Read more
Osho - Mưa rào
không mây
Giảng về bài
thơ của người đàn bà chứng ngộ, Sahajo
Chương 9. Thầy
cho tôi đôi mắt
Thông thường, bạn nghĩ rằng người
phi tôn giáo hoài nghi và người tôn giáo tin cậy - nhưng người tôn giáo cũng
hoài nghi và người phi tôn giáo cũng tin cậy nữa. Người tôn giáo tin cậy vào
Thượng đế và hoài nghi sansara, thế giới trần tục thông thường; người phi tôn
giáo tin cậy sansara và hoài nghi Thượng đế. Khối lượng hoài nghi và tin cậy là
như nhau trong cả hai loại người này, chỉ có khác biệt về chiều hướng. Nếu tin
cậy đi sai hướng, thế thì con người sẽ đi lạc lối. Và ngay cả hoài nghi đi đúng
hướng, con người sẽ kinh nghiệm chân lí. Bạn sẽ không kinh nghiệm chân lí chỉ
qua tin cậy thôi, mà bạn cũng sẽ không đi lạc lối qua hoài nghi - điều đó tất cả
đều phụ thuộc vào chiều hướng. Mọi người tôn giáo đều hoài nghi về thực tại của
thế giới, và mọi người phi tôn giáo tin cậy vào thực tại này. Cho nên đừng nghĩ
rằng bạn có thể biết chỉ qua tin cậy, bằng không ngay cả người vô thần chắc đã
biết. Và đừng nghĩ rằng bạn sẽ đi lạc lối bởi việc hoài nghi, bằng không ngay cả
người hữu thần sẽ đi lạc lối.
Hoài nghi không cản trở mà tin
cậy cũng không đưa bạn tới điều tối thượng. Ngay cả hoài nghi, nhưng theo hướng
đúng, sẽ giúp bạn đạt tới, và ngay cả tin cậy, nếu hướng sai, sẽ giúp bạn đi lạc
lối. Chung cuộc, chính hướng đi mới là quan trọng.
Người vô thần và hữu thần là
cùng kiểu: người vô thần đang đứng trên đầu mình còn người hữu thần đang đứng
trên chân mình. Người vô thần đang đứng lộn ngược - anh ta tin cậy ở chỗ cần
hoài nghi và anh ta hoài nghi ở chỗ cần tin cậy. Đó là lí do tại sao bất kì người
vô thần nào cũng có thể trở thành hữu thần và bất kì người hữu thần nào cũng có
thể trở thành người vô thần trong một khoảnh khắc. Phải mất bao lâu bạn mới
chuyển từ đứng trên đầu sang đứng trên chân? Đi từ kiểu nọ sang kiểu kia khó thế
nào?
Một tối, có sự cố nhỏ trong đại
dương. Mặt trời đã lặn và mới chỉ khoảnh khắc trước đấy thôi, một con cá đã rất
sung sướng và vui vẻ nhảy múa trong tia sáng mặt trời trong cái bao la vô hạn của
đại dương. Nó nhảy múa, nó bơi lội, không có nỗi buồn, không đau đớn ở đâu cả.
Con cá tự nhiên và hồn nhiên thế. Không có lấy một thoáng hoài nghi nào trong
tâm trí nó. Nhưng một khoảnh khắc sau đó nó đã gặp một con cá vô thần làm rối
loạn mọi thứ.
Mọi con cá khác đều tránh con
cá vô thần này, nhưng con cá này mới và nó không biết hơn. Khi con cá vô thần tới
gần nó, nó lắng nghe con cá này nói chỉ vì phép lịch sự. Con cá vô thần nói với
nó, “Mày đang nhảy múa gì thế? Sao mày sung sướng thế? Sao mày mở hội thế? Dường
như mày là một kẻ tin tưởng mù quáng, giống như những con cá thông thường khác
kia. Không có niềm vui, niềm vui là ảo tưởng! Và đại dương này mà mày nghĩ rằng
mày đang trong nó - nơi mày đang nhảy múa và bơi lội, nhảy nhót và thích thú -
không có những thứ như vậy đâu. Mày đã bao giờ thấy đại dương chưa?”
Con cá trẻ trở nên sợ hãi. Nó
đã nghe nói về đại dương này nhưng nó chưa bao giờ thấy đại dương cả. Khi ai đó
được sinh ra trong đại dương, khi ai đó được lớn lên trong đại dương và chưa
bao giờ đi ra ngoài đại dương, thế thì không có cách nào để thấy đại dương cả.
Để thấy, khoảng cách nào đó là cần, phân cách nào đó, khe hở nào đó là cần. Con
cá này đã nghe nói rằng có đại dương, nhưng nó chưa bao giờ thấy điều đó. Mắt
nó cũng đã được tạo ra từ đại dương này, nó được bao bọc bởi đại dương. Cá có
thể thấy đại dương chỉ khi có một khoảng cách giữa đại dương và cá. Thậm chí đã
không có khoảng cách đó.
Con cá này đã nghe nói về đại
dương. Con cá vô thần bắt đầu cười và nói, “Hệt như con người tin tưởng mù
quáng vào Thượng đế, cá tin rằng có đại dương. Nhưng không có Thượng đế và
không có đại dương. Nhìn này, mở mắt mày ra mà nhìn! Mày vẫn còn trẻ - cái gì
làm mày sợ thế? Tất cả xung quanh, trống rỗng lớn bao quanh chúng ta. Không cái
gì là thực ngoại trừ cái chết.”
Con cá trẻ nhìn quanh. Chắc chắn
có trống rỗng tất cả xung quanh. Mặt trời đã lặn. Tất cả xung quanh đều là mầu
xanh của đại dương - nó dường như giống bầu trời trống rỗng. Và ở một khoảng
xa, trong tầm mắt còn nhìn thấy được, mầu xanh đại dương thẫm vào trong bóng tối.
Mọi nơi đêm tối đang buông xuống.
Trong tâm trí nó nữa câu hỏi
phát sinh, “Đại dương đâu rồi?”
Nó nhìn xuống trong cái trống rỗng
không thể hiểu được. Nó trở nên sợ hãi, toàn bộ thân thể nó run rẩy, mọi tế bào
thân thể nó lo nghĩ. Nếu nó ngã vào trong cái trống rỗng này thế thì ai cứu nó
ra được? Nó hoàn toàn quên mất rằng cho đến lúc đó nó đã từng bơi lội trong cái
trống rỗng này và nó không bao giờ bị ngã cả. Nó hoàn toàn quên mất rằng mới
khoảnh khắc trước đó thôi nó đã từng sung sướng, vui vẻ và rằng cái trống rỗng
này chưa hề khuấy đảo nó. Nhưng ngày hôm đó, khi nó nhìn cẩn thận khắp xung
quanh, nó trở nên hoảng sợ, và giống như người bị tê liệt nó không thể nào bơi
được nữa cho dù nó muốn bơi. Nó mất hết khí lực, nó trở nên rất sợ hãi. Tất cả
xung quanh đều tĩnh lặng. Đêm ngày một tối hơn. Mọi nơi đều có cái trống rỗng;
nếu nó ngã vào trong đó, thế thì điều gì sẽ xảy ra? Nó cần một chỗ dựa nào đó.
Nó nhìn xung quanh và nói, “Mình phải làm gì đây? Mình có thể bám vào cái gì?
Không có ai cả.” Cho nên nó nghĩ rằng nó sẽ dựa vào bản thân mình bằng việc bám
lấy đuôi mình. Nó bơi vòng và uốn mình, và nó cố gắng vất vả để bắt lấy đuôi
mình mà không được - nó không phải là nhà hathayogi - nó trở nên thậm chí còn
hoảng sợ hơn.
Câu chuyện là ở chỗ đại dương vẫn
im lặng quan sát mọi việc. Nó cười to và nói, “Ngốc ơi là ngốc, cháu không thể
thấy được đại dương sao? Cháu là một phần của đại dương này.” Nó cảm thấy
thương hại cho con cá này bị mắc vào rắc rối này. Mới khoảnh khắc trước đây
thôi đã có niềm vui của sự tin cậy. Còn bây giờ, trong một khoảnh khắc, làn
khói hoài nghi, đám mây hoài nghi đã tụ tập và bầu trời bị che phủ, che khuất.
Cuối cùng đại dương không thể nào còn im lặng được nữa và nó nói, “Nghe đây, ngốc
ạ, trước đây cháu đã bao giờ ngã xuống đâu - ai đỡ cho cháu vậy? Tại sao hôm
nay cháu bỗng nhiên ngã?”
Ý tưởng về việc ngã này là một
phần cố hữu của hoài nghi. Tin cậy cứu bạn, những bàn tay vô hình đỡ bạn khắp
xung quanh. Khi hoài nghi nảy sinh, tất cả những bàn tay nâng đỡ này dường như
là biến mất và vực thẳm vô hạn dường như mở ra.
Con cá này trở nên sợ hãi. Nó
nói, “Ông là ai vậy? Không có đại dương, đấy chỉ là niềm tin mù quáng của cá
thôi.”
Đại dương cười khanh khách. Nó
nói, “Chỉ có đại dương thôi... cá tới rồi đi. Kẻ tin, kẻ không tin, kẻ tin mù
quáng, họ tới rồi họ đi, nhưng đại dương bao giờ cũng còn lại. Cái nhất thời có
ý tưởng rằng nó tồn tại, và nó hoài nghi cái vĩnh hằng! Nếu cháu muốn hoài nghi
điều gì đó, thế thì hoài nghi bản thân mình đi. Đã có thời cháu không có đây và
rồi một ngày nào đó cháu sẽ không còn ở đây nữa. Đại dương bao giờ cũng ở đây
và bao giờ cũng sẽ ở đây. Hoài nghi cái nhất thời và tin vào cái vĩnh hằng đi.”
Vô thần là tin cậy vào cái ngắn
ngủi và không tin vào cái vĩnh hằng.
Con người ở trong cùng tình huống
như con cá kia. Và điều đó thậm chí còn nhiều hơn nữa trong thế kỉ này, bởi vì
biết bao nhiêu người đã nuôi dưỡng hoài nghi của bạn còn bạn chưa bao giờ gặp một
người nuôi dưỡng cho sự tin cậy của bạn. Và người mà bạn nghĩ là đem cho bạn sự
tin cậy, bản thân họ không có tin cậy. Cho nên có những người đem cho bạn hoài
nghi trực tiếp và có những người đem cho bạn hoài nghi gián tiếp.
Người vô thần đã trao cho bạn
hoài nghi, nhưng ngay cả cái gọi là những người hữu thần đang ngồi trong đền
đài, trong chùa chiền, trong gurudwaras, trong nhà thờ - quan sát họ, tin cậy của
bạn không tăng lên. Ví dụ của họ đã cho bạn chỉ là hoài nghi. Hành vi của họ
không tạo ra âm nhạc của tin cậy trong bạn. Hương thơm của tin cậy không thể
tìm thấy được theo cách hiện hữu của họ, bạn chỉ thấy bốc mùi của hoài nghi. Bạn
không thể nào cảm thấy rằng họ đã kinh nghiệm tin cậy. Điệu vũ của tin cậy
không thể tìm thấy được trong họ - cả trong các kiếp sống của họ lẫn cách hiện
hữu của họ, không có ánh sáng trong mắt họ lẫn trong cách họ bước đi - không ở
đâu cả. Họ có thể láu lỉnh hơn bạn, họ có thể linh hoạt trong logic hơn bạn, có
thể họ có nói giỏi về logic, có thể họ có trí tuệ hơn bạn để hỗ trợ cho niềm
tin của họ vào Thượng đế - nhưng từ cái chạm của họ người ta không cảm thấy rằng
họ đã biết Thượng đế.
Vô thần là vô thần, nhưng đền
chùa và tu viện và nhà thờ cũng hoà cùng điệu với người vô thần. Tiếng nói của
người vô thần ẩn kín dường như thậm chí đến từ đó. Con người bị bao quanh bởi
chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa vật chất. Cái gì có thể được làm?
Có lẽ bạn đã được bảo đi bảo lại
mãi: chấm dứt hoài nghi đi, tin cậy nữa vào. Tôi không nói điều này với bạn.
Tôi bảo bạn rằng hoài nghi cũng đẹp, chỉ cần cho nó đúng hướng. Hoài nghi cái
nhất thời đi. Sử dụng hoài nghi đi, nó là thuật giả kim rất quí báu. Bất kì điều
gì Thượng đế đã trao cho bạn đều có nghĩa. Hoài nghi cũng là có nghĩa, chối bỏ
cũng có mục đích; nói không có giá trị riêng của nó.
