Read more
Yoga: Alpha và Omega (Tập 6)
Bài giảng về Kinh Yoga của Patanjali
Chương 6. Tâm
trí: Sự ngu xuẩn
Câu hỏi thứ nhất
Một số người có ngu hơn người khác không?
Tâm trí là ngu. Chừng nào bạn
còn chưa đi ra ngoài tâm trí, bạn không đi ra ngoài ngu; tâm trí chừng nấy, là
ngu.
Và tâm trí có hai kiểu: thông
thái và không thông thái. Nhưng cả hai đều ngu. Tâm trí thông thái được coi là
thông minh. Nó không phải vậy. Tâm trí ít thông thái bị coi là ngu, nhưng cả
hai đều ngu.
Trong ngu xuẩn của mình bạn có
thể biết nhiều - bạn có thể thu thập nhiều thông tin; bạn có thể mang tải trọng
kinh sách theo bạn; bạn có thể huấn luyện tâm trí, ước định tâm trí; bạn có thể
ghi nhớ; bạn có thể gần như trở thành cuốn từ điển bách khoa toàn thư
Britannica - nhưng điều đó không tạo ra khác biệt nào trong cái ngu của bạn. Thực
ra nếu bạn bắt gặp một người không còn tâm trí nào, cái ngu của bạn sẽ là nhiều
hơn cái ngu của những người không có thông tin, người đơn giản dốt nát. Biết
nhiều hơn không phải là trở thành việc biết, và biết ít hơn không phải là ngu
xuẩn.
Ngu xuẩn là một loại ngủ, vô nhận
biết sâu. Bạn cứ làm các thứ mà chẳng biết tại sao. Bạn cứ tham gia vào cả
nghìn lẻ một tình huống mà chẳng biết tại sao. Bạn đi qua cuộc sống mà ngủ say.
Việc ngủ đó là ngu xuẩn. Bị đồng nhất với tâm trí là ngu xuẩn. Nếu bạn nhớ, nếu
bạn trở nên nhận biết và sự đồng nhất với tâm trí bị mất, nếu bạn không còn là
tâm trí, nếu bạn cảm thấy siêu việt lên trên tâm trí; thông minh nảy sinh.
Thông minh là một loại thức tỉnh. Ngủ, bạn ngu. Thức, ngu xuẩn đã biến mất: lần
đầu tiên, thông minh đi vào.
Có thể biết nhiều mà không biết
tới bản thân bạn; thế thì biết đó toàn là ngu xuẩn. Chính điều đảo lại cũng là
có thể: biết bản thân mình - và không biết cái gì khác. Nhưng biết bản thân
mình là đủ để là thông minh; và người biết tới bản thân mình sẽ cư xử thông
minh trong bất kì và mọi tình huống. Người đó sẽ đáp ứng một cách thông minh.
Đáp ứng của người đó sẽ không là phản ứng; người đó sẽ không hành động từ quá
khứ. Người đó sẽ hành động trong hiện tại; người đó sẽ ở đây-bây giờ.
Tâm trí ngu bao giờ cũng hành động
từ quá khứ. Thông minh không cần phải bận tâm tới quá khứ. Thông minh bao giờ
cũng trong hiện tại: tôi hỏi bạn một câu hỏi - thông minh của bạn trả lời nó,
không từ kí ức của bạn. Thế thì bạn không ngu. Nhưng nếu chỉ kí ức trả lời nó,
không thông minh - thế thì bạn không nhìn vào câu hỏi. Thực ra bạn không bận
tâm về câu hỏi; bạn đơn giản mang câu trả lời làm sẵn.
Chuyện kể về Mulla Nasruddin là
hoàng đế định tới thăm thị trấn của ông ấy. Dân làng sợ đối diện với hoàng đế lắm,
cho nên tất cả họ đều đề nghị Nasruddin, "Xin ông đại diện cho chúng tôi.
Chúng tôi là người ngu, dốt. Ông là người khôn ngoan duy nhất ở đây, cho nên
xin ông xử trí cho tình huống này bởi vì chúng tôi không biết cung cách của triều
đình, và hoàng đế lần đầu tiên tới."
Nasruddin nói, "Dĩ nhiên rồi.
Tôi đã gặp nhiều hoàng đế rồi và tôi đã tới thăm nhiều triều đình rồi. Đừng
lo."
Nhưng người ở triều đỉnh bản
thân họ cũng lo về làng này, cho nên họ tới chỉ để chuẩn bị cho toàn thể tình
huống. Khi họ hỏi ai sẽ đại diện cho dân làng, dân làng nói, "Mulla
Nasruddin sẽ đại diện cho chúng tôi. Ông ấy là người lãnh đạo của chúng tôi,
người hướng dẫn của chúng tôi, triết gia của chúng tôi."
Thế là họ huấn luyện cho Mulla
Nasruddin, nói, "Ông không cần phải lo lắng nhiều quá. Nhà vua sẽ hỏi chỉ
ba câu hỏi thôi. Câu hỏi thứ nhất sẽ là về tuổi của ông. Ông bao nhiêu tuổi?"
Nasruddin nói, "Bẩy mươi."
"Vậy nhớ điều đó. Đừng
kinh sợ quá bởi hoàng đế và triều đình. Khi ngài hỏi ông bao nhiêu tuổi, nói,
'Bẩy mươi' - không một lời thêm hay bớt; bằng không thì ông có thể bị khó khăn
đấy. Thế rồi ngài sẽ hỏi ông đã phụng sự cho đền thờ làng được bao lâu rồi, ông
đã là thầy giáo tôn giáo ở đây được bao lâu rồi. Vậy nói đích xác số năm ra.
Ông đã phụng sự được bao lâu rồi?" Ông ấy nói, "Trong ba mươi
năm."
Những câu hỏi đại loại thế này.
Thế rồi hoàng đế tới. Những người đã huấn luyện cho Nasruddin, họ cũng đã huấn
luyện cho hoàng đế nữa, nói, "Người ở làng này rất giản dị, và người lãnh
đạo của họ có vẻ hơi ngu, cho nên xin bệ hạ rủ lòng thương và không hỏi cái gì
khác. Đây là những câu hỏi..."
Nhưng nhà vua quên khuấy. Cho
nê trước khi hỏi, "Ông bao nhiêu tuổi rồi?" nhà vua lại hỏi,
"Ông đã hướng dẫn tâm linh cho thị trấn này được bao lâu rồi?"
Bây giờ, Nasruddin có câu trả lời
cố định. Ông ấy nói, "Bẩy mươi năm."
Nhà vua nhìn với chút phân vân
bởi vì người này trông không quá bẩy mươi, vậy mà ông ta đã là thầy giáo tôn
giáo từ chính lúc lọt lòng sao? Thế rồi nhà vua nói, "Ta rất lấy làm ngạc
nhiên. Vậy thế ông bao nhiêu tuổi?"
Nasruddin nói, "Ba
mươi." Bởi vì đây là điều đã cố định: rằng đầu tiên ông ấy phải nói
"bẩy mươi," thế rồi ông ấy phải nói "ba mươi." Nhà vua nói,
"Ông điên sao?"
Nasruddin nói, "Thưa ngài,
cả hai ta cùng điên - theo cách riêng của chúng ta! Ngài hỏi câu hỏi sai - và
tôi phải trả lời câu trả lời đúng! Đây là vấn đề. Tôi không thể thay đổi được,
bởi vì những người kia ở đây, những người đã huấn luyện cho tôi. Họ đang nhìn
tôi. Tôi không thể thay đổi được, và ngài đang hỏi câu hỏi sai. Cả hai ta đều
điên theo cách riêng của chúng ta. Tôi bị buộc phải trả lời câu hỏi đúng - đó
là cái điên của tôi. Giá mà không có câu trả lời làm sẵn tôi chắc đã trả lời
ngài đúng rồi, nhưng bây giờ có rắc rối. Và ngài đang hỏi câu hỏi sai, theo
trình tự sai."
Điều này xảy ra cho tâm trí ngu
xuẩn. Liên tục, quan sát trong bản thân bạn đi: Mulla Nasruddin là một phần của
bạn đấy. Bất kì khi nào bạn trả lời một câu hỏi vì bạn có câu trả lời làm sẵn,
bạn hành xử ngu xuẩn. Tình huống có thể thay đổi, tham chiếu có thể đã thay đổi,
hoàn cảnh có thể đã thay đổi - và bạn hành động từ quá khứ.
Hành động từ hiện tại đi. Hành
động từ việc không chuẩn bị đi. Hành động từ nhận biết của hiện tại; đừng hành
động từ quá khứ. Thế thì bạn không ngu.
Bây giờ bạn có thể hiểu tại sao
tôi nói tâm trí là ngu: bởi vì tâm trí chỉ là quá khứ. Tâm trí là quá khứ được
tích luỹ, mọi điều bạn đã biết trong quá khứ. Cuộc sống liên tục thay đổi. Tâm
trí vẫn còn như cũ - nó mang kí ức chết, thông tin chết. Hoàn cảnh thay đổi mọi
khoảnh khắc, câu hỏi thay đổi mọi khoảnh khắc, hoàng đế thay đổi mọi khoảnh khắc
- và bạn mang những câu trả lời cố định. Bạn bao giờ cũng sẽ trong rắc rối. Tâm
trí ngu xuẩn là trong rắc rối, khổ sở. Chẳng vì cái gì. Duy nhất chỉ lí do này:
rằng người đó quá sẵn sàng, quá được chuẩn bị.
Mọi khoảnh khắc vẫn còn không
được chuẩn bị đi. Thế thì bạn vẫn còn hồn nhiên. Thế thì bạn không mang cái gì
đó. Bất kì khi nào bạn có câu trả lời làm sẵn, bạn đều không nghe câu hỏi đích
xác như nó vậy. Trước khi bạn nghe câu hỏi, câu trả lời đã bật ra trong tâm trí
rồi; câu trả lời đã đứng giữa bạn và câu hỏi rồi. Trước khi bạn nhìn quanh và
quan sát tình huống, bạn đã phản ứng.
Tâm trí là quá khứ, tâm trí là
kí ức - đó là lí do tại sao tâm trí là ngu, mọi tâm trí. Bạn có thể là một dân
làng, chẳng biết gì mấy về thế giới. Bạn có thể là giáo sư ở Đại học Pune, biết
nhiều. Điều đó không tạo ra khác biệt gì. Thực ra thỉnh thoảng chuyện xảy ra là
dân làng thông minh hơn - vì họ chẳng biết gì. Họ phải dựa vào thông minh. Họ
không thể dựa vào thông tin của họ, họ chẳng có gì. Nếu bạn tỉnh táo bạn có thể
thấy phẩm chất của hồn nhiên trong dân làng. Người đó như trẻ con.
Trẻ con thông minh hơn người lớn,
thông minh hơn người già. Đó là lí do tại sao trẻ con có thể học dễ dàng thế.
