Chương 5. Mắt Của Thiền

Chương 5. Mắt Của Thiền

Price:

Read more

Bông Sen Trắng
Bài giảng về Thiền sư Bồ Đề Đạt Ma
Chương 5. Mắt của Thiền

Hỏi: Tôi đã nghe rằng mọi chư phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều thuyết giảng về cùng pháp và vô hạn sinh linh được cứu khỏi khổ. Điều này không đúng sao?
Đáp: Ông đã nghe ai đó nói về mơ, và bản thân ông thực tế đang mơ. Bất kì cái gì ông hình dung bằng tâm trí nhị nguyên của ông không bao giờ làm ra mô tả đúng về điều bản chất của tâm trí, do đó, ta gọi ông là người mơ. Mơ là một điều và nhận ra là điều khác. Đừng trộn lẫn chúng với nhau. Trí huệ trong mơ không phải là trí huệ thực. Người có trí huệ thực không giữ việc nhận cái ta. Chư phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai ở trong cõi giới bên ngoài nhận biết. Nếu ông tắt năng lực suy nghĩ của ông, chắn đường của tâm trí ông, ông sẽ đi vào một quyển khác. Cho tới lúc đó, bất kì cái gì ông nghĩ, bất kì cái gì ông nói, bất kì cái gì ông làm đều không là gì ngoài sự ngu xuẩn trong cõi mơ.
Hỏi: Người ta phải dùng loại trí huệ nào để cắt bỏ ảo tưởng?
Đáp: Khi ông quan sát ảo tưởng của ông, ông sẽ biết rằng chúng là không có cơ sở và không phụ thuộc được. Theo cách này ông có thể cắt bỏ lẫn lộn và hoài nghi. Đây là điều ta gọi là trí huệ.
Hỏi: Loại ảo tưởng nào sẽ bị làm tan biến bởi Thiền?
Đáp: Bất kì ảo tưởng nào về người thường, về triết gia, về thanh văn, về duyên giác-phật, hay về bồ tát.
Hỏi: Khác biệt gì giữa cuộc sống tuyệt vời nhất của hiền nhân và cuộc sống hàng ngày của người thường?
Đáp: Nó giống như tơ. Một số người coi lầm nó là hơi, nhưng thực ra nó là tơ nhện nổi trong không khí. Người thường nhìn cuộc sống của hiền nhân, và tin nó là hệt như cuộc sống hàng ngày của riêng mình; trong khi người chứng ngộ nhìn con đường thiêng liêng trong cuộc sống của người thường. Nếu ông mà quan sát trong kinh rằng mọi chư phật đều thuyết giảng cho hai nhóm, người thường và người trí huệ, nhưng trong con mắt của Thiền, cuộc sống của hiền nhân là cuộc sống của người thường và cuộc sống của người thường là cuộc sống của hiền nhân. Cuộc sống cái một này không có hình dạng và là trống rỗng theo bản tính. Nếu ông trở nên bị gắn bó với bất kì hình dạng nào, ông sẽ bác bỏ nó. Nếu ông thấy một bản ngã, một linh hồn, việc sinh hay chết, bác bỏ tất cả chúng đi.
Hỏi: Tại sao và làm sao chúng tôi bác bỏ chúng?
Đáp: Nếu ông có thiền, ông sẽ không thấy vật. "Cái được thiết lập vững chắc nhất trên con đường dường như là nhu nhược nhất."
Con đường tới thực tại đầy những nghịch lí, do đó tâm trí logic không thể hiểu được nó. Logic là không có khả năng hiểu nghịch lí. Logic cố làm tan biến mọi nghịch lí, làm cho chúng thàng trực tiếp, rõ ràng. Nhưng nghịch lí là cố hữu cho tự nhiên. Tự nhiên tồn tại qua các mâu thuẫn. Mâu thuẫn không thực sự là mâu thuẫn mà là phần bù.
Người nghĩ về chân lí nhất định nghĩ sai. Mọi suy nghĩ đều sai về chân lí, bởi vì khoảnh khắc bạn bắt đầu nghĩ bạn đi theo con đường của logic - và thực tại là có tính nghịch lí; chúng không bao giờ bắt chéo nhau. Chúng chạy song song, nhưng chúng không bao giờ gặp gỡ.
Cái tên khác cho tính nghịch lí này của sự tồn tại là điều bí ẩn. Bí ẩn không phải là câu đố, bí ẩn không phải là vấn đề, bởi vì nó không thể được giải. Đơn giản không có cách nào để giải nó. Nó là để được sống, được kinh nghiệm. Vậy mà bạn sẽ không thể nào trả lời nó là gì, bởi vì khoảnh khắc bạn cố trả lời nó bạn phải mang ngôn ngữ vào - và ngôn ngữ là logic. Ngôn ngữ được tạo ra bởi tâm trí logic, do đó ngôn ngữ là không thích hợp, tuyệt đối không thích hợp để diễn đạt chân lí. Chân lí có thể được diễn đạt chỉ qua im lặng, nhưng thế thì im lặng lại là một điều bí ẩn.
Nghịch lí đầu tiên mà bạn sẽ bắt gặp trên con đường là: tâm trí không thể hỏi được câu hỏi đúng. Hỏi câu hỏi đúng không ở bên trong quyền lực của nó, bởi vì hỏi câu hỏi đúng là tìm ra câu trả lời ngay lập tức. Thực ra, câu hỏi đúng là câu trả lời. Trong thế giới của tâm trí có nhị nguyên: câu hỏi và câu trả lời; chúng là tách bạch. Trong thế giới của thực tại, câu hỏi đúng là câu trả lời. Nếu bạn có thể hỏi câu hỏi đúng, thậm chí không cần hỏi; chính việc hiểu câu hỏi đúng là đủ để hiểu câu trả lời. Nhưng câu hỏi đúng không thể được hỏi bởi tâm trí; nó có thể được hỏi chỉ bởi vô trí. Nhưng vô trí không bao giờ hỏi bất kì cái gì.
Đây là nghịch lí đầu tiên người ta bắt gặp: tâm trí hỏi câu hỏi, nhưng mọi câu hỏi được tâm trí nêu ra nhất định là sai, bởi vì bản thân tâm trí là sai. Bất kì cái gì nảy sinh từ trạng thái đó đều sẽ sai, và câu hỏi sai không thể đưa bạn tới câu trả lời đúng được. Tâm trí có thể hỏi cả triệu câu hỏi, nhưng không có câu trả lời ở bất kì đâu cho những câu hỏi đó. Vô trí biết câu trả lời, nhưng vô tí không bao giờ hỏi câu hỏi. Nó là thoải mái, như ở nhà với thực tại tới mức câu hỏi không phát sinh. Việc không phát sinh câu hỏi là câu trả lời.
Cho nên toàn thể nỗ lực của Bồ đề đạt ma là để thay đổi động thái của bản thể bạn, sự hội tụ của bạn. Bạn bao giờ cũng nghĩ dưới dạng tâm trí nhị nguyên. Tâm trí nhị nguyên bao giờ cũng nghĩ dưới dạng hoặc cái này hoặc cái nọ: "Hoặc Thượng đế là sáng hoặc Thượng đế là tối. Làm sao Thượng đế có thể là cả hai được?" Quan niệm rằng Thượng đế đồng thời là cả hai là không thể được cho tâm trí: sáng và tối, sống và chết; rằng Thượng đế hiện hữu và không hiện hữu, và ngài là cả hai đồng thời cùng nhau. Tâm trí bắt đầu cảm thấy điên khùng nếu bạn buộc nó nghĩ theo vấn đề như vậy. Tâm trí đơn giản chùn lại, nó nói, "Điều này là vô nghĩa!"
Một trong những tâm trí rất sắc sảo của phương Tây hiện đại là Arthur Koestler. Ông ấy tới học Thiền. Bây giờ, Thiền không thể được học ngay chỗ đầu tiên; nó không phải là vấn đề học tập. Bạn không thể tiếp cận tới nó qua tâm trí, qua trí tuệ - nhưng đó là cách tiếp cận duy nhất sẵn có cho người đương đại. Người đương đại nghèo hơn nhiều so với người đã từng có trước đây - giầu trong các thứ nhưng nghèo trong hiểu biết.
Arthur Koestler tới Ấn Độ, tới Nhật Bản, đi tìm Thiền là gì - học kinh sách, hỏi các thầy, thu thập bản ghi chép câu trả lời của họ. Và thế rồi ông ấy viết ra cuốn sách chống lại Thiền. Tôi có thể hiểu được tại sao ông ấy đã viết chống lại nó - vì ông ấy cảm thấy toàn bộ sự việc là vô nghĩa: toàn thể sự việc dường như là phi logic thế với ông ấy. Tôi không thể kết án ông ấy được. Ông ấy đại diện cho tâm trí hiện đại, ông ấy đại diện cho trí tuệ.
Nếu bạn tiếp cận qua trí tuệ thế thì Thiền là phi logic, nhưng cuộc sống là vậy, toàn thể sự tồn tại này là vậy. Ở đây, ngày và đêm là một; ở đây, mùa hè và mùa đông là một; ở đây, sống và chết là một.
Koestler nên nghĩ thêm một chút nữa về sống. Sống giống Thiền hơn là giống bất kì cái gì khác; Thiền có thể phi logic vì sống là phi logic. Logic là hiện tượng nhân tạo. Logic là cái khung bị chúng ta áp lên sự tồn tại. Chúng ta cố gắng phân loại mọi thứ, và sự tồn tại là hỗn độn đẹp. Chúng ta muốn hình dung ra mọi thứ, cái gì là cái gì, và trong sự tồn tại mọi thứ đều quay vòng và thay đổi thành mọi thứ khác.
Bùn trở thành sen, và một ngày nào đó sen rơi lại trong bùn lần nữa. Bùn trở thành thân thể người, thân thể đẹp, và một ngày nào đó nó quay trở lại với đất. Đất vươn lên trong cây, trở thành xanh, hoa hồng đỏ, hương thơm ngát toả ra, và một ngày nào đó mọi thứ biến mất như giấc mơ. Lần nữa đất quay lại.