Nhưng chối bỏ chỉ cái đáng chối
bỏ. Tôi không bảo bạn rằng bạn nên khử bỏ hoài nghi bởi vì thế thì bạn sẽ trở
thành què quặt. Bạn sẽ loại bỏ đi một nửa linh hồn bạn. Thế thì bạn sẽ chỉ có một
cánh và bạn sẽ không thể nào bay được. Bạn không thể đi bất kì đâu chỉ với một
cánh. Cho nên tôi bảo dùng hoài nghi và cũng dùng cả tin cậy nữa. Chúng là hai
chân của bạn, vâng - nhưng dùng chúng theo hướng đúng. Chỉ khác biệt về chiều
hướng, chỉ việc thu xếp phải được thay đổi. Ngay cả một chút thay đổi sẽ tạo ra
khác biệt lớn.
Lời kinh của Sahajo cũng nói điều
này:
Sahajo nói: Trong giấc mơ,
trong một khoảnh khắc
Năm mươi năm có thể trôi qua
Khi mở mắt ra đấy tất cả là ảo
tưởng;
Việc sống trong thân thể cũng vậy.
Đây là cách dùng đúng của hoài
nghi. Bạn cần hoài nghi, không tôn thờ bất kì Thượng đế nào. Bạn sẽ không thể
nào tìm thấy một đối tượng hoài nghi nào tốt hơn là cái thế giới đang bao quanh
bạn. Trước hết hoài nghi điều đó.
... Trong giấc mơ, trong một
khoảnh khắc
Năm mươi năm có thể trôi qua
Bạn đã bao giờ để ý chưa? - bạn
ngủ lơ mơ chốc lát khi bạn làm việc trong văn phòng, hay bạn đang đọc báo buổi
sáng và mắt bạn nhắm một thoáng chốc và bạn lơ mơ ngủ, nhưng trước khi rơi vào
giấc ngủ bạn thấy chiếc đồng hồ trên tường. Khi bạn thức dậy khỏi giấc ngủ trưa
bạn thấy rằng chỉ mới một phút trôi qua, nhưng trong giấc ngủ trưa chốc lát này
bạn đã có một giấc mơ dài. Bạn đã có một giấc mơ dài đến mức nếu như nó xảy ra
trong thực tế nó chắc chiếm khoảng năm mươi năm. Trong giấc mơ ấy bạn còn nhỏ...
và bạn trở nên già... bạn xây dựng gia đình và thế rồi có con cái và âm nhạc
đang chơi cùng buổi lễ đám cưới... và bạn tỉnh dậy với âm thanh của âm nhạc. Bạn
thấy rằng chỉ một khoảnh khắc mới trôi qua trên đồng hồ. Bạn đã có giấc mơ dài
thế trong một khoảnh khắc nhỏ thế.
Các nhà khoa học cũng đồng ý rằng
thời gian là tương đối và rằng kinh nghiệm của bạn về thời gian thay đổi hàng
ngày. Khi bạn hạnh phúc thế thì thời gian trôi qua nhanh chóng. Khi bạn buồn,
thời gian trôi rất chậm. Khi bạn hạnh phúc bạn không nhận biết rằng hàng giờ đã
trôi qua - nó dường như chỉ là khoảnh khắc. Khi bạn bất hạnh, khi cuộc sống là
gánh nặng và bạn buồn, khoảnh khắc như hàng giờ. Thời gian không trôi đi chút
nào... đêm dường như là vô tận.
Thời gian phụ thuộc vào tâm trí
bạn. Bạn càng nhiều vô ý thức, bạn càng ôm giữ giấc mơ trong tâm trí mình -
theo cùng một tỉ lệ. Bạn càng có ý thức, theo cùng tỉ lệ, giấc mơ càng ít sở hữu
bạn. Nếu vô ý thức là sâu sắc, thế thì trong một khoảnh khắc bạn có thể mơ về
nhiều năm. Nếu nhận biết là sâu sắc, toàn bộ, thế thì thời gian biến mất. Thế
thì không có vấn đề về năm tháng; thời gian biến mất! Hỏi Mahavira, Phật, Jesus
- họ nói rằng khi samadhi được kinh nghiệm, thời gian biến mất. Trong trạng
thái mãn nguyện toàn bộ, không có thời gian. Có thời gian trong trạng thái vô ý
thức sâu sắc - thời gian vô hạn. Và bạn ở đâu đó ở giữa - lúc vô ý thức, lúc nhận
biết; lúc hạnh phúc, lúc bất hạnh. Thời gian dường như vô tận khi bạn buồn.
Người Ki tô giáo nói rằng địa
ngục là vĩnh viễn; một khi bạn rơi xuống đó thế thì bạn không bao giờ thoát ra
khỏi đó được. Bertrand Russell đã nêu ra một luận cứ rất khoa học. Ông ấy đã viết
một cuốn sách chống Ki tô giáo, Tại sao tôi không là người Ki tô giáo, và ông ấy
đã đưa ra nhiều luận cứ trong đó. Một trong chúng là - và luận cứ này dường như
rất có ý nghĩa - khi Russell nói, “Trong đời tôi, dù tôi đã phạm phải tội lỗi
gì và dù tôi mới chỉ tưởng tượng phạm bất kì tội lỗi gì, thậm chí nếu có bị trừng
phạt bởi những tội lỗi tưởng tượng đó nữa, thế thì ngay cả đến quan toà nghiêm
khắc nhất cũng chỉ có thể phạt tôi không quá năm năm.” Và người Ki tô giáo tin
rằng chỉ có một cuộc sống cho nên không có mấy phức tạp. Nhưng Ki tô giáo dường
như ngớ ngẩn. Với những tội lỗi nhỏ bé này tôi sẽ bị tống vào địa ngục vĩnh viễn
sao? Tôi không thể nào hiểu được điều này. Sự trừng phạt này dường như quá mức
cần thiết. Dường như là Ki tô giáo chỉ đợi để sập bẫy bạn. Dẫu sao chúng ta đã
phạm phải tội lỗi gì?”
Nếu bạn nghĩ về điều đó, luận cứ
của Russell có vẻ đúng với bạn. Bạn có thể đánh cắp một số tiền, bạn có thể rạch
túi của ai đó, bạn có thể không nói cho ai đó rằng bạn nhặt được tiền rơi trên
đất và giữ nó để dùng cho mình, bạn có thể đã nhìn vào vợ ai đó bằng con mắt
thèm khát, bạn có thể đã nhìn nhà của ai đó bằng ghen tị, bạn có thể đã xúc phạm
ai đó, bạn có thể đã đánh nhau với ai đó - đấy là tội lỗi của bạn. Chúng là những
tội lỗi rất nhỏ bé, chỉ đáng một xu, và với những tội lỗi này bạn phải chịu đoạ
địa ngục vĩnh viễn! Không người Ki tô giáo nào có thể trả lời cho Russell được
bởi vì đấy là một luận cứ rất rõ ràng. Russell nói rằng dù bạn có thể phạm phải
bao nhiêu tội lỗi đi chăng nữa, vẫn phải có một giới hạn cho sự trừng phạt. Trừng
phạt vĩnh viễn vì những tội lỗi giới hạn này sao?
Nhưng tôi có một số lí do khác
nữa. Russell từ đó đã chết rồi. Nếu ông ấy mà còn sống, tôi sẽ nói với ông ấy rằng
bạn đã không hiểu vấn đề chút nào. Bạn đã bỏ lỡ quan điểm của Jesus. khi Jesus
nói, “Địa ngục là vĩnh viễn,” ông ấy đang nói rằng có nhiều khổ đến mức một khoảnh
khắc sẽ dường như là vĩnh viễn. Thời gian dường như bị kéo dài ra bởi sự mãnh
liệt của khổ. ‘Vĩnh viễn’ không có nghĩa vĩnh viễn theo từ ngữ, đấy chỉ là biểu
tượng. Nỗi đau mãnh liệt đến mức đêm dường như không trôi qua, nó dường như là
vĩnh viễn. Từ ‘vĩnh viễn’ được dùng để chỉ ra chiều sâu của đau khổ. Tại đây, từ
‘vĩnh viễn’ không liên quan gì tới chiều dài thời gian. Nghĩa của từ ‘vĩnh viễn’
có liên hệ tới chiều sâu của đau khổ trong thời gian. Nếu bạn trong địa ngục dù
chỉ một khoảnh khắc thế thì điều ấy sẽ dường như là khoảnh khắc này không bao
giờ đi tới chấm dứt. Đây là toàn thể nghĩa của nó. Những khoảnh khắc đau đớn trở
thành vĩnh viễn. Những khoảnh khắc hạnh phúc trôi qua trong thoáng chốc. Trong
khoảnh khắc của phúc lạc, không có thời gian. Đó là lí do tại sao những người
đã biết tới phúc lạc đều nói rằng nó là vô thời gian, nó ở bên ngoài thời gian;
thời gian chấm dứt ở đó.
Ai đó đã yêu cầu Jesus nói điều
gì đó về vương quốc của Thượng đế - mà hoàn toàn khác với vương quốc của thế
gian này - cho nên điều Jesus nói là, “Sẽ không còn thời gian nữa”... trong
vương quốc của Thượng đế sẽ không có thời gian, đây sẽ là một trong những khác
biệt cơ bản giữa vương quốc của trái đất và vương quốc của Thượng đế. Thời gian
sẽ trôi qua theo cùng tỉ lệ với nỗi đau của bạn. Thời gian sẽ dãn ra với nỗi
đau của bạn và thời gian co với niềm vui của bạn. Trong nỗi đau tuyệt đối, thời
gian trở thành vĩnh viễn. Trong niềm vui tuyệt đối nó trở thành không tồn tại.
Sahajo nói: Trong giấc mơ,
trong một khoảnh khắc
Năm mươi năm có thể trôi qua
Trong một khoảnh khắc của việc
mơ, năm mươi năm có thể trôi qua. Nhưng bạn đã bao giờ nghĩ rằng điều bạn gọi
năm mươi năm cuộc đời đó, ai mà biết được, có thể trong một giấc mơ đấy chỉ là
một khoảnh khắc? Điều này cho chiều hướng đúng đắn cho hoài nghi.
Có một câu chuyện cổ ở Trung quốc.
Con trai của một hoàng đế sắp chết. Anh ta là con trai duy nhất của ông ấy. Lúc
đó là gần tới khoảnh khắc cuối cùng của anh ta; các ngự y nói, “Bây giờ anh ấy
không thể sống được.” Cho nên hoàng đế đã ngồi gần anh ta liền ba ngày không ngủ.
Con trai ông ấy đang thở hơi cuối cùng, hơi thở có thể dừng vào bất kì lúc nào.
Anh ta là đứa con yêu dấu nhất của ông ấy, đứa con duy nhất của ông ấy; mọi hi
vọng của ông ấy và mọi mơ ước của ông ấy đều dồn vào anh ta. Anh ta là tương
lai của ông ấy. Hoàng đế già đang khóc lóc nhưng không cái gì có thể được làm,
mọi thứ đã được làm cả rồi. Không thuốc thang nào có tác dụng, không ngự y nào
có thể làm được gì. Bệnh này vô phương cứu chữa. Cái chết của anh ta là chắc chắn.
Hoàng đế đang ngồi với anh ta,
và đã sang ngày thứ tư - ông ấy đã không ngủ ba ngày rồi - ông ấy ngủ lơ mơ.
Ông ấy mơ rằng ông ấy có những cung điện to lớn và vương quốc của ông ấy trải
khắp cả thế giới... một mình ông ấy cai trị cả thế giới... ông ấy có mười hai
con trai khôi ngô tuấn tú, tráng kiện, trẻ trung, sức khoẻ và trí thông minh của
họ là vô song... các bậc trong cung điện đều được nạm ngọc và kim cương, ông ấy
có kho báu vô giá ... ông ấy rất hạnh phúc... không có nỗi buồn nào hết cả...
Trong khi đang mơ về tất cả những điều này, vợ ông ấy khóc to lên rằng con trai
đã chết. Tác động của giấc mơ vẫn còn đó... cung điện mờ đi, cung điện vàng
chói sáng dưới ánh mặt trời, mười hai đứa con, cái đẹp của chúng, mạnh khoẻ của
chúng, trí thông minh của chúng, thoáng nhìn mờ nhạt cuối cùng về niềm vui mà
giấc mơ đã tạo ra vẫn còn có đó. Và ở đây, con ông ấy vừa mới chết. Mọi người
đang khóc lóc.