Chúng thông minh hơn. Tâm trí còn chưa có đó. Chúng là vô tâm trí. Chúng không
mang quá khứ nào; chúng không có. Chúng đang di chuyển, vẩn vơ, ngạc nhiên với
mọi thứ. Chúng bao giờ cũng nhìn vào tình huống. Thực ra chúng chẳng có gì khác
để nhìn - không câu trả lời làm sẵn. Thỉnh thoảng trẻ con trả lời theo cách hay
và sống động thế mà người già không thể trả lời được. Người già bao giờ cũng có
tâm trí ở đó để trả lời cho chúng. Họ có kẻ phục vụ, cái máy, cái máy tính sinh
học; và họ dựa trên nó. Bạn càng trở nên già, bạn càng trở nên ngu hơn.
Tất nhiên, người già nghĩ họ đã
trở nên rất khôn ngoan, bởi vì họ biết nhiều câu trả lời. Nếu đây là khôn ngoan
thì máy tính sẽ là kẻ khôn ngoan nhất. Thế thì không cần bạn nghĩ về Phật và Jesus
và Zarathustra, không. Máy tính sẽ khôn ngoan hơn bởi vì chúng biết nhiều hơn.
Chúng có thể biết tuốt; chúng có thể được nạp cho mọi thông tin. Và chúng sẽ vận
hành tốt hơn vì chúng là máy.
Không, trí huệ không liên quan
chút nào tới tri thức. Nó liên quan tới nhận biết, thông minh, hiểu biết. Tỉnh
táo hơn đi. Thế thì bạn không trong nắm bắt của tâm trí. Thế thì bạn có thể
dùng tâm trí bất kì khi nào được cần nhưng bạn không bị tâm trí dùng. Thế thì
tâm trí không còn là người chủ - bạn là chủ và tâm trí là tớ. Bất kì khi nào bạn
cần đầy tớ bạn hỏi, nhưng bạn không bị cai trị, bạn không bị tâm trí thao túng.
Tình huống bình thường của tâm
trí là tới mức dường như chiếc xe thao túng người lái. Chiếc xe nói, "Đi
theo đường này," và người lái xe phải tuân theo. Thỉnh thoảng chuyện xảy
ra: phanh hỏng, bánh xe không chạy tốt, bạn muốn đi xuống nam còn xe đi lên bắc.
Máy đã hỏng; điều đó là ngẫu nhiên. Nhưng ngẫu nhiên đó đã trở thành bình thường
với tâm trí con người. Một cách liên tục bạn muốn đi đâu đó và tâm trí muốn đi
đâu đó khác. Bạn muốn đi tới đền chùa và tâm trí nghĩ tới rạp hát, và bạn thấy
bản thân bạn ở rạp hát. Có thể bạn đã ra khỏi nhà để đi tới đền chùa để cầu
nguyện... bạn đang ngồi ở rạp hát - bởi vì xe muốn đi theo đường đó và bạn
không có khả năng điều khiển.
Thông minh là tính làm chủ -
làm chủ mọi cái máy bên trong bạn. Thân thể là cái máy, tâm trí là cái máy: bạn
trở thành người chủ. Không ai thao túng bạn; tâm trí đơn giản nhận lệnh của bạn.
Đây là thông minh.
Cho nên nếu bạn hỏi, "Một
số người có ngu hơn người khác không?" - điều đó còn tuỳ. Như tôi thấy, mọi
người thông thái đều là người ngu thông thái, người ngu không thông thái. Đây
là hai phân loại bình thường, bởi vì phân loại thứ ba là duy nhất tới mức bạn
không thể làm cho nó thành phân loại được. Hãn hữu, thỉnh thoảng, vị Phật xảy
ra: vị Phật là thông minh. Nhưng thế thì ông ấy có vẻ như nổi dậy vì ông ấy
không cho bạn câu trả lời quá khứ, câu trả lời cố định. Ông ấy đi xa khỏi đường
cao tốc; ông ấy có con đường riêng của mình. Ông ấy làm ra con đường riêng của
mình. Thông minh bao giờ cũng đi theo bản thân nó. Nó không theo bất kì ai.
Thông minh làm ra con đường riêng của nó. Chỉ người ngu mới đi theo.
Nếu bạn ở đây với tôi bạn có thể
ở đây theo hai cách. Bạn có thể ở đây một cách thông minh với tôi: thế thì bạn
sẽ học từ tôi, nhưng bạn sẽ không đi theo. Bạn sẽ theo thông minh riêng của bạn.
Nhưng nếu bạn ngu bạn không bận tâm về việc học: bạn đơn giản theo tôi. Điều đó
có vẻ đơn giản, ít rủi ro, ít nguy hiểm, an ninh hơn, an toàn, bởi vì bạn bao
giờ cũng có thể đổ trách nhiệm lên tôi; nhưng nếu bạn chọn cách thức an toàn an
ninh, bạn đã chọn chết. Bạn đã không chọn sống. Sống là nguy hiểm và rủi ro.
Thông minh bao giờ cũng sẽ chọn sống - với bất kì giá nào, bất kì cái gì rủi ro
- bởi vì đó là cách duy nhất để sống động.
Thông minh là phẩm chất của nhận
biết. Người thông minh không ngu.
Câu hỏi thứ hai
Nội suy xét khác gì với nhớ cái ta?
Nhiều khác biệt đấy. Nội suy
xét là nghĩ về bản thân bạn trong hoàn cảnh. Nhớ cái ta không phải là nghĩ chút
nào: nó là trở nên nhận biết về bản thân bạn bên trong. Khác biệt này là tinh tế,
nhưng rất lớn.
Tâm lí học phương tây nhấn mạnh
vào nội suy xét, và tâm lí học phương đông nhấn mạnh vào nhớ cái ta. Khi bạn nội
suy xét, bạn làm gì? Chẳng hạn, bạn giận: bạn bắt đầu nghĩ về giận - nó có
nguyên nhân bên ngoài thế nào. Bạn bắt đầu phân tích tại sao nó có nguyên nhân.
Bạn bắt đầu phán xét liệu nó là tốt hay xấu. Bạn bắt đầu hợp lí hoá rằng bạn đã
giận bởi vì tình huống là như vậy. Bạn ủ ê suy nghĩ về giận, bạn phân tích giận,
nhưng hội tụ của chú ý là vào giận, không vào cái ta. Toàn thể ý thức của bạn
được hội tụ vào giận - bạn đang quan sát, phân tích, liên kết, suy nghĩ về nó,
cố gắng hình dung ra cách tránh né, cách gạt bỏ nó, cách không làm nó lần nữa.
Đây là quá trình suy nghĩ. Bạn sẽ phán xét nó là "xấu" bởi vì nó có
tính phá huỷ. Bạn sẽ lấy lời thề rằng "Mình sẽ không bao giờ phạm phải
cùng sai lầm này lần nữa." Bạn sẽ cố gắng kiểm soát giận này qua ý chí. Đó
là lí do tại sao tâm lí học phương Tây đã trở thành phân tích, phân tích, mổ xẻ.
Nhấn mạnh của phương Đông không
phải vào giận. Nhấn mạnh của phương Đông là vào cái ta. Nhận biết khi bạn giận,
là nhận biết vậy... Không nghĩ, bởi vì suy nghĩ là thứ có tính ngủ. Bạn có thể
nghĩ khi bạn ngủ say; không cần có nhận biết. Thực ra bạn liên tục nghĩ mà
không nhận biết chút nào. Suy nghĩ cứ tiếp diễn và tiếp diễn. Ngay cả khi bạn
ngủ say trong đêm, việc suy nghĩ vẫn liên tục, tâm trí cứ tiếp tục huyên thuyên
bên trong của nó. Đó là một thứ máy móc.
Tâm lí học phương Đông nói,
"Nhận biết đi. Đừng cố phân tích giận, không cần đâu. Cứ nhìn vào nó,
nhưng nhìn với nhận biết. Đừng bắt đầu nghĩ." Thực ra nếu bạn bắt đầu nghĩ
thế thì việc nghĩ sẽ trở thành rào chắn cho việc nhìn vào giận. Thế thì suy
nghĩ sẽ vồ lấy nó. Thế thì suy nghĩ sẽ giống như đám mây bao quanh nó; sự sáng
tỏ sẽ bị mất. Đừng nghĩ chút nào. Ở trong trạng thái của vô ý nghĩ, và nhìn.
Khi thậm chí không có lấy một gợn
sóng suy nghĩ giữa bạn và cơn giận, giận được đối diện, được bắt gặp. Bạn không
mổ xẻ nó. Bạn không bận tâm đi tới cội nguồn của nó, bởi vì cội nguồn là trong
quá khứ. Bạn không phán xét nó, bởi vì khoảnh khắc bạn phán xét, suy nghĩ bắt đầu.
Bạn không lấy lời thề nào rằng "Mình sẽ không làm nó," bởi vì lời thề
đó dẫn bạn vào trong tương lai.
Trong nhận biết bạn vẫn còn ở
cùng với cảm giác của giận - một cách đích xác ở đây-bây giờ. Bạn không quan
tâm tới việc thay đổi nó, bạn không quan tâm tới suy nghĩ về nó: bạn quan tâm
nhìn thẳng vào nó, mặt đối mặt, ngay lập tức. Thế thì đó là việc nhớ cái ta.
Và đây là cái hay của nó: rằng
nếu bạn có thể nhìn vào giận, nó biến mất. Nó không chỉ biến mất vào khoảnh khắc
này: chính việc biến mất của nó bởi cái nhìn sâu của bạn cho bạn chìa khoá rằng
không cần dùng ý chí, không cần ra bất kì quyết định nào cho tương lai, và
không cần đi tới cội nguồn nguyên thuỷ từ đó nó tới. Điều đó là không cần thiết.
Bạn có chìa khoá bây giờ: nhìn vào giận, và giận biến mất. Và cái nhìn này là sẵn
có mãi mãi. Bất kì khi nào giận sẽ có đó bạn có thể nhìn; thế thì cái nhìn này
tăng trưởng sâu hơn.
Có ba giai đoạn của nhìn. Thứ
nhất, khi giận đã xảy ra và đã qua. Nhiều nhất, bạn nhìn vào cái đuôi đang biến
mất - con voi đã qua rồi, chỉ đuôi có đó - bởi vì khi giận có đó, thực sự, bạn
đã bị dính líu sâu vào trong nó tới mức bạn không thể nhận biết được. Khi giận
đã gần như biến mất, chín mươi chín phần trăm - chỉ một phần trăm, phần cuối
cùng của nó đang đi qua, đang biến mất vào trong đường chân trời xa hơn - thế
thì bạn trở nên nhận biết: đây là trạng thái thứ nhất của nhận biết. Tốt, nhưng
không đủ.
Trạng thái thứ hai là khi con
voi có đó, không phải đuôi: khi tình huống chín muồi, bạn đã giận thực sự tới đỉnh
- sôi lên, bùng cháy - thế thì bạn trở nên nhận biết.
Thế rồi vẫn còn giai đoạn thứ
ba: giận còn chưa tới, nó vẫn đang tới - không phải cái đuôi mà là cái đầu. Nó
chỉ mới đi vào khu vực ý thức của bạn và bạn trở nên nhận biết - thế thì con
voi không bao giờ vật chất hoá được. Bạn đã giết chết con vật này trước khi nó
được sinh ra. Đó là kiểm soát sinh. Hiện tượng này đã không xảy ra; thế thì nó
không để lại dấu vết nào.