Sự tồn tại không có rắc rối gì với mâu thuẫn. Chính logic của Aristotle đang tạo ra rắc rối cho chúng ta.
Nghịch lí thứ nhất là ở chỗ tâm trí có thể hỏi câu hỏi thì không có khả năng hiểu câu trả lời, và tâm trí, hay vô trí, hay tâm phật, cái có khả năng hỏi câu hỏi đúng thì không cần hỏi điều đó. Trước khi bạn hỏi, câu trả lời có đó. Để chúng ta nói điều đó theo lời khác: đầu chỉ có câu hỏi và tim chỉ có câu trả lời.
Chừng nào bạn chưa đạt tới chiều sâu của tim bạn sẽ không có bất kì câu trả lời thực nào. Vâng, câu trả lời bạn sẽ có, bởi vì tâm trí rất khéo cung cấp câu trả lời giả. Nó nêu ra câu trả lời giả, nó cung cấp câu trả lời giả. Đó là điều triết lí tất cả là gì, đó là điều triết lí ngụ ý làm gì. Từng câu hỏi giả đều có theo sau bởi nhiều câu trả lời giả; bạn có thể chọn bất kì câu nào, nhưng chúng toàn là giả. Chúng là giả bởi vì chúng chỉ là việc đoán mò.
Thực tại phải được đương đầu, được bao quát, được nếm trải. Người ta phải không tách rời khỏi nó để biết nó, người ta phải làm tan biến bản thân người ta trong nó để biết nó.
Câu hỏi thứ nhất: Tôi đã nghe rằng mọi chư phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều thuyết giảng về cùng pháp và vô hạn sinh linh được cứu khỏi khổ. Điều này không đúng sao?
Câu hỏi này bắt đầu với Tôi đã nghe, và từ chính lúc bắt đầu nó là sai, bởi vì nó thậm chí không phải là câu hỏi của bạn. Câu hỏi này cũng được vay mượn; nó dựa trên kinh nghiệm của người khác. Nó chỉ là ý kiến mà bạn đã thu thập từ đâu đó và bây giờ bạn đang làm ra câu hỏi từ nó. Nó không có gốc rễ trong bạn. Nó giống như hoa nhựa bạn đã mua ngoài chợ: nó sẽ không có hương nào, nó không sống.
Câu hỏi thực không thể nảy sinh từ ý kiến người khác được. Bạn phải ở trong tâm trạng thiền để tìm ra câu hỏi thực. Bạn phải học cách giao cảm với sự tồn tại.
Câu hỏi bắt đầu: Tôi đã nghe - nó đi sai từ chính lúc bắt đầu - rằng mọi chư phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai... Bây giờ, với phật không có quá khứ, không hiện tại, không tương lai. Phật tồn tại chỉ trong vĩnh hằng. Đó là lí do tại sao ông ấy được gọi là phật: vì ông ấy đã siêu việt lên trên thời gian.
Ở trong thời gian là đang ngủ. Thời gian là giấc ngủ của chúng ta, thời gian là tâm trí chúng ta, thời gian là việc mơ của chúng ta. Đi ra ngoài việc mơ, nghĩ, tâm trí, nghĩa là đi ra ngoài thời gian. Thời gian không bao gồm hiện tại, nhớ lấy; nó chỉ bao gồm quá khứ và tương lai. Bạn đã bao giờ đương đầu với hiện tại chưa? Khoảnh khắc bạn nói, "Vâng, đây là hiện tại," nó không còn là hiện tại nữa rồi, nó đã là quá khứ. Khoảnh khắc bạn nhận ra qua tâm trí rằng đây là hiện tại, nó đã tuột đi rồi. Tâm trí không thể hiểu thấu được nó, nó nhanh thế. Khoảnh khắc tâm trí trở nên nhận biết về nó, chim đã bay ra khỏi lồng rồi.
Tâm trí có thể nghĩ về quá khứ bởi vì nó là hiện tượng chết. Tâm trí có thể tích luỹ những thứ chết rất dễ dàng - nó là kẻ sưu tập đồ cổ. Hay, tâm trí có thể nghĩ về tương lai. Quá khứ không còn nữa, tương lai còn chưa có; theo một cảm giác nào đó cả hai là cùng nhau, vì cả ha đều không tồn tại. Và tâm trí là láu lỉnh với cái không tồn tại. Nó có thể đi vào trong tương lai bởi vì nó có thể mơ, phóng chiếu, tưởng tượng, và không có cản trở nào. Nhưng khi câu hỏi về hiện tại nảy sinh, tâm trí tuyệt đối bất lực, bởi vì hiện tại là sống động thế và tâm trí là láu lỉnh chỉ với cái chết. Hiện tại là hiện tại, và tâm trí láu lỉnh hơn chỉ trong mơ, ham muốn, phóng chiếu, tưởng tượng. Bạn không thể mơ được trong hiện tại, bạn không thể ham muốn được trong hiện tại. Nếu bạn ham muốn, nó là trong tương lai. Ham muốn đem ngày mai vào.
Jesus nói với các đệ tử của ông ấy: Nhìn hoa loa kèn trên cánh đồng đi. Chúng đẹp làm sao! Và bí mật về cái đẹp của chúng là gì? Sao chúng đẹp thế? - đẹp hơn, Jesus nói, cả Solomon đã từng vậy trong mọi sự vĩ đại của ông ấy. Hoa loa kèn nghèo nàn là đẹp hơn nhiều so với Solomon vĩ đại. Tại sao? - bởi lẽ đơn giản rằng chúng không nghĩ tới ngày mai, bởi lẽ đơn giản là chúng ở trong hiện tại.
Đó là cái đẹp của cây, của hồng, của sen, của sao, của đất, của trời, của con vật. Nhìn vào mắt mèo hay chó, nhìn vào trong mắt của con vật nhỏ mà xem. Sâu làm sao và hồn nhiên làm sao và sáng tỏ làm sao! Bí mật của mọi điều này là gì? Một hiện tượng đơn giản: chúng sống trong hiện tại, chúng chưa bị biến chất bởi quá khứ và tương lai. Tâm trí chưa xuất hiện. Thời gian chưa xuất hiện.
Bạn đã từng được bảo và được dạy rằng thời gian có ba thì: quá khứ, hiện tại, tương lai. Điều đó hoàn toàn sai. Thời gian chỉ có hai thì, quá khứ và tương lai; hiện tại là một phần của vĩnh hằng, không phải là một phần của thời gian. Cho nên khi bạn ở trong hiện tại, bạn là trong vĩnh hằng.
Câu hỏi này là sai ở mọi bước. Nó sẽ là vậy thôi, bởi vì câu hỏi này là từ tâm trí. Đầu tiên người hỏi nói: Tôi đã nghe... Điều đó phải đã là đủ cho Bồ đề đạt ma bắt đầu cười, hay ông ấy phải đã lấy cây thiền trượng trong tay đánh và đập người này.
Chuyện xảy ra nhiều lần rằng bạn đi vào phòng của Thiền sư và trước khi bạn thậm chí thốt ra một lời, ông ấy nói, "Sai rồi, sai rồi!" Bạn đã không thốt ra một lời, nhưng cách bạn đi vào, ngôn ngữ thân thể, là đủ. Bạn đang đi vào ngần ngại, hoài nghi, nghi ngờ, hay bạn đang cố chứng minh bản thân bạn, cố là dũng cảm, hình thành ra câu hỏi nào đó hay kinh nghiệm nào đó - cách nói nó - và thầy đã thấy nó tất cả và thầy đã nghe nó trước khi bạn thậm chí thốt ra một lời.
Một đệ tử của Rinzai một hôm bảo ông ấy, "Khi tôi tới với câu trả lời - bởi vì thầy đã cho tôi một công án..."
Công án là điều bí ẩn; nó đại diện cho sự tồn tại. Công án là câu đố không làm tan được. Công án là cái gì đó ngớ ngẩn. "Tiếng vỗ tay của một bàn tay," đó là công án. "Tiếng vỗ tay của một bàn tay là gì?"
Bây giờ, đệ tử này đã từng thiền về nó. Mọi ngày anh ta tới, anh ta phải tới để trả lời câu hỏi của thầy: "Anh đã tìm thấy cái gì? Kết quả thiền của anh là gì?" Anh ta mang tới đủ loại câu trả lời - và bất kì câu trả lời nào anh ta đem tới đều sai - và anh ta bị đánh và bị tống ra.
Một hôm đệ tử này không thể chịu được thêm nữa. Thế là quá nhiều, bởi vì anh ta đã không nói gì và thầy bắt đầu đánh anh ta. Anh ta nói, "Nhưng đợi đã! Tôi thậm chí chả nói gì cả!"
Thầy nói, "Không cần nói nó, ta đã nghe thấy nó rồi, Ta đã thấy nó trong mắt anh, ta đã thấy nó trong việc bước của anh. Ta nhận ra nó ngay lập tức. Khi anh tìm ra câu trả lời anh sẽ không cần nói nó, ta sẽ biết nó."
Và, vâng, nó đã xảy ra đích xác giống điều đó. Khi đệ tử này tìm ra câu trả lời... Không có câu trả lời; đó là điều anh ta đã tìm ra. Một hôm anh ta thấy rằng "Mình ngu quá. Làm gì có câu trả lời."
Bạn có thể nói điều đó từ chính lúc ban đầu, rằng "điều này là ngu xuẩn!" nhưng điều đó nữa sẽ không có tác dụng. Bạn phải trải qua tất cả lửa đó của việc giải quyết câu hỏi ngớ ngẩn, vẫn biết sâu bên dưới rằng không có câu trả lời nào cho nó và vậy mà vẫn tìm câu trả lời. Đó là cách bạn đào sâu vào bên trong bản thân bạn.