Nhà vua bối rối. Ông ấy không
thể nào nghĩ được. Trong một chốc, ông ấy ngơ ngác. Vợ ông ấy tự hỏi liệu ông ấy
có phát điên hay không bởi vì không có nước mắt trong mắt ông ấy, không tiếng
kêu khóc bật ra trên môi, không một lời buồn rầu, không một tiếng thở dài than
tiếc. Vợ ông ấy trở nên sợ hãi. Bày ấy lay chồng và hỏi ông ấy, “Điều gì xảy ra
cho bệ hạ vậy?” Bà ấy biết rằng nỗi đau về cái chết của con trai chắc là nặng nề
lên ông ấy. Bà ấy nghĩ, “Ông ấy chắc phát điên mất! Ông ấy có mất trí không?
Sao ông ấy im lìm thế này?” Bà ấy nói, “Nói điều gì đó đi!”
Hoàng đế bắt đầu cười. Ông ấy
nói, “Ta đang gặp khó xử lớn - ta phải than khóc ai đây? Vừa mới đây ta có mười
hai con trai, cung điện vàng, mọi điều giải trí, và tất cả đã biến mất trong một
khoảnh khắc. Ta phải than khóc cho chúng, hay ta phải than khóc cho đứa con vừa
mới chết này? Bởi vì khi ta ở với mười hai đứa kia ta đã quên đứa này. Ta không
biết chút nào rằng ta có đứa con ở đây. Bây giờ ta ở với đứa này, và ta đã quên
mười hai đứa kia. Vậy cái nào là thực?”
Sahajo nói: Trong giấc mơ,
trong một khoảnh khắc
Năm mươi năm có thể trôi qua
Trong một khoảnh khắc mơ, năm
mươi năm có thể trôi qua. Năm mươi năm cuộc đời bạn cũng không nhiều gì hơn một
khoảnh khắc của mơ. Bao nhiêu người đã sống cuộc sống này? Vô hạn người đã sống
trên trái đất này. Họ cũng đã mơ theo cùng cách như bạn đã mơ. Họ cũng có cùng
tham vọng như bạn có. Họ cũng đã chạy theo quyền lực và danh vọng như bạn chạy.
Họ đã đánh nhau, họ đã chết. Họ đã kinh nghiệm vui thú và đau đớn, họ đã làm bạn
và thù, họ cũng phân biệt giữa cái gì là của họ và cái gì là của người khác. Tất
cả những cái đó đã biến mất. Các nhà khoa học nói rằng ở chính chỗ mà bạn đang
ngồi ấy, diện tích một người có thể đứng, có ít nhất mười xác người đã được
chôn vùi dưới bạn. Trong đất đó, mười người đã biến thành cát bụi. Nếu không phải
hôm nay, thế thì ngày mai, bạn cũng sẽ biến mất thành cùng cát bụi đó. Đến cùng
chỉ cát bụi còn lại. Tất cả mơ mộng đều tan biến. Cát bụi trở về với cát bụi.
Giữa hai cát bụi này là thế giới của mơ mộng. Nếu bạn muốn hoài nghi, hoài nghi
điều này đi! Và điều đáng ngạc nhiên là mọi người không hoài nghi về thế giới
này, vậy mà họ hoài nghi về điều vĩnh hằng.
Mọi người tới tôi và nói,
“Chúng tôi không phải là những kẻ tin tưởng mù quáng. Chúng tôi là những người
có giáo dục tốt, những trí thức. Chúng tôi đã nghiên cứu logic và chúng tôi
không thể nào tin vào sự tồn tại của Thượng đế được.”
Tôi bảo họ, “Quên Thượng đế đi.
Nếu bạn là người thực sự có giáo dục tốt, nếu bạn đã học logic và bạn là trí thức,
thế thì ý tưởng của bạn về thế giới này là gì?”
Họ nói, “Thế giới này là thực.”
Đây là loại logic nào vậy? Đây
là mù quáng tuyệt đối.
Nếu bạn đã học về hoài nghi, thế
thì hoài nghi và nhìn vào cuộc sống của bạn và bạn sẽ thấy rằng không có khác
biệt giữa mơ và cuộc sống này. Bạn gọi cái gì là mơ? Khi nó có đó, nó dường như
là thực. Khi bạn thấy giấc mơ vào ban đêm, bạn có cảm thấy nó là giả không? Nó
là giả khi bạn tỉnh dậy bởi vì thế thì bạn mới đi tới biết rằng nó là mơ. Tất cả
những người đã thức tỉnh trên trái đất này, phát biểu của họ là một - rằng thế
giới này là giấc mơ. Dù cho đấy là Phật người đã thức tỉnh, hay Sahajo người đã
thức tỉnh, hay Kabir, hay Farid, sau khi thức tỉnh, thế giới này trở thành giấc
mơ. Sau khi thức tỉnh người ta hiểu ra rằng việc chạy theo tiền bạc hoặc quyền
lực là ảo tưởng của tâm trí.
Sahajo nói: Trong giấc mơ,
trong một khoảnh khắc
Năm mươi năm có thể trôi qua
Khi mở mắt ra đấy tất cả là ảo
tưởng;
Việc sống trong thân thể cũng vậy.
Và khi mắt bạn mở ra, thế thì bạn
sẽ biết rằng nó tất cả là giả tạm. Việc sống trong thân thể cũng vậy - đây là
cách thức sống trong thân thể này. Sống trong thân thể này dường như thực chỉ
chừng nào mà mắt bạn còn nhắm. Khi mắt bạn mở ra, thế thì bạn sẽ hiểu bạn đã
mang mơ mộng và ảo tưởng gì, loại ảo tưởng nào của tâm trí mà bạn đã coi là thật.
Chúng tất cả đều là các con sóng ý nghĩ, chỉ là những rung động của ý nghĩ -
chúng đã tới, rồi đi. Bây giờ, thậm chí không một dấu vết nào của chúng được bỏ
lại, dường như ai đó đã viết lên nước, một chữ kí trên nước - nó thậm chí còn
chưa kết thúc và nó đã tan biến rồi.
Khi mở mắt ra đấy tất cả là ảo
tưởng;
Việc sống trong thân thể cũng vậy.
Nếu thân thể này dường như là
thực đối với bạn, thế thì thế giới này sẽ dường như là thực với bạn. Cả hai thực
tại này đi đôi với nhau. Nếu bạn hoài nghi thế giới này thế thì bạn sẽ hoài
nghi thực tại của thân thể bởi vì thân thể bạn là một phần của thế giới. Nếu bạn
hoài nghi thực tại của thân thể bạn, thế thì bạn sẽ hoài nghi thế giới, bởi vì
thế giới này là sự mở rộng của thân thể bạn. Đã có thời thân thể này không có ở
đây, ngần này là chắc chắn. Rồi một ngày nào đó thân thể này sẽ không có ở đây
nữa, điều này cũng chắc chắn. Chỉ một con sóng ở giữa hai cái trống rỗng, một
con sóng nhỏ và bạn tin con sóng này là thực. Bạn chưa bao giờ hoài nghi về nó
cả. Và sự tồn tại cái ẩn đằng sau tất cả những con sóng này - gọi nó là Thượng
đế, gọi nó là linh hồn, gọi nó là giải thoát - bạn hoài nghi nó.
Không, tôi không coi người vô
thần là rất logic. Một người rất logic chắc chắn sẽ trở thành hữu thần. Người
vô thần vẫn còn học ABC. Khi anh ta đi sâu hơn vào logic, khi hoài nghi trở
thành mãnh liệt và có sắc bén cho nó, thế thì anh ta sẽ thấy điều Sahajo đang
nói: Khi mở mắt ra đấy tất cả là ảo tưởng; việc sống trong thân thể cũng vậy.
Thế giới giống như ngôi sao mai
cuối cùng.
Sahajo nói: Nó đang tan biến đi
nhanh chóng...
Biểu tượng này là rất đẹp: Thế
giới giống như ngôi sao mai cuối cùng - thế giới này là ngôi sao cuối cùng lúc
bình minh. Trong buổi sáng, bạn đã bao giờ thấy khi mọi ngôi sao đã biến đi và
chỉ ngôi sao cuối cùng còn lại không? Nó sắp biến đi nốt; nó có đó chỉ một khoảnh
khắc thôi và thế rồi bạn sẽ cố gắng để thấy nơi nó đã biến mất. Nó có đó chỉ
khoảnh khắc trước, còn bây giờ nó không còn nữa.
Thế giới giống như ngôi sao mai
cuối cùng. Sahajo nói: Nó đang tan biến đi nhanh chóng. Thế giới này giống hệt
như ngôi sao cuối cùng sắp biến mất vào buổi sáng. Nó không ở đó lâu nữa; nó
đang trên bờ của việc biến mất. Chỉ một khoảnh khắc của nhận biết về nó và thế
rồi nó mất đi. Theo cùng cách này, bạn khó mà đạt tới và bạn bị mất đi. Bạn thậm
chí không thể trụ ở đây trước khi cái chết bắt giữ bạn.
Thế giới giống như ngôi sao mai
cuối cùng.
Sahajo nói: Nó đang tan biến đi
nhanh chóng
Giống như viên ngọc sương,
Giống như nước đựng trong lòng
tay ông.
Ngay cả ngọc trai cũng mờ nhạt
trước giọt sương sớm trên nhành cỏ. Buổi sáng mặt trời lên và những giọt sương
long lanh trên nhành cỏ đánh bại những viên ngọc thực... giống như viên ngọc
sương. Nó trông giống như viên ngọc, nhưng chỉ về dáng vẻ thôi; thực tế, nó là
một giọt sương. Nó có thể sống sót được bao lâu? Một cơn gió thoảng nhẹ qua và giọt
sương sẽ tan biến trong cát bụi. Chỉ một tia mặt trời và giọt sương sẽ bay
hơi... Giống như viên ngọc sương, Giống như nước đựng trong lòng tay ông.
Hay nó giống như khi bạn cố gắng
giữ nước trong bàn tay bạn: bàn tay tràn đầy nước nhưng không mấy chốc nước bắt
đầu lọt qua kẽ ngón tay bạn. Thậm chí không đến một khoảnh khắc trôi qua và tay
bạn trống rỗng. Khi bạn cảm thấy rằng mọi thứ được đạt tới, tay bạn đã bắt đầu
trở thành trống rỗng.
Nhìn sâu vào cái nhất thời này
đi - đó là bước đầu tiên hướng tới nhìn vào cái vĩnh hằng. Người đã nhận ra cái
nhất thời đã tìm ra tiêu chí để nhận ra cái vĩnh hằng. Người đã không nhận ra
cái nhất thời sẽ không bao giờ có thể nhận ra cái vĩnh hằng.
Bạn phải học việc nhận ra cái
nhất thời. Nhìn sâu vào mọi cái tới và đi, cái tồn tại và biến mất, cái biểu hiện
và tan biến. Đoá hoa nở vào buổi sáng và tàn đi vào buổi tối. Nhìn cẩn thận vào
cái nhất thời này: bây giờ có cái đẹp, ngày mai nó sẽ không có đó. Tuổi thanh
niên vừa mới có đó và nó qua rồi. Dần dần, dần dần một điều sẽ trở nên rõ ràng
với những người nhìn cẩn thận vào cái nhất thời - rằng thật điên khùng mà đi
tìm chân lí ở đó. Làm sao có thể có chân lí trong cái mà không kéo dài được? Định
nghĩa về chân lí là cái bao giờ cũng có đó. Định nghĩa về chân lí là luồng chảy
thường hằng, không phá huỷ được. Không cái gì có thể xảy ra cho nó. Nó bao giờ
cũng là như nó luôn thế, không thay đổi. Không thể có sự ngắt quãng trong tính
thường hằng của nó. Nhưng để biết điều này, trước hết bạn phải nhìn sâu vào vào
cái nhất thời. Bằng việc nhận ra cái nhất thời, dần dần, dần dần việc nhận ra
cái vĩnh hằng sẽ bắt đầu nảy sinh. Thấy cái vô tích sự, dần dần, dần dần bạn sẽ
bắt đầu có thoáng nhìn về ý nghĩa. Thấy cái sai, bạn sẽ nhận ra cái đúng. Không
có cách khác.
Và nhớ một điều nữa, bởi vì nó
thường hay bị hiểu lầm. Khi tôi nói rằng thế giới này là nhất thời, đừng có quá
nhanh nhẩu đồng ý với điều đó. Hay khi Sahajo nói: “Trong giấc mơ, trong một
khoảnh khắc, năm mươi năm có thể trôi qua. Khi mở mắt ra đấy tất cả là giả tạm;
việc sống trong thân thể cũng vậy.” Đừng ngay lập tức đồng ý bởi vì người đồng
ý với điều đó ngay lập tức sẽ không có kinh nghiệm của riêng người đó. Khi nó
là kinh nghiệm riêng của bạn, chỉ thế thì nó sẽ đưa bạn hướng tới chân lí.