Nếu bạn dừng nó ở giữa chừng, nửa
cái đầu đã xảy ra, nó sẽ để lại cái gì đó lên bạn - một dấu vết, một tải trọng,
một vết thương nhỏ. Bạn sẽ cảm thấy bị cào xước. Cho dù bạn không cho phép nó
bây giờ có sự đung đưa đầy đủ của nó, nó đã đi vào. Nếu bạn nhìn vào đuôi, toàn
thể sự việc đã xảy ra. Nhiều nhất bạn có thể hối hận; và hối hận là suy nghĩ. Lần
nữa bạn trở thành nạn nhân của tâm trí suy nghĩ.
Con người của nhận biết không
bao giờ hối hận. Phỏng có ích gì mà hối hận bởi vì nhiều nhận biết đi sâu, người
đó có thể dừng quá trình lại ngay cả trước khi nó bắt đầu. Thế thì phỏng có ích
gì mà hối hận? Và không phải là người đó cố gắng dừng nó lại - đó là cái hay của
nó. Người đó đơn giản nhìn vào nó. Khi bạn nhìn vào một tâm trạng, vào một tình
huống, vào một xúc động, tình cảm, ý nghĩ - khi bạn đem phẩm chất của cái nhìn
- cái nhìn giống như ánh sáng:bóng tối biến mất.
Có khác biệt bao la giữa nội
suy xét và nhớ cái ta. Tôi không thiên về nội suy xét. Thực ra, nội suy xét có
chút ít bệnh hoạn: nó là chơi với vết thương riêng của bạn. Nó sẽ không ích gì.
Nó sẽ không giúp cho vết thương được chữa lành. Thực ra nó sẽ làm chính điều
ngược lại: nếu bạn cứ sờ mó vết thương của bạn, bạn sẽ giữ cho nó bị thương
mãi. Nội suy xét không phải là tốt. Người nội suy xét bao giờ cũng không lành mạnh,
ốm yếu. Họ nghĩ quá nhiều. Người nội suy xét là đóng. Họ cứ chơi với những vết
thương của họ và nỗi đau của họ và nỗi lo của họ - và toàn thể cuộc sống vậy dường
như quá nhiều vấn đề; nó không thể được giải quyết. Mọi thứ đều giống như vấn đề
cho người nội suy xét. Bất kì cái gì xảy ra đều trở thành vấn đề.
Và, thế rồi, người đó ở bên
trong quá nhiều; người đó không thể đi ra được. Cân bằng bị mất. Người nội suy
xét trốn khỏi cuộc sống và đi lên Himalayas. Họ là không lành mạnh, ốm yếu, bệnh
hoạn. Người mạnh khoẻ có sự đung đưa mạnh khoẻ: người đó có thể đi vào, người
đó có thể đi ra. Với người đó không có vấn đề ủng hộ vào hay ra. Thực ra người
đó không phân chia cuộc sống bên trong và cuộc sống bên ngoài. Người đó có luồng
chảy tự do, đung đưa tự do. Bất kì khi nào được cần, người đó đơn giản đi vào.
Bất kì khi nào được cần người đó đơn giản đi ra. Người đó không chống lại thế
giới bên ngoài; người đó không ủng hộ thế giới bên trong. Trong và ngoài phải hệt
như thở vào và thở ra: cả hai đều được cần.
Nội suy xét trở thành quá suy
nghĩ ủ ê, quá bên trong. Họ trở nên sợ đi ra ngoài vì bất kì khi nào họ đi ra
ngoài, lại có vấn đề, cho nên họ đóng. Họ trở thành đơn tử không có cửa sổ nào.
Và thế rồi vấn đề và vấn đề - tâm trí cứ tạo ra vấn đề và họ cứ cố gắng giải
quyết.
Người nội suy xét có xu hướng
trở nên điên nhiều hơn. Người hướng nội trở nên điên nhiều hơn người hướng ngoại.
Nếu bạn đi tới nhà thương điên bạn sẽ thấy chín mươi chín phần trăm người ở đó
là hướng nội, nội suy xét, và chỉ một phần trăm, nhiều nhất, là người hướng ngoại.
Họ không bận tâm về phía bên trong của sự việc. Họ cứ sống trên bề mặt. Họ
không nghĩ rằng có vấn đề. Họ nghĩ chỉ có cuộc sống để được tận hưởng. Ăn, uống,
vui vẻ là toàn thể tôn giáo của họ, không gì khác.
Bạn bao giờ cũng thấy người hướng
ngoại lành mạnh hơn người hướng nội bởi vì ít nhất họ cũng trong tiếp xúc với
cái toàn thể. Người hướng nội mất mọi tiếp xúc với cái toàn thể. Người đó sống
trong mơ của mình. Người đó không có thở ra. Nghĩ mà xem: nếu bạn không cho
phép việc thở đi ra, bạn sẽ trở nên ốm bởi vì việc thở đã đi vào trong sẽ không
phải bao giờ cũng còn tươi tắn. Trong vài giây nó sẽ trở nên tù đọng, trong vài
giây nó sẽ mất ô xi, cuộc sống, trong vài giây nó bị kết thúc - và thế rồi bạn
sống trong không khí tù đọng, chết. Bạn phải đi ra để tìm nguồn mới nào đó của
cuộc sống, để tìm không khí trong lành. Bạn phải liên tục di chuyển.
Với tôi, nếu bạn muốn chọn giữa
hướng ngoại và hướng nội, tôi sẽ nói với bạn, "Chọn hướng ngoại." Người
đó ít ốm yếu hơn - sống trên bề mặt, không bao giờ có thể đi tới biết được chân
lí, nhưng ít nhất không bao giờ phát điên. Người hướng nội có thể đi tới biết
chân lí, nhưng đó là một khả năng trong cả trăm khả năng. Chín mươi chín phần
trăm là khả năng người đó sẽ phát điên.
Tôi thiên về cuộc sống tuôn chảy.
Cuộc sống nên là nhịp điệu: bạn đi ra, bạn đi vào, và đứng níu bám vào bất kì
cái gì. Vẫn còn tỉnh táo. Nhớ lấy. Cứ nhớ: khi bạn ở trong thế giới, thế nữa vẫn
nhớ; và khi bạn ở bên trong bản thân mình, thế nữa vẫn nhớ. Bao giờ cũng giữ tỉnh
táo nhận biết, cháy sáng, sống động. Ngọn lửa của nhận biết không nên bị mất, vậy
thôi. Thế thì sống trong chợ hay sống trong tu viện - bạn sẽ không bao giờ là
người mất trong cuộc sống. Bạn sẽ đạt tới chiều sâu sâu sắc nhất mà cuộc sống
có thể cho. Chiều sâu sâu sắc nhất đó là Thượng đế. Thượng đế là người đung
đưa: ngoài và trong, hướng nội và hướng ngoại - nhưng nhận biết.
Câu hỏi thứ ba
Thỉnh thoảng, bây giờ, thầy cười thầm trong
bài nói.
Tôi phải trở thành linh thiêng
hơn, thánh thiện hơn, bởi vì bạn càng linh thiêng hơn, bạn càng coi cuộc sống
là không nghiêm chỉnh. Bạn cười thầm, bạn cười to; thế thì nó không phải là
gánh nặng. Toàn thể cuộc sống của bạn trở thành nụ cười; thế thì nó không phải
là chuyện nghiêm chỉnh.
Nhưng người tôn giáo trên khắp
thế giới đã từng dạy mọi người rất nghiêm chỉnh - mặt dài ra. Đây là ốm yếu,
không mạnh khoẻ. Làm ra tiếng cười từ lời cầu nguyện của bạn đi. Cười nhiều hơn
vào. Không cái gì xả ra năng lượng bị chắn của bạn bằng tiếng cười. Không cái
gì làm cho bạn thành hồn nhiên bằng tiếng cười. Không cái gì làm cho bạn thành
như trẻ con bằng tiếng cười. Trẻ con cười thầm và cười to và cười mỉm. Tất
nhiên chúng cũng khóc nữa, nhưng việc khóc của chúng là đẹp.
Kêu và khóc và cười, và để những
điều này là lời cầu nguyện của bạn. Đi tới đền chùa - đừng thốt ra lời. Đi tới
nhà thờ - đừng bận tâm về dạng có thẩm quyền của lời cầu nguyện. Chẳng có cái
nào đâu; không phiên bản nào là có thẩm quyền cả. Tạo ra lời cầu nguyện riêng của
bạn đi. Nếu bạn cảm thấy thích khóc, thì khóc. Nước mắt là có nghĩa nhiều hơn bất
kì lời nào; chúng đem trái tim bạn tới. Chúng có nhiều tính cầu nguyện hơn, đẹp
hơn, ý nghĩa hơn. Lời là chết. Nước mắt là sống động, tươi tắn - tới từ bạn, từ
chiều sâu của bạn. Hay cười lên: có tiếng cười vang với thượng đế của ngôi đền.
Ở Talmud có kể... Và Talmud là
cuốn sách hiếm. Gita, Kinh Thánh, Koran - tất cả đều có vẻ nghiêm chỉnh. Talmud
đơn giản hiếm hoi không thể nào tin được. Trong Talmud có nói, "Thượng đế
yêu những người làm cho người khác cười." Bạn không thể quan niệm được
kinh sách tôn giáo lại nói điều này: "Thượng đế yêu những người làm cho
người khác cười." Những người đó là thánh thực.
Nếu bạn làm cho mọi người thành
nghiêm chỉnh bạn là tội nhân. Thế giới này đã bị nặng gánh quá nhiều rồi; xin đừng
làm nó nặng gánh thêm nữa. Cho chút ít tiếng cười đi. Tạo ra gợn sóng tiếng cười
bất kì chỗ nào bạn ở. Mỉm cười chút ít nữa và giúp người khác mỉm cười. Nếu
toàn thế giới có thể cười to, chiến tranh sẽ biến mất, bởi vì chiến tranh được
cai quản bởi những người nghiêm chỉnh. Toà án sẽ biến mất, bởi vì toà án được
cai quản bởi những người nghiêm chỉnh.
Đó là lí do tại sao nếu bạn cười
trong bất kì toà án nào đó là tội lỗi. Không toà án nào cho phép điều đó - bạn
đang xúc phạm toà án. Mọi người phải nghiêm chỉnh. Nhìn và các quan toà đang ngồi
trong toà: họ có vẻ nghiêm chỉnh ngu xuẩn làm sao. Một chút ít tiếng cười sẽ
giúp cho họ vừa phải, sẽ giúp cho họ hiểu con người sâu sắc hơn. Sự lạnh lùng của
họ không thể làm công bằng được, bởi vì lạnh lùng là vô nhân tính. Cần chút ít
hơi ấm...
