Read more
Osho - Mưa không mây
Giảng về bài
thơ của người đàn bà chứng ngộ, Sahajo
Chương 8. Tìm
kiếm, và bạn sẽ lỡ
Câu hỏi thứ nhất
Thầy đã kể câu chuyện về nhà vua đã tàn nhẫn
để cứu một người khỏi bị rắn chui vào trong dạ dầy. Chúng tôi cũng có con rắn
đam mê và ghen tị bên trong chúng tôi. Tại sao thầy không dùng những biện pháp
tàn nhẫn để cứu chúng tôi?
Không cần phải dùng tới gươm
nơi một chiếc kim cũng đủ. Và công việc có thể được giải quyết bằng một chiếc
kim không thể được thực hiện bằng việc dùng gươm. Thực tế, gươm sẽ làm hỏng
công việc mà có thể được thực hiện bằng một chiếc kim. Đừng bám vào lời trong
các câu chuyện mà tôi kể cho các bạn. Hiểu bản chất của chúng đi.
Chắc chắn là các bạn có bệnh,
nhưng bệnh này không thô, nó rất tinh tế. Con rắn đam mê và ghen tị đã chui vào
bụng bạn, nhưng nó không thể được lấy ra bằng việc đánh vào người bạn. Bạn phải
trải qua một quá trình tinh tế tương đương. Nếu con rắn đã là rắn thường, thế
thì điều mà nhà vua đã làm trong câu chuyện đó cũng có thể có tác dụng. Ông ấy
quất roi người này, ông ấy buộc người này phải ăn quả thối rữa và khi dạ dầy
anh ta ngập đến tận họng, hôi thối, anh ta bắt đầu nôn ra. Nhà vua cứ đánh anh
ta và trong cái đau và rối loạn, người này nôn ra và con rắn được kéo ra.
Nếu bạn hiểu câu chuyện này
đúng theo từng từ ... Và cũng không có gì ngạc nhiên nếu bạn hiểu nó theo cách
đó bởi vì phần lớn các thánh nhân và sư của bạn đã hiểu nó theo cách này. Căn bệnh
là ở bên trong, vậy mà họ đánh thân thể họ, bệnh ở bên trong và họ bận bịu thay
đổi hành vi của họ. Bản ngã ẩn kín sâu bên trong vậy mà họ đứng giữa trời nắng,
hành hạ thân thể họ. Họ đánh vào thân thể họ. Họ nằm lên trên gai nhọn, và bản ngã
tinh vi đến mức không gai nhọn nào có thể chạm tới nó được. Ngược lại, bằng việc
ngủ trên gai nhọn, nó sẽ trở nên mạnh hơn. Nếu bằng việc đánh thân thể bạn mà
con rắn sẽ chui ra việc đó chắc là việc quá dễ dàng.
Con rắn không ở trong thân thể,
con rắn ở trong tâm trí. Nó ở trong tầng vô ý thức, tinh vi của tâm trí. Và nếu
bạn có thể hiểu, tôi sẽ nói với bạn rằng nếu con rắn này mà là con rắn thực thế
thì công việc sẽ rất dễ dàng. Nhưng con rắn là tưởng tượng, nó không tồn tại, bạn
đã tưởng tượng ra nó. Đây là lí do tại sao phải cần tới những phương pháp rất
tinh tế.
Để tôi kể cho bạn thêm một câu
chuyện nữa; có lẽ bạn sẽ hiểu qua nó.
Một đêm một người ngủ và anh ta
mơ. Trong giấc mơ anh ta thấy rằng mình đã nuốt phải một con rắn. Sợ hãi, anh
ta thức dậy. Giấc mơ thật quá và anh ta bị cơn sợ hãi choán ngợp đến mức anh ta
phải la lên. Vợ anh ta tỉnh dậy và mọi người trong nhà cũng dậy, họ đều cố gắng
thuyết phục anh ta rằng đấy chỉ là giấc mơ thôi. Anh ta nói, “Không, tôi đang cảm
thấy nó ở bên trong, tôi có thể cảm thấy nó đang bò trong dạ dầy tôi.”
Người ta làm cho anh ta nôn ra.
Nhưng không có gì ra cả, không con rắn nào chui ra - con rắn thật phải ra rồi nếu
nó có đấy. Nhưng khi anh ta nôn ra mà rắn không ra, một cách tự nhiên logic của
anh ta bảo rằng rắn đã chui vào sâu hơn rồi: “Việc nôn này chỉ xảy ra chỗ nông
thôi, con rắn phải chui vào đến ruột của mình rồi.” Anh ta thử đủ mọi phương
thuốc nhưng các bác sĩ lúng túng. Rồi chụp tia X; không có rắn, nhưng người này
vẫn không thực sự chấp nhận điều đó. Anh ta nói, “Tôi phải tin vào tôi hay tôi
tin vào máy? Máy mà không thể sai được sao? Tôi nên nghe theo các phân tích của
các anh hay theo kinh nghiệm của tôi? Tôi có thể cản thấy con rắn đang bò. Tôi
không thể đứng, tôi không thể ngồi, tôi không thể ăn hay uống được.” Người này
gần phát điên.
Thế rồi anh ta được đưa đến một
nhà phân tâm bởi vì con rắn không có trong cơ thể, nó ở trong tâm trí. Nhà phân
tâm này làm gì? Ông ta nghe câu chuyện của người này và nói, “Chắc chắn là có rắn
rồi. Tia X có thể sai, các bác sĩ có thể không hiểu, nhưng tôi có thể thấy được
nó.” Ông ta sờ nắn khắp bụng anh chàng này rồi nói, “Có rắn thật, anh đúng đấy.”
Anh ta tin vào ông bác sĩ này.
Anh ta nói, “Dường như chỉ có ông là người thông thái nhất thành phố này.”
Nhưng nhà phân tâm đang nói dối bởi vì để lôi ra cái giả không còn cách nào
khác hơn là dùng một phương thuốc giả.
Bạn đã bao giờ nghĩ về nó chưa?
- cái giả không thể nào bị loại bỏ bởi cái thật, bởi vì cái giả và cái thật
chưa bao giờ gặp được nhau. Làm sao con rắn được khử bỏ? Nếu bệnh là giả thế
thì đừng bao giờ đem thuốc đối trị ra cho dù có nhầm lẫn, bằng không, nó sẽ gây
hại cho bạn bởi vì thuốc là thật.
Vi lượng liệu pháp là đúng cho
bệnh giả; nó là thuốc giả. Nó là thuốc về việc tin vào bệnh tưởng tượng. Cho
nên với thuốc vi lượng không ai đã bao giờ bị hại. Nó có thể có ích, nhưng nó
chưa bao giờ gây hại bởi vì để gây hại thuốc phải là thật. Chúng là những viên
đường. Không phải là vi lượng liệu pháp không có tác dụng. Nó có tác dụng, bởi
vì con người là phức tạp. Đấy không phải là đặc thù của vi lượng, đấy là đặc
thù của bệnh của con người.
Trong một trăm bệnh của con người,
chín mươi bệnh là giả. Và với bệnh giả thuốc thực là nguy hiểm bởi vì thuốc thực
sẽ làm cái gì đó. Nếu không có bệnh gì, nó sẽ gây hại cho bạn. Nếu bạn có bệnh,
nó có thể chữa cho bệnh đó. Có thể có kết quả định mệnh nếu nó bị dùng sai. Nó
là chất độc. Nếu có bệnh thế thì chất độc sẽ chữa bệnh đó, nhưng nếu bệnh không
có đó thế thì chất độc sẽ lan khắp thân thể bạn. Cho nên đối trị liệu pháp
không dùng được cho bệnh nhân giả; với bệnh nhân giả có vi lượng liệu pháp - và
có nhiều bệnh nhân giả hơn là bệnh nhân thực. Cho nên vi lượng liệu pháp cũng cần
phải được phát minh ra trên thế giới cùng với đối trị liệu pháp, cho dù người
ta phải dùng thuốc giả. Nhưng làm gì đây? Bệnh này là giả. Bệnh không xảy ra
cho họ vậy mà họ muốn được chữa.
Cho nên bác sĩ này nói, “Chắc
chắn có rắn rồi.” Anh ta tin bác sĩ, ông ấy có vẻ trí huệ. Ông ấy nói, “Chúng
ta sẽ lấy nó ra. Uống thuốc này đi, nằm nghỉ qua đêm rồi sáng mai khi anh đi vệ
sinh, con rắn sẽ chui ra.”
Người này ngủ cả đêm, không lo
nghĩ. Nếu bạn đã tìm tới đúng bác sĩ thế thì nửa bệnh đã được chữa. Ông bác sĩ
xoay xở kiếm cho ra một con rắn, và trong buổi sáng, trước khi anh chàng này đi
vệ sinh, ông ấy đã bố trí cho con rắn được để trong nhà xí.
Khi người này bước ra khỏi nhà
xí, nhà phân tâm nói, “Bây giờ chúng ta tới xem, con rắn nhất định phải chui ra
rồi.” Họ tìm thấy con rắn trong nhà xí.
Người này rất sung sướng. Anh
ta nói, “Mọi bất ổn bên trong tôi đã tiêu tan hết - con rắn đã ra rồi! Nhưng những
kẻ đần độn kia vẫn cứ nói rằng không có rắn nào cả.”
Bệnh của bạn cũng hệt như trong
câu chuyện này. Bạn không ốm, nó là ý tưởng của bạn. Bạn có ảo tưởng về bản
ngã. Không thể có bản ngã được, bản ngã là khái niệm giả. Nó chỉ là một ý tưởng,
nó chỉ là một sóng ý nghĩ. Cho nên nó có thể bị loại bỏ đi qua thiền, không phải
là qua nỗ lực khó nhọc.
Cho nên tôi không thiên về nỗ lực
khó nhọc, rằng bạn phải thực hiện những động tác asana kì lạ, thực hiện
shirshasana, trồng cây chuối, đứng dưới mặt trời và hành hạ thân thể bạn một
cách không cần thiết, nhịn ăn, quất roi vào thân thể bạn - bản ngã sẽ không bị
loại bỏ đi theo cách này. Bạn đã bị dính vào câu chuyện thứ nhất quá mức cần
thiết. Hiểu câu chuyện thứ hai này, nó tinh vi. Kĩ thuật cũng phải tinh vi. Và
ngay cả gọi nó là tinh vi là không đúng: nó không có đó chút nào. Cho nên cần
phải có một cách chữa vi lượng nào đó. Thiền là vi lượng liệu pháp, nó là một
cách thức để loại bỏ cái không có. Bạn chỉ phải được đánh thức dậy. Trong giấc
ngủ của bạn, điều bạn thấy như mơ, bạn đã coi là thực. Sau khi thức dậy bạn sẽ
thấy rằng nó không có đó chút nào. Nó phải không bị loại bỏ mà chỉ được hiểu.
Cho nên không có cách nào để
tôi cứng rắn cả. Bạn muốn rằng tôi phải cứng rắn. Bạn muốn nó bởi vì thế thì bạn
sẽ cảm thấy rằng cái gì đó đang xảy ra. Khi tôi yêu cầu bạn thiền, thế thì kết
nối của bạn với tôi chập chờn. Bạn nói, “Thiền sao? Nói cho chúng tôi điều gì
đó mà chúng tôi có thể làm. Chúng tôi có thể nhịn ăn. Khó gì trong việc nhịn
ăn. Nhưng ‘không nghĩ’ là khó.” Tôi yêu cầu bạn loại bỏ bản ngã của bạn. Bạn
nói, “Điều đó rất khó. Xin thầy bảo chúng tôi làm điều gì đó như làm từ thiện,
tôn giáo, đọc và tụng kinh sách, từ bỏ, những nỗ lực gian nan, chúng có có thể
làm được tất cả những điều đó.” Nhưng với tất cả những điều đó bản ngã bạn sẽ
chỉ được tôn lên, bản ngã bạn bây giờ sẽ khoác áo tôn giáo. Thế thì bản ngã bạn
sẽ trở thành ngoan đạo, nhưng bản ngã ngoan đạo nguy hiểm hơn nhiều. Trong bản
ngã thô sơ cũng có cái gì đó khác trộn lẫn vào, nhưng bản ngã ngoan đạo là chất
độc tuyệt đối thuần khiết. Đây là lí do tại sao mọi phương thuốc của bạn đều thất
bại bởi vì bạn đang dùng thuốc thật mà không chú ý gì tới bệnh, mà bệnh là giả.
Tôi đang ngồi trong cửa hàng của
Mulla Nasruddin. Một người vào và hỏi mua thuốc độc diệt rận. Nasruddin đưa cho
anh ta liều thuốc độc. Thế rồi người này nói, “Này anh cả, thuốc này sẽ giết hết
rận, nhưng ai phạm tội giết chúng? Tôi có lỗi hay anh có lỗi? Tôi sẽ phun chất độc,
nhưng nó do anh pha chế ra. Hay là tội lỗi được chia đều năm mươi-năm mươi?”
Nasruddin nói, “Không ai phạm tội
cả, đừng lo.”
Người này nói, “Anh ngụ ý gì?”
Nasruddin nói, “Người ta chỉ có
thể phạm tội nếu rận chết. Thuốc này là thuốc Ấn Độ, đồ nội và còn thô thiển lắm.
Rận sẽ không chết vì nó đâu, nó chỉ là thuốc trấn an thôi.”
Mọi nỗ lực gian nan của bạn đều
chấm dứt trong vô tích sự bởi vì bạn không thấy đúng bạn đang cố tiêu diệt cái
gì và liệu nó có chết hay không. Không có mối quan hệ nào giữa hai điều này cả.
Mọi khổ hạnh của bạn đều sẽ gây hại, nhưng nó sẽ không chữa được cái gì cả.
Toàn bộ nhấn mạnh của tôi là
vào thiền. Nghĩa của thiền là gì? Thiền đơn giản có nghĩa là làm cho tâm trí
thành trống rỗng và im lặng đến mức bất kì điều gì bạn thấy tâm trí phải không
thêm cái gì vào nó. Nếu bạn thấy bông hồng thế thì bạn chỉ thấy bông hồng thôi.
Tâm trí bạn không có khả năng nói ra, “Nó đẹp quá, nó đáng yêu làm sao” hay,
‘Cái này không là gì cả, mình đã thấy nhiều đoá hoa còn đẹp hơn hoa này.” Tâm
trí bạn không nên nói điều gì cả. Nó không nên đưa ra lời bình phẩm nào. Khi
tâm trí bạn không bình phẩm gì, thế thì nó là việc thiền. Thế thì tâm trí bạn
là tấm gương sáng tỏ. Thế thì bạn thấy cái đang đó.
Bây giờ bạn thấy cái đang không
có đó - cái mà tâm trí bạn đang phóng chiếu, cái mà tâm trí bạn đang thêm vào
cho sự tồn tại. Bây giờ bạn thấy niềm tin của bạn; niềm tin của bạn cũng là ảo
tưởng. Mọi nơi bạn thấy chỉ cái mà bạn có khả năng thấy. Khi bạn nhìn với nhận
biết thế thì những thứ này sẽ khác.