Không cái gì có thể xảy ra bằng kinh nghiệm vay mượn.
Theo một cách nào đó, bạn phải
đã nghe nói rằng thế giới này là nhất thời, nhưng điều đó không giúp cho bạn biết
cái gì về tính vĩnh hằng của chân lí. Bạn đã không thấy cái nhất thời, bạn mới
chỉ nghe thấy nó. Bạn đã không nhận ra nó, bạn đã tin nó. Ai đó khác đã nói về
nó, nó là vay mượn, cũ rích. Kinh sách nói điều đó, các hiền nhân nói điều đó,
nhưng nó đã không tới qua kinh nghiệm riêng của bạn. Nó không phải là kinh nghiệm
trưởng thành. Bạn đã không biết nó bởi việc tự mình trải qua kinh nghiệm, bạn
đã giả định nó. Không ai biết chân lí qua giả định. Việc biết là kinh nghiệm. Với
niềm tin, nhiều nhất dốt nát của bạn sẽ được che phủ; nó sẽ không biến mất.
Thế giới giống như ngôi sao mai
cuối cùng.
Sahajo nói: Nó đang tan biến đi
nhanh chóng
Giống như viên ngọc sương,
Giống như nước đựng trong lòng
tay ông.
Từ lâu đài bằng khói
Tâm trí tạo ra vương quốc của
nó:
Nó tất cả đều là bóng ma.
Sahajo nói: Nó không bao giờ có
thể thực.
Nó toàn là trò chơi của tâm trí
- Từ lâu đài bằng khói - dường như ai đó làm ra lâu đài bằng khói. Đôi khi bạn
có thể thấy mây trên trời tạo thành nhiều hình mẫu và hình dạng. Chúng có thể lấy
biết bao nhiêu hình thù. Đôi khi dường như là một phần đám mây trở thành con
voi, nhưng tiếp tục quan sát cẩn thận: bạn khó mà thấy nó trước khi con voi đã
tan tác. Con voi đám mây tồn tại được bao lâu? Đôi khi dường như là một lâu đài
đã được hình thành trong mây, một lâu đài lớn, nhưng ngay khi bạn nhìn vào nó
lâu đài đang tan biến đi.
Từ lâu đài bằng khói tâm trí tạo
ra vương quốc của nó. Mọi vương quốc này của tâm trí đều là mơ; chúng là tưởng
tượng và khao khát, ham muốn của tâm trí - chúng tất cả đều là lâu đài khói.
Sahajo đã dùng những biểu tượng
rất tươi tắn, duy nhất. Chúng là những biểu tượng trinh nguyên. Chúng không phải
là những biểu tượng đã quen dùng. Cô ấy phải đã lựa chọn chúng từ hiểu biết
riêng của mình. Cô ấy không phải là nhà thơ, cô ấy là nhà huyền môn. Cô ấy
không trích dẫn thơ, bản thân cô ấy là thơ ca. Cô ấy không liên quan gì tới lời;
điều cô ấy đã biết trong im lặng và trống rỗng nổi lên hướng về bạn dựa trên sự
hỗ trợ của lời. Bản thân lời giống như thuyền giấy: trong chúng cô ấy đã gửi
cho bạn kinh nghiệm về cái trống rỗng. Lời là sứ giả, chúng là nhân viên bưu điện.
Không phải là vấn đề tô điểm cho chúng, các biểu tượng này là các biểu tượng
trinh nguyên.
Từ lâu đài bằng khói... người
đã thấy những ảo tưởng này của tâm trí đã thấy rằng chúng là khói cả. Biết bao
nhiêu trò chơi tâm trí đã dựng lên! Làm sao nó giả định cái không có đó, làm
sao nó quên cái đang có đó. Và nó đã bị thất bại mọi lần mà nó vẫn không tỉnh dậy.
Bất kì cái gì bạn đã từng ham muốn bạn đều không đạt được nó, nhưng dầu vậy bạn
vẫn không thể thức dậy. Điều ấy thật đáng ngạc nhiên. Bạn vừa mới bắt đầu thức
dậy và tâm trí liền tạo ra một lâu đài mới. Nó nói, “Cái cũ đã chứng tỏ là sai
rồi, không nghĩ về nó nữa. Chính là tại người khác đã không cho nó xảy ra; mình
có nhiều kẻ thù. Tình huống không thuận lợi. Vận may chưa tới với mình. Mình
chưa làm đủ nỗ lực - đó là lí do tại sao mình không thu được điều mình muốn.”
Tâm trí chưa bao giờ nói với bạn
rằng chính bản chất của ham muốn là thất bại. Tâm trí nêu cho bạn lí do và bảo
bạn rằng bạn thất bại bởi vì các lí do đó: “Nếu mình đã cố gắng toàn bộ, thế
thì mình chắc đã thành công. Nhưng mình đã không làm nỗ lực này, mình đã không
ráng sức cho đủ, kẻ cạnh tranh mình tinh ranh hơn, láu lỉnh hơn. Mình là người
đơn giản: mình cũng phải tinh ranh lên.” Tâm trí sẽ tìm ra cả nghìn lẻ một cớ
cho thất bại của bạn. Nhưng nó không để cho bạn thấy một điều - rằng bản chất của
ham muốn là thất bại, rằng ham muốn chưa bao giờ được hoàn thành. Nó cho bạn
cái cớ. Nó nói, “Đừng phạm phải cùng lỗi lần này lần sau. Lần sau, khi mình
tranh đua, thế thì tự chuẩn bị tốt hơn.”
Nhưng không ai thành công cả.
Alexanders và Napoleon cũng đã rời bỏ thế giới này với bàn tay trắng. Người giầu
cũng chết nghèo. Người ngồi trên ngai vàng cao xa và ở vị trí cao xa cũng là kẻ
ăn mày ở bên trong. Mọi người trở thành các học giả lớn, họ biết nhiều, vậy mà
bóng tối bên trong họ không biến mất. Điều đó giống như câu ngạn ngữ: Bóng tối
dưới cây đèn.
Từ lâu đài bằng khói
Tâm trí tạo ra vương quốc của
nó:
Nó tất cả đều là bóng ma.
Sahajo nói: Nó không bao giờ có
thể thực.
Hệt như ai đó thấy trăng trong
hồ, trăng là thực, nhưng trăng trong hồ không thực. Hay khi bạn thấy phản xạ của
chính mình trong gương - phản xạ trong gương có thể trông đẹp vô cùng, dầu vậy
nó không thật. Nó tất cả đều là bóng ma... và như cái bóng... Nó không bao giờ
có thể thực. Chân lí không bao giờ là cái bóng cả - thế giới là cái bóng của
chân lí. Bất kì khi nào bạn tìm thấy cái gì đó mà không thực nhưng có vẻ như là
thực, điều đó có nghĩa là nó chỉ là cái bóng. Bạn đang chạy và cái bóng của bạn
đang chạy theo bạn. Nếu tôi cố bắt lấy bóng của bạn thế thì tôi sẽ không thể
nào bắt được bạn, mặc dầu điều ngược đúng: nếu tôi bắt lấy bạn, thế thì cái
bóng của bạn cũng sẽ bị bắt.
Tôi đã nghe: Một đứa nhỏ đang
chơi trong sân. Nó đang cố gắng bắt lấy bóng của nó. Lúc đó có thể là buổi sáng
có mặt trời trong ngày đông - nó bò và cố bắt lấy bóng của nó. Một fakir đang đứng
trước cửa xin ăn và ông ta bắt đầu quan sát. Đứa trẻ đang cố bắt lấy cái bóng của
nó nhưng nó không thể nào làm được, bởi vì bất kì khi nào nó di chuyển cái bóng
cũng di chuyển theo. Thế rồi nó di chuyển với quyết tâm nhiều hơn, nhưng cái
bóng cũng vẫn di chuyển theo. Đứa trẻ bắt đầu khóc, nước mắt lã chã rơi từ mắt
nó. Nó cảm thấy thất bại. Mẹ nó cố gắng an ủi nó, rằng không thể nào bắt được
cái bóng. Nhưng làm sao đứa trẻ hiểu nổi về cái bóng hay ảo tưởng? Đứa trẻ nói,
“Con muốn bắt nó cơ! Nếu con không bắt được nó thế thì mẹ bắt nó cho con đi,
nhưng con muốn nó.” Đứa trẻ này không sẵn sàng chịu thất bại.
Ông fakir quan sát tất cả những
điều này, đứng ở cửa. Ông ta đi vào và bảo bà mẹ đợi đấy. Ông ta nắm tay đứa trẻ
và đặt tay nó lên đầu nó và nói, “Thấy chưa?” Ngay khi tay nó đặt lên đầu đưa
trẻ thấy rằng điều đó cũng trong cái bóng. Đứa trẻ bắt đầu cười khanh khách
thích chí bởi vì nó đã bắt được cái bóng của mình.
Không có cách khác để bắt được
cái bóng. Nếu bạn muốn bắt cái bóng, nó chỉ có thể bị bắt ở bên trong bản thân
cái bóng. Các chính khách lớn, những người giầu có, những người được kính trọng
- những người nghĩ rằng họ đã bắt giữ được cái gì đó trên thế giới tất cả đều
đơn giản đặt tay họ lên đầu họ. Họ dường như đã bắt được cái bóng. Những người ở
Delhi, ở London, ở Washington đều là những người đang ngồi đó với tay để lên đầu
và cái bóng dường như đã bị bắt. Những người đã không thể bắt được nó đang kêu
khóc - bởi vì họ đã cố gắng bắt bóng một cách trực tiếp. Nhưng cả hai đều hành
động như người ngốc. Việc khóc lóc của đứa trẻ này là ngốc nghếch. Thế rồi nó
cười to, nó hạnh phúc rằng nó đã bắt được cái bóng, nó đã thắng - điều đó nữa
cũng ngốc tương đương. Nhưng cái ngốc thứ hai này còn nguy hiểm hơn cái ngốc thứ
nhất, bởi vì trong cái ngốc thứ nhất vẫn còn một loại thực tế, nhưng trong cái
ngốc thứ hai không có gì.
Nó tất cả đều là bóng ma,
Sahajo nói: Nó không bao giờ có thể thực. Cái bóng cũng có một loại tồn tại của
riêng nó. Sau rốt, nó có đó. Nhưng nó là cái bóng, không phải là thực tại - đừng
trở nên bị dính líu với cố gắng bắt nó.
Tôi đã nghe rằng trong ngày nhịn
ăn lễ Ramadan, Mulla Nasruddin đã đi dọc theo một con đường yên tĩnh. Người Mô
ha mét giáo lo âu chờ đợi mặt trăng tới; khi họ thấy mặt trăng việc nhịn ăn sẽ
kết thúc. Anh ta dừng gần một chiếc giếng để uống nước và thả gầu xuống giếng,
bởi vì anh ta nghĩ rằng mặt trăng ở trong giếng. Anh ta nói, “Lạy trời! Đây mới
là vấn đề! Mọi người cứ nhìn lên trời, còn mặt trăng bị mắc kẹt ở đây trong cái
giếng này. Nếu không ai kéo nó lên thế thì cả triệu người sẽ chết đói.” Cho nên
anh ta quên mất ý tưởng về việc uống nước và anh ta cố gắng kéo mặt trăng lên
khỏi giếng bằng chiếc gầu. Đấy là một công việc rất khó bởi vì ngay khi nước bị
khuấy động mặt trăng bắt đầu tan vỡ.
Cũng hệt điều đó xảy ra cho thế
giới này: nếu bạn cố gắng bắt giữ mọi thứ, chúng bắt đầu tán loạn. Nếu bạn cố gắng
giữ chúng trong nắm tay bạn, chúng tỏ ra giống như thuỷ ngân, chúng tuột khỏi
tay bạn.
Anh ta cố gắng vất vả, anh ta
thử hết cách này đến cách khác, đưa chiếc gầu rất cẩn thận. Cuối cùng, một khoảnh
khắc tới khi cái bóng của mặt trăng xuất hiện trong nước của chiếc gầu của anh
ta. Anh ta nói, “Bây giờ mình đã làm được rồi, mình đã làm một hành động đức hạnh.
Bây giờ mình sẽ kéo nó ra.”
Anh ta cố gắng vất vả để kéo nó
lên nhưng trong cái chao đảo của việc cố gắng kéo mặt trăng lên, sợi dây thừng
mắc vào một tảng đá dưới giếng. Anh ta kéo thật mạnh, mà nó không chịu lên. Anh
ta nghĩ, “Có vẻ như nó nặng quá. Mình không thể nào làm một mình được, nhưng dường
như không có ai ở xung quanh đây cả. Mình phải làm việc này một mình, mình phải
dùng thêm sức mạnh.” Anh ta kéo mạnh hơn. Khi anh ta kéo mạnh hơn chiếc dây đứt
tung - như thường xảy ra. Khi dây đứt anh ta ngã nhào lên tảng đá lát gần giếng.