Nhưng quan toà sợ hãi. Nếu kẻ
trộm đứng trước toà mà cười, và quan toà cũng hoà cùng người đó, và cả toà đều
cười - thế thì quan toà sợ. Thế thì nó sẽ trở thành quá nhân bản; và sẽ khó tống
tên trộm cười này vào tù trong ba hay bốn hay năm năm. Chẳng vì cái gì mấy -
anh ta lấy cắp vài đồng ru pi. Anh ta đã đánh cắp chút ít ảo vọng - maya, và
quan toà có thể là người theo Veda. Anh ta đã đánh cắp chút ít ảo tưởng - ru
pi, kim cương - và anh ta phải bị tống vào tù: vì những kim cương chết và người
sống bị tống vào tù trong năm năm để chết mòn. Hay trong cơn giận sâu, trong rồ
dại, trong khoảnh khắc điên khùng nào đó anh ta có thể đã giết người. Ngay cả
quan toà cũng thỉnh thoảng có nghĩ tới giết người. Khó mà tìm được một người đã
không nghĩ nhiều lần trong đời về giết ai đó. Điều đó dường như là có tính người,
ý tưởng này.
Tôi không nói cứ đi và giết người,
và tôi không nói rằng các quan toà phải tha thứ cho những người là kẻ sát nhân,
không. Nhưng chút ít tiếng cười sẽ có ích. Một người đã bị sát hại rồi: nếu
quan toà có thể cười chút ít và toà án cũng có thể cười thầm chút ít cùng quan
toà, sẽ khó cho ông ta tống người này vào giá treo cổ. Bởi vì điều đó là chống
lại kẻ sát nhân khác; và làm sao bạn có thể để mọi thứ vào đúng khi với kẻ sát
nhân này toà án quyết định vì kẻ sát nhân khác? Có thể người này cần điều trị
phân tâm. Có thể người này cần được gửi tới tu viện để thiền trong hai năm.
Nhưng không phải là chết - bởi vì chết... Nếu phạm tội giết người là xấu, phạm
tội giết người nhân danh công lí cũng là xấu; nó không thể tốt được.
Nhưng quan toà là người rất
nghiêm chỉnh, chính khách là người rất nghiêm chỉnh - toàn thể gánh nặng của thế
giới đè lên vai họ. Họ bao giờ cũng nghĩ về khắp thế giới: "Cái gì tiếp
sau Mao Trạch Đông?" Cứ dường như không có thế giới trước Mao Trạch Đông.
Thế giới đã từng hạnh phúc. Thực ra nó sẽ hạnh phúc hơn nếu mọi Mao Trạch Đông
đều biến mất.
Tôi mới đọc một cuốn sách, một
cuốn sách rất hiếm hoi. Người này nói Ấn Độ chắc đã trở nên độc lập sớm hơn nếu
Gandhi mà không có đó. Tôi hơi chút ngạc nhiên, nhưng thế rồi tôi nhìn vào biện
luận của ông ấy và tôi cảm thấy ông ấy là đúng. Gandhi đã tạo ra nhiều rắc rối
- bướng bỉnh, mọi chính khách đều vậy. Ông ấy đã tạo ra nhiều rắc rối: ông ấy
không thoả hiệp về bất kì cái gì. Ông ấy có cách thức riêng của ông ấy, Jinnah
có cách thức riêng của ông ấy. Họ sẽ không thoả hiệp. Cả hai họ đều bướng bỉnh,
như đá. Dường như người này có sáng suốt khi nói rằng Ấn Độ chắc đã trở nên độc
lập sớm hơn nếu như đã không có Gandhi và không có Jinnah.
Và nếu không có nhà thờ, Ấn Độ
chắc chẳng bao giờ bị phụ thuộc. Nếu các chính khách biến mất khỏi thế giới, thế
giới sẽ có đó. Sẽ không cần đánh nhau vì nó: nó sẽ đơn giản là tự do. Nếu các
tu sĩ biến mất và các nhà thờ nghiêm chỉnh, mà trông giống chết nhiều hơn là sống,
biến mất và đền chùa vươn lên nhảy múa, tận hưởng, phúc lạc, cực lạc; thế giới
sẽ có tính tôn giáo nhiều hơn.
Cho nên khi bạn nói, "Thỉnh
thoảng, bây giờ, thầy cười thầm trong bài nói," tôi hi vọng tôi phải trở
nên linh thiêng hơn. Bằng không, dường như không có lí do nào khác.
Câu hỏi thứ tư
Vijay Anand một trăm phần trăm chắc chắn rằng
phim của anh ấy 'Jaan Hazir Hai' sẽ là thành công... vì 'guru' của anh ấy đã dự
đoán siêu thành công của nó... Phim rơi tõm. 'Guruji' xin thầy giầi
thích?" - từ Tạp chí Stardust.
Điều thứ nhất: Vijay Anand
không ngu thế khi hỏi tôi điều như vậy. Anh ấy chưa bao giờ nhắc tới bất kì cái
gì về kinh doanh của anh ấy. Anh ấy chưa bao giờ hỏi bất kì cái gì về phim
"Jaan Hazir Hai" và tôi chưa bao giờ trả lời cho anh ấy. Tôi thậm chí
không biết rằng anh ấy đã làm ra một phim có tên "Jaan Hazir Hai."
Nhưng những người này, biên tập
viên của Stardust, phải đã mơ cái gì đó. Họ phải đã thấy giấc mơ, và có thể
trong mơ họ đã nghe tôi nói, "Phim của bạn, Vijay, sẽ là siêu thành
công." Thế thì họ hiểu lầm vấn đề. Tôi phải đã nói cho họ trong mơ của họ "siêu
thành công" theo thuật ngữ của Lão Tử. Lão Tử nói, "Vì ít người hiểu
ta, ta đáng tôn quí." Cho nên, nếu bạn dịch nó ra, siêu thành công nghĩa
là: nếu không ai đi xem phim này. Vì đám đông là ngu thế họ không thể hiểu được
nó, nó là đáng tôn quí: nó là siêu thành công. Khi đám đông đi xem phim, đó là
thất bại, rơi tõm. Nó phải ngu; bằng không làm sao nó hấp dẫn nhiều người ngu
thế?
Tôi đã không nói bất kì cái gì,
nhưng nếu họ đã nghe thấy cái gì đó trong mơ của họ, họ đã diễn giải sai về
tôi. Nếu nó rơi tõm, nó là siêu thành công. Nó phải là cái gì đó đi ra ngoài
tâm trí bình thường. Đó là điều siêu thành công là gì. Một Hitler không phải là
siêu thành công; đám đông tôn thờ ông ta. Điều đó chỉ ra ông ta thuộc về đám
đông. Ông ta là người thường, ngu. Lão Tử là siêu thành công: không ai biết,
không ai nghe về ông ấy - thậm chí không phải là tin đồn. Ông ấy tới và đi một
cách im lặng. Ông ấy là siêu thành công, và ông ấy biết điều đó. Ông ấy nói
trong Đạo Đức Kinh, "Ta được tôn quí, bởi vì rất ít người có thể hiểu ta.
Cà thế giới hiểu lầm ta; đó là lí do tại sao ta được tôn quí." Hiểu là hiếm
hơn, sẽ được hiểu cũng hiếm hơn, nhiều khả năng là bị hiểu lầm.
Tôi có biết một người rất hiếm
hoi. Người đó là một sannyasin. Khi tôi còn nhỏ ông ấy thường tới thăm làng tôi
và ông ấy thường ở cùng gia đình tôi. Tôi yêu con người đó chỉ vì một lí do duy
nhất: bất kì khi nào ông ấy nói chuyện và mọi người vỗ tay, ông ấy lại nhìn tôi
và nói, "Rajneesh, cái gì đó phải sai rồi. Bằng không sao mọi người vỗ
tay? Họ vỗ tay chỉ khi cái gì đó sai, bởi vì họ sai." Khi không ai vỗ tay,
và không ai hiểu điều ông ấy nói, khi mọi người trông dường như họ đang phí
hoài thời gian, ông ấy sẽ về nhà và ông ấy sẽ nói, "Rajneesh, bác phải đã
nói được cái gì đó. Cháu thấy không? Không ai có thể hiểu được." Với đám
đông, thành công là thất bại.
Câu hỏi thứ năm
Nhớ cái ta khác gì với chứng kiến?
Vừa xong tôi đã nói cho các bạn
sự khác biệt giữa nội suy xét và nhớ cái ta. Bây giờ, khác biệt giữa nhớ cái ta
và chứng kiến.
Vâng, lại có nhiều khác biệt: bởi
vì trong nhớ cái ta nhấn mạnh là vào cái ta. Cũng như trong nội suy xét nhấn mạnh
là vào ý nghĩ, tình cảm, xúc động, tâm trạng, giận dữ, dâm dục, hay bất kì cái
gì, và cái ta bị quên mất; trong nhớ cái ta thì cái ta được nhớ và toàn thể năng
lượng được định tâm vào cái ta, và bạn chỉ nhìn vào tâm trạng, vào tình huống,
vào tình cảm - bạn không nghĩ về nó, bởi vì trong suy nghĩ cái nhìn bị mất, sự
thuần khiết của cái nhìn bị mất.
Chứng kiến là bước xa hơn lên
trước. Trong chứng kiến, thậm chí cái ta bị vứt bỏ; chỉ việc nhớ còn lại. Không
phải là tôi nhớ. Cái "tôi" không còn là một phần của việc chứng kiến.
Chỉ có việc nhớ... Chứng kiến là chứng kiến cái ta. Nhớ cái ta là bắt đầu; chứng
kiến là kết thúc. Bằng nhớ cái ta bạn bắt đầu nhìn vào giận dữ, giữ bản thân bạn
được định tâm vào cái ta, được kết tinh tại cái ta, nhìn vào những gợn sóng
quanh bạn trong tâm trí. Nhưng khi bạn nhìn vào tâm trí, dần dần, tâm trí biến
mất. Khi tâm trí biến mất và có trống rỗng, thế thì bước tiếp có thể được lấy:
bây giờ, bạn nhìn vào bản thân bạn. Bây giờ chính năng lượng mà đã nhìn vào giận
dữ, dục, ghen tị là tự do - bởi vì ghen tị, giận dữ, và dục đã biến mất. Bây giờ
cùng năng lượng đó quay lại để nhìn vào bản thân bạn.
Khi cùng năng lượng nhìn vào
cái ta, cái ta cũng biến mất; thế thì chỉ có việc nhớ. Việc nhớ đó là chứng kiến.
Trong chứng kiến không có cái ta. Bạn nhìn vào giận dữ, nhưng khi bạn nhìn vào
bản thân bạn, bạn không còn là bạn: chỉ việc chứng kiến bao la, vô hạn, không bị
chặn. Chỉ tâm thức - vô hạn và bao la, nhưng không có kết tinh hoá. Điều này phải
được hiểu.
Gurdjieff đã làm việc cả đời
ông ấy trên phương pháp nhớ cái ta bởi vì ở phương Tây việc giới thiệu chứng kiến
đã gần như không thể được, bởi vì phương Tây đã từng sống với nội suy xét. Mọi
tu viện Ki tô giáo, họ đã từng dạy về nội suy xét. Gurdjieff đã đưa vào cái gì
đó bên ngoài nội suy xét: ông ấy gọi nó là "nhớ cái ta." Ông ấy bao
giờ cũng nghĩ tới việc đưa vào chứng kiến, nhưng ông ấy không thể đưa vào được
bởi vì chứng kiến chỉ có thể được đưa vào khi nhớ cái ta được lắng đọng; trước
điều đó, nó không thể được đưa vào. Nói về nó trước khi chín muồi về nhớ cái ta
sẽ không đạt tới đâu cả; điều đó sẽ là vô dụng. Ông ấy chờ đợi lâu, nhưng ông ấy
đã không thể đưa điều đó vào được.