Giả sử bạn đang bước đi trên đường
và một người xúc phạm bạn. Ngay bây giờ bạn cảm thấy rằng khi người đó xúc phạm
bạn, người đó là ác, người đó xấu xa, người đó đáng phải bị trừng phạt. Nhưng một
ngày nào đó bạn sẽ nhìn với nhận biết và thế thì khi điều đó xảy ra lần nữa, có
lẽ bạn sẽ biết rằng người này đang nói chân lí. “Điều anh ta nói về mình là một
mô tả đúng đắn, nó không phải là xúc phạm. Anh ta đã gọi mình là kẻ cắp - mình
là kẻ cắp.” Bạn có thể cúi đầu và chạm chân người ấy, “Thật là rất may mắn mà
chúng ta được gặp nhau. Anh đã phát biểu một sự kiện - tôi là kẻ cắp. Anh đã thức
tỉnh tôi, anh đã làm cho tôi nhận biết. Tôi xin cám ơn anh. Và xin anh luôn
luôn tốt như thế đối với tôi. Bất kì khi nào anh nhận ra điều gì đó trong tôi,
xin nói cho tôi.”
Người phơi bầy những thiếu sót
của bạn là người bạn, người bỏ qua những thiếu sót của bạn là kẻ thù của bạn.
Nhưng ngay bây giờ định nghĩa của bạn là khác: bạn gọi ai đó là bạn mình khi
anh ta che giấu thiếu sót của bạn, bạn gọi ai đó là kẻ thù của mình nếu người
đó phơi bầy ra thiếu sót của bạn. Nhưng trong trạng thái thiền, mọi thứ đều
thay đổi.
Kabir đã nói:
Giữ người phê bình gần ông.
Làm lều cho ông ấy trong sân
nhà ông.
Bất kì khi nào bạn thấy ai đó
xúc phạm bạn, bất kì khi nào bạn thấy ai đó phê bình bạn, thế thì mời người đó
về nhà bạn và bảo với người đó, “Bây giờ xin anh đừng đi đâu khác nữa. Xin ở cạnh
tôi. Tôi sẽ làm lều cho anh trong sân nhà tôi, tôi sẽ thu xếp cho anh ở lại. Bởi
vì nếu anh ở xa và chúng ta chỉ gặp nhau đôi ba lần, thế thì tôi không biết tôi
có thể bỏ lỡ mất bao nhiêu sai sót. Anh ở gần tôi và quan sát tôi, và bất kì
khi nào anh thấy điều gì đó sai sót trong tôi thế thì nói điều đó một cách toàn
tâm, đừng che giấu điều gì cả. Đừng nghĩ về cách xử sự tốt và lịch sự. Cứ nghiêm
khắc và nói điều đó rõ ràng bởi vì nếu không có anh, tôi có thể đi lạc đường.”
Giữ người phê bình gần ông: đây là sự kiện thấy được qua nhận biết.
Nếu bạn lắng nghe xúc phạm mà
không nhận biết thế thì bạn sẽ sẵn sàng đánh nhau với người đó. Nếu bạn lắng
nghe xúc phạm với nhận biết thế thì bạn sẽ cám ơn người đó. Thế thì mọi tình huống
trong cuộc sống sẽ thay đổi.
Có hai cách để nhìn vào cuộc sống:
một là qua tâm trí và cách kia là qua thiền. Cuộc sống được nhìn qua tâm trí là
thế giới. Cùng thế giới đó, khi được nhìn qua thiền, là Thượng đế. Thượng đế và
thế giới không phải là hai điều, chúng là hai cách nhìn.
Tôi biết rằng bệnh của bạn là
giả. Đây là lí do tại sao tôi liên tục nói với bạn rằng nếu bạn muốn bạn có thể
kinh nghiệm Thượng đế ngay chính khoảnh khắc này. Nếu bệnh mà là thật thế thì
điều này sẽ là không thể được. Thế thì sẽ phải tốn thời gian. Nếu một người
đang nằm trên giường bệnh, đang thực sự ốm, thế thì phải mất hàng năm để chữa
chạy cho người ấy. Sau điều trị liên tục bệnh cuối cùng sẽ hết. Nhưng khi một
người chỉ nằm trên giường bị thôi miên, cứ tưởng rằng mình đang ốm, thực tế anh
ta không ốm gì cả. Mọi người đã cho anh ta một ý nghĩ rằng anh ta ốm nhưng anh
ta không thực sự ốm.
Tôi có một giáo sư mà tôi yêu lắm.
Một hôm tôi nói với ông ấy cùng điều này, nhưng ông ấy không đồng ý với tôi
chút nào. Ông ấy nói, “Làm sao điều này có thể thế được? Anh chứng minh bằng
cách làm cho tôi bị bệnh giả đi.” Tôi không nói gì. Tôi thậm chí cũng không nói
rằng tôi sẽ chứng tỏ cho thầy điều đó bằng việc làm cho thầy ốm, bởi vì điều đó
nữa cũng sẽ trở thành rào chắn. Tôi đơn giản bỏ qua nó, vấn đề coi như xong.
Sau hai hay ba tháng tôi bảo vợ
thầy giúp tôi một việc. Sau khi dậy vào buổi sáng, chỉ nói với thầy, “Anh có ngủ
ngon hôm qua không đấy? Mắt anh có vẻ đỏ. Để em xem trán anh xem có bị sốt
không.” Rồi chạm tay vào trán thầy và nói, “Trời đất! Nhiệt độ anh dường như
cao hơn có dễ đến hai ba độ. Sao anh không thức em dậy ban đêm?”
Vợ thầy hỏi tôi, “Anh định làm
gì?”
Tôi bảo cô, “Tôi đang làm một
thực nghiệm. Xin đừng nói với thầy điều gì. Chỉ xin giúp cho tôi việc này
thôi.” Tôi đưa cho cô một tờ giấy mà tôi đã viết trên đó tất cả những gì cô phải
nói với thầy và bảo cô rằng bất kì thầy nói điều gì, viết trên mặt sau tờ giấy
và không thêm lời riêng nào của cô vào.
Tôi nói cùng điều đó với người
phục vụ nhà thầy và với người làm vườn. Tôi đưa giấy ghi cho tất cả họ. Tôi bảo
với người phục vụ, “Xin nói với thầy khi thầy đi ra trong khi bác đang quét
nhà, ‘Ông chủ, ông trông không được khoẻ,’ và ghi bất kì điều gì thầy nói.” Tôi
bảo với người làm vườn, “Khi thầy đi tới trường đại học thế thì đi tới gần cổng
và nói, ‘Bước đi của thầy hơi loạng choạng. Thầy có sao không?’ và xem thầy nói
gì.” Theo cùng cách đó tôi tới khoa trong trường đại học, bảo với thư kí của thầy;
tôi nói điều này với mọi người. Có một bưu điện trên đường cho nên tôi bảo với
nhân viên bưu điện hỏi về sức khoẻ của thầy khi thầy đi qua.
Vào lúc giáo sư của tôi tới trường
- trường cũng không xa lắm, nhiều nhất cũng chỉ nửa dặm từ nhà thầy - mắt thầy
đã đỏ và thân thể thầy đã run. Tôi gặp thầy gần lối vào. Thầy nói, “Nghe đây,
kiếm chiếc xe của ai đó đi, xe tôi không còn tốt lắm. Tôi sẽ không thể nào bước
về nhà được. Tôi bị sốt. Cả đêm tôi bị ốm.” Thầy ngồi xuống chiếc ghế bên ngoài
khoa và nhắm mắt lại. Tôi đem một chiếc xe của ai đó tới và đưa thầy về nhà.
Vào buổi tối tôi tới nhà thầy.
Thầy đang nằm trên giường. Tôi đo nhiệt độ thầy - ba mươi chín độ C. Tôi đã thu
thập tất cả những mẩu giấy ghi lời thầy nói. Khi vợ thầy hỏi thầy vào buổi
sáng, “Anh không khoẻ sao?” thầy nói, “Ai nói anh không khoẻ? Anh ngủ ngon cả
đêm. Em vứt cái tưởng tượng của em đi.” Và với người phục vụ bên ngoài thầy
nói, “Có đấy, tôi không ngủ ngon trong đêm” - và không có nhiều thời gian nói với
vợ và với người phục vụ ở ngoài! Thế rồi thầy nói thêm, “Nhưng tôi vẫn khoẻ.”
Nhưng thầy đã không chối điều đó với cùng sự mạnh mẽ như thầy đã nói đối với vợ
mình.
Với người làm vườn thầy đã nói,
“Có đấy, dường như là tôi bị sốt. Nhưng không mấy - nó vẫn đang tiến triển theo
cách của nó.” Với nhân viên bưu điện thầy nói, “Tôi bị đau đầu, và trong đêm
tôi bị sốt.” Với người trong khoa thầy nói, “Có đấy, tôi sốt cao đêm qua. Hôm
nay tôi sẽ không thể nào lên lớp được, xin báo cho lớp.” Và tới lúc thầy gặp
tôi, thầy đã sụp đổ trong ghế. Và đến đêm nhiệt độ của thầy đã lên tới ba mươi
chín độ. Tôi đưa cho thầy xem mọi tờ giấy ghi và nói với thầy, “Đấy toàn là lời
nói của thầy - chúng ta phải coi cái nào là đúng đây? Dần dần thầy chuyển sang ốm.
Buổi sáng thầy đã dứt khoát là không ốm. Vợ thầy cũng hiện diện ở đó, cô cũng
nói thật là phép màu mà thầy đã trở nên ốm bởi vì cô chỉ nhắc điều tôi nhờ cô
nói. Người làm vườn của thầy hiện diện, người làm công nhà thầy hiện diện. Tôi
gọi tất cả họ tới đây. Họ chỉ toàn nhắc lời tôi. Thầy trở nên ốm, cơn sốt của
thầy là thực, nhưng bệnh là giả. Thầy đã có một cơn sốt thật nhưng cơ sở của nó
là giả - đấy là một niềm tin.”
Khi thầy đọc các bản ghi từng
chiếc một, cơn sốt bắt đầu biến mất. Khi thầy đọc xong tất cả thầy hiểu ra toàn
bộ tình huống. Thầy đứng dậy ra khỏi giường và nói, “Cho tôi xem nhiệt độ lần nữa.”
Nhiệt độ của thầy bình thường. Khác biệt ba độ đã xảy ra chỉ là vấn đề thần
kinh. Nếu nó là cơn sốt thực thế thì nó không thể nào được chữa chỉ bằng việc đọc
những lời ghi này. Cơn sốt đó là giả.
Đây là lí do tại sao tôi nói rằng
bạn có thể biết tới Thượng đế bây giờ, ngay chính khoảnh khắc này. Ý tưởng của
bạn rằng bạn đã lạc ngài chỉ là ý tưởng mà thôi. Thượng đế có phải là điều gì
đó mà có thể bị mất không? Thượng đế là bản tính của bạn - làm sao bạn có thể
làm mất nó được? Bạn có thể kìm nén nó, bạn có thể che đậy nó, nhưng bạn không
thể làm mất nó được. Nhưng thế rồi ý tưởng cũ về trì hoãn nảy sinh trong tâm
trí bạn và bạn nói, “Nếu chúng ta thực hành tâm linh thật ráo riết hết kiếp nọ
đến kiếp kia thế thì một ngày nào đó chúng ta có thể biết tới Thượng đế. Làm
sao điều đó có thể xảy ra nhanh chóng vậy?” Đây là lừa dối. Đây chỉ là trì
hoãn. Bạn không muốn biết Thượng đế. Bằng không không ai ngăn cản bạn biết tới
ngài chính khoảnh khắc này.
Tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện
Pháp.
Đây là một câu chuyện cổ: Một
người có một khu vườn lớn có hồ. Anh ta yêu thích hoa loa kèn nước mầu trắng lắm,
cho nên anh ta đã trồng các hoa loa kèn trắng này trong hồ. Nhưng cây hoa loa
kèn mọc nhanh quá - nó phủ kín gấp đôi diện tích chỉ sau hai mươi bốn tiếng đồng
hồ. Cho nên anh ta cũng có đôi chút lo nghĩ vì anh ta còn nuôi cá trong hồ nữa.
Chúng là loài cá rất ngon nên nếu hoa phủ kín cả hồ cá sẽ chết vì chúng cần
không gian rộng mở, ánh mặt trời và thoáng khí để sống. Nếu hoa loa kèn phủ kín
cả hồ, mọi sự sống trong hồ sẽ bị tiêu diệt. Nhưng anh ta cũng yêu thích cả hoa
loa kèn nữa. Anh ta ở vào thế khó xử cho nên anh ta tới một chuyên gia và xin
hướng dẫn. Chuyên gia này nói, “Hoa loa kèn sẽ phủ gấp đôi một diện tích cứ sau
hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Nhìn kích cỡ hồ của anh, tôi có thể nói rằng trong
vòng ba mươi ngày hồ sẽ bị phủ kín bằng hoa loa kèn. Cho nên bất kì cái gì anh
muốn làm, làm đi.”
Người này trong rối loạn lớn.
Hoa loa kèn thật đáng yêu, anh ta không muốn loại bỏ chúng. Cá cũng rất ngon,
khó khăn lắm anh ta mới nuôi được chúng. Chúng là loài cá cực hiếm; anh ta đã
phải tuyển lựa chúng từ những nước xa xôi va anh ta không muốn chúng chết. Anh
ta nghĩ đi nghĩ và cảm thấy rằng cũng không vội gì, vẫn còn ba mươi ngày nữa.
“Khi hồ bị hoa loa kèn phủ kín một nửa mình sẽ bắt đầu làm điều gì đó. Mình sẽ
đợi cho đến lúc đó. Hiện tại cá vẫn sống và hoa loa kèn cũng sống, cho nên
không hại gì. Khi hồ kín một nửa thế thì mình sẽ bắt đầu cắt hoa.”
Bây giờ điều bí ẩn của câu chuyện
là: khi nào hồ sẽ bị phủ kín một nửa? Nó sẽ bị phủ kín một nửa trong ngày thứ
hai mươi chín! Đừng nghĩ rằng nó sẽ bị phủ kín một nửa trong ngày thứ mười lăm.
Hoa loa kèn tăng gấp đôi kích cỡ của nó hàng ngày, cho nên vào ngày thứ hai
mươi chín hồ sẽ bị che phủ một nửa và sẽ chỉ còn một ngày để cắt chúng. Thế thì
có lẽ là quá chậm rồi.
Và điều đó đã xảy ra. Anh ta
nghĩ, “Mình sẽ đợi và xem khi nào nó che kín nửa hồ. Không có gì sai cả, vội
gì?” Ban đầu hoa loa kèn dường như không phát triển mấy, chúng vẫn còn ở một
góc hồ. Vào ngày thứ hai mươi chín khi anh ta tỉnh dậy vào buổi sáng, anh ta thấy
rằng chúng đã chiến nửa hồ. Thế là anh ta trở nên nhận biết về tính toán. Thế rồi
anh ta nói, “Trời đất, chết tôi rồi! Bây giờ chỉ còn mỗi một ngày để dọn sạch hồ.”