Đầu anh ta đập mạnh vào đá và khi anh ta mở mắt ra... anh ta thấy mặt trăng
trên trời. Anh ta nói với mặt trăng, “Được rồi. Cho dù ta có bị thương, ít nhất
mi cũng được tự do và mạng sống của hàng triệu người đã được cứu.”
Nhưng có rất ít người được may
mắn như thế này - để cho dây thừng bị mắc vào đá, bị ngã đập đầu xuống đất và mắt
mở ra hướng lên trời nơi họ sẽ thấy mặt trăng thực.
Chỉ khi bạn hoàn toàn thất bại
trong cuộc sống bạn sẽ quay và bắt đầu nhìn tới điều thiêng liêng. Khi cuộc sống
là thất bại hoàn toàn và bạn ngã sóng xoài trên đất, chỉ thế thì mắt bạn mới hướng
lên trời. Bằng không bạn sẽ tiếp tục bắt giữ mặt trăng trong giếng. Khi bạn không
thể bắt được nó, bạn nghĩ rằng mọi điều bạn cần là thêm một chút ít kĩ năng nữa.
Nhưng phản xạ của mặt trăng là
không thực, vậy mà chúng dường như là thực. Đó là lí do tại sao các nhà tiên
tri đã gọi thế giới này là maya, ảo tưởng. Điều thiêng liêng là thực tại còn thế
giới này là phản xạ của nó. Phản xạ này của chân lí được gọi là maya, ảo tưởng.
Từ lâu đài bằng khói
Tâm trí tạo ra vương quốc của
nó:
Nó tất cả đều là bóng ma.
Sahajo nói: Nó không bao giờ có
thể thực.
Thượng đế là một, có hay không
thuộc tính -
Tôi đã nghĩ, đã hiểu và đã thấy.
Thầy tôi đã cho tôi đôi mắt,
Và bằng việc thấy tôi được thuyết
phục.
Thượng đế là một, có hay không
thuộc tính - Tôi đã nghĩ, đã hiểu và đã thấy. Nhưng chừng nào bước đầu tiên của
cuộc hành trình hướng tới điều thiêng liêng còn chưa được thực hiện, Thượng đế
vẫn chỉ là một từ. Chừng nào mà thế giới này còn chưa trở thành vô tích sự, điều
thiêng liêng không thể trở thành có ý nghĩa được.
Hai ngày trước đây một người bạn
đã ở cùng tôi, người này đem theo cả đứa con tới. Anh ta nói, “Con tôi rất
thông minh. Và điều tốt là nó đã nhận tính chất sannyas, nhưng cả hai điều này
cần phải được chăm nom tới - thế giới và tính chất sannyas. Nó nên thành công
trong thế giới này và cũng thành công trong thế giới kia.” Trên bề mặt điều ấy
dường như là hoàn toàn đúng, rằng bạn nên thành công trong thế giới này và cũng
thành công trong thế giới kia - nhưng chừng nào bạn vẫn thấy thành công trong
thế giới này là thành công, bạn sẽ không tìm kiếm thành công trong thế giới
kia.
Tôi đồng ý rằng không cần phải
thoát li khỏi thế giới. Bạn có thể là một sannyasin trong khi vẫn sống toàn bộ
trong thế giới. Nhưng khi bạn sống trong thế giới bạn phải nhận biết về một điều:
rằng thành công trong thế giới này là không thành công. Nó là mặt trăng trong
giếng - sự phản xạ. Người ta phải sống trong thế giới này và là một sannyassin,
không có cách nào khác. Bạn còn có thể sống ở đâu được nữa? Thế giới này là ở mọi
nơi. Mọi nơi đều là sự bành trướng của thế giới này. Bạn sẽ trốn thoát đi đâu?
Không có chỗ nào để trốn thoát đi cả. Nhưng vâng, có chỗ để thức dậy.
Thức dậy có nghĩa là bạn có thể
thấy rằng đuổi theo mọi thứ của thế giới này là không có mặt trăng thực. Nếu bạn
phải ở trong thế giới, thế thì ở trong nó đi. Nếu đám đông đang đi đằng kia thế
thì ở cùng với đám đông đi, không có gì sai trong đó cả. Bởi vì phỏng có ích gì
trong việc đảo lộn đám đông một cách không cần thiết? Với họ, họ nghĩ rằng
thành công là có thể trong thế giới. Đây là điều mà vị fakir kia đã làm bằng
cách đặt tay đứa trẻ lên đầu nó. Nó là một đứa trẻ - làm cho nó khóc một cách
không cần thiết phỏng có ích gì? Nó sung sướng cố bắt lấy cái bóng nó. Cho nên
vị fakir giở thủ đoạn: ông ta đặt tay đứa trẻ lên đầu nó và cái bóng bị bắt.
Nhưng bạn phải thức dậy với
chân lí rằng thành công trong thế giới này không phải là thành công chút nào. Tất
cả cái gọi là thành công này đều là nỗ lực phí hoài. Tất cả cái gọi là thành
công này đều là việc phung phí thời gian. Tất cả những thành công này có nghĩa
là bạn bán bản thân bạn để mua về rác rưởi. Rồi một ngày nào đó bạn sẽ thấy rằng
bạn đã mua và cứ mua cả chợ về nhà bạn, nhưng bạn đã mất hút đâu đó trong chợ.
Mọi thứ khác đã được cứu chỉ trừ bạn.
Thượng đế là một, có hay không
thuộc tính -
Tôi đã nghĩ, đã hiểu và đã thấy.
Nếu những cái nhất thời của thế
giới này trở nên rõ ràng với bạn thế thì mắt bạn hướng về Thượng đế và mở ra.
Và mắt này có thể thấy rằng có hay không có thuộc tính, Thượng đế là một. Bạn
có thể thấy rằng có hay không có thuộc tính, Thượng đế là một. Thượng đế của
người Hindu, người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo đều được thấy như là một.
Những người thấy các thượng đế khác nhau, biết rằng mắt của họ vẫn còn chưa
nhìn về điều thiêng liêng đâu - vì Thượng đế là một. Mặt trăng là một, giếng có
hàng nghìn chiếc. Và trong hàng nghìn chiếc giếng có hàng nghìn loại phản xạ. Một
giếng là giếng Mô ha mét giáo, sự phản xạ trong nó mang tính Mô ha mét giáo. Một
giếng là giếng Hindu, sự phản xạ trong nó mang tính Hindu. Trong một giếng có
nước bẩn, trong một giếng có nước sạch, cho nên cũng có những khác biệt trong
phản xạ. Một giếng được xây dựng bằng đá cẩm thạch, một giếng là bùn bình thường
và không có đá trong nó. Những sự khác biệt này có thể tạo ra thay đổi trong việc
phản xạ. Nhưng cái được phản xạ bao giờ cũng là một. Việc phản xạ có thể có nhiều,
nhưng chân lí là một.
Thượng đế là một, có hay không
thuộc tính. Bạn có thể gọi nó là sagun, có thuộc tính, bởi vì tất cả đều là thuộc
tính của nó; bạn có thể gọi nó là nirgun, không thuộc tính, bởi vì cái có mọi
thuộc tính thì không có thuộc tính nào. Cái một mà có mọi thuộc tính là ở ngoài
các thuộc tính. Bạn có thể nói rằng tay ngài tràn đầy, bạn có thể nói rằng tay
ngài trống rỗng - bởi vì tràn đầy và trống rỗng là hai tên cho cùng một trạng
thái. Nếu bạn muốn, thấy ngài trong mọi mầu lục, nhận ra ngài trong mọi đoá
hoa, thấy ngài trong mọi vì sao. Và nếu bạn muốn, tìm sự tồn tại vô dạng ẩn kín
đằng sau mọi mầu lục, sau các vì sao và mặt trăng, sau núi non. Nếu bạn muốn,
tìm ngài trong biểu hiện của ngài hay trong cái tinh tuý của ngài. Nếu bạn thấy
cái tinh tuý của ngài, ngài không có thuộc tính; nếu bạn thấy cách diễn đạt của
ngài, ngài có thuộc tính. Nếu bạn thấy quần áo của ngài chúng rất đáng yêu, nhiều
mầu sắc. Nếu bạn đi sâu hơn vào trong ngài mọi mầu sắc biến mất, có chân không
tối thượng.
Thượng đế là một, có hay không
thuộc tính - Tôi đã nghĩ, đã hiểu và đã thấy. Nhưng kinh nghiệm này đạt được bởi
việc thấy. Nếu nó có thể tìm được bằng một mình việc nghĩ thế thì các nhà tư tưởng
chắc đã tìm thấy nó rồi. Nó không đạt được qua một mình việc nghĩ. Nhiều người
liên tục nghĩ về Thượng đế, nhưng việc nghĩ của họ chằng đem họ tới đâu cả bởi
vì suy nghĩ chỉ là mạng nhện của tâm trí. Cái được tâm trí nắm chỉ là thế giới
này. Nỗ lực để nắm bắt điều thiêng liêng bằng suy nghĩ cũng hệt như là ai đó cố
gắng bắt giữ cái bóng và không thể nào bắt được nó.
Ý nghĩ bản thân nó là cái bóng.
Làm sao bạn có thể bắt được chân lí bằng cái bóng? Tâm trí phải trống rỗng đi,
không có ý nghĩ nữa - đây là nghĩa của thiền. Không ai đã bao giờ kinh nghiệm
được điều tối thượng bằng suy nghĩ. Điều tối thượng được biết tới qua thiền.
Thiền là trạng thái vô ý nghĩ. Khi mọi chuyển động của tâm trí bạn dừng lại và
không ý nghĩ nào nảy sinh, khi hồ tuyệt đối im lặng, im lặng sâu lắng, thế thì
bạn được nối với điều tối thượng.
Tôi đã nghĩ, đã hiểu và đã thấy.
Sahajo đang dùng ba từ: thấy, hiểu và nghĩ. Người nào đó đang cố biết chân lí bằng
suy nghĩ. Họ không thể biết nó được. Họ trở thành các triết gia, họ tạo ra triết
học, họ thảo luận về những triết lí lớn. Nếu bạn nói với họ về suy nghĩ thế thì
họ sẽ trải rộng cái lưới ý nghĩ to lớn ra, nhưng trong lưới ý nghĩ của họ con
cá của điều thiêng liêng không bao giờ bị bắt. Dù cái lưới đó có lớn đến đâu,
con cá không bao giờ bị bắt.
Thế rồi có một số người cố kinh
nghiệm nó bằng việc hiểu. Việc hiểu tới với kinh nghiệm về cuộc sống. Cuộc sống
có kinh nghiệm vô hạn và điều tinh tuý của mọi kinh nghiệm là hiểu biết. Thanh
niên muốn tìm Thượng đế bằng suy nghĩ, người già muốn tìm Thượng đế bằng hiểu
biết. Ông ta nói, “Chúng tôi đã thấy thế giới” - nhưng thế giới là cái bóng.
Làm sao kinh nghiệm về cái bóng đưa bạn tới điều tối thượng được? Người ta phải
tự do với suy nghĩ, người ta cũng phải tự do với hiểu biết. Ý nghĩ được nuôi dưỡng
bằng giáo dục của bạn. Đó là lí do tại sao khi ai đó từ đại học tới, anh ta đầy
những ý nghĩ lớn lao. Người già cười anh ta. Họ nói, “Đợt một chút đi. Nhìn thế
giới, thế thì anh sẽ biết.”
Tôi đã nghe: Một người được bằng
tiến sĩ về nông nghiệp tại Đại học Delhi. Xem như kì thi cuối cùng cho bằng cấp
của mình, anh ta được phái tới một làng để làm một báo cáo đầy đủ về một nông
trại để kiểm tra xem liệu tri thức của anh ta có tính thực tế hay không. Anh ta
làm một báo cáo về mọi điều: bao nhiêu cây cối, qui mô mùa vụ, cánh đồng rộng
bao nhiêu héc ta, qui mô mùa vụ theo số hec ta cánh đồng đã tạo ra, bao nhiêu hạt
giống đã gieo, mùa màng được bán như thế nào. Anh ta làm mọi tính toán, nhưng
anh ta không thể nào hiểu được một điều. Người nông dân cười vào cách anh ta
làm việc và không giúp anh ta chút gì. Ông ta nói, “Anh là người có thông tin tốt
đấy.”