Một hôm, khi anh ta đã đạt tới cốt lõi, không có câu hỏi, không câu trả lời. Anh ta bắt đầu cười. Hôm đó anh ta đã không tới báo cáo - chẳng có gì mà báo cáo - nhưng hôm đó thầy xuất hiện trong phòng anh ta và thầy nói, "Bây giờ anh đã tìm ra rồi. Thậm chí không cần tới ta nữa; khi anh đã tìm ra, ta sẽ tới anh. Bây giờ toàn thể tâm xã bị ảnh hưởng bởi phát kiến của anh," thầy nói. "Rung động của anh đang đập rộn ràng to khắp xung quanh tới mức những người hiểu ngôn ngữ của rung động đều biết rằng ai đó đã đạt tới, rằng ai đó đã về tới nhà, rằng lữ khách đã đạt tới."
Bồ đề đạt ma phải đã cười từ chính lúc đầu. Điều đó không được tường trình, bởi vì đây là cuốn sổ của đệ tử. Nhiều điều không được tường trình trong đó, bởi vì đệ tử này không thể báo cáo về chúng được - anh ta không thể hiểu được suy nghĩ bên trong xảy ra trên tấm gương của thầy; mọi điều anh ta có thể báo cáo là những lời mà thầy thốt ra. Do đó không điều gì được nói về Bồ đề đạt ma. Đệ tử này liên tục hỏi những câu hỏi và anh ta liên tục ghi chép câu trả lời. Báo cáo này dường như hơi chút đần độn, nó không có cái chạm của tính sống động, bởi vì nó bao gồm các ghi chép của đệ tử. Do đó nhiều điều bị thiếu, nhiều điều mà thầy phải đã làm, không được báo cáo vì đệ tử này không thể hiểu được chúng.
Chẳng hạn, nếu Bồ đề đạt ma bắt đầu cười, khi nghe câu hỏi này, đệ tử này sẽ không báo cáo điều đó; nó sẽ có vẻ quá mất mặt. Anh ta đơn giản báo cáo lời - lời mà anh ta cảm thấy khớp với câu trả lời của anh ta, mặc dầu điều Bồ đề đạt ma nói là khác toàn bộ với điều anh ta hỏi.
Tôi đã nghe, anh ta hỏi, rằng mọi chư phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai đã thuyết giảng về cùng pháp...
Nhớ lấy, với chư phật không có quá khứ, không hiện tại, không tương lai. Phật là người đã trở nên thức tỉnh. Thời gian là hiện tượng mơ.
Bạn đã bao giờ quan sát cách thời gian thay đổi khi bạn thay đổi không? Nếu bạn khổ, thời gian trở thành dài, lê thê. Nếu bạn vui, thời gian trở thành nhỏ. Nhưng đồng hồ sẽ chỉ ra cùng thời gian. Nếu nó là một giờ thế thì đồng hồ sẽ chỉ rằng một giờ đã qua - dù bạn khổ hay phúc lạc, đồng hồ không bị ảnh hưởng. Đồng hồ liên tục chuyển; nó là thiết bị máy móc. Nó đơn giản là thời gian lịch biểu, nó không báo cáo về kinh nghiệm bên trong của bạn về thời gian.
Nếu bạn ngồi cùng người bạn sau nhiều năm, thời gian trôi qua nhanh thế. Nếu bạn đơn độc, khổ sở, lo âu, bồn chồn, thời gian dường như trôi qua sao chậm thế. Đây là kinh nghiệm của bạn, rằng thời gian trở nên dài hơn hay ngắn hơn tuỳ theo bạn, tuỳ theo tâm trí bạn.
Bạn phải đã biết những khoảnh khắc nào đó khi thời gian đã dừng lại toàn bộ. Bình thường, người sinh học, người ngủ, chỉ biết những khoảnh khắc như thế qua làm tình - bởi vì chính là chỉ qua làm tình mà người đó mất đi tâm trí mình, chính là chỉ trong làm tình mà người đó mất hút. Nhưng đỉnh đó, đỉnh cực thích đó, trong đó người đó mất đi mọi tâm trí, và trở thành chỉ là một rung động, trở thành chỉ là năng lượng, năng lượng linh động - không ý nghĩ, không quá khứ, không tương lai, không ham muốn - xảy ra chỉ cho những khoảnh khắc. Chính là chỉ qua yêu và kinh nghiệm cực thích mà bạn trở nên nhận biết rằng có khả năng của thời gian dừng lại toàn bộ.
Do đó tôi nói: cực thích dục là thấp nhất nhưng là kinh nghiệm nền tảng của thiền - thấp nhất và nền tảng. Chính là qua cực thích dục mà con người trở nên nhận biết về khả năng vô hạn của việc dừng thời gian hoàn toàn, của việc thoát ra khỏi thời gian. Nếu bạn có thể thoát ra khỏi thời gian trong một khoảnh khắc, điều đó có nghĩa là người ta có thể thoát ra khỏi thời gian mãi mãi, nữa. Thế thì cách thức và phương tiện phải được tìm ra. Đó là cách Mật tông, Yoga, Thiền, Đạo, Sufi giáo, mọi loại cách thức và phương tiện, đã được tìm ra. Một khi con người trở nên nhận biết rằng khả năng này tồn tại, rằng có một cửa sổ qua đó người đó có thể thoát ra, cho dù nó xảy ra chỉ thỉnh thoảng...
Nhiều lần mọi người hỏi tôi tại sao đàn bà đã không trở thành những thầy lớn như Phật, Zarathustra, Lão Tử, Bồ đề đạt ma, Jesus - tại sao? Một trong những lí do nền tảng là ở chỗ đàn ông đã phủ nhận đàn bà có kinh nghiệm cực thích. Bạn sẽ ngạc nhiên bởi câu trả lời của tôi. Bạn sẽ không tưởng tượng được rằng điều đó sẽ là căn nguyên tại sao đàn bà không thể vươn lên cao như một Phật, như một Bồ đề đạt ma.
Cái gì đi sai? Một điều: đàn ông đã không cho phép đàn bà có kinh nghiệm cực thích. Và điều đó trở thành có thể bởi vì ít có khác biệt giữa cực thích của đàn ông và cực thích của đàn bà. Đàn ông đi tới đỉnh cực thích của mình rất nhanh, cho nên anh ta có thể có cực thích dễ dàng, nhanh chóng. Đàn bà đi tới mặt bằng cực thích chậm; nhịp của cô ấy là khác. Chừng nào đàn ông chưa yêu đàn bà vô cùng và giúp cho cô ấy đi tới trạng thái cực thích và đi chậm cùng cô ấy... Nếu anh ta chăm nom cô ấy, không phải là dùng người đàn bà như phương tiện để đạt tới cực thích riêng của anh ta mà còn chăm sóc và chăm chú và đủ yêu tới mức cô ấy cũng phải có cực thích của cô ấy, thế thì anh ta đi chậm.
Đó là điều Mật tông đã khám phá ra từ nhiều thế kỉ trước đây: rằng đàn ông phải đi rất chậm. Cực thích của đàn ông là cục bộ, ở bộ phận sinh dục, và cực thích của đàn bà là toàn bộ hơn. Toàn thân cô ấy được tham gia vào trong nó, do đó điều đó cần thời gian. Cực thích của đàn ông là cục bộ tới mức nó không cần nhiều thời gian. Chừng nào đàn ông chưa yêu đàn bà, âu yếm thân thể cô ấy, giúp cho toàn thân cô ấy vươn lên đỉnh... Đó là nghệ thuật tinh tế để đi tới trạng thái cực thích cùng nhau.
Khi đàn bà và đàn ông cả hai cùng đi tới trạng thái cực thích cùng nhau, đồng thời, đó là kinh nghiệm lớn của cực lạc - rất giầu có. Đàn ông một mình tới cực thích là một điều: nó bỏ lỡ nhiều, nó không giầu có thế, nó không đa chiều. Nó nhiều ít là thủ dâm - đàn bà đã được dùng chỉ như phương tiện cho thủ dâm - nó không phải là cực thích thực, và đàn bà vẫn còn ở đằng sau. Và đàn ông đã từng làm điều đó trong nhiều thế kỉ, cho nên nhiều đàn bà đã quên hoàn toàn rằng có khả năng nào của cực thích cho họ.
Chỉ bây giờ với phong trào giải phóng phụ nữ mà đàn bà đang trở nên nhận biết rằng trong quá khứ họ đã từng bỏ lỡ cái gì đó rất có giá trị trong các kiếp sống của họ. Ở phương Đông họ chưa nhận biết về điều đó. Rất hiếm khi ở phương Đông tìm được đàn bà cực thích, người biết cực thích là gì. Ngay cả ở phương Tây chỉ số phần trăm rất nhỏ các phụ nữ đang trở nên có khả năng cực thích.
Điều này đã từng là việc đè nén lớn nhất, việc khai thác lớn nhất với đàn bà, bởi vì nếu đàn bà bị tước cực thích họ bị tước đi một trong những kinh nghiệm nền tảng nhất của thiền. Cửa sổ duy nhất hướng tới Thượng đế vẫn còn bị đóng. Họ chưa bao giờ trở nên nhận biết rằng có một khoảnh khắc khi thời gian biến mất, rằng có một khoảnh khắc khi "tôi không còn là thân thể, không còn là tâm trí, mà là tâm thức thuần khiết - tuyệt đối vô ý nghĩ, vô ham muốn, vô mơ và hoàn toàn phúc lạc."
Đây là kinh nghiệm thấp nhất, nhớ lấy; người ta phải không dừng lại ở đó. Đây là bước đầu tiên của cuộc hành trình dài, chỉ thế thì bạn mới tới ngôi đền. Nhưng nó là một bước cần thiết, nó là rất nền tảng.