Câu chuyện này không nói gì
thêm về liệu anh ta có dọn sạch được hồ hay không. Nhưng cùng điều ấy đang xảy
ra trong cuộc sống đấy. Bạn nghĩ, “Vội quái gì? Khi nửa cuộc đời trôi qua mình
sẽ xem.” Đó là lí do tại sao người ta nói rằng tôn giáo không dành cho thanh
niên, nó dành cho người già. Nhưng đến lúc đó, rất ít sức mạnh còn lại và chỉ
còn thời gian rất ngắn, và toàn thể cuộc đời đã trĩu nặng dưới tải trọng không
cần thiết và tâm thức của bạn bị bao phủ bởi nhiều ý nghĩ vô dụng tới mức vào
khoảnh khắc cuối, khi bạn sắp chết trên giường, có lẽ bạn sẽ không thể nào làm
được gì nữa. Có lẽ thế thì tên của Thượng đế không thể nào bật ra được từ mồm bạn.
Chỉ cái đã có trong họng bạn mới có thể được nói ra và chỉ cái đã có trong tim
bạn mới có thể tới từ họng bạn được. Làm sao bạn có thể thốt ra cái không có
trong tim bạn và trong họng bạn được? Vào khoảnh khắc chết có lẽ bạn sẽ có thể
thốt ra chỉ điều bạn đã thực hành cả đời bạn mà thôi.
Một người sắp chết. Ông ta mở mắt
ra và hỏi, “Thằng cả đâu rồi?”
Vợ ông ta nói, “Nó đang đứng gần
ông đây, dưới chân ông.”
“Thằng út đâu?” Anh ta cũng
đang ngồi gần ông ấy. Mắt ông ta nhắm lại, trời trở nên tối đi và ông ta sắp chết.
Ông ta cố gắng nhỏm dậy và hỏi, “Thế đứa thứ đâu rồi?”
Bà vợ đáp, “Ông chớ có nhỏm dậy,
nó cũng ở đây, đang ngồi bên trái ông. Tất cả chúng tôi đều ở đây. Không ai ở
đâu khác cả, tất cả chúng tôi đều ở đây.”
Người này trở nên rất lo nghĩ.
Ông ta ngồi dậy trên giường và nói, “Bà ngụ ý gì? Thế thì ai trông cửa hàng?”
Ông ấy sắp chết! Ông ấy không hỏi
về con mình để cho họ ở gần ông ấy. Thực tại, ông ấy đang hỏi liệu cửa hàng còn
mở không, liệu tất cả bọn họ có về và đóng cửa tiệm không.
Thậm chí ngay cả vào khoảnh khắc
chết cửa hàng vẫn còn trong tâm trí ông ấy. Nếu cửa hàng đã là toàn bộ cuộc đời
ông ta, thế thì điều đó là tự nhiên. Vào khoảnh khắc chết chỉ cái mà bạn đã thực
hành cả đời mình mới có thể nổi lên. Cái chết sẽ giúp cho điều quí giá nhất với
bạn nổi lên bề mặt.
Đừng trì hoãn! Có nhiều mánh lới
trì hoãn, và thủ đoạn lớn nhất là, “Thượng đế sẽ không được tìm thấy hôm nay,
ngày mai mình sẽ tìm ngài. Ngàu sẽ không được tìm thấy trong kiếp này, mình sẽ
tìm ngài trong kiếp sau.” Cho nên bạn cứ làm cái bạn đang làm bây giờ, dần dần,
dần dần đi theo hướng đó - khi nhịn ăn, khi nhẩm đọc mật chú, khi đi đền chùa -
theo cách này dần dần, dần dần bạn sẽ thấy ngài một ngày nào đó. Bạn cũng biết
điều này, rằng bạn không muốn tìm ra Thượng đế. Bởi vì tôi nói với bạn rằng nếu
bạn muốn tìm ra ngài thế thì điều ấy là có thể ngay bây giờ. Đừng hình dung rằng
Thượng đế không có sẵn; chính bạn là người không sẵn sàng đón ngài. Bầu trời của
ngài rộng mở nhưng bạn đang ngồi với cửa sổ và cửa ra vào đóng kín. Bạn sợ Thượng
đế cho nên bạn tin vào các lí thuyết đem cho bạn cái cớ để trì hoãn.
Cho nên đâu là tinh thần của điều
này? Tinh thần là ở chỗ bạn đang trong mơ nơi bạn thấy rằng bạn đã lạc mất Thượng
đế.
Bạn phải thức dậy từ giấc mơ
này. Bạn phải đem nhận biết vào. Bỗng nhiên bạn sẽ hiểu rằng điều thiêng liêng không
thể bị mất được, cũng hệt như cá trong đại dương không thể mất được đại dương -
nó được sinh ra trong đại dương, sống trong đại dương, chết trong đại dương. Vậy
mà cá còn có thể bị ném ra khỏi biển vào bất kì lúc nào - một con sóng triều có
thể ném nó lên bờ, ngư dân có thể kéo nó lên - nhưng bạn không thể nào bị ném
ra khỏi sự tồn tại được. Không con sóng nào có thể ném bạn ra bởi vì không có bến
bờ nào bên ngoài sự tồn tại mà bạn có thể bị ném lên đó. Và không ngư dân nào
có thể kéo bạn ra được bởi vì không có ngư dân nào khác ngoại trừ Thượng đế. Bạn
không thể bị kéo lên một bãi cát nào đó bởi vì cát là Thượng đế, đại dương là
Thượng đế. Không có không gian và không có thời gian và không có cách nào để ra
khỏi sự tồn tại. Hiện hữu bên trong sự tồn tại là cách hiện hữu duy nhất. Thế
thì làm sao bạn xoay xở để quên được nó? Thế thì làm sao bạn bỏ lỡ được nó? Chắc
chắn nó phải là ý tưởng của bạn. Ý tưởng của bạn rằng bạn đã mất Thượng đế chỉ
là vô ý thức, một ý nghĩ.
Cho nên không cần dùng bất kì
phương pháp độc địa nào. Đấy là một điều rất đơn giản. Cái bong bóng ý nghĩ của
bạn có thể nổ tung bởi một chiếc kim nhỏ, không cần phải dùng kiếm để chém nó.
Một người dùng kiếm để làm nổ bong bóng sẽ có vẻ điên.
Trạng thái của bạn không nhiều
gì hơn cái bong bóng. Bản ngã của bạn giống như bong bóng nước mà có thể nổ
tung thậm chí chỉ bằng một chiếc kim. Một cái thổi và nó sẽ nổ tung. Điều đáng
ngạc nhiên là ở chỗ bạn đang xoay xở để duy trì nó. Điều đáng ngạc nhiên không
phải là tại sao nó không nổ tung ngay bây giờ: nó có thể nổ tung ngay bây giờ
nhưng bạn đang bảo vệ nó. Bạn đang bảo vệ cái bề ngoài mỏng manh của bong bóng
này. Cách thức bạn liên tục bảo vệ nó cả đời bạn là phép màu đấy.
Những người kinh nghiệm điều
thiêng liêng đã không đạt tới cái gì cả. Họ chỉ phát hiện lại cái đã có đó rồi.
Những người đã mất Thượng đế, thành tựu của họ là phép mầu - họ là phép mầu bởi
vì họ muốn đạt tới cái không thể nào bị mất được. Bạn đơn giản đã tạo ra ảo tưởng
rằng bạn đã mất nó.
Khi Phật thấy chứng ngộ ai đó hỏi
ông ấy, “Thầy đã đạt được điều gì vậy?”
Phật nói, “Ta không đạt được
cái gì cả. Ngược lại, cái gì đó đã mất đi. Cái mà ta đã tìm thấy đã có đó rồi.”
Nói rằng nó được đạt tới là không đúng: chỉ một ý tưởng mà chưa bao giờ là thực
cả mới bị mất đi. Cái không có đó đã mất đi còn cái có đó đã trở thành hiển
nhiên.
Câu hỏi thứ hai:
Thầy đã nói rằng chúng tôi bận rộn che giấu
cái chúng tôi đang là và phô bầy cái chúng tôi không là. Tôi có thể nói từ kinh
nghiệm của riêng tôi điều đó đúng thế nào cho người bình thường. Nhưng lí do gì
mà trong tất cả con vật, chỉ con vật được gọi là người mới rơi thành con mồi của
sự giả vờ này.
Con người đi lạc lối bởi vì anh
ta có tiềm năng đi lên điều tối thượng. Con vật không đi lạc lối bởi vì chúng
không thể đi lên cao hơn. Với khả năng đi lên tới điều tối thượng, khả năng đi
lạc lối cũng mở ra. Chỉ người đi lên mới có thể ngã xuống. Người không đi lên
không thể nào ngã được. Khi một đứa trẻ nhỏ bò trên mặt đất, nó không ngã xuống,
nhưng khi nó bắt đầu đứng dậy, nó bắt đầu ngã xuống và làm đau đầu gối. Người đứng
lên nhận lấy nguy cơ ngã xuống. Nhưng niềm vui của việc đứng lên cũng xứng đáng
cho việc nhận lấy nguy cơ đó. Không có giả vờ trong con vật bởi vì con vật thậm
chí không có nhận biết hay không có ý thức để phô bầy cho con vật khác nó là
gì. Nó không biết bản thân nó, nó đang sống trong bóng tối tuyệt đối. Nó chưa
bao giờ nghĩ về con vật khác có thể nghĩ gì về nó. Con người đứng lên, và sau
khi anh ta đứng lên, anh ta thấy người khác.
Bạn đã bao giờ quan sát rằng
khi bạn thức dậy vào buổi sáng, bạn không nhận biết về bản thân bạn không? Trước
hết bạn chú ý tới căn phòng, mọi thứ trong nó - bạn thấy đồng hồ trên tường...
Khi bạn thức dậy vào buổi sáng bạn nghe thấy tiếng rao của người bán sữa bên
ngoài, bạn nghe thấy tiếng vợ bạn động chạm vào giá bát, con bạn chuẩn bị đi học,
cặp sách được đóng lại, bạn nghe thấy tất cả những âm thanh đó. Bạn không trở
nên nhận biết về bản thân bạn chút nào nhưng bạn lập tức chú ý tới những thứ
khác.
Con người đã thức tỉnh khỏi trạng
thái con vật. Bằng việc thức tỉnh con người đã có thể biết tới thế giới bên
ngoài. Vậy mà vẫn còn phải thêm một thức tỉnh nữa, thế thì con người sẽ biết tới
bản thân mình. Việc thức tỉnh này đã xảy ra cho Sahajo, cho Kabir, cho Nanak,
cho Dadu.
Lần thức tỉnh thứ nhất là vượt
ra ngoài con vật. Thế rồi có lần thức tỉnh thứ hai - vượt ra ngoài con người.
Thế thì đó là thức tỉnh toàn bộ. Thức tỉnh khỏi con vật là thức tỉnh một nửa.
Thức tỉnh khỏi con vật có nghĩa là bạn bắt đầu biết tới người khác, nhưng bạn vẫn
còn chưa biết tới bản thân bạn. Vậy mà nó mới là một nửa đường ra khỏi giấc ngủ
của bạn. Bây giờ ánh sáng đang rơi lên người khác nhưng nó vẫn còn chưa quay
vào bản thân bạn. Nếu bạn tiếp tục thức tỉnh thế thì ánh sáng sẽ quay lên bạn nữa.
Bạn sẽ không chỉ nghe thấy tiếng nói của người khác, bạn cũng sẽ trở nên nhận
biết về bản thân bạn. Nhận biết này cho con người khả năng có tính tôn giáo.
Không có giả vờ trong con vật.
Chúng không trang điểm cho bản thân chúng bằng đồ trang sức mà chúng cũng không
mặc quần áo, chúng cũng không diện lễ phục đi ăn tiệc. Chúng không biết rằng
các con vật khác có thể thấy chúng và rằng những con vật khác này đang bình phẩm
về việc chúng trông thế nào. Chúng không có kinh nghiệm gì về điều này cả.
Chúng đang ngủ trong trạng thái vô ý thức, sâu sắc.
Có tương tự chắc chắn giữa con
vật và hiền nhân. Tương tự là ở chỗ con vật đang ngủ trong vô ý thức sâu sắc,
không có gì đối lập với nó - chỉ có vô ý thức và vô ý thức thêm nữa. Trong hiền
nhân không có luồng đối lập - chỉ có nhận biết và nhận biết thêm nữa. Con vật
không quan tâm gì tới việc trưng bày bản thân nó bởi vì nó không nhận biết về
con vật khác. Hiền nhân không quan tâm tới việc trưng bày bản thân ông ấy bởi
vì ông ấy đã biết tới bản thân ông ấy. Con người là ở giữa hai cực này, treo ở
giữa: một nửa của con người là con vật, trong bóng tối, và một nửa là thức tỉnh,
trong ánh sáng.
Qua phần là nửa thức tỉnh con
người thấy người khác, thấy phán xét trong mắt họ. Ai đó trở nên hạnh phúc khi
mọi người nhìn anh ta, thế rồi đôi khi đối với anh ta dường như là anh ta bị
ghét: “Mình có thể làm gì để không bị ghét? Mình có thể làm gì để cho mình sẽ
không cảm thấy bị tổn thương và mọi người sẽ kính trọng mình? Mình có thể làm
gì để cho mọi người sẽ yêu mến mình?” Anh ta nhìn vào người khác.
Con vật là một loại phúc lạc -
nhưng phúc lạc này là vô ý thức. Bản thân chúng không biết rằng chúng đang phúc
lạc. Hiền nhân là trong phúc lạc lớn lao - ông ấy biết rằng có phúc lạc và chỉ
phúc lạc mà không cái gì hết. Con vật là an bình, hiền nhân cũng an bình. Giữa
hai cực này là con người, và anh ta bồn chồn. Anh ta là nửa con vật, nửa Thượng
đế - đây chính là cái bồn chồn của anh ta. Con người giống như thần Narasimha,
nửa sư tử, nửa người. Không biểu tượng nào thích hợp hơn Narasimha, hoá thân của
Thượng đế của người Hindu.
Có bồn chồn lớn bên trong con
người bởi vì một nửa anh ta đang lôi anh ta xuống giống như sức nặng hướng về
vô ý thức, và một nửa muốn bay trên trời. Sức nặng này không cho phép anh ta
bay. Và bởi vì lòng khao khát bay mà anh ta không thể nào tận hưởng việc là sức
nặng tựa hòn đá này.