Ở phương Đông chúng ta đã dùng
cả hai. Thực ra chúng ta đã dùng cả ba: nội suy xét dành cho những người tôn
giáo rất bình thường, những người không muốn đi sâu; những người muốn đi sâu, với
họ, nhớ cái ta; và những người muốn đi sâu tới mức họ biến mất trong chiều sâu
đó, với họ, chứng kiến. Chứng kiến là cuối cùng. Bên ngoài điều đó, không cái
gì tồn tại. Bạn không thể là chứng kiến cho người chứng kiến - bởi vì điều đó nữa
sẽ là việc chứng kiến. Cho nên bên ngoài việc chứng kiến không có khả năng nào
để đi: bạn đã đi tới chính chỗ cuối. Chỗ cuối của thế giới là việc chứng kiến.
Đi từ nội suy xét tới nhớ cái
ta, và từ nhớ cái ta hi vọng một ngày nào đó đi tới việc chứng kiến. Nhưng giữ
điều đó trong tâm trí rằng nhớ cái ta không phải là mục đích. Nó là tốt chỉ như
chiếc cầu, nhưng người ta phải đi qua, người ta phải đi ra ngoài nó.
Câu hỏi thứ sáu
Liệu có thể ở trong trạng thái của tâm thức
thuần khiết trong một chốc và rơi ra lần nữa không?
Không, điều đó là không thể được.
Nhưng cái gì đó giống điều đó xảy ra: bạn có thoáng nhìn về tâm thức thuần khiết;
bạn đã không đi vào. Nó cũng hệt như bạn nhìn từ khoảng cách hàng trăm dặm hướng
tới đỉnh Himalayas. Bạn đã không đạt tới chúng, nhưng bạn có thể nhìn từ khoảng
cách bao la. Bạn có thể nhìn lên các đỉnh; bạn có thể có cảm giác. Bạn có thể mở
cửa sổ và nhìn lên trăng xa xăm, và tia sáng sẽ chạm vào bạn và bạn sẽ được bừng
sáng, bạn sẽ có kinh nghiệm nào đó, nhưng từ kinh nghiệm cửa sổ này bạn sẽ rơi
đi rơi lại.
Khi tâm thức thuần khiết được đạt
tới - không phải là thoáng nhìn từ khoảng cách, mà bạn đã đi vào trong nó - thế
thì bạn không thể làm mất nó lần nữa. Một khi được đạt tới, nó được đạt tới mãi
mãi. Bạn không thể rơi ra khỏi nó được. Tại sao? Bởi vì khoảnh khắc bạn đi vào
nó, bạn biến mất. Ai có thể rơi ra khỏi nó được? Để rơi ra ít nhất bạn phải còn
như bản thân bạn. Nhưng đi vào tâm thức thuần khiết, bản ngã biến mất hoàn
toàn, cái ta biến mất hoàn toàn. Thế thì ai sẽ quay lại?
Trong một thoáng nhìn bạn không
bị biến mất; bạn có đó. Bạn có thể có thoáng nhìn và nhắm mắt lại. Bạn có thể
có thoáng nhìn và đóng cửa sổ lại. Nó sẽ trở thành kí ức; nó sẽ ám ảnh bạn; nó
sẽ trở thành hoài niệm. Nó sẽ tới trong mơ của bạn. Thỉnh thoảng, đột nhiên, bạn
sẽ lại cảm thấy một thôi thúc sâu sắc để có thoáng nhìn đó, nhưng nó không thể
là hiện tượng mãi mãi và mãi mãi được. Thoáng nhìn chỉ là thoáng nhìn. Tốt, đẹp,
nhưng đừng níu bám lấy chúng; bởi vì chúng không thường hằng. Bạn sẽ rơi khỏi
chúng lặp đi lặp lại mãi - bởi vì bạn vẫn có đó.
Khi có thoáng nhìn, đi tới các
đỉnh đi, đi tới trăng đi... trở thành một với trăng. Chừng nào bạn còn chưa biến
mất hoàn toàn bạn sẽ rơi lại. Bạn sẽ phải quay lại thế giới bởi vì bản ngã đó sẽ
bị chết ngạt với thoáng nhìn. Bản ngã sẽ cảm thấy hoảng sợ tựa cái chết. Nó sẽ
nói, "Đóng cửa sổ lại! Nhìn trăng thế đủ rồi. Bây giờ đừng ngu nữa. Đừng
là người cung trăng." Từ "lunatic - cung trăng" nghĩa là hâm
hâm. Từ này bắt nguồn từ từ "lunar - mặt trăng" - về mặt trăng. Mọi
người điên đều được gọi là người cung trăng, người trên trăng - nghĩ về những
giấc mơ xa xăm.
Tâm trí, bản ngã, sẽ nói,
"Đừng là người cung trăng. Thỉnh thoảng có cửa sổ mở ra và nhìn lên trăng
là được, nhưng đừng bị ám ảnh. Thế giới đang đợi mình. Mình có trách nhiệm phải
hoàn thành trong thế giới." Và bản ngã sẽ đem bạn lại và thuyết phục bạn,
cám dỗ bạn, hướng tới thế giới; bởi vì bản ngã chỉ có thể tồn tại trong thế giới.
Bất kì khi nào cái gì đó của thế giới kia thấm vào tâm trí bạn, bản ngã trở nên
sợ, kinh hoàng, khiếp hãi. Điều đó tựa cái chết.
Nếu thoáng nhìn đó là trở thành
phong cách sống thường hằng, là chính hiện hữu của bạn, thế thì bạn phải bắc cầu
qua khoảng cách, bắc cầu qua lỗ hổng. Bạn phải di chuyển. Khi bạn trở thành tâm
thức thuần khiết thế thì không còn rơi ra lần nữa. Nó là điểm không quay lui.
Người ta chỉ đi vào; người ta không bao giờ đi ra. Nó không có lối ra, chỉ một
cửa... lối vào.
Câu hỏi thứ bẩy
Thầy nói rằng Phật về bản chất là vị kỉ.
Jesus có hệt như vậy không? Nếu vậy thì ông ấy đã ngụ ý gì bởi: "Nếu bất
kì người nào tới sau ta, để cho người đó phủ nhận bản thân người đó và nhận cây
thập tự của người đó và theo ta."
Vâng, Jesus cũng vị kỉ; bằng
không thì không thể được. Jesus, Krishna, Zarathustra, Phật - tất cả đều là những
người vị kỉ: bởi vì nhiều từ bi thế nảy sinh ra từ họ. Điều đó là không thể được
nếu họ không định tâm vào cái ta. Điều đó là không thể được nếu họ đã không đạt
tới phúc lạc riêng của họ. Đầu tiên, người ta phải đạt tới; chỉ thế thì người
ta mới có thể chia sẻ... và họ đã chia sẻ nhiều tới mức thậm chí nhiều thế kỉ
đã trôi qua, nhưng họ vẫn cứ chia sẻ.
Nếu bạn yêu Jesus, đột nhiên bạn
được rót đầy bởi từ bi của ông ấy. Tình yêu của ông ấy vẫn tuôn chảy. Thân thể
đã biến mất, nhưng tình yêu của ông ấy đã không biến mất. Nó đã trở thành hiện
tượng thường hằng trên thế giới. Nó bao giờ cũng có đó. Bất kì khi nào có ai đó
sẵn sàng, cảm nhận, tình yêu của ông ấy sẽ tuôn chảy. Nhưng điều này là có thể
chỉ bởi vì ông ấy đã đạt tới cội nguồn nguyên thuỷ của ông ấy: ông ấy phải đã
là vị kỉ.
Thế thì nghĩa là gì? Bởi vì những
lời này dường như là mâu thuẫn? "Nếu bất kì người nào tới sau ta, để cho
người đó phủ nhận bản thân người đó..." Vâng, chúng có vẻ ngược đời: nếu
tôi đúng thế thì họ mâu thuẫn với tôi. Tôi đúng, và họ không mâu thuẫn với tôi.
Nó chỉ là hình tướng thôi, bởi vì Jesus đang nói, "Nếu ông muốn đạt tới bản
thân ông, ông sẽ phải đánh mất bản thân ông, đó là cách thức." Cho nên khi
Jesus nói, "Nếu bất kì người nào tới sau ta, để cho người đó phủ nhận bản
thân người đó..." là vì nó là cách duy nhất để là bản thân người đó. Bạn
có thể đạt tới cái ta chỉ khi bạn phủ nhận bản ngã của bạn. Bạn có thể đạt tới
bản thân bạn khi bạn hoàn toàn biến mất.
Jesus nói, "Nếu ông níu
bám lấy cuộc sống, ông sẽ làm mất nó. Nếu ông sẵn sàng đánh mất nó, nó sẽ mãi
mãi và mãi mãi ở cùng ông. Ông sẽ đạt tới cuộc sống dư thừa, vô hạn." Khi
giọt nước rơi vào trong đại dương, nó mất bản thân nó - phủ nhận bản thân nó -
và trở thành đại dương. Nó không trả giá gì và đạt tới đại dương: nó đơn giản
đánh mất các biên giới của nó. Khi Jesus nói, "Nếu bất kì người nào tới
sau ta, để cho người đó phủ nhận bản thân người đó..." đó là đại dương nói
với giọt nước, "Lại đây, phủ nhận bản thân ông đi! - để cho ông cũng có thể
trở thành đại dương." Và đây là điều vị kỉ nhất: trở thành đại dương.
Giọt nước là rất vị tha, nhưng
nó vẫn còn là giọt nước - hữu hạn, bị giới hạn, khổ sở. Trông dường như nó là vị
kỉ; nó không phải vậy. Nếu bạn đi và nhìn vào người vị kỉ trên thế giới, bạn sẽ
không thấy họ thực sự vị kỉ đâu. Họ đơn giản ngu xuẩn, không vị kỉ.
Người vị kỉ thực trở thành trí
huệ. Người thực sự vị kỉ là những người cố gắng đạt tới niết bàn, người cố gắng
đạt tới Thượng đế, người cố gắng đạt tới moksha - giải thoát, tự do. Họ là những
người thực sự vị kỉ, không phải là những người được biết là vị kỉ trên thế giới
bởi vì những người này đang cố gắng tích luỹ giầu có. Họ đơn giản ngu, không vị
kỉ. Đừng dùng từ đẹp thế cho họ. Họ đơn giản ngu thôi.
Sao bạn gọi họ là vị kỉ? Họ cứ
tích luỹ giầu có và cứ bán cái ta của họ cho giầu có. Họ làm ra nhà lớn và bản
thân họ trở thành hổng hoác, trống rỗng. Họ có xe lớn và không có linh hồn bên
trong. Và bạn gọi họ là vị kỉ sao? Họ là những người không vị kỉ nhất. Họ đã
cho đi cái ta của họ - chẳng vì cái gì, thực tế vậy.