Thế rồi nhìn vào một cây anh
chàng sinh viên nói, “Cái cây này đang ở trong trạng thái mà tôi cho rằng nó sẽ
không cho táo năm nay.”
Người nông dân đáp, “Tôi cũng
chắc chắn rằng nó sẽ không cho táo bởi vì đây không phải là cây táo.” Theo cách
này người nông dân cười vào cái thống kê của anh chàng này.
Có một con dê trong một cái lều,
một con dê già với râu dài. Chàng thanh niên chưa hề bước chân ra khỏi cổng trường
đại học. Anh ta đã học nông nghiệp qua sách vở, anh ta đã dành cả đời trong thư
viện đại học cho nên anh ta không thể nào nhận ra con vật này. Mà nó còn có râu
nữa! Anh ta hỏi, “Ai đây thế này?”
Ông nông dân già nói, “Anh nói
cho tôi nó là ai đi. Anh là người thông thái. Tôi chỉ là một nông dân nghèo,
làm sao tôi biết được?”
Chàng sinh viên gửi một bức điện
về trường đại học và trong đó anh ta viết một mô tả về con dê này: nó già, nó
có râu; xin nói cho tôi biết nó là ai.
Thông tin tới, “Cậu ngốc, nó là
ông nông dân! Cậu thậm chí không có khả năng nhận ra ông ta.”
Nó già, nó có râu... vậy người
giáo vụ cứ nghĩ rằng đấy phải là người nông dân. Ông ta nghĩ rằng cậu sinh viên
này thậm chí không có khả năng nhận ra được người nông dân - thế thì quá lắm!
Một cuộc sống được sống qua
sách vở, một cuộc sống là từ kinh nghiệm về việc sống. Từ sách vở bạn có thể
thu được ý tưởng, không phải là hiểu biết. Hiểu biết thu được bằng những kinh
nghiệm tốt và xấu về cuộc sống. Đó là sự khác biệt giữa tri thức và trí huệ, giữa
suy nghĩ và hiểu biết. Nhưng Sahajo nói rằng nếu điều tối thượng có thể được biết
tới qua một mình hiểu biết thôi, thế thì mọi người già chắc đã biết nó rồi. Nếu
điều tối thượng có thể được biết tới bằng suy nghĩ, thế thì mọi nhà tư tưởng chắc
đã biết nó rồi. Nhưng người già dường như không đạt được tới nó, những nhà tư
tưởng dường như không đạt được tới nó, người trẻ dường như không đạt được tới
nó. Thế thì điều thứ ba được cần tới.
“Tôi đã thấy, bằng suy nghĩ và
hiểu biết.” Suy nghĩ đã được dùng, hiểu biết đã được dùng, nhưng cả hai đều phục
vụ chủ định của chúng cho việc thấy này.
Tôi đã nghĩ, đã hiểu và đã thấy.
Thầy tôi đã cho tôi đôi mắt,
Và bằng việc thấy tôi được thuyết
phục.
Thầy không cho bạn ý nghĩ. Hay
nếu thầy cho ý nghĩ, thầy cho chúng để giúp bạn mở mắt nhắm của bạn ra. Thầy
cũng không cho bạn hiểu biết - nhưng nếu thầy cho hiểu biết, thầy cho nó để hỗ
trợ bạn để cho bạn có thể mở mắt mình ra. Điểm thực chất là mở mắt bạn.
Con mắt thấy thế giới là khác
con mắt thấy điều thiêng liêng. Cho nên dù bạn có thể trở nên nói giỏi trong hiểu
và biết thế giới, bạn sẽ không có khả năng biết Thượng đế với cùng con mắt này.
Nó là chiều hướng khác. Và cái gì đó có thể xảy ra chỉ nếu mắt bạn mở.
Làm sao bạn có thể mở được mắt
bạn? Giúp đỡ mà thế giới có thể cho chỉ là giúp đỡ phủ định. Nếu bạn không
thành công trong thế giới này, bạn có thể biết tới thống khổ, bạn có thể biết tới
khổ, và qua khổ, đau đớn và sai lầm này mà khao khát có thể nảy sinh trong tâm
trí bạn để tìm kiếm cái ở bên ngoài thế giới này. Chỉ giúp đỡ ngần này có thể
được nhận được từ thế giới.
Bằng suy nghĩ bạn có thể hoài
nghi về thế giới, nhưng bạn sẽ không tìm thấy tin cậy vào điều thiêng liêng.
Nhưng nếu bạn hoài nghi thế giới, thế thì sẽ dễ dàng để đi tới tin cậy trong điều
thiêng liêng, nó sẽ là tự nhiên. Ít nhất bạn tự do với điều không thực chất cho
nên có một không gian cho nghĩa. Giống như ai đó muốn tạo ra vườn: trước hết
anh ta nhổ cỏ và cỏ dại, nhổ bật gốc lên. Thế rồi anh ta đào xới sâu xuống đất
và vứt bỏ những rễ vô giá trị. Theo cách này cái vườn vẫn chưa được tạo ra đâu,
nhưng bây giờ có thể làm ra cái vườn. Nếu bạn để cho cỏ dại còn đó và thế rồi cố
gắng làm vườn, nó sẽ bị phá huỷ bởi vì cỏ dại mọc nhanh hơn. Cái sai bao giờ
cũng che lấp cái đúng. Nếu bạn bỏ lại cỏ và cỏ dại và bạn gieo hạt hoa nào đó,
thế thì bạn sẽ không bao giờ có thể biết được liệu hạt mầm hoa đã được gieo
chưa.
Một người mua ngôi nhà ngay cạnh
nhà của Mulla Nasruddin. Vườn của Nasruddin rất đẹp, cho nên người này nghĩ anh
ta cũng thích làm vườn. Anh ta nói với Nasruddin, “Tôi đã gieo một vài hạt giống
và bây giờ hạt giống đã mọc lên, nhưng cỏ cũng mọc theo. Làm sao tôi có thể nhận
ra được cái nào là cái nào, cái nào là cỏ và cái nào là hoa mọc ra?”
Nasruddin nói, “Rất đơn giản -
nhổ hết cả hai loại đi. Bất kì cái gì mọc ra là cỏ, còn bất kì cái gì không mọc
ra nữa, biết rằng đấy là thật, nó là hạt mầm. Người ta không cần gieo cỏ, nó mọc
theo cách riêng của nó. Cho nên nhổ bật rễ cả hai lên, thế thì ông biết chắc chắn
cái nào là cái nào.”
Nếu bạn muốn làm vườn thế thì
việc chuẩn bị là phủ định: bạn phải nhổ hết cỏ lên, đào hết rễ và làm sạch đất.
Nhưng vườn vẫn chưa sẵn đấy, đây mới chỉ là việc bắt đầu làm vườn. Bạn sẽ phải
gieo hạt giống.
Suy nghĩ và hiểu biết có thể
làm chừng này thôi - chúng có thể tạo ra hoài nghi về thế giới, có vậy thôi.
Nhưng cho dù chừng này xảy ra, điều đó là may mắn rồi. Bởi vì chín mươi chín
trong số một trăm người, ngay cả ngần này cũng không xảy ra. Thậm chí đôi khi
dường như là hiểu biết dẫn người ta đi lạc lối. Không chỉ người trẻ, mà ngay cả
người già cũng trở nên bị mắc vào trong thế giới. Trong người trẻ còn có chút
ít cảm giác để nhận tính chất sannyas, trong người già thậm chí điều đó không
còn lại. Với người già cái chết đang tới gần và với một lực lớn như thế ông ta
nghĩ: “Vài ngày còn lại, mình phải tận hưởng chúng. Chỉ vài ngày còn lại... bây
giờ sao phải bận tâm về Thượng đế và những điều như vậy làm gì? Mình sẽ nhìn
vào điều đó lúc khác... cuộc đời mình đã trôi qua, cho nên với những ngày ít ỏi
này mình phải tận hưởng cuộc sống thêm chút nữa.” Không có giới hạn nào cho cái
ngu ngốc của cái gọi là những người khôn ngoan. Đôi khi thanh niên dám và đi
trên con đường của tính chất sannyas; người già không thể thu được dũng cảm.
Đó là lí do tại sao bạn sẽ ngạc
nhiên mà biết rằng mọi sannyasin vĩ đại của thế giới đều trẻ tuổi khi họ rời bỏ
gia đình mình. Phật và Mahavira đều trẻ - bạn đã bao giờ thấy một ông già trở
thành sannyasin theo cùng cách như Phật và Mahavira đã làm chưa? Bạn sẽ không
thể nào tìm ra được một cái tên. Người già trở thành có kinh nghiệm trong thế
giới này đến mức kinh nghiệm của họ nhấn chìm họ.
Cho nên bạn không thể đạt được
bằng suy nghĩ hay kinh nghiệm một mình. Cả việc suy nghĩ và kinh nghiệm về thế
giới này đều vô dụng. Vậy mà điều này có thể xảy ra: bằng cách dùng cả hai, bạn
có thể đi tới biết rằng có một con mắt bên trong bạn mà vẫn còn nhắm, rằng có
con mắt thứ ba vẫn còn nhắm. Nếu nó mở ra, thế thì có lẽ bạn có thể có thoáng
nhìn về điều thiêng liêng, có lẽ bạn có thể có thoáng nhìn về chân lí.
Thầy tôi đã cho tôi đôi mắt. Thầy
không cho bạn ý nghĩ. Thầy cũng không cho bạn hiểu biết. Thầy cho bạn năng lực
để thấy, thầy cho bạn đôi mắt. Làm sao thầy làm được việc này? Điều này có chút
ít tinh tế và tế nhị.
Làm sao thầy cho bạn đôi mắt?
Trước hết thầy cho bạn cơ hội để thấy qua mắt thầy. Cũng hệt như nếu ai đó nâng
một đứa nhỏ trên vai mình và nói, “Thấy không?” Đứa trẻ có thể thấy xa bằng việc
ngồi trên vai ai đó, và khi đứa trẻ đang đứng trên mặt đất, nó không thể trông
thấy gì. Khi nó ngồi trên vai ai đó nó có thể thấy xa. Thầy trước hết nâng bạn
lên trên vai thầy và cho bạn vài cơ hội để thấy qua mắt thầy. Thầy để mắt thầy
trước bạn và nói, “Nhìn qua mắt ta một chút.”
Chẳng hạn, như tôi nói với bạn,
tôi không nói để làm cho bạn nghĩ. Điều gì có thể xảy ra bởi việc làm cho bạn
nghĩ? - bạn đã có quá nhiều ý nghĩ rồi. Trong khi tôi nói với bạn là tôi đang
cho bạn một cơ hội để thấy qua mắt tôi. Đây cũng là một cách nhìn, người ta có
thể thấy theo cách này. Nếu bạn có thoáng nhìn qua mắt tôi, thế thì nó sẽ tạo
ra khao khát trong mắt bạn. Nếu một khi bạn có thể thấy qua mắt ai đó thế
thì... Mắt người khác không phải là mắt của riêng bạn, nhưng việc nhận ra có thể
xảy ra qua mắt người khác cũng có thể là sự bắt đầu việc mở mắt riêng của bạn.
Hiểu điều đó theo cách này: nó
giống như tia chớp trong đêm tối. Có một tia chớp loé và trong khoảnh khắc đó bạn
thấy mọi thứ - con đường, cây cối, núi non. Thế rồi trời lại trở thành tối.
Nhưng bây giờ bạn biết rằng con đường có đó. Bạn sẽ vẫn phải dò dẫm trong bóng
tối, bạn sẽ vẫn phải tìm kiếm và nỗi sợ ngã vẫn sẽ có đó, nhưng bây giờ ít nhất
bạn chắc chắn rằng có con đường. Bằng việc nhìn qua mắt của thầy, tin cậy nảy
sinh rằng có con đường. Bằng việc sống gần thầy dần dần, dần dần hương thơm của
thầy sẽ rót đầy mũi bạn và bạn sẽ bắt đầu cảm thấy rằng điều đã xảy ra cho thầy
cũng có thể xảy ra cho bạn. Bất kì cái gì là có thể cho một người là có thể cho
mọi người.
Ở gần Phật hay Mahavira hay
Krishna, phúc lạc của cuộc sống của họ sẽ trở thành lây lan. Thậm chí đôi khi
không có tri thức của bạn họ sẽ làm rung chuyển bạn, họ sẽ đánh thức bạn dậy.