Cho nên thỉnh thoảng bạn có thể đã trở nên nhận biết rằng thời gian dừng lại, nhưng thời gian dừng lại chỉ khi bạn phúc lạc. Thời gian dừng lại chỉ khi bạn tuyệt đối không có tâm trí - có ý thức, vậy mà tâm trí không có đó - bởi vì bạn không 'để tâm', bạn không suy nghĩ... sự tồn tại đơn giản.
Nó có thể xảy ra trong nhạc, nó có thể xảy ra trong khi ngắm mặt trời lặn, nó có thể xảy ra trong khi bạn vẽ. Nhưng những kinh nghiệm này hiếm hoi hơn nhiều, trong khi dục là sẵn có cho từng và mọi người: nó là món quà sinh học của tự nhiên. Là nhạc sĩ với tầm cỡ tới mức bạn có thể mất bản thân bạn như bạn mất bản thân bạn trong người đàn bà hay đàn ông là hiện tượng hiếm hoi; nó xảy ra thỉnh thoảng thôi. Là hoạ sĩ, nhà điêu khắc, vũ công, nhà thơ - điều này cần tài năng lớn, và người ta có thể không có chúng - nhưng cùng điều này xảy ra.
Đó là lí do tại sao với hoạ sĩ lớn có thể đi ra ngoài dục rất dễ dàng: vì ông ta có cửa sổ khác để kinh nghiệm cực thích, để kinh nghiệm khoảnh khắc vô thời gian, để kinh nghiệm Thượng đế. Nhà thơ hay vũ công đi ra ngoài dục dễ dàng hơn điều đó dành cho những người khác, bởi vì họ có phương án qua đó họ có thể kinh nghiệm cùng điều - và có thể với chiều sâu lớn hơn.
Nhưng bất kì cái gì là nguyên nhân, nếu bạn đã bao giờ kinh nghiệm một khoảnh khắc mà thời gian dừng lại, đó là khoảnh khắc phải được hiểu bởi vì đó là bản chất của thiền. Đó là điều đem bạn về nhà một cách cuối cùng, tối thượng. Trước điều đó, mọi loại câu hỏi sẽ nảy sinh; chúng tất cả là vô nghĩa. Thầy trả lời chúng bởi vì từ bi, bằng không chúng toàn là ngu xuẩn.
Tâm trí là ngu xuẩn - tâm trí như nó vậy là ngu xuẩn. Nó hỏi những câu hỏi rất ngu si.
Người hỏi đang hỏi:
Tôi đã nghe rằng mọi chư phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai đã thuyết giảng về cùng pháp...
Bây giờ, phật không thuyết giảng. Vâng, nhiều điều xảy ra qua ông ấy, nhưng ông ấy không phải là người thuyết giảng. Ông ấy không phải là người giảng đạo, ông ấy không phải là tu sĩ; ông ấy thậm chí không phải là nhà tiên tri.
Ai đó hỏi Krishnamurti, "Sao thầy nói?"
Krishnamurti nói, "Sao hoa hồng nở? Hỏi hoa hồng xem - và câu trả lời của tôi là cùng vậy."
Với phật vấn đề không phải là thuyết giảng, nó đơn giản là từ bi đang tuôn trào của ông ấy. Những lời này không áp dụng cho chư phật. Không lời thường nào áp dụng được cho phật - bạn phải thay đổi nghĩa của nó toàn bộ tới mức nó không còn là cùng lời đó.
Người hỏi nói:
Họ đã thuyết giảng cùng pháp và vô lượng sinh linh đã được cứu khỏi khổ.
Bây giờ, khổ là mơ: bạn khổ vì bạn ngủ. Nó là cơn ác mộng, nó không phải là thực tại. Cho nên không có vấn đề về cứu bạn; bạn đã được cứu rồi.
Nhớ lấy, phật không phải là cứu tinh, phật chỉ là người thức tỉnh. Không ai cần được cứu; bạn đã được cứu rồi. Bạn có thể có ác mộng và bạn có thể khổ trong cơn ác mộng của bạn, nhưng nó toàn là mơ. Nó không đúng, nó không thực, và bất kì khi nào bạn thức tỉnh bạn sẽ cười vào toàn thể cái ngớ ngẩn của nó.
Nhưng chúng ta hiểu mọi sự tương ứng với bản thân chúng ta, do đó mới có câu hỏi này. Tâm trí chúng ta được ước định nhiều tới mức chúng ta liên tục hỏi các câu hỏi không liên quan chút nào. Và có những người sẽ trả lời câu hỏi của chúng ta, và chúng ta có thể được an ủi, và chúng ta có thể bắt đầu níu bám lấy các ý tưởng và triết lí.
Thầy thực sẽ không cho bạn câu trả lời như việc an ủi, bởi vì điều đó sẽ làm mạnh cho tâm trí cũ của bạn. Thầy thực sẽ nện búa, đập tan đầu bạn hoàn toàn. Thầy sẽ chặt đầu bạn. Thầy sẽ làm cho bạn nhận biết rằng tâm trí này có thể tích luỹ nhiều câu trả lời, nhưng chúng toàn là vô dụng, vô nghĩa, bởi vì tâm trí này bản thân nó là sai.
Người đưa tin ngoại giao Mĩ vừa tới thủ đô Mĩ La tinh tí xíu, và, khi ông ta sải bước một cách mạnh mẽ ra khỏi ga đến sân bay, hiển nhiên ông ta bị đè nặng với cảm giác tự quan trọng riêng của ông ta, cắn cảu chỉ đạo người khuân vác mang hành lí của ông ta và ngó nghiêng tìm xe được giả định phải có đó đón ông ta. Ông ta chắc chắn không có thời gian cho mấy đứa trẻ bụi đời bẩn thỉu lang thang trên phố, kéo lê theo sau ông ta, cố bán mọi thứ từ người đánh giầy cho chị em của chúng.
"Này, người Mĩ!" một chú bé gọi, đặc biệt lõi đời trong tuổi của nó. "Cháu có điều ông thích nếu ông trả tiền - các bức tranh nhạy cảm, cần sa, gái, trai."
"Ta không thể bận tâm tới bọn vô lại này," sứ giả không tế nhị tuyên bố, gạt sang bên những kẻ bám theo đang la hét. "Việc của ta ở đây là với ngài đại sứ Mĩ."
"Thưa ngài, có thể làm được," đứa trẻ đáp, "nhưng với ngài đại sứ ngài xẽ phải trả thêm đấy."
Mọi người có ước định riêng của họ, suy nghĩ riêng của họ, cách riêng của họ để nhìn vào mọi thứ. Họ nghe từ tâm trí định kiến, họ hỏi từ tâm trí định kiến, và bất kì câu trả lời nào được trao cho họ không bao giờ đạt tới mà không bị bóp méo.
Người hỏi này hỏi:
Điều đó không đúng sao?
Bồ đề đạt ma nói:
Ông đã nghe ai đó nói về mơ, và bản thân ông thực tế đang mơ. Bất kì cái gì ông hình dung bằng tâm trí nhị nguyên của ông không bao giờ làm ra mô tả đúng về điều bản chất của tâm trí, do đó, ta gọi ông là người mơ. Mơ là một điều và nhận ra là điều khác. Đừng trộn lẫn chúng với nhau. Trí huệ trong mơ không phải là trí huệ thực. Người có trí huệ thực không giữ việc nhận cái ta. Chư phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai ở trong cõi giới bên ngoài nhận biết. Nếu ông tắt năng lực suy nghĩ của ông, chắn đường của tâm trí ông, ông sẽ đi vào một quyển khác. Cho tới lúc đó, bất kì cái gì ông nghĩ, bất kì cái gì ông nói, bất kì cái gì ông làm đều không là gì ngoài sự ngu xuẩn trong cõi mơ.
Để cắt giảm chi phí, hai thư kí quyết định đi nghỉ cùng nhau và thuê chung phòng khách sạn. Vào đêm đầu tiên, người này quay sang cô bạn gái và đặt tay lên vai cô bạn.
"Có điều gì đó về bản thân tớ mà tớ chưa bao giờ nói cho cậu," cô ấy thú nhận. "Tớ là thẳng..."
"Không," cô gái kia nói, "Tớ mới là Thẳng."
"Tôi muốn mua một số đồ son phấn cho bạn gái," nhạc sĩ trẻ nói với cô bán hàng tại quầy mĩ phẩm.
"Chắc chắn, thưa ông," cô bán hàng nói. "Ông thích mầu nào?"
"Đừng bận tâm về mầu," nhạc sĩ nói. "Cô có vị nào?"
Đây là trạng thái của mọi người: chúng ta đang sống trong mơ của mình. Điều Bồ đề đạt ma gọi là đất mơ bạn có thể gọi là Disneyland hay vùng đất California! Bây giờ toàn thế giới dần dần, dần dần quay sang Disneyland - thực ra, nó bao giờ cũng vậy rồi. Mọi người sống trong mơ của họ. Cái gọi là người thường sống trong mơ của họ và cái gọi là người quan trọng VIP sống trong cùng một loại thế giới mơ.
Giáo hoàng đang đọc trong thánh đường Vatican thì đột nhiên một cú điện thoại được gọi tới.
"Đây là Cha Novelli ở New York," giọng nói nói. "Thưa đức giáo hoàng, tôi nghĩ rằng Jesus Christ đang tản bộ ở giữa đại lộ số Năms. Tôi nên làm gì?"
"Ra vẻ bận rộn vào!"cha cả đáp lại.
Ra vẻ bận rộn - bạn còn có thể làm cái gì khác được? Những người này, dù nhỏ hay cái gọi là người lớn, đều trong cùng một thế giới.
Tôi đã nghe:
Michelangelo đang vẽ trần của một nhà thờ. Ông ấy một mình ở trên chóp một chiếc ghế lớn. Một người đàn bà bước vào và bắt đầu cầu nguyện to, nói với Thượng đế. Michelangelo nghe bà ấy nói mọi thứ với Thượng đế. Ông ấy thích thú cách bà ấy nói với Thượng đế dường như Thượng đế thực sự ở đó, cho nên ông ấy chơi xỏ bà này. Ông ấy nói, "Bà nghe đây! Ta là Jesus Christ!"