Chuyện xảy ra: Một người tới
Ramakrishna với nhiều đồng tiền vàng, và người này muốn tặng chúng cho ông ấy.
Ramakrishna nói, "Ta không chạm vào vàng đâu. Đem chúng đi."
Người này rất bị ấn tượng. Ông
ta nói, "Ông là người không vị kỉ làm sao."
Ramakrishna cười và ông ấy nói,
"Không vị kỉ và ta sao? Ta là người vị kỉ. Đó là lí do tại sao ta không chạm
tới vàng này. Ta không ngu thế đâu. Ông là người không vị kỉ đấy: ông đã bán bản
thân ông để lấy những đồng vàng này."
Ai là người không vị kỉ? Người
đem cho linh hồn của mình để lấy những đồng vàng là không vị kỉ sao?... hay người
bỏ mọi thứ của thế giới để đạt tới linh hồn của mình, người đó là vị kỉ sao?
Trong thế giới những người đánh mất bản thân họ và chẳng đạt tới cái gì, và bạn
gọi họ là vị kỉ. Họ là người không vị kỉ, ngu xuẩn. Phật, Jesus, Krishna - họ
đã đạt tới vinh quang cực điểm, tới phúc lạc hoàn toàn. Phật đã nói: "Ta
đã đạt tới samadhi không ai vượt qua được." Và bạn gọi họ là không vị kỉ
sao? Những người sống trong phúc lạc hoàn hảo, bạn gọi họ là không vị kỉ sao? Bạn
đã phá huỷ một từ hay.
Jesus là phải, "Nếu bất kì
người nào tới sau ta, để cho người đó phủ nhận bản thân người đó..." bởi
vì đó là cách duy nhất để đạt tới bản thân người ta. Ông ấy đang dạy tính vị kỉ.
"... và nhận cây thập tự của
người đó và theo ta," bởi vì đó là cách duy nhất để được phục sinh. Nếu bạn
muốn có cuộc sống mới bạn sẽ phải chết đi. Nếu bạn muốn được phục sinh bạn sẽ
phải mang cây chữ thập riêng của bạn. Bị đóng đinh trong thế giới vật chất và bạn
sẽ được phục sinh trong thế giới tâm linh. Chết đi quá khứ từ khoảnh khắc sang
khoảnh khắc để cho bạn được phục sinh mọi khoảnh khắc trong hiện tại. Chết đi
là nghệ thuật, một trong những nghệ thuật cơ sở nhất. Và những người biết cách
chết, chỉ họ mới biết cách sống. Nhưng người sợ chết trở nên sợ sống. Những người
quá sợ chết và việc chết trở thành không có khả năng sống, bởi vì sống có chết
như một phần của nó.
Khi Jesus nói, "Nhận cây
thập tự của ông và theo ta," ông ấy đang nói, "Sẵn sàng chết đi nếu
ông thực sự muốn đạt tới cuộc sống vĩnh hằng." Đây là vị kỉ.
Và khi những người như Jesus
nói, "Theo ta," bạn sẽ hiểu lầm họ. Khi Krishna nói trong Gita với
Arjuna, "Bỏ mọi thứ đi - mọi tôn giáo của ông. Buông xuôi theo ta. Lại
đây, và theo ta," ông ấy đang đích xác nói cái gì? Những người này có rất
bản ngã không? Họ nói, "Lại đây, theo ta." Thực ra, khi Jesus nói,
"Lại đây, theo ta," ông ấy đang nói: "Ta là linh hồn bên trong
nhất của ông." Khi Krishna nói, "Buông xuôi theo ta," ông ấy
không nói buông xuôi theo Krishna bên ngoài này đâu. Ông ấy đang nói: "Sâu
bên dưới, ta được ẩn kín trong ông. Khi ông buông xuôi theo ta, ta chỉ là cái cớ
để buông xuôi thôi. Ông sẽ đạt tới cốt lõi bên trong nhất của bản thể ông. Theo
ta để cho ông có thể theo cốt lõi bên trong nhất của bản thể ông. Ta đã đạt tới
cốt lõi bên trong nhất đó."
Họ không nói đi theo Jesus hay
Krishna. Họ đang nói, "Buông xuôi đi," bởi vì trong buông xuôi bản
thân bạn sẽ trở thành một Krishna, một Jesus. Và đây là vị kỉ tuyệt đối.
Nhưng chính từ này đã lấy phẩm
chất của kết án. Khi ai đó nói, "Đừng vị kỉ," ngay lập tức, người đó
đã kết án. Tôi đang cố làm thuần khiết từ hay đó lần nữa. Tôi đang cố đem nó về
tầm cỡ thực của nó. Từ đó đã rơi vào bùn, nhưng từ đó giống như kim cương. Nó
có thể ở trong bùn: nó có thể được lau sạch và rửa sạch. Và nếu bạn hiểu tôi bạn
sẽ thấy rằng bạn thực sự vị kỉ, chỉ thế thì bạn mới có thể là không vị kỉ. Tôi
dạy bạn vị kỉ vì tôi muốn bạn là không vị kỉ.
Câu hỏi thứ tám
Bao nhiêu trong những điều xuất hiện ở bên
ngoài, như chết, phản bội, vân vân, có trong tâm trí tôi? Làm sao tôi chịu
trách nhiệm cho những điều này được?
Bạn không chịu trách nhiệm về
những điều này. Nếu ai đó chết bạn không chịu trách nhiệm cho cái chết của người
đó, nhưng cách bạn diễn giải cái chết, với điều đó bạn chịu trách nhiệm. Khi ai
đó phản bội bạn, bạn không chịu trách nhiệm cho việc phản bội của người đó. Làm
sao bạn có thể chịu trách nhiệm được? Nhưng bạn có thể gọi nó là phản bội; nó
không thể vậy. Đó là diễn giải của bạn. Và với diễn giải bạn chịu trách nhiệm.
Bạn gọi nó là cái chết: nếu mẹ
bạn chết, bạn gọi nó là chết và bạn khổ. Bạn không khổ bởi vì mẹ đã chết. Bạn
khổ vì bạn nghĩ nó là cái chết. Nếu bạn hiểu cuộc sống bạn sẽ biết rằng không
có chết. Thế thì mẹ sẽ chết - mẹ bao giờ cũng chết - nhưng bạn sẽ không khổ. Mẹ
đã đơn giản thay đổi thân thể cũ. Thực ra đó là khoảnh khắc để hân hoan.
Hmm?... mẹ bị ung thư hay lao, tuổi già, và cả nghìn lẻ một ốm bệnh, và mẹ đang
lê lết. Bạn gọi nó là chết sao? Tôi gọi nó chỉ là bỏ thân thể cũ để đi vào cái
mới. Sao tôi phải khổ vì điều đó? Tôi đáng phải hạnh phúc và hân hoan trong điều
đó. Điều đó tuỳ theo cách diễn giải, và diễn giải là trách nhiệm của bạn. Ai đó
phản bội bạn: nhưng ai nói rằng đó là phản bội? Chẳng hạn, người yêu của bạn,
chồng bạn, vợ bạn, đi xa khỏi bạn. Bạn nói đó là phản bội sao? Đó là diễn giải
của bạn. Có thể là bạn quá sở hữu. Người đó đã không phản bội bạn; người đó đơn
giản cố cứu bản thân người đó. Bạn quá sở hữu thôi. Bạn quá níu bám thôi. Bạn
làm ngột ngạt bản thể người đó. Bạn đã giết chết tự do của người đó. Người đó
đã đơn giản cố gắng cứu cuộc đời người đó - không phản bội bạn. Người đó có thể
đã đi tới người đàn bà nào đó khác để tìm rằng, có thể, ở đâu đó khác hoa của
tình yêu có thể nở. Nhưng bạn ép buộc người đó; và bây giờ bạn nói đó là phản bội.
Bạn đã xoay xở toàn bộ câu chuyện để cho nó xảy ra, và bây giờ bạn gọi nó là phản
bội sao?
Cứ quan sát, trở nên tỉnh táo,
nhìn xem cái gì đã xảy ra. Nếu bạn không chì chiết thế, anh ấy có thể đã không
đi. Việc chì chiết của bạn đã làm cho anh ấy phát điên. Hay, việc chì chiết của
bạn đã đưa anh ấy tới trơ ì.
Chỉ có hai cách để sống với người
vợ chì chiết hay người chồng chì chiết. Một, điều gần như mọi anh chồng đều
làm, là trở thành trơ ì. Bạn vào nhà; bạn làm cho da bạn thật cứng. Cô ấy cứ
chì chiết, bạn không bận tâm. Bạn cứ đọc báo. Bạn không nghe điều cô ấy nói.
Nhưng thế thì bạn phản bội cái ta riêng của bạn, bởi vì bạn càng trở nên trơ ì
hơn, bạn sẽ càng ít đáng yêu hơn. Bạn càng trở nên trơ ì hơn, càng ít khả năng
cho lời cầu nguyện, càng ít khả năng cho cuộc sống xảy ra cho bạn. Bạn đã là thứ
chết rồi. Bạn đang phản bội lại cuộc sống riêng của bạn. Tốt hơn cả là trốn khỏi
người đàn bà này để cứu bản thân bạn và cũng cho cô ấy một cơ hội để hiểu -
cách khác là trốn đi.
Nếu chồng cứ phản bội cuộc sống
riêng của anh ta, thế thì vợ nói anh ta rất trung thành. Anh ta phản bội cuộc sống
riêng của anh ta - và không ai chịu trách nhiệm cho cuộc sống của bất kì ai
khác. Bạn ở đây cho cái ta riêng của bạn; tôi ở đây vì cái ta của tôi. Không ai
ở đây để hoàn thành mong đợi của bất kì ai khác. Tôi phải sống cuộc sống của
tôi; bạn phải sống cuộc sống của bạn. Nếu điều đó là tốt, rằng tôi trưởng thành
cùng bạn; nếu điều đó là tốt, nếu bạn trưởng thành cùng tôi - tốt, chúng ta có
thể sống cùng nhau. Nhưng nếu bạn bắt đầu giết chết tôi và tôi bắt đầu đầu độc
bạn, tốt hơn cả là chúng ta nên tách ra, bởi vì phân tách sẽ cứu hai cuộc đời,
sẽ làm cho hai tù nhân được tự do. Nó không phải là phản bội.
Chỉ có một phản bội thôi: và đó
là phản bội cuộc sống riêng của người ta. Không có phản bội khác. Nếu bạn tiếp
tục sống cùng người vợ chì chiết, sở hữu, với người chồng, không có tình yêu
nào, bạn đang phá huỷ cơ hội riêng của bạn. Trong Talmud, lần nữa, có tục ngữ rằng
"Thượng đế sẽ hỏi ông. 'Ta đã trao cho con nhiều cơ hội thế để hạnh phúc.