Đá không di chuyển, nó là phúc
lạc. Con chim đang bay, nó là phúc lạc. Hình dung con chim mà một nửa là đá và
một nửa là chim - nó sẽ đau khổ, bạn sẽ thấy rằng nó đang đau khổ, nó sẽ không
có nghỉ ngơi. Nếu đấy là hòn đá, nó sẽ nằm dưới bóng cây; nó sẽ an bình, nó sẽ
mơ. Nếu đấy là toàn thể con chim thế thì nó sẽ bay trên trời, nó sẽ khao khát gặp
mặt trời. Nhưng nửa chim, nửa đá không thể bay được. Nằm nghỉ hay bay đều không
thể được. Cho nên nó đau khổ trong cái bất an của nó, nó bối rối. Đây là tình
huống của con người.
Có hai cách: hoặc là đi lùi và
trở thành con vật, hoàn toàn giống đá, hoặc là đánh thức phần chưa hoàn toàn giống
đá và để cho nó cũng tìm thấy đôi cánh để bay như chim.
Phần lớn mọi người đều nghiêng
về việc trở thành giống như đá, mặc dầu chọn lựa đó là không thể được, nó đơn
thuần là lừa dối. Con đường đó không dẫn đến đâu cả. Người uống rượu đang làm
gì? Anh ta đang nói rằng, “Tôi sẽ quên niềm khát khao bay đi. Tôi thế cũng được,
cứ để tôi vẫn là tảng đá đi.” Cho nên bạn sẽ thấy người say nằm trong cống
rãnh: với anh ta bay là một chuyện, nhưng ngay cả đến khao khát bước đi cũng đã
biến mất. Với người khác nhận biết về anh ta là một chuyện, nhưng với anh ta
không có vấn đề về việc nhận biết bất kì ai khác. Chó có thể tới liếm mặt anh
ta trong cống rãnh, anh ta không quan tâm. Ruồi nhặng bu quanh anh ta, anh ta
không bận tâm. Mọi người đi qua và lên án anh ta, anh ta không bận tâm. Anh ta
không thể nghe thấy gì. Anh ta đã làm cho nửa có cánh thành vô ý thức bằng việc
uống rượu.
Nhưng bạn có thể còn ở trong vô
ý thức được bao lâu? Sẽ có một sáng sớm khác và ý thức sẽ trở lại. Thế thì tâm
trí sẽ tràn đầy với tự kết án mình lớn lao. Thế thì bạn sẽ hối hận. Bạn sẽ khổ:
“Mình đang làm gì thế này? Điều gì xảy ra cho mình thế này?” Và bởi vì đau khổ
này, bởi vì bồn chồn này, bạn sẽ uống thêm rượu nữa vào ngày hôm sau vì bây giờ
dường như không còn cách nào khác hơn là chìm đắm vào trong bất an này. Cái
vòng luẩn quẩn sẽ được hình thành và bạn sẽ uống để quên đi. Khi bạn có ý thức
thế thì nỗi khổ của bạn sẽ càng mạnh hơn, nỗi thống khổ của: “Mình đang làm gì
với cuộc đời mình thế này?” Thế rồi để quên đi lo nghĩ này bạn sẽ uống rượu
thêm nữa - sẽ không có chỗ chấm hết cho nó.
Rượu và thiền... Như tôi đã
nói, có sự tương tự giữa con vật và hiền nhân - và có cùng sự tương tự giữa rượu
và thiền. Rượu đi lùi còn thiền đi tiếp. Rượu là chấp nhận đá, thiền là biến đổi
đá thành chim. Cho nên mọi thiền nhân đều chống rượu; không có lí do nào khác
cho điều đó. Không có vấn đề với bản thân rượu. Thiền sẽ phải làm gì với rượu?
Lí do cho sự đối lập là ở chỗ bạn đang cố đi lùi, mà đấy là điều không thể. Bạn
đang cố làm điều không thể được. Trong thế giới này, bất kì điều gì bạn đã biết
đều không thể bị quên đi. Tri thức đã xảy ra cho bạn không thể bị xoá đi. Điều
bạn đã kinh nghiệm không thể nào bị ném ra khỏi kinh nghiệm. Không có đi lùi. Đứa
trẻ trưởng thành trở thành thanh niên - làm sao bạn có thể làm cho anh ta trở
thành đứa trẻ lần nữa được?
Bạn ra từ bụng mẹ, nhưng làm
sao bạn có thể được đưa trở bụng mẹ? Cuộc sống chỉ đi tiếp, không có bước lùi.
Do đó thiền nhân chống rượu. Sự đối lập đó không phải là về rượu, sự đối lập đó
là với ham muốn của bạn để tụt lùi - và bạn không thể lùi xuống được, bạn phải
đứng lên. Và mỗi lần, khi bạn bắt đầu đứng lên, bạn sẽ loạng choạng hơn. Ngay cả
chỉ bước đi cũng trở thành khó khăn. Rơi lại sẽ là điều không thể được, bạn sẽ
không thể nào đi lùi được, vậy nên thế khó xử của bạn sẽ thành mênh mông. Nỗi thống
khổ và căng thẳng bên trong bạn sẽ trở thành khổng lồ. Bạn sẽ bị tan nát thành
từng mảnh - điều Sahajo đã gọi là tâm trí tan tành - phân liệt. Tâm trí bạn sẽ
bị phá tan. Tấm gương của tâm trí bạn sẽ vỡ ra thành nhiều mảnh, và trong tấm
gương vỡ đó bạn sẽ không thể nào tìm ra dù chỉ cái bóng của chân lí. Thế thì bạn
sẽ thậm chí không thể nào thấy được phản xạ của điều thiêng liêng.
Thiền cũng là rượu: nó là rượu
của nhận biết. Vô ý thức là ngất ngây nữa, nhưng làm sao bạn có thể so sánh nó
với ngất ngây của nhận biết được? Nhận biết cũng là ngất ngây. Sahajo nói, Và
chân họ loạng choạng mất điều khiển - thế thì điều thiêng liêng chăm lo cho.
Chính là trong cái say sưa của nhận biết mà chân bạn loạng choạng... thế thì điều
thiêng liêng chăm lo cho. Bây giờ không còn ai bên trong bạn mà chăm lo nữa.
Một thiền nhân đang di chuyển,
nhảy múa trong say sưa - người say rượu cũng di chuyển, anh ta cũng nhảy múa -
nhưng trong nhảy múa của thiền nhân bạn sẽ thấy hương thơm của cái không biết,
bạn sẽ thấy hương thơm của chân lí. Trong nhảy múa của người say rượu bạn sẽ thấy
mùi hôi hám của vô ý thức, của giấc ngủ, của việc chìm đắm. Có khác biệt lớn.
Người say rượu giống như đoá hoa thối rữa. Thiền nhân giống như nụ hoa đã tới
việc nở hoa tròn trịa.
Đây là câu hỏi đúng - rằng chỉ
con người mới quan tâm tới việc giả vờ và phô trương - bởi vì con người hơi thức
tỉnh còn con vật đang ngủ. Đừng nghĩ đấy là điều không may mắn. Đấy là may mắn,
bởi vì đây là bước đầu tiên hướng tới việc trở thành hiền nhân. Nhưng đừng nghĩ
rằng đây là tất cả, đừng dừng ở đó - bằng không điều đó sẽ là không may. Các bậc
của chiếc thang đưa bạn đi lên nêu bạn liên tục bỏ chúng lại sau. Nếu bạn tiếp
tục tiến bước, nếu bạn bước lên một bậc thang rồi tiến tiếp, thế thì chiếc
thang là phúc lành cho bạn. Nếu bạn bám vào một bậc thế thì đấy là không may,
thế thì nó sẽ không đưa bạn tới đâu cả. Thế thì bạn không dưới thấp cũng không
trên cao; bạn không thuộc vào đây cũng không thuộc vào kia.
Ham muốn tạo ra mẽ ngoài là bước
thứ nhất hướng tới việc trở thành đẹp, vậy mà mối quan tâm của bạn là ở chỗ người
khác phải coi bạn là đẹp. Khi bạn thức tỉnh thêm một chút, thế thì mối quan tâm
của bạn sẽ là: Làm sao tôi có thể là đẹp? Liệu người khác biết điều đó hay
không, không quan trọng. Bởi vì là đẹp trong bản thân nó là vui thế; sẽ có an
bình bên trong bạn. Liệu người khác biết nó hay không là không quan trọng. Nếu
tôi bồn chồn bên trong và bạn liên tục nghĩ rằng tôi an bình, tôi được gì bởi
điều đó? Nghĩa của nó là gì trong đó? Nó không làm giảm bồn chồn của tôi, bồn
chồn này không biến mất. Ngược lại, vấn đề mới sẽ nảy sinh trong tôi. Bên trong
tôi có bồn chồn và bên ngoài tôi cố chứng tỏ rằng tôi an bình: thậm chí không
có không gian nào còn lại cho bồn chồn hay để diễn đạt bồn chồn này. Điều này cũng
sẽ không ích gì.
Giận dữ nảy sinh, nó sôi lên,
và tôi mỉm cười để cho cơn giận này không được người nào thấy. Người khác không
nên biết rằng tôi là người giận dữ. Thế là một mặt bồn chồn của giận dữ tiếp tục
ở bên trong, và trên đỉnh của điều đó bạn đã áp đặt một nụ cười. Cái cười giả tạo
này sẽ chỉ thêm vào bồn chồn ấy.
Cho nên không có nghĩa gì trong
việc phô bầy bộ mặt cho người khác, nhưng nó là một bậc thang của chiếc thang.
Việc cố phô bầy bộ mặt cho người khác có nghĩa là bạn ít nhất đã trở thành có
chút ít nhận biết rằng bạn có thể đẹp, hạnh phúc, mạnh khoẻ. Bạn đã trở nên nhận
biết thêm chút ít rằng bên trong bạn cây đàn veena của điều thiêng liêng có thể
chơi được. Nhận biết này là đẹp - nhưng đưa nó lên thêm một chút nữa. Dần dần,
dần dần bạn sẽ thấy rằng nhận biết này sẽ đưa bạn vào một trạng thái mà bạn sẽ
đánh thức cái đẹp bên trong bạn và bạn sẽ từ bỏ việc lo nghĩ về điều người khác
nghĩ. Bạn sẽ tạo ra an bình bên trong bạn và từ bỏ lo nghĩ về bên ngoài. Bạn sẽ
biến đổi bản thể bên trong bạn và bạn sẽ dừng việc bận tâm về hành vi bên ngoài
của bạn. Và thế thì hành vi bên ngoài này sẽ theo sát như cái bóng.
Phật đã nói, “Khi xe qua, vệt
bánh xe để đằng sau.” Theo cùng cách này, khi có cách mạng bên trong thế thì
hành vi của bạn theo sau - giống như vệt bánh xe để lại. Aes dhammo sanantano,
đây là luật vĩnh hằng. Đây là cách thức nó bao giờ cũng vậy.
Làm sao mà bên ngoài vẫn còn
không đổi khi bên trong đã thay đổi? Khi bạn trở nên đẹp trong bản thể bên
trong của bạn, thế thì tia sáng của cái đẹp đó sẽ bắt đầu xuất hiện trong cuộc
sống của bạn từ mọi phía. Không thể nào khác được theo bất kì cách gì. Khi đèn
được thắp lên trong nhà, thế thì ánh sáng sẽ chiếu rọi qua các cửa sổ, qua cửa
ra vào, qua mọi chỗ mở. Từ xa xôi mọi người sẽ thấy rằng một ngọn đèn đã được
thắp sáng trong nhà. Ngay cả trong bóng tối ánh sáng này vẫn đạt tới con đường
của họ. Khi tâm thức trưởng thành bên trong, thế thì hành vi sẽ tự động thay đổi.
Chính ánh sáng tự chiếu ra.
Nhưng bạn đang làm chính điều đối
lập lại: đèn của bạn chưa thắp sáng nhưng bạn cắm một ngọn đèn nào đó ở bên tường
ngoài và cửa sổ để cho mọi người sẽ nghĩ rằng ngôi nhà không trong bóng tối.
Nhưng theo cách này bóng tối bên trong bạn không biến mất; ngược lại, nó dường
như còn đen tối hơn. Và bạn cứ chìm đắm trong nỗi lo âu, cuộc sống của bạn trở
thành địa ngục.
Không, niềm khát khao trở thành
đẹp đẽ là tốt nhưng nó đã chọn hướng sai. Bạn muốn trông đẹp đẽ trong con mắt của
người khác - đây là hướng sai. Đây là cách nhìn của người phi tôn giáo. Người
tôn giáo cũng muốn được đẹp, nhưng anh ta không quan tâm tới người khác cả. Anh
ta nhắm mắt và nhìn vào bên trong tới cái đẹp của điều tối thượng. Anh ta đắm
chìm trong điều này, anh ta trở thành được tắm mưa trong điều này.
Điều tốt là bạn không còn ở trạng
thái con vật. Nhưng nếu bạn vẫn còn như bạn đang vậy thì bạn sẽ trở nên ghen tị
ngay cả với con vật, bởi vì bây giờ ngôi nhà cũ đã bị bỏ đằng sau và ngôi nhà mới
chưa được tìm thấy. Niềm vui của tính con vật đã mất rồi và phúc lạc của điều
thiêng liêng chưa được đạt tới. Bạn mới chỉ treo lơ lửng ở giữa. Điều tốt là
ngôi nhà cũ đã bị bỏ - bây giờ tạo ra ngôi nhà mới đi! Và đừng nghĩ tới việc
quay ngôi nhà cũ nữa - không ai xoay xở làm được điều đó.
Người phi tôn giáo là người
không thành công. Anh ta không bao giờ có thể thành công được. Quá trình của
anh ta không hài hoà với sự tồn tại, nó không hoà điệu với luật vĩnh hằng. Anh
ta đang cố đi theo hướng đối lập. Nếu anh ta già, anh ta cố trở thành trẻ; nếu
anh ta trẻ, anh ta cố gắng trở thành trẻ con - nhưng anh ta đang cố gắng theo
chiều ngược lại. Anh ta sẽ không thể nào đi tới bất kì đâu và anh ta sẽ trở nên
bị lạc trong nỗ lực này.
Bạn có cái may mắn là bạn có nhận
biết về cái đẹp. Cho phép nhận biết này trưởng thành thêm đi; thế thì bạn sẽ cố
là đẹp ở bên trong, không phải là bằng trang điểm mà là bằng bản thể bên trong
của bạn. Thế thì bạn sẽ không thay đổi quần áo, bạn sẽ thay đổi tâm thức bên
trong của bạn. Bạn sẽ quên đi điều người khác nói. Thế thì niềm vui của việc là
điều bạn đang là sẽ sâu sắc đến mức bạn không cần chú ý tới ý kiến người khác nữa.
Bạn đã có viên kim cương. Kabir nói, “Nếu người ta tìm thấy một viên kim cương,
người ta để nó vào trong túi.” Một cách im lặng, anh ta cất nó vào trong túi và
bỏ đi. Thế thì ai muốn phô bầy nó ra trong bãi chợ?