Người đàn bà nói, "Ông im đi! Ta đang nói với bố ông!"
Nhìn quanh mà xem. Quan sát mọi người. Bạn không cần vào rạp chiếu phim, bạn không cần đọc tiểu thuyết trinh thám. Cứ ngồi bên cạnh đường và quan sát mặt mọi người: họ đi thế nào, họ bước ra sao, cử chỉ của họ. Vài người đang nói với bản thân họ, môi họ chuyển động. Mọi người dường như ở trong mơ, trong thế giới riêng của mình.
Đó là lí do tại sao có va chạm thế: bởi vì từng người có cách nhìn thế giới riêng của họ và thế giới riêng của họ, cho nên bất kì khi nào hai người tới gần, sớm hay muộn va chạm xảy ra. Va chạm nhất định xảy ra bởi vì mơ của họ không thể trùng nhau được - và mọi người đều muốn áp đặt mơ của mình lên người khác.
Bây giờ, không ai có thể mơ giấc mơ của bạn được; điều đó là không thể được. Mơ không thể bị áp đặt lên người khác. Bạn không thể chia sẻ được mơ của bạn với người khác. Bạn không thể mời vợ bạn hay chồng bạn vào mơ của bạn; điều đó là không thể được. Mơ là hiện tượng riêng tư thế. Do đó, mọi người sống trong mơ là sống trong thế giới riêng tư; họ chưa bao giờ nhận biết về thế giới thực quanh chúng ta. Họ nhìn, nhưng qua màn sương dầy. Họ nhìn, vậy mà không thấy.
Ông đã nghe ai đó nói về mơ, Bồ đề đạt ma nói, và bản thân ông thực tế đang mơ. Bất kì cái gì ông hình dung bằng tâm trí nhị nguyên của ông không bao giờ làm ra mô tả đúng về điều bản chất của tâm trí, do đó, ta gọi ông là người mơ.
Chừng nào suy nghĩ chưa biến mất toàn bộ bạn sẽ vẫn còn là người mơ. Suy nghĩ là nhị nguyên, suy nghĩ là logic, suy nghĩ là có tính chất Aristotelian. Chừng nào suy nghĩ chưa bị vứt bỏ một cách toàn bộ tâm trí bạn sẽ cứ giở thủ đoạn lên bạn; nó sẽ liên tục lừa bạn, và bạn sẽ không bao giờ có khả năng biết điều tinh tuý thực của bản thể bạn - cái là tự do, cái là phúc lạc, cái là Thượng đế.
Mơ là một điều và nhận ra là điều khác.
Nhận ra là có thể chỉ khi việc mơ bay hơi.
Đừng trộn lẫn chúng với nhau.
Điều bạn đã nghe là vô nghĩa; chỉ điều bạn đã biết theo cách riêng của bạn mới có nghĩa.
Trí huệ trong mơ không phải là trí huệ thực.
Bạn có thể là người mơ rất trí huệ, bạn có thể rất thông thái trong mơ của bạn, nhưng người mơ là người mơ. Bạn có thể mơ những điều đẹp - những giấc mơ ngọt ngào về những cung điện vàng, về thiên đường - nhưng chúng tất cả là mơ thôi. Dù bạn mơ về cõi trời hay địa ngục, nó là như nhau. Địa ngục là mơ, cõi trời là mơ.
Trong ngôn ngữ phương Tây chỉ có hai khả năng sau chết: cõi trời hay địa ngục. Do đó, các tôn giáo phương Tây chưa bao giờ có khả năng giải phóng bản thân họ khỏi mơ. Họ không nói về việc tự do khỏi mơ, họ không nói về vô ham muốn tuyệt đối. Họ đã không vươn lên tới sự thuần khiết tối thượng của tính tôn giáo.
Các tôn giáo phương Đông nói về trạng thái thứ ba: moksha, niết bàn, tự do - tự do khỏi cả cõi trời và địa ngục - bởi vì chư phật ở phương Đông đã từng nói rằng gôm cùm của bạn có thể được làm bằng vàng hay bằng sắt, nhưng gông cùm là gông cùm: bạn bị xích, bạn là tù nhân. Bạn có thể được tự do chỉ khi bạn tự do với mọi gông cùm; làm bằng sắt, làm bằng vàng - mọi gông cùm, mọi xiềng xích, đều phải bị bỏ. Thế thì hiện tượng thứ ba trở thành có thể: moksha, niết bàn. Không có từ để dịch nó; nó đơn giản nghĩa là được tự do với cả địa ngục và cõi trời, bởi vì cả hai đều là mơ.
Người có trí huệ thực không giữ việc nhận cái ta.
Đây là một trong những nền tảng của giáo huấn của Phật:
Người có trí huệ thực không giữ việc nhận cái ta.
Người biết, người đã đi tới chấp nhận bản chất thực của mình, biết không có bản ngã, không cái 'tôi'; không cái ta nào được thừa nhận. Người đó là một phần của luồng chảy vũ trụ; người đó không còn tách rời. Thế giới riêng tư của người đó biến mất. Người đó không còn là kẻ ngốc.
Từ kẻ ngốc - idiot nghĩa là người sống trong thế giới riêng tư của mình. Nó bắt nguồn từ gốc idios; từ cùng gốc này đi tới idiosyncrasy - khí chất. Người ngốc là người chưa bao giờ chú ý tới thế giới thực và cứ sống trong thế giới riêng tư của mình, tưởng đó là thế giới thực. Theo nghĩa đó, chừng nào bạn chưa trở thành phật, bạn là kẻ ngốc.
Chư phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai là ở trong cõi giới bên ngoài nhận biết.
Bạn không thể thấy được họ - chư phật không thể được thấy. Mắt thường không có khả năng thấy họ, tâm trí thường không có khả năng hiểu họ. Nếu bạn thực sự muốn hiểu phật bạn sẽ phải trở thành phật; không có cách khác. Bạn sẽ phải nếm trải thức tỉnh. Bằng việc trở thành phật bạn sẽ hiểu mọi chư phật của quá khứ, hiện tại và tương lai.
Nếu ông tắt năng lực suy nghĩ của ông, chắn đường của tâm trí ông, ông sẽ đi vào một quyển khác.
Điều duy nhất cần được làm là tắt hoạt động thường xuyên, phát sốt này của tâm trí. Tắt nó đi, gạt nó sang bên, và thế thì bạn đi vào trong không gian khác, quyển khác.
Cho tới lúc đó, bất kì cái gì ông nghĩ, bất kì cái gì ông nói, bất kì cái gì ông làm đều không là gì ngoài sự ngu xuẩn trong cõi mơ.
Thurmon, Pickens và Diggs đang thảo luận về những phát minh vĩ đại nhất thế giới.
"Tớ tin," Thurmon nói, "rằng điện là phát minh tốt nhất. Nó biến thành ánh sáng, làm cho ti vi chạy - nó làm mọi thứ."
"Vâng," Pickens đồng ý, "nhưng mà tin rằng năng lượng nguyên tử là phát minh quan trọng nhất đi. Nó có thể làm mọi thứ mà điện có thể làm và cậu có thể nhấn nút, nổ tung thế giới."
"Này, các quí ngài," Diggs nói, "với tớ phát minh vĩ đại nhất là nhiệt. Nó giữ thức ăn nóng và thức ăn lạnh."
"Vĩ đại gì ở cái đó?" Thurmon hỏi.
"Nó biết làm sao?" Diggs nói.
Tâm trí bạn, bất kì cái gì nó nghĩ - những thứ nhỏ về nhiệt hay những thứ lớn, những thứ siêu hình lớn lao về Thượng đế... vì nó là cùng tâm trí, nó không tạo ra khác biệt. Đối thể của suy nghĩ có thể là nhiệt hay Thượng đế, coca-cola hay thiên đường, nhưng tâm trí nghĩ về điều đó là một.
Bồ đề đạt ma đang nói: Đừng liên tục thay đổi đối thể của suy nghĩ của bạn, đừng liên tục thay đổi chủ đề của suy nghĩ của bạn, đổi không gian bên trong bạn đi. Để chúng ta có một tâm trí khác toàn bộ, cái không nghĩ, không ham muốn, không mơ. Thế thì bạn đi vào trong thế giới của chư phật.
Câu hỏi thứ hai: Loại trí huệ nào người ta phải dùng để cắt bỏ ảo tưởng?
Từng câu hỏi lặp đi lặp lại chỉ ra một điều rất rõ ràng: rằng câu trả lời đã không được nghe. Dường như người hỏi đã quan tâm nhiều tới câu hỏi của mình hơn là câu trả lời, nhưng anh ta đã chuẩn bị câu hỏi của mình. Bằng không một câu trả lời là đủ - mọi câu hỏi đều được giải quyết.
Lần nữa anh ta hỏi cùng điều từ góc độ khác:
Loại trí huệ nào người ta phải dùng để cắt bỏ ảo tưởng?
Dường như bạn không thể 'dùng' trí huệ được; dường như trí huệ là công cụ được dùng, một phương tiện. Dường như sau khi bạn đã trở nên trí huệ bạn sẽ phải cắt bỏ ảo tưởng của bạn.
Nó cũng giống như một người nói, "Khi tôi đã trở nên thức tỉnh, làm sao tôi gạt bỏ được giấc mơ của tôi? Loại thức tỉnh nào phải được dùng để cắt đi mọi giấc mơ?"
Điều đó giống như người trong đêm thấy dây thừng trên đường, phóng chiếu ra con rắn từ dây thừng và chạy trốn, chạy mất, hoảng hồn. Và ai đó nói, "Đừng lo. Tôi biết đó là dây thừng. Lại cùng tôi đi. Tôi sẽ chỉ cho anh rằng đó là dây thừng. Chúng ta đem đèn theo." Và người đó nói, "Được. Cho dù với ngọn đèn tôi đi tới biết rằng đó là dây thừng, thế thì cứ bảo cho tôi cách gạt bỏ rắn đi."