Sao con đã bỏ lỡ?' " Ngài sẽ không hỏi, "Con đã phạm phải tội lỗi
nào?" Ngài sẽ hỏi, "Con đã bỏ lỡ cơ hội nào cho hạnh phúc? Con sẽ chịu
trách nhiệm cho những điều đó." Điều này thực sự là cực kì hay: "Con
sẽ chịu trách nhiệm chỉ cho những cơ hội đã sẵn có cho con và con đã bỏ lỡ."
Vẫn còn trung thành với bản thân bạn đi - đó là trung thành duy nhất được cần -
và mọi thứ sẽ là tốt.
Nếu bạn trung thành với bản
thân bạn, bạn bao giờ cũng sẽ tìm ra bạn tình, bạn đời, mà cùng người đó bạn
trưởng thành. Bằng không thì thay đổi đi. Chẳng có gì sai trong nó. Và điều đó
là tốt cho cả bạn tình nữa, bởi vì nếu bạn không trưởng thành bạn sẽ trả thù.
Đó là điều mọi chồng và mọi vợ đang làm.
Nếu bạn không trưởng thành và bạn
cảm thấy bị giam hãm, bị tù túng, thế thì bạn bắt đầu trả thù người kia - bởi
vì chính vì người kia mà nhà tù tồn tại. Chính bởi vì người kia mà bạn bị bắt.
Thế thì bạn sẽ giận, liên tục giận. Giận dữ sẽ trở thành toàn thể cuộc sống của
bạn. Và bạn không thể yêu được trong tình huống như vậy. Làm sao người ta có thể
yêu được sự tù túng riêng của mình? Có thể rằng tù túng là vợ bạn, chồng bạn, bố
bạn, mẹ, thầy của bạn - điều đó không tạo ra khác biệt gì.
Nếu bạn ở đây và bạn cảm thấy bị
tù túng, trốn đi - sớm nhất có thể được - với mọi phúc lành của tôi. Bởi vì
theo cách đó điều nguy hiểm là ở đây. Bạn không phải trung thành hướng tới tôi.
Trung thành đầu tiên là hướng tới bản thân bạn; mọi thứ tới sau. Nếu bạn cảm thấy
bị giới hạn, bị làm què quặt - trốn đi! Đừng chờ đợi một khoảnh khắc, và đừng
bao giờ nhìn lại. Tìm chỗ nào đó khác. Cuộc sống là vô hạn. Bạn có thể có ai đó
khác phù hợp với bạn tốt hơn và người đó không trở thành tù túng cho bạn, người
đó trở thành sự tự do. Đi tới đó đi. Tìm kiếm. Bao giờ cũng trong tìm kiếm.
Bằng không, nếu bạn ở đây treo
quanh đó, cứ nghĩ bạn bị tù túng, bạn sẽ bắt đầu trả thù tôi. Bạn sẽ trở nên giận
tôi. Bạn sẽ làm ra vẻ dường như bạn là đệ tử, nhưng bạn sẽ trở thành kẻ thù. Và
một ngày nào đó này khác bạn sẽ đi tới bùng nổ.
Trong mọi quan hệ nên ghi nhớ rằng
trong cuộc sống này bạn tới để học và trưởng thành, trở nên thông minh và nhận
biết hơn. Nếu cái gì đó què quặt, điều là tội lỗi là vẫn còn trong tình huống
đó. Đi xa khỏi đó đi. Bạn sẽ tạo ra thế giới đáng yêu hơn theo cách đó. Nhưng
chính điều đối lập đã từng được dạy: cho dù bạn không yêu vợ bạn, cứ yêu cô ấy.
Và không ai hỏi, "Làm sao người ta có thể yêu ai đó nếu người ta không
trong tình yêu?" Có thể tình yêu có đó lúc ban đầu, thế rồi nó biến mất.
Thế rồi, bạn đã được dạy rằng tình yêu không bao giờ biến mất. Điều đó nữa là
tuyệt đối ngu. Mọi thứ tới đều có thể biến mất. Mọi thứ được sinh ra đều có thể
chết đi. Mọi thứ bắt đầu đều có thể chấm dứt. Vẫn còn thực và tỉnh táo vào.
Nếu tình yêu đã biến mất thì sống
với người đàn bà đó là tội lỗi. Thế thì nếu bạn ngủ với người đàn bà đó bạn là
tội nhân. Thế thì đó là một loại mãi dâm. Người đàn bà cứ sống cùng bạn bởi vì
cô ấy không có đâu mà đi. Cô ấy cứ sống cùng bạn bây giờ bởi vì về mặt tài
chính cô ấy phụ thuộc vào bạn. Nhưng thế thì mãi dâm là gì? Nó là thu xếp tài
chính. Bây giờ không còn yêu nữa. Nếu bạn đi tới một gái mãi dâm và cô ấy rơi
vào tình yêu với bạn và từ chối nhận tiền, cô ấy không còn là gái mãi dâm. Mãi
dâm tới chỉ với tiền. Khi thay vì tình yêu, tiền bắc cầu qua hai người, đó là
mãi dâm.
Nếu bạn sống cùng người đàn bà
mà không có tình yêu và người đàn bà sống cùng bạn mà không có tình yêu, chỉ có
thu xếp tài chính - bây giờ sẽ khó khăn, đi đâu, làm gì, dường như quá bất an
ninh cho nên bạn phải níu bám và giận dữ và chì chiết và liên tục tranh đấu
nhưng vẫn ở cùng nhau, đó là nghĩa vụ của bạn ở cùng nhau - các bạn là rất nguy
hiểm... và từ những việc mãi dâm này, kiểu con nào sẽ được sinh ra?
Bạn không chỉ phá huỷ bản thân
bạn, bạn đang phá hủy các thế hệ tương lai. Những đứa trẻ đó sẽ được bạn nuôi lớn
lên - hai người liên tục tranh đấu, liên tục trong xung đột. Và những đứa trẻ
được sinh ra cho bạn bao giờ cũng sẽ trong xung đột. Một phần của chúng sẽ thuộc
về người mẹ, một phần của người bố, và sâu bên dưới sẽ có cuộc nội chiến, liên
tục. Chúng bao giờ cũng bị lẫn lộn.
Khi bạn tới tôi và nói,
"Tôi bị lẫn lộn "... Mới vài ngày trước, một sannyasin tới và anh ta
nói, "Tôi muốn buông xuôi, nhưng tôi không muốn buông xuôi nữa." Bây
giờ phải làm gì với người này? Và anh ta nói, "Xin giúp tôi với." Anh
ta muốn buông xuôi. Anh ta không muốn buông xuôi nữa. Một phần nói, "Buông
xuôi đi"; một phần nói, "Không." Đây là tinh thần phân liệt,
nhân cách chia chẻ, nhưng đây là cách gần như mọi người là vậy. Chia chẻ này tới
từ đâu? Chia chẻ này tới từ bố và mẹ bao giờ cũng trong xung đột.
Đứa trẻ thỉnh thoảng cảm thấy ủng
hộ mẹ vì nó cảm nhận ủng hộ cả hai. Nó đã được đem vào thế giới này bởi cả hai.
Một nửa tế bào thân thể nó thuộc về bố, một nửa tế bào thân thể nó thuộc về mẹ.
Bây giờ họ đang trong xung đột. Nó sẽ thường xuyên trong cuộc nội chiến; nó sẽ
không bao giờ được thoải mái, được thảnh thơi. Bất kì cái gì nó sẽ làm, một phần
cứ nói, "Vô nghĩa. Không làm nó." Nếu phần mẹ nói, "Làm
đi," phần bố sẽ nói, "Không." Có thể không nói rất to, bố không
bao giờ nói rất to, nhưng phần bố sẽ gật đầu với không. Nếu phần bố nói,
"Có," thế thì phần mẹ cứ nói, tất nhiên là rất to, "Không!"
Con trai của Mulla Nasruddin
rơi vào tình yêu với một cô gái. Cậu ta về nhà. Cậu ta hỏi Nasruddin, thổ lộ với
anh ta, hỏi phải làm gì. Người bố thì thào vào tai cậu ta, "Nếu con thực sự
muốn cô gái đó, đi và nói với mẹ con rằng 'Bố cấm,' rằng 'Bố con chống lại điều
đó.' Và trước khi mẹ con nói bố sẽ nói, 'Bố sẽ không bao giờ cho phép con!' Thế
thì chắc chắn hôn nhân của con sẽ xảy ra."
Chính trị lớn tiếp diễn. Và mọi
đứa trẻ nhạy cảm đều học được thủ đoạn thương mại này, và thế rồi nó sẽ chuyển
tiếp cho cả đời nó. Nó sẽ vẫn còn bị phân chia, và bất kì khi nào nó đem một
người đàn bà về nhà, nó sẽ bắt đầu đóng vai người bố và người đàn bà sẽ bắt đầu
đóng vai mẹ nó. Và toàn thể câu chuyện này tiếp diễn... và thế giới cứ di chuyển
ngày càng sâu hơn vào điên khùng.
Toàn thể điều vô nghĩa này đã xảy
ra bởi vì bạn đã bị dạy sai. Tôi dạy bạn chỉ một sự trung thành: đó là trung
thành với cuộc sống riêng của bạn. Điều đó sẽ có vẻ rất nguy hiểm. Nó sẽ có vẻ
dường như tôi đang cố tạo ra hỗn độn, hỗn loạn. Tôi không phải vậy. Hỗn loạn bạn
đã tạo ra rồi - nó không thể được cải thiện thêm. Tôi đang cố gắng tạo ra trật
tự, nhưng trật tự từ tự do; trật tự như kỉ luật bên trong, không phải như thứ bị
ép buộc từ bên ngoài.
Câu hỏi thứ chín
Bé mới sinh có thấy hào quang không?
Có, nhưng chỉ tới lúc chúng bắt
đầu nói. Khi bé mới sinh bắt đầu nói, mọi thứ biến mất. Bằng việc nói bé trở
thành một phần của xã hội. Khi bé im lặng, không nói, thế thì bé thấy cùng những
điều mà thánh nhân thấy, điều người chứng ngộ thấy đích xác là cùng một thứ. Bé
gần như là thánh nhân. Nhưng điều đó còn chỉ tới một điểm nào đó. Nếu bé im lặng
trong sáu tháng, chín tháng, một năm - thế thì tới lúc đó, bé sẽ thấy hào
quang, sẽ cảm thấy sâu sắc. Một khi bé bắt đầu nói, bé không còn đó. Bé đã đi
vào trong thế giới, thế giới của ngôn ngữ, lí luận, tâm trí. Thế thì, dần dần,
những phẩm chất đó biến mất.
Ở Ấn Độ chúng ta có huyền thoại,
và một điều rất thực ẩn kín trong nó. Ở Ấn Độ người ta nói rằng mãi cho tới sáu
tháng bé vẫn nhớ kiếp sống quá khứ của nó. Điều đó là thực, bởi vì mãi cho tới
tháng thứ sáu bé im lặng thế và sự sáng tỏ là xuyên thấu thế. Thế rồi, mọi
ngày, thế giới ngày càng có đó với nó, chúng ta dạy ngày càng nhiều, ước định,
và bé trở nên ngày càng là một phần của xã hội, ngày một ít như một phần của sự
tồn tại - bé bị mất. Đây là sa ngã của Adam: cây tri thức đã được nếm. Quả của cây
tri thức được nếm khi bé bắt đầu nói.