Và nếu bạn có thể mở mắt ra một chút, bạn sẽ bắt đầu có tin cậy. Một đứa trẻ nhỏ
bước đi khi mẹ nó đưa tay ra giúp nó. Đứa nhỏ phải tập bước, nhưng bởi vì có sự
giúp đỡ nó cảm thấy an tâm. Nó nghĩ, “Bây giờ mình sẽ không ngã, mẹ mình ở cạnh
mình.” Nó sẽ vẫn ngã, nó sẽ ngã nhiều lần, nhưng mỗi lần nó đứng dậy sau khi
ngã, cơ hội bị ngã của nó sẽ ít hơn. Và mẹ nó liên tục cam đoan với nó, “Bước
đi con, đừng sợ. Con cũng có thể bước như mẹ bước.” Theo cùng cách đó, thầy đưa
tay cho bạn. Thầy biết rằng khả năng còn đang ẩn kín trong bạn, chỉ một chút ít
thực nghiệm là cần thiết. Có lẽ bạn đã trở nên sợ hãi. Trong nhiều, nhiều kiếp
sống bạn đã không mở mắt để qua đó điều thiêng liêng được thấy. Có lẽ bạn đã
quên mất nó. Có lẽ nếu ai đó nhắc bạn, bỗng nhiên... Bạn vẫn không thể nào nhớ
được nó, nhưng ở gần ai đó, trong sự hiện diện của người ấy, đôi khi trung tâm
bên trong bạn bị chạm vào. Việc liên tục chạm tới là cần thiết. Do đó satsang,
hiện hữu trong sự hiện diện của thầy, là một quá trình liên tục.
Thầy tôi đã cho tôi đôi mắt,
Và bằng việc thấy tôi được thuyết
phục.
Qua tâm trí chỉ hoài nghi có thể
được biết tới. Ý nghĩ... ý nghĩ ... ý nghĩ... không cái gì là chắc chắn. Bạn sẽ
thậm chí tìm thấy hoài nghi ẩn trong các ý nghĩ mà về chúng bạn là chắc chắn.
Thường bạn nói, “Tôi chắc chắn, dứt khoát,” - điều bạn đang nói là ở chỗ bạn biết
rằng bạn có hoài nghi về nó. Bạn sẵn sàng đánh nhau và giết người vì ý nghĩ của
bạn. Điều đó nữa cũng là một chỉ dẫn rằng bạn không chắc chắn bên trong bạn.
Quyết tâm là vấn đề rất khác.
Quyết tâm hiện hữu, nơi không có hoài nghi chút nào. Và hoài nghi chỉ biến mất
khi ý nghĩ biến mất... Và bằng việc thấy tôi được thuyết phục... thế thì không có
suy nghĩ, thế thì có việc thấy. Thế thì nó là darshan, việc thấy xảy ra. Thế
thì bạn không nghĩ.
Chỉ người mù nghĩ rằng ánh sáng
tồn tại. Người có mắt đơn giản thấy nó. Thầy tôi đã cho tôi đôi mắt, và bằng việc
thấy tôi được thuyết phục. Và nơi có việc thấy có chắc chắn. Nơi có ý nghĩ, có
lẫn lộn. Dòng suối không chắc chắn di chuyển đằng sau suy nghĩ. Việc thấy là cần
thiết. Không ai có thể nghĩ về điều tối thượng. Bạn hoặc thấy điều tối thượng,
hoặc bạn không thấy, không có vấn đề niềm tin. Đấy là vấn đề của darshan - của
cảm nhận trực tiếp về điều tối thượng.
Sahajo nói: Điều thiêng liêng
có nhiều chiều,
Nó là cái biểu hiện, nó là cái
không biểu hiện;
Ngài là điều thấy được, ngài là
điều không thấy được. Sahajo nói: Điều thiêng liêng có nhiều chiều... mọi chiều
đều là của ngài vậy mà không chiều nào của ngài.
Trong bản tính của nó, nước và
băng là một,
mặt trời và ánh mặt trời là một.
Đây là những phát biểu rất hay:
Trong bản tính của nó, nước và băng là một. Có khác biệt nào giữa nước và băng
không? Có khác biệt nào giữa nước và tuyết không? Không có khác biệt chút nào.
Hay trong ... mặt trời và ánh mặt trời... có khác biệt gì giữa mặt trời và ánh
mặt trời không? Theo cùng cách này, có khác biệt gì giữa điều thiêng liêng và sự
sáng tạo của nó không? hay trong mặt trời và ánh mặt trời? Chỉ điều thiêng
liêng tồn tại. Nó ở mọi nơi. Nó ở trong mặt trời, nó ở trong tia sáng mặt trời;
tia sáng mặt trời là sự mở rộng của điều thiêng liêng. Vũ trụ bao la này mà bạn
thấy chính là sự mở rộng của nó. Có tách biệt nào giữa đấng sáng tạo và sự sáng
tạo không? Có tách biệt nào giữa vũ công và vũ điệu không? Có tách biệt nào giữa
ca sĩ và bài ca không? Một đằng là biểu lộ, một đằng là không biểu lộ. Bài ca
là biểu hiện bên ngoài, ca sĩ là ẩn kín; điệu vũ là biểu hiện bên ngoài, vũ
công là ẩn kín. Sự sáng tạo là biểu lộ còn đấng sáng tạo là không biểu lộ -
nhưng nó ẩn kín trong mọi nguyên tử!
Sahajo nói: Điều thiêng liêng
có nhiều chiều,
Nó là cái biểu hiện, nó là cái
không biểu hiện;
Trong bản tính của nó, nước và
băng là một,
mặt trời và ánh mặt trời là một.
Nhờ ân huệ của thầy tôi,
Charandas,
Mọi hoài nghi đã tan biến,
Mọi lời nói và biện luận đã tan
biến,
Sahajo còn lại, tự nhiên
Nhờ ân huệ của thầy tôi,
Charandas... Những người đã biết bao giờ cũng nói rằng họ đã không biết bởi nỗ
lực của họ, nhưng qua ân huệ của thầy họ. Những người đã chứng ngộ đều hiểu nỗ
lực của họ nhỏ bé làm sao - giọt nước đang cố gắng trở thành đại dương. Nếu như
điều đó phải xảy ra chỉ bằng nỗ lực của bạn, thế thì nó sẽ không bao giờ xảy ra
cả.
Hiểu một điều cho đúng: nếu bạn
cố gắng để biết điều tối thượng chỉ bằng nỗ lực của bạn thế thì bạn sẽ không
bao giờ biết nó. Cho dù bạn làm nỗ lực, bạn sẽ làm nỗ lực sai, bởi vì bạn sai.
Cho dù bạn đi, bạn sẽ đi trên con đường sai. Bạn đầy những ham muốn sai, cho
nên bất kì điều gì bạn làm cũng sẽ sai vì như bạn vậy bạn là sai. Làm sao điều
đúng có thể xảy ra từ điều sai? Nếu điều đó là có thể rằng điều đúng có thể bắt
nguồn từ điều sai, thế thì sẽ không cần phải tìm kiếm điều đúng nữa. Cho nên bất
kì điều gì con người làm, anh ta sẽ không có khả năng biết tới chân lí chỉ qua
việc làm của mình.
Vậy có hai cách thức. Điều đó
có thể xảy ra nhờ ân huệ và phúc lành của điều thiêng liêng - nhưng bạn không
biết điều thiêng liêng chút nào. Cho dù ân huệ tuôn trào xuống, bạn không biết
cách dùng nó. Cho dù ngài thắp lên ngọn đèn trước bạn, bạn mù đến mức bạn sẽ bắt
đầu đứng đó với đôi mắt nhắm. Nếu ngài có gõ cửa nhà bạn, thế thì bạn sẽ nói rằng
đấy phải là tiếng gió thổi. Bạn sẽ không thể nào nhận ra ngài.
Ân huệ của Thượng đế đã tuôn
trào lên bạn liên tục đấy, nhưng bạn không thể nhận ra điều đó, bạn không thể
đón nhận nó. Bạn không thể thấy ngài theo cùng cách như cá không thể nào thấy
được đại dương. Đây là lí do tại sao thầy trở thành có ý nghĩa đến thế trong việc
tìm kiếm chân lí, bởi vì thầy là thấy được đối với bạn.
Theo một nghĩa nào đó, thầy là
phép màu. Thầy là phép màu theo nghĩa rằng theo một cách nào đó thầy giống bạn,
vậy mà thầy không giống bạn chút nào. Thượng đế hoàn toàn không giống bạn -
không thể có chiếc cầu được. Ngài là không biểu lộ, bạn là biểu lộ. Ngài là vô
hạn, bạn là hữu hạn. Ngài là vô ý nghĩ, bạn là ý nghĩ. Ngài là mọi nơi, bạn là
đâu đó. Không thể có gặp gỡ được. Ngài bao la thế và bạn tí hon thế, làm sao có
thể có kết nối được? Làm sao giọt nước có thể gặp được đại dương?
Với thầy phép mầu xảy ra. Thầy
giống như bạn, và dầu vậy thầy không giống bạn. Từ phía này, thầy là giọt nước,
và từ phía kia thầy là đại dương. Đó là lí do tại sao thầy là hiện tượng mầu
nhiệm nhất trong thế giới này. Theo một nghĩa nào đó, thầy là một người, và đồng
thời thầy không phải là một người. Từ phía này thầy có những bức tường giống
như bạn, và từ phía kia cánh cửa của thầy mở ra - thầy là bầu trời rộng mở.
Có thể có mối quan hệ với thầy.
Và với sự giúp đỡ của thầy, dần dần, dần dần có thể có kết nối với điều thiêng
liêng. Đó là lí do tại sao Sahajo nói, Tôi có thể quên Thượng đế nhưng tôi
không thể bỏ thầy tôi - bởi vì không có thầy chắc sẽ không có kết nối nào với
Thượng đế. Nhờ ân huệ của thầy tôi, Charandas, mọi hoài nghi đã tan biến. Hoài
nghi sẽ không ra đi bởi việc suy nghĩ của bạn, dù bạn có thể gắng đến đâu bằng
suy nghĩ. Suy nghĩ của bạn giống như tự nâng bạn lên bằng dây giầy của bạn. Dù
bạn có thể cố gắng đến đâu, bạn có thể nhảy lên một chút, nhưng bạn vẫn thấy rằng
bạn đang đứng trên mặt đất. Bàn tay khác nào đó được cần để giúp bạn đứng lên.
Và bạn cần một bàn tay giống như tay bạn và bạn có thể nhận ra được tay nào. Và
dầu vậy, nó phải là bàn tay của điều tối thượng mà bạn có thể nhận ra một chút,
nhưng không đầy đủ. Bạn có thể nhận ra một chút và một chút còn ở bên ngoài nhận
biết của bạn.
Thầy là điều bí ẩn. Bạn hiểu thầy,
và bạn không thể hiểu thầy. Đấy là lí do tại sao những người nghĩ rằng họ đã hiểu
thầy đều sai lầm; và những người nghĩ rằng họ đã không hiểu thầy chút nào, họ
cũng sai. Chỉ những người cảm thấy rằng họ hiểu một chút và một chút vẫn còn ở
bên ngoài hiểu biết của họ mới có quan hệ với thầy. Cái một chút mà bạn có thể
hiểu sẽ cho bạn tự tin. Cái một chút mà bạn không thể hiểu sẽ đưa bạn vượt ra
ngoài bản thân bạn, siêu việt sẽ xảy ra qua nó.
Nhờ ân huệ của thầy tôi,
Charandas, mọi hoài nghi đã tan biến... “Tôi đã nhận được cái nhìn, mắt tôi đã
mở ra. Tôi đã nhận ra nó qua mắt của thầy tôi - thế giới đã tan biến, chân lí
đã được lộ ra.” Thế thì sức nhìn riêng của bạn sẽ bắt đầu làm việc. Một khi nó
bắt đầu xảy ra, một khi ai đó giới thiệu cho bạn, thế thì...
Mọi lời nói và biện luận đã tan
biến...
Thế thì không hoài nghi nào còn
lại, thế thì không cái gì để tranh luận cả. Không có hữu thần không có vô thần.
Người ta không là người Hin du người ta không là người Mô ha mét giáo.
...Sahajo còn lại, tự nhiên
Và từ ngày đó, Sahajo trở thành
tự nhiên. Trước đó mọi thứ nháo nhào, mọi thứ bị lẫn lộn. Bây giờ cô ấy đã trở nên
thoải mái. Bây giờ không cái gì cần được làm. Bây giờ bất kì cái gì xảy ra đều
là tôn thờ, đều là lời cầu nguyện. Kabir đã nói, “Bất kì cái gì tôi nói là nhân
danh điều thiêng liêng. Khi tôi ăn, nó là tôn thờ điều thiêng liêng” - bây giờ
duy nhất điều thiêng liêng là ở bên trong và bên ngoài. “Bất kì khi nào tôi bước
đi là tôi đang xoay quanh điều thiêng liêng trong tôn kính” - bây giờ tôi không
tới đền đài hay đền thờ để đi quanh Thượng đế nữa. Bây giờ khi tôi đơn giản bước
quanh, nó là hành động đi quanh điều thiêng liêng trong tôn kính.