Đích xác giống điều đó là câu hỏi này:
Loại trí huệ nào người ta phải dùng để cắt bỏ ảo tưởng?
Khi bạn trí huệ, ảo tưởng không có đó. Thực ra, ảo tưởng phải đi trước, chỉ thế thì bạn trở nên trí huệ. Nhưng cái gọi là người trí huệ của bạn đang sống trong ảo tưởng sâu, đó là lí do tại sao câu hỏi này dường như liên quan.
Stephanie thức dậy với cái vai đau vào một sáng và đi tới gặp bác sĩ về điều đó. Sau khi khám, bác sĩ nói ông ấy không thể tìm thấy cái gì sai với nó. Cô ấy cứ khăng khăng nó làm đau cô ấy, cho nên bác sĩ nói, "Thôi được, nói cho tôi cô đã làm gì đêm qua."
Cô ấy nói với ông ấy rằng cô ấy đã đi chơi ở miền quê với anh bạn trai và rằng họ đi bộ trong nghĩa địa và đọc một số chữ khắc trên bia mộ.
Bác sĩ nói, "Có thể cô bị cảm lạnh trong cơ từ khí lạnh. Cô cởi quần áo ra để tôi có thể khám cho cô kĩ lưỡng hơn?"
Cô ấy cởi ra và bác sĩ khám toàn bộ lưng của cô ấy.
Sau một phút hay đại loại như vậy ông ấy nói, "Stephanie, tôi không thể tìm được cái gì sai với vai cô, nhưng mông cô nói rằng cô đã chết từ 1892."
Cái gọi là người trí huệ của bạn ở trong cùng một con thuyền; họ không khác chút nào với bạn. Những người bạn đi tới xin lời khuyên - các bác học, các tu sĩ, các học giả - bản thân họ cũng ở trong bóng tối. Tất nhiên họ có thông tin hơn bạn, nhưng vấn đề không phải là thông tin. Trí huệ tới qua biến đổi chứ không qua thông tin.
Bồ đề đạt ma nói:
Khi ông quan sát ảo tưởng của ông, ông sẽ biết rằng chúng là không có cơ sở và không phụ thuộc được. Theo cách này ông có thể cắt bỏ lẫn lộn và hoài nghi. Đây là điều ta gọi là trí huệ.
Khi bạn quan sát ảo tưởng của bạn là ảo tưởng, bạn được kết thúc với chúng. Khoảnh khắc bạn biết rằng cái gì đó là mơ bạn tự do với nó; không cái gì khác được cần để được làm.
Đó là lí do tại sao với sannyasins của tôi, tôi nhấn mạnh: không có nhu cầu đi đâu khác. Sống trong thế giới đi, nhưng trở nên nhận biết. Chỉ trở nên nhận biết là thành một sannyasin. Không cần từ bỏ, không cần trốn chạy bất kì chỗ nào. Trở nên nhận biết và bạn sẽ thấy cái gì là ảo tưởng, cái gì là mơ. Và bất kì cái gì được biết là ảo tưởng đều biến mất; không cái gì khác được cần để được làm.
Một nữ nổi dậy thẳng thắn tên là Glutz
Coi khinh mọi cái nếu, cái và, hay cái nhưng;
Khi họ hỏi cô ấy cần gì
Để được tự do toàn bộ
Khỏi khó chịu của mình, lời đáp của cô ấy là, "Dở hơi!"
Mọi người đều cần dở hơi, bởi vì mọi người đều dở hơi. Người điên cần người điên khác, bởi vì chỉ người điên mới có thể hỗ trợ cho ảo tưởng của bạn. Bạn hỗ trợ cho ảo tưởng của họ, họ hỗ trợ cho ảo tưởng của bạn. Đó là điều được gọi là tình bạn, tình yêu, tình đồng hành trong thế giới thông thường: Người bạn khi cần là người bạn thực. Và khi nào là cần? - khi ảo tưởng của bạn bắt đầu biến mất người đó giúp bạn giữ lại, bám chặt lấy chúng. Người đó không cho phép bạn buông bỏ ảo tưởng của bạn. Bất kì cái gì xảy ra, người đó giúp bạn vẫn còn hệt như bạn bao giờ cũng vậy. Người đó không cho phép bạn thay đổi.
Cuộc sống đang cố thay đổi đổi bạn mọi khoảnh khắc, nhưng bạn có nhiều bạn bè, bố mẹ, thầy giáo và gia đình bạn thế. Toàn thể việc quản lí của chính phủ, nhà thờ, là tới mức nó giúp cho bạn vẫn còn là bạn vậy. Nó là một mưu đồ lớn để giữ cho mọi người mơ, bởi vì không ai muốn bạn thức tỉnh. Điều đó là nguy hiểm, bởi vì bất kì người nào đã trở nên thức tỉnh bao giờ cũng chứng tỏ là nguy hiểm cho nguyên trạng, cho nhà thờ, quốc gia, xã hội đã được thiết lập - cho các thể chế như vậy. Người thức tỉnh bao giờ cũng chứng tỏ là một loại gây phiền hà, bởi vì họ bắt đầu giúp những người khác trở nên thức tỉnh.
Khi ông quan sát ảo tưởng của ông, ông sẽ biết rằng chúng là không có cơ sở và không phụ thuộc được. Theo cách này ông có thể cắt bỏ lẫn lộn và hoài nghi.
Không cái gì khác được cần; chỉ trở nên nhận biết về chúng, rằng chúng là ảo tưởng, bạn được kết thúc. Khoảnh khắc bạn biết rằng hai cộng với hai không phải là năm, rằng hai cộng với hai là bốn, bạn được kết thúc với hai cộng với hai bằng năm. Bạn không cần làm cái gì khác; hiểu là đủ.
Cách của vị phật là cách của hiểu biết.
Câu hỏi thứ ba: Loại ảo tưởng nào sẽ bị làm tan biến bởi Thiền?
Lặp đi lặp lại... Chỉ có hai điều là vô hạn trong thế giới này: ngu xuẩn của đệ tử và từ bi của thầy. Bây giờ anh ta hỏi: Loại ảo tưởng nào...? Dường như có nhiều loại ảo tưởng! Ảo tưởng là ảo tưởng; nó chỉ có một phẩm chất: rằng nó là không thực, rằng nó không phải là vậy, rằng nó không là một phần của thực tại, rằng nó là phóng chiếu của bạn. Bây giờ, cái gì bạn phóng chiếu không thành vấn đề. Bạn có thể phóng chiếu chiếc xe bò kéo, đó là một ảo tưởng; bạn có thể phóng chiếu chiếc xe ngựa vàng, đó là một ảo tưởng. Bạn có thể phóng chiếu bất kì cái gì, nhưng bản tính cơ bản của ảo tưởng là như nhau; không có nhiều loại ảo tưởng.
Nhưng tâm trí logic bao giờ cũng chạy theo "Bao nhiêu loại, phân loại nào...?"
Và loại ảo tưởng nào sẽ bị làm tan biến bởi Thiền?
Dường như vài người sẽ được làn tan biến bởi Thiền và vài người sẽ vẫn còn lại! "Loại mơ nào sẽ biến mất khi bạn trở nên thức tỉnh?" Dường như vài loại mơ sẽ vẫn còn tiếp tục, sẽ vẫn còn dai dẳng!
Nhưng từ bi của thầy là tới mức Bồ đề đạt ma nói:
Bất kì ảo tưởng nào về người thường, về triết gia, về thanh văn, về duyên giác-phật, hay về bồ tát.
Ông ấy nói: Bất kì ý tưởng nào về "Mình là cái này cái nọ" sẽ biến mất. Ảo tưởng cơ sở là ảo tưởng về cái tôi, bản ngã - và bản ngã sẽ biến mất.
Một số người nghĩ họ là thấp kém, nhưng bản ngã còn dai dẳng: "Mình thấp kém." Và ai đó nghĩ mình là cao siêu - cùng bản ngã đó dai dẳng: "Mình là cao siêu." Ai đó nghĩ, "Mình tầm thường," ai đó nghĩ, "Mình rất rất khôn ngoan," ai đó nghĩ, "Mình chỉ là tín đồ của Phật, một thanh văn," và ai đó nghĩ, "Mình là bản thân phật."'
Mọi loại ảo tưởng được bắt rễ trong ý tưởng về bản ngã sẽ biến mất. Khi bạn thức dậy, bản ngã biến mất, và cùng với nó mọi thứ đồ trang bị của nó. Toàn thể cái đống được bản ngã tạo ra đi cùng nó; đấy toàn là cái bóng của bản ngã.
Câu hỏi thứ tư: Khác biệt gì giữa cuộc sống tuyệt vời nhất của hiền nhân và cuộc sống hàng ngày của người thường?
Bồ đề đạt ma trả lời:
Nó giống như tơ. Một số người coi lầm nó là hơi, nhưng thực ra nó là tơ nhện nổi trong không khí. Người thường nhìn cuộc sống của hiền nhân, và tin nó là hệt như cuộc sống hàng ngày của riêng mình; trong khi người chứng ngộ nhìn con đường thiêng liêng trong cuộc sống của người thường. Nếu ông mà quan sát trong kinh rằng mọi chư phật đều thuyết giảng cho hai nhóm, người thường và người trí huệ, nhưng trong con mắt của Thiền, cuộc sống của hiền nhân là cuộc sống của người thường và cuộc sống của người thường là cuộc sống của hiền nhân. Cuộc sống cái một này không có hình dạng và là trống rỗng theo bản tính. Nếu ông trở nên bị gắn bó với bất kì hình dạng nào, ông sẽ bác bỏ nó. Nếu ông thấy một bản ngã, một linh hồn, việc sinh hay chết, bác bỏ tất cả chúng đi.
Đó là câu trả lời rất có ý nghĩa. Suy ngẫm về nó đi.