Thế rồi lần nữa nếu bạn muốn
thu lại điều đó, phục hồi nó, bạn sẽ phải học im lặng - đó là lí do tại sao nhiều
nhấn mạnh thế vào im lặng, thiền. Bạn sẽ phải vứt bỏ ngôn ngữ lần nữa. Tất cả
những huyên thuyên bên trong phải dừng lại; việc nói bên trong phải được dừng lại.
Bạn phải trở thành hồn nhiên lần nữa, không ngôn ngữ, không nói thành lời bên
trong, chỉ hiện hữu thuần khiết: là đứa bé lần nữa. Nhớ lấy, Jesus cứ nói đi
nói lại mãi, "Chỉ những người như trẻ em mới vào vương quốc Thượng đế của
ta."
Câu hỏi thứ mười
Tại sao có chuyện chúng tôi nghe nói ít đàn
bà chứng ngộ hơn đàn ông?
Lí do căn bản là ở chỗ đàn ông
là chuyên gia trong ba hoa; đàn bà không như vậy. Nhiều đàn bà đã đạt tới chứng
ngộ. Con số là đích xác như đàn ông - không thể khác được, bởi vì sự tồn tại cứ
làm cân bằng bản thân nó - nhưng đàn bà không là người khoe khoang khoác lác. Họ
không ba hoa mấy. Nếu họ đạt tới họ tận hưởng nó. Họ không làm ồn ào lên về nó.
Đàn ông khác toàn bộ. Nếu họ đạt
tới cái gì đó họ tạo ra nhiều ầm ĩ về nó; họ làm ồn ào về nó. Và xã hội bị kiểm
soát bởi đàn ông. Khi đàn ông trở nên chứng ngộ, mọi đàn ông khác quảng cáo về
toàn thể việc này. Khi đàn bà trở nên chứng ngộ không ai bận tâm, bởi vì xã hội
không thuộc về đàn bà. Họ không phải là người cai trị.
Đàn ông về căn bản có nhiều
tính xã hội hơn đàn bà. Đàn bà bị giới hạn vào bản thân cô ấy, hay nhiều nhất,
gia đình của cô ấy. Cô ấy không bận tâm về Việt Nam, cô ấy không bận tâm về
Richard Nixon - những thứ xa xôi như thế... không thành vấn đề. Cô ấy không bận
tâm về các thế hệ sắp tới, thế này và thế nọ. Cô ấy hạnh phúc ở gia đình của cô
ấy, một thế giới nhỏ của riêng cô ấy. Thực ra cô ấy không muốn bất kì ai can
thiệp vào. Cô ấy muốn giữ cho bản thân cô ấy.
Khi đàn bà trở nên chứng ngộ,
thế thì lại cùng điều đó còn lại: cô ấy không đi thuyết giảng trên khắp thế giới.
Điều đó không phải là cơ sở của cô ấy. Cô ấy không đi ra để làm ra đệ tử, tạo
ra tôn giáo có tổ chức. Điều đó không phải là cơ sở của cô ấy. Cô ấy tận hưởng
nó; cô ấy hạnh phúc với nó. Cô ấy có thể nhảy múa. Cô ấy có thể ca hát. Ở trong
gia đình mình, ngồi im lặng, cô ấy sẽ không bận tâm. Đàn bà không trở thành thầy.
Nhiều đàn bà trở nên chứng ngộ như đàn ông, nhưng đàn bà không có phẩm chất để
trở thành thầy. Điều này phải được hiểu.
Đàn bà có phẩm chất hoàn hảo để
trở thành đệ tử. Buông xuôi là dễ dàng cho cô ấy. Điều đó là tự nhiên, một phần
của bản thể nữ tính. Buông xuôi là dễ dàng; buông xuôi tới dễ dàng. Đàn bà trở
thành đệ tử tốt. Và bạn bao giờ cũng sẽ thấy: bất kì khi nào bạn tìm ra bốn đệ
tử, ba sẽ là đàn bà. Đây sẽ là tỉ lệ trên khắp thế giới. Mahavira có bốn mươi
nghìn sannyasins - ba mươi nghìn là đàn bà. Cùng tỉ lệ này với Phật. Bạn vào bất
kì nhà thờ nào, bất kì đền chùa nào và đếm mà xem - bạn bao giờ cũng thấy tỉ lệ
này ba trên một. Thực ra mọi tôn giáo đều được hỗ trợ, được nuôi dưỡng bởi đàn
bà; nhưng họ là đệ tử.
Buông xuôi là dễ dàng cho họ bởi
vì buông xuôi là thụ động. Nếu bạn đi và buông xuôi với một đàn bà, cô ấy sẽ cảm
thấy bối rối và lúng túng. Nếu đàn ông tới và sụp xuống chân cô ấy, cô ấy sẽ
không bao giờ có khả năng yêu người đàn ông này. Anh ta không có tính đàn ông.
Đi và theo đuổi đàn bà: bạn càng theo đuổi và bạn càng cầu nguyện và bạn càng sụp
xuống chân cô ấy, sẽ càng không thể nào có khả năng cho cô ấy để buông xuôi
theo bạn. Đàn bà cần ai đó mà cô ấy có thể buông xuôi, ai đó đủ nam tính. Đàn
bà có bản thể thụ động, đàn ông có bản thể chủ động: âm và dương. Chúng là phần
bù.
Với đàn bà, buông xuôi là rất dễ
dàng. Nó là tuyệt đối theo cách hiện hữu của cô ấy. Nhưng chấp nhận buông xuôi
là rất khó - và thầy phải chấp nhận buông xuôi. Vài đàn bà đã trở thành thầy, rất
hãn hữu, nhưng tôi bao giờ cũng nghi ngờ những người đàn bà đó phải có hooc môn
nam tính. Họ phải không thực là đàn bà.
Trong lịch sử Ấn Độ có một trường
hợp: trong hai mươi bốn tirthankeras của người Jainas đã có một đàn bà,
Mallibai là tên của bà ấy. Nhưng một trong những giáo phái chính thống nhất của
người Jainas, Digamberas, họ không gọi bà ấy là đàn bà. Họ không viết tên bà ấy
là "Mallibai"; họ viết tên bà ấy là "Mallinatha." Nó trở
thành cái tên nam; nó không còn là tên nữ nữa. Tôi đã cân nhắc nhiều về điều
đó, tại sao. Thế rồi tôi cảm thấy người Digamberas là phải: đàn bà có thể đã là
đàn bà chỉ theo cái tên; bằng không bà ấy phải là đàn ông. Trở thành một
tirthanker, điều đó không có tính đàn bà thế. Chấp nhận hàng triệu người và việc
buông xuôi của họ là không có tính đàn bà tới mức đàn bà chỉ là ở thân thể đàn
bà thôi. Bản thể bên trong của bà ấy là của đàn ông.
Cho nên người Digamberas là phải.
Người Svethamberas nói rằng bà ấy là đàn bà: họ hiện thực hơn nhưng không đúng,
sự kiện hơn nhưng không đúng hơn. Họ truyền lại chỉ sự kiện, và đôi khi sự kiện
là không thực. Thỉnh thoảng sự kiện là rất hư cấu; và thỉnh thoảng sự kiện có
thể dối trá nhiều tới mức hư cấu sẽ cảm thấy xấu hổ. Đây là sự kiện - rằng
Mallibai này là đàn bà - nhưng đây không phải là thực tại. Người Digamberas có
nguồn đúng. Họ đã quên về sự kiện rằng bà ấy là đàn bà; họ đã coi bà ấy là đàn
ông. Toàn thể bản thể bà ấy phải là nam tính.
Hiếm khi điều đó xảy ra. Trong
chính trị, trong tôn giáo, bất kì khi nào đàn bà thành công, cô ấy có nhiều
tính nam hơn là tính nữ. Một Laxmi Bai hay một Joan of Arc, họ không có vẻ nữ
tính. Chỉ thân thể, cách ăn mặc bên ngoài là nữ tính. Bên trong là đàn ông.
Đó là lí do tại sao họ không được
biết tới mấy, bởi vì chừng nào bạn chưa trở thành thầy, làm sao bạn sẽ được biết?
Chứng ngộ của bạn vẫn còn là ánh sáng bên trong của bạn. Bạn không hướng dẫn người
khác; người khác chưa bao giờ đi tới biết về điều đó. Nhưng đây là cảm giác của
tôi: rằng tự nhiên bao giờ cũng có cân bằng sâu sắc.
Trong thế giới cùng số đàn bà tồn
tại như số đàn ông. Các nhà sinh học thậm chí còn tự hỏi làm sao điều đó xảy
ra, làm sao tự nhiên xoay xở được điều đó, làm sao tự nhiên biết rằng cùng tỉ lệ
được cần tới - gần như là một. Đàn ông và đàn bà bao giờ cũng theo con số bằng
nhau. Với ai đó chỉ con gái được sinh ra. Với ai đó chỉ con trai được sinh ra.
Nhưng nếu bạn nhìn vào toàn thể trái đất, tổng số đàn bà gần như là một với số
đàn ông.
Khi trẻ con được sinh ra, cứ một
trăm bé gái có một trăm mười lăm bé trai. Bởi vì tự nhiên biết con trai yếu
hơn; sẽ chết nhiều hơn. Cho nên đến lúc chúng tới tuổi xây dựng gia đình, con số
sẽ bằng nhau. Bé gái cứng cỏi hơn. Bé gái mạnh mẽ hơn; chúng bị ốm ít hơn.
Chúng chịu đựng được nhiều điều hơn; chúng có thể chịu đựng được gian khổ. Chỉ
mỗi bản ngã nam tính mới nói, "Chúng tôi là kẻ mạnh hơn." Sức mạnh cơ
bắp có thể lớn hơn ở đàn ông, nhưng sức mạnh không lớn hơn - bởi vì mười lăm bé
trai trong số một trăm mười lăm bé chết đi, và đến tuổi mười bốn con số là bằng
nhau: một trăm con gái với một trăm con trai.
Tự nhiên xoay xở bằng cách nào
đó. Khi có chiến tranh: sau chiến tranh nhiều con trai hơn được sinh ra, ít con
gái hơn, bởi vì trong chiến tranh nhiều đàn ông chết. Dường như thực sự có hiện
tượng rất lớn lao, không thể nào tin được. Điều đó xảy ra như thế nào? Trong
chiến tranh - thế chiến thứ hai, thế chiến thứ nhất - cả hai cuộc chiến này đã
được quan sát, được phân tích: nhiều con trai được sinh ra sau chiến tranh, con
số này tăng lên, và ít con gái được sinh ra. Bởi vì trong chiến tranh nhiều đàn
ông hơn đã chết và con số này phải được thay thế.
Cùng điều đó là trong chứng ngộ
tâm linh nữa: cùng số đàn bà trở nên chứng ngộ như đàn ông. Có cân bằng, nhưng
đàn bà không được biết tới mấy vì họ chưa bao giờ trở thành thầy; hay nếu thỉnh
thoảng họ trở thành thầy, chỉ thế một cách hãn hữu điều đó xảy ra.
0 Đánh giá