Tôi đã nghe nói về thị trấn nơi
Mulla Nasruddin ở. Đấy là một thị trấn nhỏ. Và nó có một tục lệ cổ là nếu ai đó
nhặt được cái gì đó, thế thì người ấy phải ra chợ và công bố điều đó nói to ba
lần: Tôi đã nhặt được viên kim cương, một ru pi hay tờ bạc một trăm ru pi. Nếu
nó thuộc về ai đó thế thì người này có thể xin lại. Anh ta phải công bố điều ấy
ba lần, và nếu không ai đòi nó thế thì anh ta sẽ là người chủ. Nếu ai đó đòi nó
thế thì nó phải được trả về cho người đó.
Mulla Nasruddin nhặt được viên
kim cương. Theo qui tắc anh ta đã ra chợ, công bố ba lần rằng anh ta đã nhặt được
kim cương và bất kì ai là chủ nhân của nó nên nhận nó. Không ai tới cho nên anh
ta đem viên kim cương về nhà.
Vợ anh ta hỏi, “Giữa đêm hôm thế
này anh đi đâu vậy?”
Anh ta nói, “Anh mới ở chợ về.”
Anh ta đã ra chợ giữa đêm khi
không có ai ở đó cả, khi mọi người đều đã ngủ. Anh ta đã tuân theo tục lệ,
nhưng anh ta đã làm điều đó theo cách nói lí nhí mà thậm chí đến bản thân anh
ta cũng không nghe thấy mình nói gì. Anh ta sợ rằng thậm chí vào giữa đêm đó, một
kẻ ăn mày nào đó có thể vẫn còn nằm đâu đó hay ông chủ tiệm nào đó có thể vẫn
thức và nói rằng nó là của mình. Anh ta đã nói điều đó im lặng đến mức thậm chí
anh ta cũng khó mà nghe nổi lời mình. Và sau khi về nhà anh ta nói, “Bây giờ
chúng ta là người chủ.”
Khi bạn nhặt được viên kim
cương thế thì đây là trạng thái của tâm trí bạn. Ai bận tâm đi quanh nói cho mọi
người? Có nguy hiểm khi nói cho mọi người. Đây là lí do tại sao Sahajo nói: lặp
tên ngài trong tim ông. Ngay cả đến môi bạn cũng không nên biết tới điều đó. Thậm
chí đến bản thân bạn cũng không nên biết tới điều đó - Chỉ ông và Thượng đế biết
tới điều đó. Nhiều nhất, bạn nên biết và điều thiêng liêng nên biết. Sẽ tốt
hơn... phát biểu này có thể có hai nghĩa, bạn hoặc điều thiêng liêng: hoặc là bạn
hoặc là điều thiêng liêng, chỉ một trong hai. Điều đó có thể là nghĩa đúng. Tốt
hơn cả là nếu thậm chí bạn không biết tới nó và chỉ điều thiêng liêng biết tới
nó.
Không ai nên biết tới nó chút
nào. Cái gì có đó mà nói? Chỉ những người không có nó mới tuyên bố về nó. Nhưng
người có nó, bản thể họ là đủ, không cần bất kì tuyên bố khác nào. Khi bạn cố
thuyết phục ai đó bằng việc hô to lên rằng bạn là một người có cá tính tốt, thế
nữa bạn biết rằng bạn không như vậy. Bằng không, sẽ không cần phải tuyên bố về
nó và hô to nó lên.
Trong một bài viết của mình
Bertrand Russell đã viết - và tôi đồng ý với điều đó - rằng nếu có một đám đông
ở đâu đó và ai đó bị cướp, nếu túi ai đó bị rạch, thế thì đối với tên kẻ cắp muốn
tự cứu mình, điều cơ bản nhất là ở chỗ nó phải làm thật ầm ĩ lên rằng: “Túi bị
rạch đấy! Kẻ nào đã rạch túi? Bắt lất tên ăn cắp!” Thế thì người khác thậm chí
sẽ không nhìn vào hắn ta hay nghĩ rằng hắn ta có thể là kẻ cắp. Người đó sẽ dường
như là vô tội bởi vì hắn ta đang chạy và cố bắt kẻ cắp.
Điều thường xảy ra trong xã hội
là những người hay lên án tính cách của người khác hoặc làm ầm ĩ về tính cách của
người khác, chính là những người muốn tự che giấu mình trong cái ầm ĩ này. Nếu
gái mãi dâm bị bắt thế thì người ném đá vào cô ấy thường là khách hàng của
riêng cô ấy. Bây giờ họ sợ rằng nếu họ không tới ném đá vào cô ấy thế thì người
khác ở nhà bên cạnh hay làng bên cạnh sẽ nghĩ rằng họ là khách hàng của cô ấy!
Cho nên trong số những người đầu tiên ném đá, bạn sẽ thấy các khách hàng chính
của cô ấy.
Có một sự cố trong cuộc đời của
Jesus. Một người đàn bà ngoại tình được đem tới ông ấy và mọi người nói, “Chúng
ta sẽ giết chết thị, bởi vì kinh sách Do Thái đã viết rằng người đàn bà phạm tội
thông dâm phải bị ném đá tới chết.”
Jesus nói, “Điều viết trong
sách là đúng, các ông có thể giết cô ấy bằng đá. Nhặt đá lên cầm trong tay đi.”
Jesus đang đứng trên bờ sông và có nhiều đá xung quanh. Tất cả họ đều nhặt đá
lên và Jesus nói, “Nghe tôi đây, còn một điều nữa: chỉ người nào không có tội lỗi
mới được ném viên đá đầu tiên” - chỉ người chưa bao giờ có bất kì cảm giác dục
nào với người đàn bà này mới được ném đá. Người tôn giáo của thị trấn đang đứng
hàng trước liền bỏ đá và dần dần bắt đầu tản mất trong đám đông - bởi vì họ là
kẻ phạm tội thực.
Người ta nói rằng mọi người dần
dần bỏ đi khỏi chỗ đó và Jesus còn một mình với người đàn bà này. Người đàn bà
bắt đầu khóc. Cô ấy sụp xuống dưới chân Jesus và nói, “Tôi xin lỗi. Tôi đã phạm
phải nhiều tội lỗi.”
Jesus nói, “Ta là ai mà tha thứ
cho cô? Và ta là ai mà gọi cô là kẻ tội lỗi? Đây là vấn đề giữa cô và Thượng đế.
Cô phải giải quyết nó với Thượng đế của cô.”
Chỉ những người kết án, người
tham dự một phần vào điều họ đang kết án. Jesus nói, “Ta là ai mà phán xét? Nếu
ta quan sát bản thân ta, thế là đủ. Ta là ai mà can thiệp vào cuộc đời cô? Bất
kì cái gì cô có thể trở thành, cô đã trở thành. Có lẽ Thượng đế muốn cô theo
cách đó. Đây là vấn đề giữa cô và Thượng đế. Nếu cô cảm thấy rằng cô đã làm sai
thế thì đừng làm điều đó nữa. Nhưng nếu cô cảm thấy rằng nó là đúng, thế thì cứ
tiếp tục nó. Ta là ai mà quyết định? Ta không phải là quan toà.” Bạn sẽ thường
thấy rằng quan toà của bạn cũng là khách hàng.
Mới đây tôi có đọc về điều gì
đó xảy ra ở một thị trấn bên Mĩ vài năm trước đây. Tại San Francisco, một thành
phố ở California, có một vụ kiện ở toà án chống quan toà. Người ta nói rằng
viên quan toà đã làm việc như một đại lí trong một câu lạc bộ nhỏ cung cấp rượu
và gái mãi dâm. Và điều đáng ngạc nhiên nhất là ở chỗ ông ta là viên quan toà
nghiêm khắc nhất ở San Francisco - quan toàn nghiêm khắc nhất! Ông ta đã trừng
phạt nhiều kẻ dẫn khách một cách nghiêm khắc và mọi người đều sợ khi họ có việc
kiện tụng tại toà án của ông ấy. Bản thân ông ấy bị bắt trong cùng công việc ấy!
Mọi người đều ngạc nhiên; không ai nghĩ rằng vị quan toà này bị bắt bởi việc
làm những điều như thế, họ không thể nào hình dung ra được điều đó. Khi vụ kiện
được đưa ra toà, vị chánh án vốn là bạn ông này đã cố gắng cứu ông ta bằng cách
tuyên án phạt nhẹ. Sau này vấn đề mới ra ánh sáng rằng ông chánh án này cũng
dính líu vào cùng công việc như thế!
Cuộc sống là rất phức tạp: quan
toà của bạn thường là những kẻ tội phạm lớn nhất. Các chính khách của bạn thường
là những người đáng phải bỏ tù. Nhưng họ giỏi nói, họ láu lỉnh. Và họ biết thủ
đoạn kết án mạnh mẽ bất kì cái gì họ muốn làm cho bản thân họ. Thế thì không ai
nghĩ rằng họ sẽ làm những việc như thế.
Phô bầy cho người khác, tuyên bố
về điều gì đó trước người khác, là một cách để che giấu. Bạn muốn che giấu điều
gì đó, thế thì nếu bạn tuyên bố trước người khác, “Tôi là con người có tính
cách, tôi là người từ bỏ, tôi là người thông thái,” bạn đang cố gắng che giấu
điều gì đó. Bất kì ai tuyên bố tri thức đều đang cố gắng che giấu dốt nát của
người đó. Bất kì ai tuyên bố rằng người đó đã từ bỏ đều đang cố che giấu mê đắm
của người đó. Tuyên bố đơn giản nghĩa là bạn đang cố che giấu cái đối lập.
Nhưng không cái gì có thể được
che giấu với Thượng đế. Và phỏng có ích gì mà che giấu với mọi người? Ngày mai
bạn sẽ trở thành cát bụi, và những người mà bạn đã che giấu mọi thứ cũng sẽ
thành cát bụi cả thôi. Không có giá trị tối thượng nào trong quan điểm của họ;
ý kiến của họ không có ý nghĩa gì, phán xét của họ không có ý nghĩa gì. Dù họ
có nói bạn tốt hay xấu cũng không tạo ra khác biệt gì. Điều bạn là theo con mắt
của riêng bạn, đấy mới là điều thật.
Farid nói, “Farid, nếu ông trí
huệ, nếu ông thực sự trí huệ, thế thì đừng đi quanh tuyên bố trí huệ của ông. Nếu
ông thực sự trí huệ thế thì nhìn vào bản thân ông đi. Đừng viết chữ đen lên người
khác. Đừng si mê trong buộc tội và kết án người khác. Nhìn vào bản thân ông đi
- ông sẽ thấy những thiếu sót sâu ở đó. Sức mạnh của ông nhỏ nhoi, thời gian là
ngắn ngủi. Phá huỷ cái độc ác của riêng ông - thức dậy đi.”
Con người đã vươn lên từ con vật.
Điều đó là may mắn. Bây giờ anh ta nên vươn nữa lên từ con người. Con người trở
thành đầy đủ chỉ khi anh ta siêu việt lên trên trạng thái con người. “Được ân
huệ là con người,” Jesus đã nói, “đã vươn lên trên trạng thái con người.”
Có một phát biểu của Nietzsche:
“Sẽ là một ngày bất hạnh nếu mũi tên con người từ bỏ niềm khao khát siêu việt
lên trên bản thân mình.” Ngày ấy sẽ là ngày bất hạnh khi không có mũi tên của sự
siêu việt trên cánh cung khao khát của con người. Khi con người bằng lòng như
anh ta đang vậy, đấy sẽ là ngày bất hạnh. Đừng bằng lòng chừng nào bạn chưa đạt
tới điều thiêng liêng. Thoả mãn với ít hơn thế sẽ giống như là bỏ tụt khỏi tay
mình tất cả những gì hoàn toàn có sẵn để bạn nhận lấy; mà với nó không cái gì
phải làm cả, chỉ cần mắt bạn phải mở ra. Bạn chỉ cần giang tay ra và nó sẽ tới
trong nắm tay của bạn. Bạn chỉ cần hít thở và bạn sẽ được tràn đầy với hương
thơm của nó, bạn không phải làm bất kì cái gì cho nó. Bạn chỉ phải mở mắt ra và
mặt trời có đó ngay trước bạn. Nếu nó không có đó thế thì bạn sẽ không bao giờ
có thể kinh nghiệm được nó. Cho nên đừng dừng ở bất kì cái gì kém hơn - đừng bằng
lòng chỉ với việc là con người.
Có ba kiểu người trên thế gian
này: thứ nhất, người cố trở thành con vật; thứ hai là người cố trở thành con
người, nhiều nhất; và thứ ba, người không sẵn sàng thoả mãn với bất kì cái gì
kém hơn Thượng đế. Trở thành kiểu người thứ ba đi, bởi vì chỉ thế thì cuộc sống
mới nở hoa tới điều tối thượng của nó. Bông sen của cuộc sống cùng với mọi
hương thơm của nó sẽ dâng cho bầu trời.
Câu hỏi thứ ba:
Thầy đã nói rằng khoa học không thể nào đưa
bạn tới tôn giáo được bởi vì khoa học là việc tìm kiếm nguyên nhân. Thế thì việc
tìm kiếm tôn giáo là không nguyên nhân chăng?
Việc tìm kiếm tôn giáo cũng bắt
đầu với một mục đích - nhưng kinh nghiệm tôn giáo xảy ra chỉ khi mục đích đó đã
bị loại bỏ, khi bạn đã trở nên thoát ra khỏi mọi mục đích.
Cố hiểu điều này. Việc tìm kiếm
bắt đầu với một lí do - bằng không làm sao việc tìm kiếm có thể bắt đầu được? Bạn
trở nên chán ngán với thế giới này hay bạn bắt đầu thấy cái vô nghĩa của thế giới
này, thế thì bạn bắt đầu đi tìm nghĩa. Cái giả tạo của thế giới này trở thành
rõ ràng và bạn trở nên quan tâm tới chân lí. Ham muốn về thân thể trở thành vô
nghĩa, thế thì bạn bắt đầu tìm kiếm linh hồn. Bạn nghĩ rằng vì bạn đã không tìm
thấy phúc lạc ở đây, rằng bạn có thể tìm thấy nó ở kia. Bạn không tìm thấy an
bình ở đây, bạn có thể tìm thấy nó ở kia. Mọi thứ bạn đã thấy ở đây đều nhất thời
- có lẽ ở kia bạn có thể có tiếp xúc nào đó với cái vĩnh hằng. Tất nhiên bạn bắt
đầu việc tìm kiếm với một mục đích; bạn chỉ có thể bắt đầu việc tìm kiếm với một
mục đích.