Nó giống như tơ.
Cuộc sống của chúng ta chỉ là bản ngã chúng ta đang chơi đủ mọi loại trò chơi với chúng ta. Bản ngã không phải là thực tại mà chỉ là niềm tin. Nó giống hệt cái tên bạn. Khi bạn được sinh ra, bạn được sinh không có tên - mọi người được sinh ra đều không có tên - thế rồi tên được cho. Cái tên là sự cần thiết, nó có hữu dụng nào đó trong thế giới; sẽ rất khó nếu mọi người đều không có tên. Cho nên nó là tiện dụng, sự cần thiết, nhưng nó không là thực tại, nhớ lấy.
Bạn không phải là tên của bạn, nhưng dần dần, dần dần bạn trở thành cái tên bạn. Nếu ai đó chống lại cái tên bạn, bạn nổi cáu, bạn sẵn sàng đánh nhau, bạn phát rồ - dường như bạn là cái tên của bạn!
Swami Rama một hôm đi tới cười to. Ông ấy ở New York. Người chủ không thể tìm được ra lí do tại sao ông ấy cười nhiều thế. "Chuyện gì xảy ra vậy?" Ông ấy vừa mới đi dạo và bây giờ ông ấy tới với tiếng cười thế; tiếng cười có vẻ gần như điên, dở hơi.
Ông chủ hỏi, "Có chuyện gì vậy? Cái gì xảy ra?"
Và Rama nói, "Vài người đã bắt đầu lăng mạ Rama, xúc phạm Rama, và tôi thích thú với toàn thể vấn đề này lắm! Tôi quan sát nó, tôi thấy Rama bị xúc phạm. Nhưng tôi không là Rama! Những người đó đã phí hơi không cần thiết. Tôi không phải là cái tên tôi, đó là lí do tại sao tôi cười. Và điều tốt là tôi không có cái tên nào - không ai có thể xúc phạm tôi được, không ai có thể lăng mạ tôi được. Tôi là vô danh, tôi là vô dạng."
Nhưng chúng ta ở trong trạng thái vô ý thức và chúng ta trở nên bị đồng nhất với bất kì cái gì.
Đó là vào buổi tiệc Nô en tại văn phòng. Khi họ đặt chiếc tràng kỉ tiếp khách văn phòng trong phòng tối, hơi thở của họ trở nên nóng và nhanh.
"À, Herbie," cô ấy nói một cách đam mê, "anh chưa bao giờ làm tình với em giống thế này trước đây. Có phải là vì tinh thần ngày nghỉ lễ không?"
"Không," anh ta hổn hển, "có lẽ bởi vì anh không là Herbie."
Những người vô thức! Ai biết ai là Herbie và ai không là Herbie? Ngay cả bản thân Herbie không là Herbie. Nhưng chúng ta liên tục sống cuộc sống của mình với mọi điều vô ý thức này.
Cantor, Klein, Levy và Strulowitz gặp nhau ăn trưa.
Sau khi gọi món, Cantor nói, "Ôi, ôi, ôi!"
"Ai, ai, ai!" Klein trả lời.
"Yai, yai, yai!" Levy thêm.
"Này," Strulowitz nói, "nếu các bạn mà đi vào nói chuyện kinh doanh, tớ sẽ không ở lại đâu!"
Chúng ta có ý tưởng nào đó trong tâm trí; chúng ta phóng chiếu các ý tưởng đó lên người khác, chúng ta diễn giải chúng theo ý tưởng của chúng ta, và chúng ta sống trong một thế giới bị giam cầm trong bịa đặt riêng của chúng ta.
Đây là điều Bồ đề đạt ma gọi là tâm trí, bản ngã. Bỏ nó đi! Thấy cái đang đó đi. Đừng can thiệp vào nó, đừng diễn giải nó theo bất kì cách nào. Nhìn hoa hồng. Thậm chí không nói rằng nó là đẹp, bởi vì đó là can thiệp. Không nói gì hết cả. Hoa hồng im lặng: bạn cũng im lặng. Để có gặp gỡ đi, gặp gỡ sâu sắc giữa bạn và hoa hồng, không tâm trí nào ở giữa bạn và hoa hồng, và bạn sẽ ngạc nhiên: người quan sát trở thành cái được quan sát. Một khoảnh khắc tới khi bạn là hoa hồng và hoa hồng là bạn.
Và đó là khoảnh khắc khi bạn biết, chưa bao giờ trước nó. Đó là khoảnh khắc khi trí huệ nảy sinh trong bạn. Và một khi bạn có cái mẹo tìm ra trí huệ bạn có thể tìm thấy nó trong từng khoảnh khắc cuộc sống của bạn. Dần dần, dần dần nó trở thành bầu khí hậu tự nhiên của bạn.
Nó giống như tơ. Một số người coi lầm nó là hơi, nhưng thực ra nó là tơ nhện nổi trong không khí. Người thường nhìn cuộc sống của hiền nhân, và tin nó là hệt như cuộc sống hàng ngày của riêng mình…
Nếu người thường, người bình thường, tới gặp vị phật, người đó sẽ không thấy khác biệt nào. Nhiều người đã hỏi Phật, "Thầy ngủ như chúng tôi ngủ, thầy ăn như chúng tôi ăn, thầy trở nên mệt như chúng tôi trở nên mệt, vậy khác biệt là gì?"
Người thường phóng chiếu cái bình thường của mình ngay cả lên vị phật. Đó là lí do tại sao về sau, khi các tín đồ thấy rằng người thường sẽ không có khả năng hiểu vị phật nếu họ thực sự viết ra cuộc sống thực tại của ông ấy, họ bắt đầu tạo ra hư cấu quanh thầy họ. Do đó, bất kì cái gì bạn bây giờ có về Phật, Jesus, Mohammed, Krishna, Mahavira, toàn là hư cấu; nó không thực.
Jesus bước đi trên nước là hư cấu được bịa ra bởi các tín đồ để cho người thường có thể thấy rằng thầy là phi thường, ông ấy không phải là người thường. Jesus làm sống lại người chết hay chữa cho người mù - những điều này là hư cấu. Nếu chúng là biểu dụ, thế thì chúng là đẹp. Đó là chức năng của mọi vị phật: đem mắt tới cho người mù - theo nghĩa biểu dụ - làm sống lại người chết. ... Bởi vì tất cả các bạn đều chết. Cách các bạn đang vậy, các bạn đang trong nấm mồ. Và từng vị phật gọi Lazarus ra khỏi nấm mồ.
Nếu nó là biểu dụ, nếu nó là cách thức thơ ca, biểu tượng của việc nói về một điều - hay. Nhưng nếu bạn cố chứng minh rằng nó là cái gì đó có tính lịch sử, sự kiện, thế thì bạn đơn giản đang cố lừa người thường. Nhưng điều này sẽ không giúp ích gì; người thường không thể được giúp theo cách này. Điều này chỉ tạo ra vấn đề cho người thường, bởi vì bất kì khi nào họ bắt gặp vị phật thực họ sẽ mong đợi ông ấy bước đi trên nước. Và nếu ông ấy không thể bước đi được trên nước - và không vị phật nào đủ ngu để bước đi trên nước - thế thì họ sẽ nghĩ ông ấy không phải là vị phật.
Mong đợi của bạn được tạo ra bởi các tín đồ; chúng được tạo ra để giúp bạn hiểu thầy của họ. Thực ra, họ đã làm chính điều đối lập: bạn sẽ không bao giờ có khả năng hiểu bất kì thầy sống này. Và thầy chết là vô dụng. Chỉ thầy sống, cái chạm của thầy sống, mới có thể thay đổi được bạn từ kim loại cơ sở thành vàng.
Nhưng khó khăn lớn đã được tạo ra: quanh Phật có nhiều chuyện thế, quanh Zarathustra có nhiều chuyện thế. Và tất cả những câu chuyện đó đều là hư cấu được các tín đồ tạo ra. Và khi thời gian qua đi nhiều hư cấu nữa được thêm vào mọi ngày tới mức khó mà phân loại ra được cái nào là thực và cái nào không thực.
Nhưng lí do là điều Bồ đề đạt ma đang nói: người thường tin rằng vị phật cũng là bình thường - "hệt như chúng ta."
…trong khi người chứng ngộ nhìn con đường thiêng liêng trong cuộc sống của người thường.
Và chính điều đối lập là hoàn cảnh với vị phật.
Phật tương truyền đã nói, "Khoảnh khắc ta trở nên chứng ngộ, toàn thể sự tồn tại trở nên chứng ngộ đối với ta." Và tôi có thể xác nhận điều đó: khoảnh khắc tôi trở nên chứng ngộ, toàn thể sự tồn tại đã trở thành chứng ngộ với tôi nữa.
Khi tôi nhìn bạn, tôi không nhìn bạn như người thường, bình thường. Tôi nhìn bạn như chư phật - tất nhiên ngủ, ngáy nữa, nhưng điều đó không tạo ra khác biệt nào cho phật tính của bạn. Phật tính có mọi tự do để ngáy và ngủ! Nhưng tôi có thể thấy rằng sâu bên dưới việc ngáy của bạn chỉ là bề mặt, giấc ngủ của bạn chỉ là bề mặt. Sâu bên dưới có ánh sáng bùng cháy vĩnh hằng. Tôi thấy bạn như chư phật; bạn còn chưa thấy nó.
Chức năng của thầy là giúp bạn thấy cái thầy đã thấy trong bạn. Thầy giúp bạn cũng để để thấy điều đó: đó là toàn thể chức năng của thầy.
Ông mà quan sát trong kinh rằng mọi chư phật đều thuyết giảng cho hai nhóm, người thường và người trí huệ, nhưng trong con mắt của Thiền, cuộc sống của hiền nhân là cuộc sống của người thường và cuộc sống của người thường là cuộc sống của hiền nhân.
