho ngài và mang sữa cho ngài và hôn tay nhỏ bé của ngài và cọ chân nhỏ bé của ngài và quét phòng nhỏ bé của ngài vào ban đêm trước khi ngài về nghỉ."
Moses, nhà tiên tri, nghe thấy những lời này bực mình lắm và ông ấy nhanh chóng nói những lời cộc cằn với ông linh mục, "Ôi cái đồ ngu xuẩn! Ông nói những lời ngu xuẩn này với ai vậy? Ông thốt ra những lời báng bổ gì vậy? Tốt hơn cả ông câm đi còn hơn là nói như thế với Thượng đế đấng chí tôn. Lời của ông là tội lỗi. Ông linh mục! Nhét bông vào mồm ông và đừng có nói thêm một lời bất kính với Trời, người mà trong một khoảnh khắc có thể thiêu rụi ông thành tro bụi."
Và linh mục, như chúng ta được kể lại, xé quần áo của mình trong đau buồn và thốt ra tiếng thở dài và nhanh chóng đi vào trong chỗ hoang dã.
Thế rồi một khải lộ tới với Moses vào ban đêm. Trời nói với Moses, "Moses, ngươi được phái vào thế gian để hợp nhất, không phải để chia rẽ. Nhưng ngươi đã làm xa lìa khỏi ta người phục vụ của ta, người sùng kính của ta.
Người thân thiết của ta là linh mục đó. Đừng quên, Moses, rằng mọi phương thức tôn thờ đều là của ta. Các phương thức có nhiều, các tôn giáo có nhiều, vậy mà tất cả đều là của ta. Từng người đều có con đường riêng của mình, cách riêng của mình, hình dạng riêng của mình, cách diễn đạt riêng của mình. Moses, ta không nhìn vào ngôn ngữ và lời nói: ta nhìn vào linh hồn và cảm giác nội tâm."
Và Moses đi ra tìm gặp ông linh mục kia và nói với ông ấy, "Tôi hối hận. Và tôi xin ông tha thứ cho tôi."
Trí tuệ bao giờ cũng cứ nghĩ dưới dạng cách thức diễn đạt riêng của nó. Trực giác vẫn còn không thể nào hiểu nổi với nó. Và trực giác không thể tin được vào trí tuệ; nó dường như quá hời hợt, không có chiều sâu nào.
Bạn phải đi tới sự tổng hợp bên trong bạn. Đó là điều Patanjali ngụ ý khi ông ấy nói, "pratibhad va sarvam." Bạn phải đi tới sự tổng hợp sâu sắc tới mức pratibha nảy sinh trong bạn - điều là một, nơi logic và lời cầu nguyện gặp gỡ, nơi công việc và tôn thờ gặp gỡ, nơi khoa học không đối kháng với thơ ca và thơ ca không đối kháng với khoa học.
Đó là lí do tại sao tôi nói con người hãy còn trong tiến bộ, con người còn đang tiến hoá. Con người mới là hình dạng mà không có nội dung. Nội dung phải được đạt tới; thuật giả kim vĩ đại đó phải được đạt tới. Bạn phải làm cho bản thân mình thành phòng thí nghiệm thực nghiệm lớn về tiến hoá và bạn phải mang năng lượng của bạn từ muladhar, từ trung tâm dục, lên tới sahasrar.
Hridaye chitta samvit.
Thực hiện samyama trên trái tim đem tới nhận biết về bản chất của tâm trí.
Điều đó nữa cũng không phải là việc dịch thích hợp, nhưng nó là khó. Người dịch bị lâm vào khó khăn.
"Hridaye chitta samvit." Thứ nhất, khi Patanjali dùng từ hridaye, ông ấy không ngụ ý trái tim vật lí. Theo thuật ngữ yoga, ngay đằng sau trái tim vật lí là trái tim thực, ẩn kín. Nó không phải là một phần của thân thể vật lí. Trái tim vật lí đơn giản tương ứng với trái tim thực, trái tim tâm linh. Có sự đồng bộ giữa chúng, nhưng không có quan hệ nhân quả. Và trái tim đó có thể được biết chỉ khi bạn đã đạt tới đỉnh. Khi năng lượng của bạn đã đi tới điểm omega của sahasrar, chỉ thế thì bạn mới có thể nhận ra trái tim thực, chính chỗ trú ngụ của Thượng đế.