Chính nghĩa của việc tìm kiếm
là ở chỗ có một mục đích nào đó đằng sau nó. Bạn đang trên đường tìm kiếm điều
gì đó: điều đó có nghĩa là bạn đã bắt đầu với tham lam nào đó, một khát khao để
đạt tới điều gì đó. Có cơn khát. Bắt đầu tìm kiếm theo cách này là tuyệt đối
đúng - nó có nguyên nhân - nhưng việc tìm kiếm sẽ chấm dứt chỉ khi không còn
nguyên nhân nào nữa. Tìm và kiếm, rồi một hôm bạn đi tới một khoảnh khắc mà bạn
nhận ra rằng bây giờ việc tìm kiếm bản thân nó trở thành rào chắn. Tìm và kiếm,
bạn đi tới chỗ bạn phát hiện ra rằng việc tìm kiếm phúc lạc bản thân nó là
nguyên nhân của nỗi buồn. “Chúng ta đã tìm kiếm phúc lạc trong thế giới này,
chúng ta đã không tìm thấy nó ở đấy. Bây giờ chúng ta đang tìm kiếm nó trong điều
thiêng liêng, và ở đó nữa chúng ta cũng không tìm thấy nó” - nhưng hiểu biết
này chỉ bừng lên sau nhiều kinh nghiệm rằng việc tìm kiếm phúc lạc, niềm khát
khao phúc lạc, ham muốn phúc lạc bản thân nó là nguyên nhân của nỗi buồn. Vào
cái ngày mà hiểu biết này xảy ra, việc tìm kiếm cũng sẽ dừng lại. Vào ngày đó bạn
sẽ không tiếp tục tìm kiếm nữa, việc tìm kiếm sẽ bị loại bỏ.
Việc tìm kiếm trong thế gian đã
bị loại bỏ, bây giờ việc tìm kiếm điều thiêng liêng cũng sẽ mất đi. Và khoảnh
khắc khi không có việc tìm kiếm nữa, đột nhiên bạn thấy rằng âm nhạc của phúc lạc
nảy sinh. Mưa rào không mây... bây giờ không có mây và trời đổ mưa rào.
Người không tìm kiếm sẽ không
bao giờ tìm thấy, và người cứ tìm kiếm cũng sẽ không bao giờ thấy. Hiểu cái phức
tạp này: người tìm có thể thấy, nhưng làm sao người không tìm lại có thể thấy
được? Nhưng người đang tìm kiếm điều tối thượng không thấy bởi vì việc tìm kiếm;
chỉ khi người ấy vứt bỏ việc tìm kiếm người ấy mới thấy.
Tìm và kiếm, hỡi bạn,
Bản thân Kabir biến mất.
Kabir nói: “Tôi đã tìm kiếm và
tôi không thấy cái tôi tìm kiếm. Ngược lại, bản thân Kabir lạc mất.”
Tìm và kiếm, hỡi bạn,
Bản thân Kabir biến mất.
Thế thì hợp nhất xảy ra... Lão
Tử nói, “Tìm và ông sẽ đi lạc lối.” Nhưng đây là phát biểu cho bước tiếp. Nó
không dành cho những người chưa bắt đầu tìm kiếm, nó là dành cho những người đã
làm nhiều việc tìm kiếm và bây giờ họ mệt mỏi ngay cả với việc tìm kiếm này. Với
họ Lão Tử sẽ nói, “Tìm và ông sẽ lạc lối. Nếu ông muốn đạt tới, thế thì vứt bỏ
cả việc tìm kiếm nữa.” Nhưng nhớ lấy, bạn sẽ chỉ có thể vứt bỏ việc tìm kiếm
sau khi bạn đã tìm kiếm. Đừng tinh ranh và nói, “Nếu cuối cùng việc tìm kiếm phải
bị loại bỏ, thế thì sao phải bắt đầu tìm kiếm làm gì?” Thế thì sao không cứ ngồi
đấy nơi bạn đang ở? Bạn cai quản kinh doanh, ngồi trong cửa hàng - sao phải gây
rắc rối làm gì? Và rắc rối này dường như giống chiếc bẫy: “Trước hết tìm kiếm,
và thế rồi loại bỏ việc tìm kiếm!”
Phật đã tìm kiếm trong sáu năm,
ông ấy đã tìm kiếm một cách toàn bộ. Một hôm ông ấy thấy rằng ông ấy không tìm
được gì qua việc tìm kiếm cả. Ông ấy trở nên mệt mỏi vì việc tìm kiếm: “Không
có kinh nghiệm về chân lí, cũng không có thoáng nhìn nào về điều thiêng liêng,
không có tưởng nhớ nào về linh hồn - không thấy gì cả.” Ông ấy trở nên mệt mỏi
thế - ông ấy trở nên mệt mỏi hoàn toàn - và việc tìm kiếm của ông ấy bị loại bỏ.
Tối hôm đó ông ấy ngủ dưới gốc cây. Đêm đó ông ấy thậm chí không mơ vì giấc mơ
tới khi bạn đang tìm kiếm điều gì đó. Khi bạn đang tìm kiếm tiền bạc, thế thì bạn
mơ về tiền. Nếu bạn tìm kiếm Krishna, thế thì bạn sẽ mơ rằng ông ấy đang đứng gần
đó mà thổi sáo. Tìm kiếm Christ và bạn sẽ thấy ông ấy đang bị treo trên cây
thánh giá. Bất kì cái gì bạn tìm kiếm đều bắt đầu được phản ánh trong giấc mơ của
bạn. Giấc mơ chỉ ra ham muốn của bạn. Giấc mơ là chiếc hàn thử biểu, nó nói cái
bạn đang tìm kiếm.
Cho nên tâm lí học trước hết
chú ý tới giấc mơ của bạn. Nó không hỏi vấn đề của bạn là gì, nó nói trước hết
kể về giấc mơ của bạn. Bởi vì bạn có thể lừa dối - bạn lừa dối ngay cả khi bạn
kể về vấn đề của mình! Bạn đi chữa bệnh mà thậm chí bạn còn lừa cả bác sĩ. Bạn
không nói cho bác sĩ vấn đề thực của mình, điều bạn nói cho ông ấy là vấn đề giả
của bạn.
Mọi người tới tôi và vấn đề của
họ khác với điều họ nói. Có lẽ bản thân họ không nhận biết về việc tự lừa dối của
họ. Bạn đang lừa ai? Nếu bạn không muốn nói cho tôi vấn đề của bạn, thế thì sao
phải phí thời gian của tôi và của bạn? Nhưng họ kể về vấn đề khác nào đó mà phù
hợp cho họ. Họ nói về vấn đề mà sẽ làm tăng thêm uy tín cho họ. Có thể là dục
gây rắc rối cho họ, nhưng họ không nói về vấn đề này, họ sợ nói về nó: “Người
khác sẽ nói gì?” Nếu ai đó nghe thấy rằng họ đang khổ về ham muốn dục của họ:
“Bác đã bẩy mươi tuổi rồi mà ham muốn dục vẫn còn quấy bác sao?” Điều ấy đi ngược
bản ngã họ. Họ không nói về khó khăn thực của họ, họ nói về khó khăn khác nào
đó. Họ nói, “Làm sao tôi có thể tìm thấy Thượng đế? Tôi không có an bình trong
tâm trí - làm sao tôi có thể tìm thấy an bình?”
Tôi hỏi họ, “Trước hết kể cho
tôi về khó khăn đi. Sau bạn bồn chồn? Chúng ta có thể nói về an bình về sau. Lo
âu của bạn là gì?”
Họ nói, “Có đủ loại lo âu - nói
cho chúng tôi cách tìm ra an bình đi.”
Họ không muốn nỗi lo âu của họ
được phơi bầy ra, bởi vì nếu người khác thấy điều đó thế thì uy tín của họ có
thể bị phá hoại. Con người sợ phải phơi bầy ra cái ốm yếu của mình. Anh ta sợ
ngay cả tới việc biết đến bản thân mình, vậy làm sao việc chữa là có thể?
Các nhà tâm lí không tin vào điều
bạn nói - cái gì có thể là lời phát biểu lớn lao hơn về sự không tin cậy của
con người? Cái gì khác có thể hoàn toàn phơi bầy ra sự xuống dốc của con người?
Họ nói, “Kể cho chúng tôi về giấc mơ của anh. Chúng tôi sẽ nhìn vào giấc mơ của
anh thật chi tiết và thế rồi chúng ta sẽ hình dung ra vấn đề ở đâu.” Bạn có thể
nói với anh ta rằng bạn đang tưởng nhớ tới tên Thượng đế, lặp tên của Rama
trong ngày - nhưng trong đêm bạn mơ về đàn bà đẹp. Giấc mơ đó thật hơn, nó cho
nhiều thông tin về bạn hơn. Trong ngày bạn nhẩm tên Rama, điều đó là được,
nhưng ham muốn nằm ở giữa mỗi hạt trong tràng hạt cầu nguyện của bạn. Dù hạt
trong tràng hạt của bạn làm bằng gì, sợi dây xuyên giữa chúng vẫn làm bằng ham
muốn. Nó được ẩn kín. Bạn có thể cứ nhẩm tên của Rama, nhưng trong thực tế điều
bạn đang làm không liên quan gì với tên Rama cả. Có lẽ đấy chỉ là cách để kìm
nén ham muốn bên trong bạn. Bạn liên tục lặp tên Rama để tránh việc nhìn vào
bên trong. Bạn liên tục làm nhiều tiếng ồn bên trong để cho cái bị giấu kín
không thể lộ ra được. Nhưng bên trong, ham muốn dục của bạn đang run rẩy với
toàn bộ sức mạnh của nó. Nó sẽ phải trồi lên trong giấc mơ của bạn ban đêm. Vào
lúc đó bạn sẽ không thể nào kìm nén nó được. Thế thì câu mật chú sẽ bị gạt sang
bên và ham muốn dục của bạn sẽ trồi ra.
Bạn sẽ ngạc nhiên: Nếu bạn nhìn
vào trong các giấc mơ của những người bạn gọi là thánh nhân, thế thì bạn sẽ thấy
liệu họ có là thánh nhân hay không. Giấc mơ của các thánh nhân rất không thánh
thiện! Giấc mơ của kẻ vô đạo đức đôi khi có thể thánh thiện, nhưng giấc mơ của
các thánh nhân không bao giờ thánh thiện cả. Kẻ tội phạm trong tù đôi khi có thể
mơ rằng mình trở thành sannyasin và vứt bỏ mọi thứ: “Mình chịu đau khổ đã nhiều
rồi. Mình sẽ phải đi ăn xin với bình bát. Mình nên chọn con đường của Phật hay
tiếp tục con đường của Mahavira?” Nhưng với những người bạn thấy đang đi trên
con đường của Phật hay con đường của Mahavira - các sư và các thánh nhân - gặp
họ và bảo họ kể cho bạn giấc mơ của họ. Họ đang mơ về thế giới này. Họ nhịn ăn
trong ngày và ban đêm họ được mời tới cung điện nhà vua để ăn tối. Họ đang mơ về
thức ăn. Nếu bạn nhịn ăn, bạn sẽ biết về điều đó - đêm đó bạn sẽ mơ về thức ăn.
Khi bụng bạn đầy thế thì đôi khi có thể xảy ra rằng bạn có thể mơ về nhịn ăn.
Nhưng nếu bạn có cái dạ dầy rỗng tuếch thế thì bạn sẽ chỉ mơ về thức ăn thôi.
Giấc mơ đem thông tin về hiện thực của bạn.
Đêm đó, Phật đã không mơ. Không
tìm kiếm nào còn lại. Thế giới đã trở thành vô tích sự, và bây giờ, ngay cả giải
thoát cũng thành vô nghĩa nốt. Ông ấy đã từ bỏ thế giới này; bây giờ ngay cả
ham muốn về niết bàn cũng biến mất. Bây giờ không còn gì phải đạt tới cả. Ông ấy
đã mệt mỏi đến mức ông ấy hiểu ra rằng không có gì để mà đạt tới cả. Mọi việc
tìm kiếm đều vô tích sự, ngay cả tìm kiếm tôn giáo. Chính đêm đó ông ấy đạt tới
phúc lạc tối thượng. Mọi việc tìm kiếm đều kết thúc, mọi lang thang đều chấm dứt.
Tìm và kiếm, hỡi bạn,
Bản thân Kabir biến mất.
Trong sáng hôm đó, khi mắt ông ấy
mở ra, ngôi sao cuối cùng của bình minh đang tan biến. Tương truyền rằng nhìn
chăm chăm vào ngôi sao đang tan biến ông ấy trở nên chứng ngộ. Mắt ông ấy phải
đã rất trong suốt. Mọi mơ đã tan biến, mọi ý nghĩ, mọi ham muốn, tất cả tương
lai, bất kì khao khát nào, bất kì ý tưởng nào để đạt tới cái gì đó - không cái
nào còn cả. Tâm trí trống rỗng. Không đâu mà đi, không cái gì mà trở thành,
không cái gì phải đạt tới. Thời gian dừng lại. Dòng thời gian dừng lại. Chính
khoảnh khắc đó mọi thứ được đạt tới.
Cho nên việc tìm kiếm phải được
bắt đầu và thế rồi phải bị loại bỏ. Hiểu điều đó như thế này: rằng bạn phải trèo
lên chiếc thang và thế rồi bạn phải bỏ chiếc thang. Chỉ thế thì bạn mới đi vào
chiều hướng mới. Việc tìm kiếm tính tôn giáo bắt đầu với mục đích, nhưng kinh
nghiệm về tính tôn giáo xảy ra khi không có mục đích.
Câu hỏi thứ tư:
Thầy đã nói, nếu bạn có thể nêu ra lí do
cho việc tới với tôi, thế thì biết rằng bạn chưa tới với tôi chút nào. Và nếu bạn
nhún vai xem như câu trả lời, thế thì biết rằng bạn đã tới với tôi. Tôi không ở
trong trạng thái có thể nêu ra lí do, mà cũng không ở vị trí để nói rằng tôi đã
tới mà không có lí do nào. Xin thầy nói cho tôi đang ở đâu?
Anand Maitreya đã hỏi câu hỏi
này. Đây là điều cái nhún vai của bạn nghĩa là nhún vai gì! Bạn không biết bất
kì lí do nào cho việc tới, mà bạn cũng không biết rằng bạn đã tới mà không lí
do. Việc nhún vai của bạn còn có nghĩa gì khác? - rằng bạn không biết! Trạng
thái này là đẹp, bởi vì bất kì cái gì bạn có thể biết đều sẽ sai. Tri thức của
bạn đầy dốt nát. Quyết định của bạn sẽ dựa trên hoài nghi của bạn. Việc tìm kiếm
của bạn, ham muốn của bạn về việc tìm kiếm, chỉ có thể nảy sinh từ bạn. Và bạn
sai, do đó việc tìm kiếm của bạn không thể đúng được.
Điều tốt là bạn không có câu trả
lời. Điều đó hoàn toàn được. Bây giờ có không gian trống rỗng bên trong bạn và
câu trả lời có thể giáng xuống. Những người rất chắc chắn về việc tại sao họ đã
tới, cái rất chắc chắn của họ sẽ trở thành cản trở cho việc gặp tôi. Bạn không
thể chắc chắn được; nếu bạn mà chắc chắn, thế thì sẽ không cần tới tôi làm gì.