Chư phật phải dạy hai loại người, bởi vì trên bề mặt có hai loại người, người thường và người trí huệ, do đó có hai loại phát biểu của mọi chư phật. Vài phát biểu được dành cho người ngu. Đừng phán xét vị phật bởi những phát biểu này. Nhớ tới hoàn cảnh, nhớ tới người được trao, người được trả lời. Đừng quên người này. Và vài câu trả lời dành cho người trí huệ. Không khó phân loại chúng bởi vì chúng tất cả đều được biên soạn cùng nhau.
Trong Vedas chỉ một phần trăm phát biểu là đáng giữ lấy; chín mươi chín phần trăm chỉ đáng vứt đi. Đấy cũng là trường hợp với Kinh Cựu ước, đấy cũng là trường hợp với kinh Koran, bởi vì Mohammed bắt gặp đủ loại người. Và những người này là các loại cơ bản: người ngu, người thường, người mơ, người ngủ, và người trí huệ. Với người trí huệ ông ấy sẽ nói một điều. Chẳng hạn, Jesus nói, "Gõ cửa, và cửa sẽ mở ra cho ông." Điều này phải đã được nói cho ai đó rất rất ngủ.
Một hôm Rabiya đi qua và bà ấy thấy Hasan đang ngồi trước nhà thờ hồi giáo, nước mắt lăn dài trên má ông ấy, và khóc lóc với tay giơ cao trong lời cầu nguyện sâu sắc. Ông ấy đang nói với Thượng đế, "Tôi gõ cửa và gõ mãi vào cửa của ngài - trong nhiều năm tôi đã từng gõ. Tại sao ngài không mở cửa? Khi nào ngài sẽ nhận tôi?"
Rabiya đi qua. Bà ấy lại gần Hasan, lay ông ấy khỏi lời cầu nguyện và nói, "Này ông, ngu vừa thôi! Cửa mở đấy. Chúng chưa bao giờ đóng. Đơn giản đứng dậy và vào đi!"
Bây giờ, Hasan đang ở ngay đường biên, một bước nữa và ông ấy sẽ trở thành trí huệ.
Không có mâu thuẫn trong câu nói của Jesus, "Gõ cửa, và cửa sẽ được mở," và câu nói của Rabiya, "Ông đang nói điều vô nghĩa gì vậy - 'Tôi gõ cửa'! Cửa đã mở rồi!" Không có mâu thuẫn nào, không thể có được. Không thể tìm được mâu thuẫn giữa hai phát biểu của Phật. Nhưng ở đây hoàn cảnh là khác. Jesus phải đã nói cho người thường, người bình thường, và Rabiya đang nói cho người chỉ ngay trên bờ trở nên chứng ngộ.
Chính khoảnh khắc đó Hasan mở mắt và nói, "Đúng rồi, chị đúng! Cửa chưa bao giờ đóng cả. Tôi đã là kẻ ngu. Chính từ bi của chị tới mức chị quấy rối giấc ngủ của tôi. Tôi vô cùng biết ơn chị. Vâng, cửa chưa bao giờ đóng cả - và tôi đã cầu nguyện cả đời mình, cứ tin rằng cửa bị đóng, và rằng tôi phải gõ và tôi phải cầu nguyện."
Kể từ ngày đó không ai đã bao giờ thấy Hasan cầu nguyện. Ông ấy thôi tới nhà thờ hồi giáo. Phỏng có ích gì? Cửa ở mọi nơi.
Bất kì chỗ nào bạn ở, Thượng đế ở đó đương đầu với bạn, thách thức bạn.
Chư phật phải nói theo hai cách. Nhưng Bồ đề đạt ma nói: Ta không quan tâm tới người thường. Ông ấy nói:
…nhưng trong con mắt của Thiền, cuộc sống của hiền nhân là cuộc sống của người thường và cuộc sống của người thường là cuộc sống của hiền nhân.
"Chúng tôi không thấy khác biệt nào: với chúng tôi hiền nhân sống như người thường và trong người thường chúng tôi thấy phật. Chúng tôi thấy cái sâu lắng trong cái bình thường và cái bình thường trong cái sâu lắng."
Do đó các sư Thiền đã sống cuộc sống rất bình thường, không có cái vô nghĩa linh thiêng hơn ngươi.
Cuộc sống cái một này không có hình dạng và là trống rỗng theo bản tính. Nếu ông trở nên bị gắn bó với bất kì hình dạng nào, ông sẽ bác bỏ nó. Nếu ông thấy một bản ngã, một linh hồn, việc sinh hay chết, bác bỏ tất cả chúng đi.
Bồ đề đạt ma nói: Bác bỏ chính ý tưởng rằng "Mình là phật." Bác bỏ chính ý tưởng rằng "Mình là đặc biệt, phi thường, tâm linh, linh thiêng," bởi vì đây toàn là thủ đoạn của bản ngã. Bản ngã đang tới từ cửa sau. Bác bỏ mọi đồng nhất đi. Đơn giản là trống rỗng toàn bộ. Và thế thì bất kì cái gì bạn sẽ nói và bất kì cái gì bạn sẽ làm và bất kì cái gì bạn sẽ là đều sẽ là đúng, đều sẽ là đẹp, đều sẽ là duyên dáng.
Và câu hỏi cuối cùng: Tại sao và làm sao chúng tôi bác bỏ chúng?
Ngu xuẩn tiếp tục:
Tại sao và làm sao chúng tôi bác bỏ chúng?
Bồ đề đạt ma nói:
Nếu ông có thiền, ông sẽ không thấy vật.
Sẽ không có vấn đề về bác bỏ. Nó chỉ là cách nói "Bác bỏ bản ngã." Nếu bạn thiền, nếu bạn trở nên im lặng, không có bản ngã để bác bỏ. Bạn sẽ không thấy một vật nào - không sống không chết, không vật chất không tâm trí. Mọi thứ sẽ biến mất. Bạn sẽ là không gian trống rỗng, chiếc gương phản xạ cái không. Nên đừng lo nghĩ!
Đầu tiên đi vào trong thiền, có phẩm chất thiền trong bạn. Trở nên im lặng và vô ý nghĩ, vô nội dung, tĩnh lặng. Và thế thì sẽ không cần lo nghĩ làm sao và tại sao bác bỏ - sẽ không có gì để bác bỏ. Bạn sẽ không thấy một vật nào.
"Cái được thiết lập vững chắc nhất trên con đường dường như là nhu nhược nhất."
Một trong những phát biểu vĩ đại nhất đã được nêu.
Bồ đề đạt ma nói:
"Cái được thiết lập vững chắc nhất trên con đường dường như là nhu nhược nhất."
Đó là lí do tại sao người thực sự là phật bao giờ cũng bị người thường kết án: bởi vì người đó dường như là người nhu nhược nhất, bởi vì người đó không khớp với phân loại nào, bởi vì người đó không khớp với đạo đức nào. Bạn không thể dự đoán được cái gì về ông ấy, ông ấy là không thể dự đoán được. Tại sao? - bởi vì ông ấy được thiết lập vững chắc thế trong bản thể ông ấy tới mức ông ấy không chăm nom gì về bất kì cái gì. Ông ấy sống một cách tự phát, với bất kì hậu quả nào. Ông ấy sẽ có vẻ lơ đễnh đối với bạn, nhưng ông ấy ý thức tới mức ông ấy không cần chú ý. Ông ấy sẽ có vẻ lơ đễnh với bạn; ông ấy không phải vậy. Ông ấy ý thức thế, không có vấn đề về lơ đễng. Ông ấy sẽ có vẻ lười với bạn, nhưng ông ấy không lười - không có vấn đề đó. Ông ấy ý thức thế, lười không thể tồn tại trong tâm thức của ông ấy được.
Nhưng với thế giới bên ngoài ông ấy sẽ không khớp vào bất kì phân loại nào. Nhà thờ Ki tô giáo sẽ không gọi ông ấy là thánh nhân. Người Hindus sẽ không gọi ông ấy là mahatma. Người Jainas sẽ không gọi ông ấy là muni. Cho dù Phật quay lại ngày nay, các Phật tử sẽ không nhận ra ông ấy là phật đâu - ông ấy sẽ trông rất cẩu thả, rất lạc lối.
Tương truyền rằng khi một Thiền sư trở nên chứng ngộ, ông ấy từ hang động trên núi tới bãi chợ với bình rượu. Mọi người nhìn ông ấy; họ không thể tin được vào mắt họ. Họ bao giờ cũng nghĩ rằng ông ấy là người rất linh thiêng. Bây giờ, quay lại bãi chợ với bình rượu! Ông ấy có điên không?
Nhưng ông ấy đơn giản nói, "Ta đã đi ra ngoài mọi qui tắc, qui chế. Ta đã đi ra ngoài mọi đạo đức, mọi nghi lễ. Bây giờ ông không thể dự đoán được về ta thêm nữa. Ta không còn là 'bình thường' và không còn 'linh thiêng'; ta đơn giản là bất kì cái gì ta đang là."
Ông ấy tới bãi chợ để phá huỷ ý tưởng của bạn về tính linh thiêng của ông ấy.
Người Sufis, Đạo sĩ và Thiền sư rất nổi tiếng về việc phá huỷ ý tưởng của bạn về tính linh thiêng, 'cái đặc biệt' của họ. Họ xoay xở để phát minh ra nhiều phương pháp đơn giản phá huỷ mong đợi của bạn, để phá hoại bạn. Họ chưa bao giờ hoàn thành mong đợi của bạn.
Đó là dấu hiệu thực của thầy: rằng thầy không bao giờ hoàn thành mong đợi của bạn. Nếu ai đó hoàn thành mong đợi của bạn, chắc và chắc chắn rằng người đó là rởm. Nhớ phát biểu hay này:
"Cái được thiết lập vững chắc nhất trên con đường dường như là nhu nhược nhất."
Đủ cho hôm nay.
Xem tiếp Chương 6 Quay về Mục lục

0 Đánh giá

Ads Belove Post