"Hridaye chitta samvit" - "Thực hiện samyama trên trái tim đem tới nhận biết về bản chất của tâm trí." Điều đó nữa cũng không đúng. Chitta samvit nghĩa là chính bản chất của tâm thức, không của tâm trí. Tâm trí mất rồi, bị bỏ lại sau, bởi vì tâm trí hoặc là tâm trí mặt trời hoặc là tâm trí mặt trăng. Một khi bạn đã siêu việt lên trên mặt trời và mặt trăng, tâm trí mất đi, bị bỏ lại sau. Thực ra chitta samvit là trạng thái của không có tâm trí. Nếu bạn hỏi các Thiền nhân họ sẽ nói là vô trí. Tâm trí mất đi bởi vì nó tồn tại với phân chia; khi phân chia mất rồi, tâm trí cũng mất. Chúng là cùng nhau, hai mặt của một hiện tượng. Tâm trí phân chia và tâm trí tồn tại qua phân chia - chúng tuỳ thuộc vào nhau, chúng liên thuộc. Khi phân chia mất rồi tâm trí cũng mất theo; khi tâm trí mất, phân chia mất.
Có hai cách để đạt tới trạng thái này của vô trí. Một là cách thức của mật tông: bạn vứt bỏ tâm trí; phân chia biến mất. Cách kia là cách của yoga: bạn vứt bỏ phân chia; tâm trí biến mất. Bạn có thể làm cả hai. Kết quả tối thượng là như nhau - bạn trở thành một, nhất trí nảy sinh.
"Hridaye chitta samvit." Thế thì bạn đi tới biết bản tính thực của tâm thức là gì. Lần nữa, từ này "tâm thức" trong tiếng Anh có nghĩa dường như nó là trái nghĩa với "vô thức." Chitta samvit không phải là trái nghĩa với vô thức. Tâm thức bao gồm tất cả: vô thức cũng là trạng thái ngủ của tâm thức, cho nên không có đối kháng. Tâm thức, vô thức, tất cả - chính bản tính của tâm thức - được khải lộ khi người ta đem nhận biết của mình, samyama, tới trái tim.
Trong yoga trung tâm trái tim được gọi là luân xa anahat, trung tâm anahat. Bạn phải đã nghe công án Thiền nổi tiếng... Khi một đệ tử tới thầy, thầy cho cái gì đó tuyệt đối ngớ ngẩn để thiền. Một trong những cái ngớ ngẩn nổi tiếng là, thầy nói với đệ tử, "Đi, và lắng nghe âm thanh của tiếng vỗ của một bàn tay." Bây giờ điều này là ngớ ngẩn. Một bàn tay không thể vỗ được, và không thể có âm thanh của một bàn tay vỗ. Để có âm thanh hai tay được cần để vỗ và tạo ra nó. Ahat nghĩa là bằng xung đột; anahat nghĩa là không có xung đột nào. Anahat nghĩa là: âm thanh của một bàn tay vỗ.
Khi mọi âm thanh biến mất trong bạn, bạn nghe thấy âm thanh mà thường xuyên có đó, điều là cố hữu của tự nhiên, điều là chính bản chất của sự tồn tại - âm thanh của im lặng, hay âm thanh của vô âm. Trái tim được gọi là luân xa anahat, chỗ mà âm thanh thường được tạo ra - không có bất kì xung đột nào - âm thanh vĩnh hằng. Người Hindu đã gọi âm thanh đó là aumkar - aum. Nó phải được nghe thấy. Cho nên những người cứ lặp lại, "Aum, aum, aum..." đang làm điều ngu xuẩn. Bằng việc lặp lại của bạn, bạn không thể đi tới được aumkar thực, tới âm thanh thực, bởi vì nếu bạn làm nó, bạn đang tạo ra nó qua việc vỗ tay.
Trở nên hoàn toàn im lặng, vứt bỏ mọi suy nghĩ, trở nên bất động, và đột nhiên nó có đó - nó bao giờ cũng có đó, nhưng bạn lại không sẵn có để lắng nghe nó. Nó là âm thanh rất, rất tinh tế. Khi bạn đã vứt bỏ toàn thế giới khỏi tâm trí của bạn và bạn tỉnh táo chỉ về nó, thế thì dần dần bạn trở nên cảm nhận về nó - dần dần bạn bắt đầu nghe thấy nó.
Một khi bạn có thể nghe được âm thanh của một bàn tay vỗ, bạn đã nghe được Thượng đế, bạn đã nghe được tất cả.
Patanjali đang đưa bạn từng bước hướng tới điểm omega. Ba lời kinh này là rất có ý nghĩa. Suy ngẫm về chúng lặp đi lặp lại, thiền về chúng đi. Và cố gắng cảm thấy chúng ở bên trong bản thể bạn. Chúng có thể trở thành chìa khoá mà có thể mở các cánh cửa của điều thiêng liêng.
Xem tiếp Chương 6Quay về Mục lục

0 Đánh giá

Ads Belove Post