Chắc chắn của bạn là giả. Nhưng nếu bạn rất chắc chắn thế thì chắc chắn này sẽ
trở thành cản trở. Linh động chút ít đi, đừng cố định như thế, đừng chắc chắn
như thế. Thấy rằng bạn không biết gì cả: “Dẫu sao, dò dẫm trong cái không chắc
chắn, chúng tôi đã tới. Không rõ nơi chúng tôi đi. Không rõ tại sao chúng tôi
đã tới. Chúng tôi thậm chí không biết tại sao chúng tôi đã dừng ở đây và tại
sao chúng tôi không đi nữa. Chúng tôi không biết gì bởi vì chúng tôi vô ý thức.”
Đấy là trạng thái rất đẹp. Cái
gì đó có thể xảy ra trong trạng thái này bởi vì trong trạng thái này bản ngã của
bạn không bảo bạn nói dối. Bản ngã chỉ bảo bạn sự kiện rằng bạn đột nhiên thấy
bản thân bạn ở đây. Chắc chắn là bạn phải tới từ lí do sai nào đó, bởi vì nếu
người ta có lí do đúng thế thì không có lí do gì để tới hay để đi đâu cả. Bây
giờ không rõ lí do là gì; điều đó nữa đã trở nên không rõ ràng. Nếu bạn ở cùng
tôi trong trạng thái như vậy - điều tôi gọi là trạng thái hỗn độn - điều đó rất
đẹp bởi vì sáng tạo bắt nguồn từ hỗn độn. Nếu bạn ở gần tôi trong trạng thái hỗn
độn tuyệt đối - rằng bản thân bạn không biết - thế thì bạn giống như đám mây
không hình dạng, và bạn sẽ được tạo khuôn theo hình dạng của bản tính thực của
bạn. Nếu bạn đã tới với hình dạng nào đó thế thì bạn sẽ bị cố định. Hình dạng của
bạn sẽ không cho phép bạn được linh hoạt, nó sẽ không cho phép bạn tuôn chảy.
Một số người tới tôi và nói,
“Chúng tôi muốn có linh ảnh về Rama.”
Ham muốn của họ để thấy Rama là
chướng ngại. Tôi bảo họ, “Tốt bụng với Rama đi - sao gây rắc rối cho ông ấy?”
Họ nói, “Không, chúng tôi muốn
có linh ảnh về Rama! Chúng tôi muốn thấy Rama cùng cung của ông ấy.”
Chính bởi điên khùng của bạn mà
Rama mới đứng đó cùng cây cung của mình! Bạn sẽ giữ ông ấy đứng như thế được
bao lâu? Ông ấy phải mệt chứ, thôi tha cho ông ấy đi. Và Rama này đang đứng giữa
bạn và tôi. Nó là tình huống khó khăn: bạn sẽ không thể nào nghe tôi được. Bạn
sẽ nghe những điều tôi chưa hề nói, bạn sẽ hiểu những điều chưa bao giờ là ý định
của tôi chút nào.
Đừng tới tôi với một mục đích.
Không, mục đích của bạn sẽ trở thành vấn đề. Bạn nên nói, “Tôi không biết gì.
Tôi không biết chút nào liệu tôi đang đi tìm Rama hay Phật hay Krishna”; bạn
nên nói, “Tôi không biết gì.” Người có thể nói “Tôi không biết” là đã lấy bước
đầu tiên hướng tới việc biết tất cả. Việc chấp nhận dốt nát là thoáng nhìn đầu
tiên của việc biết.
Giống như trẻ thơ, giống như đứa
nhỏ không biết gì đi; tò mò nào đó, hăm hở nào đó, truy tìm nào đó đã đem bạn tới
đây. Nó đã làm xong phần việc đem bạn tới đây, nhưng điều đó chưa phải là chấm
hết. Bạn đã tới đây qua tính tò mò này. Một con sóng đã mang bạn tới đây, bạn
đã tới bên bờ này - bây giờ bỏ nó cho tôi. Bây giờ đừng ngồi ở đây với ham muốn
rằng cái gì đó phải xảy ra. Bất kì cái gì phải xảy ra, sẽ xảy ra. Đây là điều
tôi gọi là “nhún vai”.
Câu hỏi cuối cùng:
Sùng kính của Sahajo lên tới cao điểm ở
advaita, bất nhị, nhưng trong trường hợp của Goswami Tulsidas nhị nguyên vẫn
còn. Xin thầy soi sáng khác biệt này.
Sẽ có chút ít khó khăn cho bạn
để hiểu. Có hai dạng tôn giáo: tôn giáo theo giáo phái, tôn giáo tín ngưỡng -
tôn giáo cũ, mục nát, một tôn giáo chỉ là sự điêu tàn - và dạng kia là tính tôn
giáo, cái bao giờ cũng được sinh ra tươi tắn.
Tôi gọi tôn giáo thứ nhất là ‘cổ
đại’; tôi gọi tôn giáo kia là ‘vĩnh hằng’. Bởi vĩnh hằng tôi không ngụ ý cái
cũ, bởi vĩnh hằng tôi ngụ ý rằng cái bao giờ cũng mới, cái mọi khoảnh khắc đều
tươi tắn như giọt sương, cái không giống như sự điêu tàn, cái mới mẻ giống như
mặt trời buổi sáng. Tôn giáo cũ trở thành được chính thức hoá, nó trở thành
giáo phái. Tôn giáo mới có tính nổi dậy, việc đứng dậy. Nó không phải là nguyên
trạng, nó là hỗn độn. Tôn giáo cũ trở thành nô lệ, tôn giáo mới là tuyên ngôn về
tự do. Và điều thú vị là ở chỗ mọi tôn giáo mới dần dần, dần dần trở thành cũ,
và mọi tôn giáo cũ cũng đã có thời là mới. Do đó giải thích trở nên phức tạp
hơn.
Tulsidas là một biểu tượng cho
tôn giáo cũ, tôn giáo cổ đại, tôn giáo đã là mới trong quá khứ. Trong những
ngày của Rama nó phải đã là mới; bây giờ câu chuyện này đã trở thành rất cũ.
Tulsida là người thông thái, ông ấy không phải là con người của thông minh. Ông
ấy là học giả, không phải là vị phật. Ông ấy là nhà thơ vĩ đại. Nếu bạn có gắn
cả nghìn Sahajo với nhau, ngay cả thế thì một nhà thơ như Tulsidas cũng không
thể được tạo ra.
Văn chương của ông ấy, lời của
ông ấy, tác phẩm của ông ấy là duy nhất, nhưng ông ấy không phải là người đã thức
tỉnh. Và nếu bạn gắn cho dù cả triệu Tulsidas với nhau, cho dù thế thì bạn sẽ
không tìm thấy cái tươi mát của chỉ một phát biểu của Sahajo.
Phẩm chất của Sahajo là khác:
cô ấy đang nói từ kinh nghiệm của riêng cô ấy. Cô ấy đang vươn lên từ bản thân
ngọn nguồn. Tulsidas đã vay mượn, do đó tôi không bao giờ nói về Tulsidas. Tôi
đã không nói về ông ấy một cách có chủ ý. Nhiều lần các bạn bè đã tới tôi và
nói, “Thầy nói về Kabir, Nanak, Dadu và thậm chí về những người mà tên tuổi
chúng tôi chưa từng nghe thấy - Sahajo, Daya, thầy thậm chí còn nói về họ. Tại
sao thầy gạt Tulsidas ra ngoài? Ông ấy sống trong tim của mọi người Ấn Độ.”
Tôi loại ông ấy ra một cách có
chủ ý. Tôi biết rằng ông ấy vẫn đang sống trong tim của mọi người Ấn Độ, nhưng
ông ấy đang sống ở đó bởi những lí do sai. Ông ấy sống ở đó bởi vì tâm trí cũ
kĩ và mục nát của người Ấn Độ đã giữ ông ấy ở đó.
Tulsidas là người ủng hộ cho
tôn giáo chết. Ông ấy là học giả, không phải người nổi dậy. Ông ấy không mang
cùng ngọn lửa như Kabir, Sahajo, Farid, chỉ là tro thôi. Có thời có thể đã có
ngọn lửa trong ông ấy, vào thời của Rama. Tulsidas chỉ là một tín đồ của con đường
mục nát. Ông ấy đi theo truyền thống. Ông ấy có chỗ trong trái tim người Ấn Độ
bởi vì trong tâm trí của hầu hết mọi người có một chỗ cho tôn giáo chết. Mọi
người đều chết. Người chết hấp dẫn người chết. Nhưng không có chỗ với người chết
cho Kabir. Và Sahajo không để ấn tượng lớn. Với họ để lại ấn tượng, bạn phải tới
mà vẫn sống. Nếu bạn muốn cô ấy ở trong tim bạn thế thì bạn sẽ phải thay đổi
trái tim bạn. Điều họ yêu cầu ở bạn là rất đắt, nhưng không cái gì được đòi hỏi
từ bạn để nhắc lại các bài thơ của Tulsidas. Ông ấy chỉ đưa ra cách diễn tả cho
tâm trí bạn theo cách tốt hơn. Chúng là cách diễn đạt của bạn. Ông ấy không nói
gì khác, ông ấy đang trình bầy điều bạn đã tin vào quần áo đẹp. Ông ấy hấp dẫn
bạn. Ông ấy diễn đạt tâm trí bạn.
Do đó, Ramayana của Tulsidas đã
đi vào trong mọi gia đình bởi vì nó là đại diện của mọi gia đình. Nó đại diện
cho đám đông, và đám đông là mù quáng và con số của họ là lớn. Ông ấy không biết
gì về bản thân mình nhưng ông ấy đã diễn đạt các khái niệm và niềm tin cổ đại của
bạn rất hay. Ông ấy đã làm say đắm tâm trí bạn. Ông ấy không nói điều gì mới cả,
ông ấy đang lặp lại bạn.
Nếu bạn hiểu mọi thứ đúng đắn,
khi Tulsidas hấp dẫn bạn, điều đó nghĩa là bạn đang cố gắng tránh cuộc cách mạng
bên trong. Đó là cái xác của tôn giáo mà cuộc sống đã thoát ra khỏi nó từ lâu.
Đó là lí do tại sao mà cộng đồng Hindu đã chấp nhận Tulsidas với sự tôn kính và
biết ơn lớn lao.
Nhưng một Kabir là rắc rối, một
Sahajo là rắc rối. Họ đem tới những tin tức tươi mát từ nhà của Thượng đế. Tính
cá nhân của họ nảy sinh tươi tắn như buổi sáng. Chỉ rất ít người sẽ có thể nhận
ra họ. Chỉ những người có niềm khát khao và khả năng trở thành mới thì mới có
thể nhận ra họ - những người sẵn sàng đi qua lửa với họ. Một vài người sẽ có thể
nhận ra trạng thái của họ nhưng những bài ca của cây sáo của họ sẽ không lôi cuốn
hàng triệu người; chỉ những người được chọn mới bước trên con đường của họ.
Vâng, điều cũng có thể xảy ra là một ngày nào đó con đường của họ cũng sẽ trở
thành cũ. Họ cũng có thể trở nên bị bao quanh bởi các học giả và các học giả sẽ
bắt đầu tạo ra truyền thống - thế thì hàng triệu người sẽ gia nhập với họ.
Khi một tôn giáo trở thành chết
thế thì mọi người gia nhập nó, bởi vì với tôn giáo chết, bạn không cần thay đổi.
Ngược lại, tôn giáo chết cứu bạn. Nó không thay đổi bạn - nó cứu bạn, nó bảo vệ
bạn. Đó là điều đã xảy ra với Nanak. Tiếng nói của Nanak là tiếng nói của nổi dậy,
nhưng tiếng nói của tôn giáo Sikh không phải là của nổi dậy nào. Bây giờ nó là
lối mòn nhiều người đã dẫm qua. Nanak đã thắp ngọn lửa, nhưng bây giờ người
Sikh hệt như người Hindu, người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo; bây giờ thầy
đã qua rồi. Khi Nanak bắt đầu việc nổi dậy của ông ấy thế thì rất ít người - rất
ít, bạn có thể đếm họ trên đầu ngón tay - đã được xúc động vì điều đó.
Từ sikh được sinh ra từ
shishya, đệ tử. Ông ấy đã tìm ra vài đệ tử người đã sẵn sàng học, người đã sẵn
sàng đi với ông ấy tới bất kì đâu ông ấy có thể đưa họ tới; dù sâu trong bóng tối
hay trong ánh sáng, ban ngày hay ban đêm, dù kết quả là bất kì cái gì, họ đã sẵn
sàng đi với ông ấy. Tôn giáo Sikh đã được sinh ra với vài đệ tử đó. Nhưng thời
gian qua đi, mọi thứ trở thành được tổ chức, nó trở thành giáo phái. Các học giả
tụ tập lại, việc giải thích tiếp tục, đền đài và nhà thờ hình thành, mọi thứ trở
thành lắng đọng, họ trở thành đờ đẫn. Ngọn lửa của nổi dậy đã tắt ngấm bởi đám
tro uyên bác. Tình yêu về thiền bị quên lãng và kinh sách trở thành quan trọng.
Khi Nanak còn đó ông ấy là quan trọng, bây giờ sách Guru Grantha Sahib là quan
trọng. Kinh nghiệm nguyên thuỷ, vô ý nghĩ, thuần khiết đã mất rồi; bây giờ nhấn
mạnh là vào lời. Bây giờ mọi người và tu sĩ đang ngồi và đọc. Họ có thể đọc lưu
loát khi tụng, nhưng tiếng nói của Nanak đâu rồi? Bây giờ chỉ có một cuốn sách.
Sách phụ thuộc vào bạn: bạn có thể lấy bất kì ý nghĩa nào bạn muốn rút ra từ
nó. Nanak không phụ thuộc vào bạn. Bạn không thể lấy bất kì ý nghĩa nào bạn muốn
từ Nanak, ông ấy quá sống động. Cho nên thầy mất đi và bây giờ cuốn sách của thầy
còn trong tay họ.
Điều đó xảy ra cho mọi tôn
giáo. Những người đã bước đi cùng Mahavira, dũng cảm của họ, bạo dạn của họ là
khác. Thế thì bạn phải bước đi trần trụi. Bạn có thể bị đám đông ném đá. Bây giờ
có người Jaina - người Jaina ngồi trong ngôi đền của họ và tôn thờ: anh ta nghe
điều Mahavira nói nhưng điều này không đem đến thay đổi gì trong cuộc sống của
anh ta. Anh ta đã giết chết Mahavira. Anh ta đã không chết cùng Mahavira và trở
thành con người mới - anh ta đã giết chết Mahavira. Anh ta đã làm cho ông ấy
thành cổ đại cùng với bản thân anh ta.
Tulsidas là người ủng hộ cho
tôn giáo nguyên trạng, tôn giáo chết. Tulsidas là học giả và và ông ấy là một học
giả lớn; vinh quang của ông ấy là ở sự uyên thâm. Nhưng đấy không phải là kinh
nghiệm của ông ấy, ông ấy không biết tới bản thân ông ấy. Cho nên tôi đã gạt
Tulsidas sang một bên, tôi đã tránh ông ấy một cách có chủ ý. Lí do tại sao mọi
người quan tâm tới Tulsidas là cùng lí do tại sao tôi tránh ông ấy. Mọi người
trở nên quan tâm bởi vì ông ấy cai trị trên hàng triệu trái tim. Ngay cả những
người thất học trong thôn làng cũng nhẩm thơ ông ấy. Bởi lí do này mọi người
quan tâm tới ông ấy. Ông ấy nổi tiếng, công trình của ông ấy Ramacharit Manas
đã được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng
ông ấy đã được dịch sang ngay cả một nước như nước Nga. Nước Nga không liên
quan tới bất kì tôn giáo nào nhưng nó cũng đã dịch Ramacharit Manas của
Tulsidas.
Có sợ hãi nào đó để dịch Kabir
- Kabir quá nổi dậy ngay cả cho những nhà cách mạng của nước Nga. Nhưng họ không
sợ dịch Ramacharit Manas cho những nhà cách mạng của nước Nga. Nó ủng hộ cho
nguyên trạng: bất kì cái gì đang vậy, cứ để nó thế, đều được cả. Nó là được chấp
nhận, không bị biến đổi.
Tulsidas là người Hindu. Sahajo
không phải là người Hindu. Kabir và Nanak không là người Hindu mà cũng không là
người Mô ha mét giáo hay người Ki tô giáo - và đám đông bao giờ cũng là Hindu,
Mô ha mét giáo, Ki tô giáo.
Đám đông bước đi trên con đường
cố định, trên siêu xa lộ. Hiền nhân bước trên con đường, con đường của rừng thẳm.
Họ bước đi và tạo ra con đường mới. Họ không bước trên con đường mòn đã có dấu
chân. Không có đám đông hiền nhân; sư tử không đi theo bầy. Hiền nhân là một
mình. Ông ấy đã đi vào tính một mình của mình. Hoa tinh tế của tính một mình đã
nở bên trong ông ấy. Sẽ có rất ít người sẵn sàng ngước mắt lên chiều cao đó để
có thể thấy được ông ấy, nhưng họ là những người duy nhất sẽ có thể thấy đoá
hoa này. Đám đông sẽ chỉ chối bỏ hiền nhân bởi vì với đám đông hiền nhân bao giờ
cũng dường như là nguyên nhân của rắc rối. Mọi thứ đều tốt đẹp còn ông ấy sẽ
làm cho nó rối tung rối mù lên. Mọi thứ đang trôi chảy, thế rồi người này xuất
hiện và bắt đầu nói, “Cái gì có trong kinh sách? Cái gì có trong đền thờ? Cái
gì có trong tôn thờ và lời cầu nguyện?” Ông ta đã lại lên một giọng mới. Bằng
cách nào đó bạn đã xoay xở để thiết lập ra một trật tự, thế rồi hiền nhân tới
và biến mọi thứ thành lộn ngược lần nữa.
Cho nên nhớ lấy, ngay cả với
nhiền nhân, tất cả đều không phải là hiền nhân. Các hiền nhân đã được chính phủ
công nhận không phải là hiền nhân - như Vinoba Bhave là một hiền nhân chính phủ.
Tôi gọi họ là hiền nhân được chính phủ công nhận. Họ không phải là hiền nhân, họ
là các chính khách thuần tuý. Họ đi theo cách có tính toán. Họ thấy nơi gió
đang thổi và họ quay buồm của họ tương ứng. Bất kì điều gì mọi người muốn, bất
kì điều gì mọi người chấp nhận, họ nói điều đó. Cái gọi là những thánh nhân như
vậy sẽ có sự công nhận. Chính phủ cũng sẽ chấp nhận ông ta. Nếu ông ta bị ốm thế
thì thủ tướng bao giờ cũng chạy tới ông ta, bởi vì cái loại thánh này là một phần
của chính trị. Với ông ta nền tảng của xã hội vẫn còn mạnh, nó không rung chuyển.
Nhưng Kabir, Dadu, Farid,
Sahajo - họ sẽ làm cho nó rung chuyển. Họ phá huỷ mọi nền móng. Bất kì điều gì
bạn đã nghĩ là đúng, họ chứng minh nó là sai. Và cái bạn chưa bao giờ nghĩ là
đúng, họ sẽ đánh thức niềm khao khát trong bạn về nó. Họ muốn đưa bạn vượt ra
ngoài bản thân bạn. Công việc của họ sẽ là cuộc giải phẫu, họ sẽ cắt đi nhiều
phần của bạn. Họ không thể đặt băng gạc lên vết thương của bạn - nhưng các vị
thánh chính phủ công nhận sẽ làm điều đó. Họ thực hiện việc chữa trị sơ cứu, sơ
cứu là công việc của họ. Nếu bạn ngã họ giúp bạn đứng dậy chữa cho bạn bằng
băng gạc. Hiền nhân thực là nhà giải phẫu: họ cắt đi mọi phần mà họ thấy là
không thể chữa được. Bạn phải sẵn sàng cho điều đó.
Sahajo đi thẳng tới bất nhị, bởi
vì cô ấy không mang bất kì ý tưởng định kiến nào mà cô ấy phải chứng minh.
Sahajo đang tìm kiếm chân lí. Nếu chân lí là bất nhị, nó sẽ được chứng minh là
bất nhị. Nếu chân lí là cái một thế thì nó sẽ được chứng minh là như vậy. Nhưng
Tulsidas không tìm kiếm chân lí.
Có một sự cố trong đời của
Tulsidas - nó đúng đến đâu chúng ta không biết, nhưng nó dường như là đúng.
Tương truyền rằng khi ông ấy tới Mathura, ông ấy đã được đưa vào đền thờ
Krishna. Ông ấy từ chối cúi mình tỏ ý tôn kính. Ông ấy nói, “Tôi sẽ không cúi
mình chừng nào mà ngài chưa đặt cung và tên vào trong tay mình.” Điều này là bởi
vì Krishna đang đứng đó với cây sáo trong tay, còn Tulsidas là người sùng kính
Rama. Làm sao ông ấy có thể cúi mình dưới Krishna được? sùng kính nghèo nàn thế,
sùng kính yếu đuối thế, sùng kính hời hợt thế, chật hẹp đến mức ông ấy không thể
nào cúi mình trước Krishna là bởi vì ông ấy là người sùng kính Rama. Và câu chuyện
này rất thú vị. Bất kì ai đã kể câu chuyện này, hay bất kì ai đã phóng đại nó
lên, họ nữa cũng phải điên. Câu chuyện nói rằng để làm hài lòng Tulsidas,
Krishna đã cầm cung và tên trên tay. Bức tượng đã thay đổi, cây sáo biến mất,
và cung tên lọt vào tay ông ấy! Rama trở thành Krishna, thế thì Tulsidas cúi lạy.
Đây là việc xảy ra kì lạ. Đây
không phải là cúi mình trước thần, đây là việc đòi hỏi thần cúi mình trước bạn.
Điều này có nghĩa là bạn đang nói, “Trước hết hoàn thành điều kiện của chúng
tôi đi, khớp các ý thức hệ của chúng tôi vào mọi hình và dạng và thế rồi chúng
tôi sẽ cúi lạy.” Đây là tôn kính chăng? Tôn kính có bao giờ có điều kiện không?
Và thần đã thay đổi hình dạng của mình!
Trong câu chuyện này Tulsidas
dường như là rất hèn hạ; thần này cũng dường như là một doanh nhân lớn. Sao có
sự háo hức này? Nếu Tulsidas mà không cúi lạy, vấn đề sẽ có thể là gì? Thần này
dường như rất quan tâm rằng mọi người phải cúi lạy, và ông ta thực sự đáp ứng bất
kì điều kiện nào cho điều đó xảy ra. Ông ta sẵn sàng thoả hiệp và cầm cung tên,
nhưng ông ta quan tâm rằng bạn cúi lạy.
Thần này dường như không phải
là thần mấy mà kẻ sùng kính này cũng dường như không mấy là kẻ sùng kính mấy.
Đây là câu chuyện về bản ngã con người.
Trong câu chuyện này kẻ sùng
kính là một kẻ bản ngã và vị thần cũng là một kẻ bản ngã.
Tulsidas là người nhị nguyên.
Ông ta là nhà lí thuyết, và một học giả bao giờ cũng theo lí thuyết. Ông ấy đã
tin vào một lí thuyết nào đó, bây giờ ông ấy chỉ phải chứng minh nó. Ông ấy đã
quyết định Rama phải trông như thế nào, rằng ngài phải có cung tên. Ông ấy đã
quyết định điều đó. Bây giờ ông ấy chỉ phải tiếp tục theo lí thuyết này. Ông ấy
không phải là trong việc tìm kiếm thuần khiết về chân lí - ông ấy đã biết chân
lí rồi! Trong lí thuyết của mình, ông ấy đã giả định chân lí phải là gì, bây giờ
ông ấy phải áp đặt giả định đó lên chân lí.
Có một nhà tâm lí tại đại học
Rajasthan, người đang nghiên cứu về hoá thân. Ai đó đem ông ta đến gặp tôi. Ông
ấy nói, “Tôi muốn tiến hành nghiên cứu khoa học để chứng minh về hoá thân.”
Tôi đơn giản hỏi ông ấy - ông ấy
chắc không thể hiểu được điều đó - tôi nói với ông ấy, “Nó sẽ được chứng minh
khi nó được chứng minh. Nhưng ông có tin vào hoá thân không?”
Ông ấy nói, “Chắc chắn có chứ!
Tôi tin rằng có tái sinh và bây giờ tôi đang cố gắng chứng minh nó.”
Tôi nói, “Nghe ông, bây giờ tôi
gặp khó khăn lớn. Không chứng minh nó đầu tiên, làm sao ông có thể chấp nhận rằng
có tái sinh? Ông đã chấp nhận nó và bây giờ ông đang chứng minh nó! Cho nên việc
chứng minh nó của ông sẽ là giả - ông sẽ chọn những điểm mà sẽ chứng minh cái
lí thuyết này và loại bỏ đi tất cả những điểm chống nó. Đây là phương pháp khoa
học chăng? Đây là tâm trí rất định kiến. Dường như quan toà đã quyết định rằng
ông là kẻ cắp và bây giờ ông ta đang chứng minh rằng ông là kẻ cắp vậy. Cho nên
ông ta sẽ viết ra bất kì bằng chứng nào chứng minh ông là kẻ cắp và ông ta sẽ bỏ
đi những bằng chứng về việc ông không phải là kẻ cắp. Ông ta sẽ đồng ý với những
nhân chứng mà sẽ nói rằng ông là kẻ cắp, và ông ta sẽ quên đi các nhân chứng sẽ
nói rằng ông không là kẻ cắp. Đây có phải là cách chứng minh cho điều gì không?
Đây không phải là tâm trí khoa học.” Ông ấy trở nên bồn chồn chút ít bởi vì ông
ấy đã tuyên bố mình là nhà khoa học. Ông ấy gặp khó khăn lớn.
Hai kiểu người tìm kiếm chân
lí. Một kiểu đã chấp nhận trước chân lí phải là gì và đã chấp nhận nó mà không
biết gì về nó cả - bây giờ nó chỉ phải được chứng minh. Kiểu kia là những người
nói, “Chúng tôi không biết chân lí chút nào cho nên chúng tôi đang tìm kiếm nó.
Nếu như chúng tôi đã biết trước nó là gì, thế thì cần gì phải tìm kiếm nó nữa?
Chúng tôi sẽ mở bản thân mình, để lộ bản thân mình, lau sạch và làm thuần khiết
bản thân mình. Chúng tôi sẽ lau sạch mắt mình, chúng tôi sẽ tăng cường ánh sáng
của ngọn đèn của mình và xem chân lí này là gì. Thế thì bất kì cái gì được thấy,
chúng tôi cũng sẽ chấp nhận nó.” Loại người thứ hai này là những người tìm kiếm
thực sự.
Sahajo là người tìm kiếm thực sự,
Tulsidas thì không. Tulsidas là người Hindu, Sahajo là tính tôn giáo. Tulsidas
đầy niềm tin, Sahajo tự do với niềm tin. Cho nên Tulsidas dừng ở nhị nguyên và
Sahajo đạt tới bất nhị, advaita.
Khi tôi nói về Tulsidas, Sahajo
hay những người khác, thế thì nhớ lấy, tôi không quan tâm tới những người này -
mối quan tâm của tôi là với bạn. Khi tôi giải thích về Tulsidas và Sahajo thế
thì toàn bộ mục đích của tôi là điều này - xin đừng trở thành một Goswami
Tulsidas. Nếu bạn muốn trở thành cái gì đó, thế thì trở thành một Sahajo.
Tôi không quan tâm tới việc phê
bình, đến việc phân tích bất kì ai. Tôi không quan tâm tới điều đó. Nếu tôi có
nói đôi điều về họ, đấy là vì bạn, bởi vì bên trong bạn cũng có cả hai khả
năng. Có thể là bạn bắt đầu cuộc tìm kiếm của mình về chân lí với niềm tin: thế
thì việc tìm kiếm của bạn đã bị đầu độc rồi.
Vứt bỏ mọi niềm tin đi. Chỉ những
người đi tới sự trần trụi tuyệt đối của họ, thoát khỏi mọi thứ quần áo về niềm
tin của họ, mới có thể tiến tới chân lí được. Họ là những người nói với điều
thiêng liêng, “Ngài tới như ngài đang vậy đi. Chúng tôi không có định kiến nào
của riêng mình cả, chúng tôi muốn biết ngài như ngài vậy. Chúng tôi muốn biết
ngài trong bản tính cố hữu của riêng ngài. Chúng tôi không muốn áp đặt bất kì
điều gì từ phía chúng tôi, chúng tôi không khăng khăng điều gì cả. Chúng tôi
không muốn tạo ra hình ảnh về ngài trước hết rằng ngài phải xuất hiện thế này
thế nọ. Ngài tự bộc lộ bản thân ngài như ngài vậy.”
Con đường này sẽ khó khăn bởi
vì sẽ không có chỗ nào cho bản ngã của bạn trên nó. Sẽ không có mảnh đất nào
cho bản ngã của bạn cả. Nhưng thế thì người đang đi tới chân lí phải vứt bỏ bản
ngã.
Tìm và kiếm, hỡi bạn,
Bản thân Kabir biến mất.
Khi bạn đã biến mất thế thì làm
sao niềm tin của bạn có thể còn lại được? Làm sao tôn giáo của bạn, kinh sách của
bạn còn lại được? Làm sao các cái nhãn người Hindu, người Mô ha mét giáo, người
Ki tô giáo có thể còn lại được? Khi bạn bị tan biến chỉ thế thì bạn sẽ biết thực
tại tối thượng là gì. Chừng nào mà bạn vẫn còn, không có Thượng đế. Khi Thượng
đế hiện hữu, bạn không thể hiện hữu. Khi bạn không hiện hữu, điều tối thượng hiện
hữu.
Đủ cho hôm nay...
Xem tiếp Chương 9 - Quay về Mục lục
0 Đánh giá