...mọi lời nói và biện luận đã
tan biến,
Sahajo còn lại, tự nhiên
Sẽ là tốt nếu bạn hiểu từ ‘tự
nhiên’, bởi vì là tự nhiên là đoá hoa cuối cùng của tôn giáo - sahaj samadhi,
chứng ngộ tự nhiên. Bạn ở trong thế giới và ngay cả ở đó bạn không tự nhiên, bạn
rất phức tạp. Bạn là một điều và bạn đang phơi bầy điều gì đó khác. Bạn là một
điều và bạn đang nói thứ gì đó khác. Bạn vào đền đài nhưng ở đó bạn cũng không
tự nhiên. Ở đó bạn nhỏ nước mắt giả, ở đó bạn cũng đeo mặt nạ. Ở đó nữa, khi bạn
tôn thờ và cầu nguyện, không có cái đích thực trong đó, không tính tự nhiên
trong đó.
Mọi nơi đều có đạo đức giả. Mọi
nơi đều có giả dối. Mọi nơi bạn đều cố phơi ra điều gì đó mà bạn không phải cái
đó. ‘Tự nhiên’ nghĩa là dù bạn là bất kì cái gì, bạn là vậy. Nếu bạn tốt, bạn tốt,
nếu bạn tồi, bạn tồi. Nếu bạn đẹp, bạn đẹp, nếu bạn xấu, bạn xấu. Có hài hoà với
bất kì cái gì bạn đang vậy bởi vì bạn đã đi tới biết rằng là tự nhiên tức là
thành một với điều thiêng liêng. Bạn càng không tự nhiên bạn càng xa khỏi nó. Bạn
càng cố là cái gì đó, bạn càng đi lạc lối khỏi bản thể đích thực của bạn. Lão Tử
nói, “Không ai phi thường hơn người rất bình thường.” Họ bình thường đến mức họ
không biết liệu họ là bình thường hay phi thường.
Ai đó hỏi Thiền sư, Bokoju,
“Sau khi thầy trở nên chứng ngộ, việc thực hành tâm linh của thầy là gì?”
Bokoju nói, “Tôi chặt củi trong
rừng, tôi kéo nước từ giếng. Khi tôi cảm thấy đói, tôi ăn. Khi tôi cảm thấy buồn
ngủ, tôi ngủ - không gì nhiều hơn thế này.” Nhưng ngần này là đủ. Đây là tự
nhiên.
Sẽ khó cho bạn, sẽ vất vả cho bạn
để hiểu điều này. Bởi vì bản ngã của bạn, bạn đã tạo ra một mê cung vinh quang
quanh cái gọi là hiền nhân của bạn. Chính bởi vì bản ngã của bạn. Phép màu phải
xảy ra từ tay họ, bùa hộ mạng phải đi ra từ tay họ. Bạn không thể chấp nhận được
hiền nhân của bạn mà trước hết không làm cho họ thành các nhà ảo thuật. Và nếu
họ định trở thành thánh của bạn, thế thì họ sẽ phải đồng ý làm nhà ảo thuật. Đấy
là một âm mưu lẫn nhau. Bạn nói, “Chừng nào mà ông còn chưa sẵn sàng là nhà ảo
thuật chúng tôi sẽ không chấp nhận ông là thánh.” Và nếu ai đó muốn được tôn
kính thế thì họ phải trở thành nhà ảo thuật - thế thì có hài hoà giữa bạn và họ.
Bạn đã là giả, và bạn làm cho những người bạn muốn đó là guru của bạn phải đồng
ý với các điều kiện của bạn. Bạn đã đạo đức giả và bạn cũng làm cho các guru của
bạn thành đạo đức giả. Trong thế giới này, điều đáng ngạc nhiên nhất là ở chỗ
hiếm khi đệ tử theo guru; phần lớn thời gian, guru theo đệ tử. Bạn ra các qui tắc
về việc guru của bạn phải hành xử thế nào, ông ấy phải cư xử bản thân mình ra
sao, khi nào ông ấy phải dậy, khi nào ông ấy phải ngủ, ông ấy phải ăn gì, ông ấy
phải uống gì. Bạn ra lệnh cho điều đó.
Bản thân đệ tử quyết định hành
vi của các sư Jaina.
Một thánh nhân, một sư Jaina,
muốn gặp tôi. Ông ta viết một bức thư và nói, “Tôi có một khát khao được gặp thầy,
nhưng đệ tử của tôi không cho phép điều đó.” Đệ tử bạn không cho phép bạn đến gặp
tôi sao? Thế thì quá lắm! Bạn có phải là thầy không? và họ là đệ tử sao? Đệ tử
không cho phép thầy đi. Cái gì có thể là lí do cho điều này? Tôi nói với ông
ta, “Nhìn cho sâu vào. Đệ tử không thể cản được ông. Phải có lí do khác nào đó.
Có điều kiện, và điều kiện họ đã đưa ra là: nếu thầy đồng ý với chúng tôi, thế
thì chúng tôi sẽ đồng ý với thầy. Chừng nào thầy theo chúng tôi, chúng tôi là đệ
tử của thầy. Ngày thầy dừng theo chúng tôi, vấn đề kể như là xong.” Và tôi nói,
“Ông yếu đuối. Ông đã trở thành thầy một cách rẻ mạt thế. Ông muốn tới tôi để học
thiền sao? Ông không có đến cả chút dũng cảm này cho việc tìm kiếm thiền sao? Đệ
tử của ông nói không, bởi vì các đệ tử nghĩ, “Nếu thầy chúng ta mà đi học thiền
ở đâu đó khác, thế thì chúng ta đang làm gì bởi việc chấp nhận ông ấy làm
guru?” Cho nên trước các đệ tử, guru phải biểu lộ rằng mình là một thiền nhân,
mình sẽ dạy cho họ thiền - và bản thân ông ấy không biết gì về thiền. Và sư này
thậm chí không có dũng cảm hay chân thành trong cuộc đời mình để đi tìm thiền.
Nếu điều đó là cần thiết, ông ấy phải vứt bỏ việc là thầy để đi tìm thiền. Ông
dạy thế giới từ bỏ tiền bạc, của cải, và ông đang ôm giữ cái gì vậy?
Tôi bảo ông ấy, “Vứt nó đi! Thiền
còn lớn hơn. Ông sẽ tìm tín đồ sau. Và vấn đề là gì nếu ông không tìm thấy tín
đồ nào?” Lời đáp tới, “Thầy không biết rằng tôi đã trở thành sannyasin từ thủa
thiếu thời. Tôi không được giáo dục và tôi không thể kiếm sống cho cuộc đời
mình được.
Tôi đã không làm việc trong bốn
mươi năm nay! Nếu tôi bỏ các tín đồ, thế thì tôi sẽ gặp khó khăn.”
Bây giờ điều này đã trở thành
việc thu xếp để cung cấp thức ăn và chỗ ở của ông. Ông không phải là thầy mà họ
cũng không phải là đệ tử của ông. Họ biết rằng bởi vì họ cho ông thức ăn, nên họ
là thầy của ông. Và ông cũng biết điều đó. Họ đang cho ông thức ăn, cho nên ông
có thể ngồi trên họ nhưng chỉ hình thức thôi. Ông đang bảo người khác từ bỏ thế
giới, nhưng bản thân ông không thể thu được đủ dũng cảm để từ bỏ cái an toàn
này! Ông có thể chấm dứt việc đào mương trên đường, nhưng ít nhất ông sẽ kiếm
thức ăn cho ông. Nhiều người kiếm sống theo cách này. Nhưng ông không được dũng
cảm đến thế.
Guru của bạn trở nên bất lực,
không còn sức mạnh nào trong họ. Họ trở thành không tự lực thế. Bạn đang để họ
trên bạn, nhưng họ chỉ là con rối với sợi dây trong tay bạn. Họ nhảy múa khi bạn
làm cho họ nhảy múa, họ nói điều bạn làm cho họ nói.
Là tự nhiên nghĩa là bây giờ
không có gì để khoe khoang với bất kì ai. Bạn hạnh phúc với bất kì cái gì bạn
đang vậy. Và ngày bạn hạnh phúc với bản thể bạn và được hấp thu trong tự tính của
bạn, vào ngày đó bạn sẽ được hấp thu vào trong điều thiêng liêng. Vào ngày đó,
cá đã tìm thấy đại đương. Đại dương bao giờ cũng có đó, vấn đề chỉ là trở thành
một với nó. Khi cá biết tới bản thân nó thế thì nó biết đại dương, bởi vì trong
thực tế cá là đại dương.
Bạn càng tự nhiên, bạn càng trở
thành siddha, người đã đạt tới. Là tự nhiên là hoàn thành. Nhưng bạn muốn tuyên
dương việc đạt tới của bạn. Bạn muốn phép màu xảy ra.
Mọi người tới tôi và nói, “Nếu
thầy làm phép màu nào đó, hàng triệu người sẽ tới thầy.” Tôi sẽ làm gì với cả triệu
người này? Tôi không phải là nhà ảo thuật. Họ nói, “Không, chúng tôi đang nói
điều này bởi vì hàng triệu người sẽ được lợi.” Hàng triệu người có thể được lợi
hay không, nhưng trước hết nó sẽ là hại cho tôi. Và nếu tôi bị hại, thế thì làm
sao họ có thể được lợi bởi tôi?
Điều tự nhiên là nếu bạn trở
nên đơn giản, thế thì kẻ ngốc sẽ không bị gây ấn tượng bởi bạn. Chỉ những người
mà bản thân họ đang hướng tới tính đơn giản mới quan tâm tới bạn. Kẻ ngốc có
cách bị ấn tượng của họ. Nếu tâm trí ngu đần của họ được thoả mãn, thế thì họ bị
ấn tượng.
Điều này đã xảy ra nhiều lần. Mọi
ngày, khi tôi du hành trên đất nước này, tôi hay bắt gặp nhiều kẻ ngốc. Cho dù
tôi từ chối điều gì đó họ vẫn không sẵn sàng chấp nhận lời từ chối của tôi. Một
người ôm lấy chân tôi và nói, “Xin thầy cho tôi cốc nước từ tay thầy. Tôi chắc
chắn rằng bệnh đau dạ dầy của tôi, mà tôi bị từ bẩy tám năm nay rồi, sẽ được chữa
khỏi bằng nước có bàn tay thầy chạm vào.”
Tôi nói, “Trước hết, hiểu rằng
chính tôi cũng đau dạ dầy! Tôi uống nước bằng tay tôi, mà bệnh đâu có khỏi. Làm
sao bạn khỏi bệnh được? Nếu tôi cần giúp đỡ, tôi phải gọi bác sĩ. Cho nên bỏ ý
tưởng này đi.”
Nhưng tôi càng từ chối, anh ta
càng nghĩ rằng tôi không sẵn lòng ban ân huệ cho anh ta. Cho nên anh ta giữ
chân tôi chặt hơn. Anh ta nói, “Cho dù tôi có chết, tôi sẽ không rời khỏi đây.
Tôi chắc chắn đấy; thầy càng từ chối tôi, tôi càng bị thuyết phục rằng có cái
gì đó.”
Tôi thấy rằng điều này làm việc
theo chiều ngược - đức tin anh ta đang tăng lên! Và có nguy hiểm trong đức tin:
nếu anh ta được chữa khỏi bằng việc uống nước này, thế thì điều đó là nguy hiểm.
Và nếu anh ta không khỏi thế thì không có vấn đề gì, vấn đề sẽ qua - bạn giữ
cái đau của bạn, tôi về nhà. Nhưng nếu anh ta mà khỏi, mà tôi sợ là như thế, thế
thì điều đó sẽ là vấn đề thực sự. Tôi nghĩ tốt hơn cả là cho anh ta nước, nhưng
điều đã xảy ra làm cho tôi sợ. Sau khi uống nước anh ta nói, “Lạy trời! Cơn đau
đã biến mất.”
Bây giờ người này là một người
ngốc. Cái đau của anh ta là giả. Tôi không nói rằng anh ta không đau, anh ta đã
đau từ tám năm nay. Nhưng cái đau của anh ta là tưởng tượng. Hai năm sau, khi
tôi tới thành phố đó, tôi được biết là anh ta đã làm phép màu. Anh ta đã giữ cẩn
thận chiếc cốc mà tôi đã trao nước cho anh ta và anh ta bắt đầu đem nước cho những
người khác từ chiếc cốc đó. Và anh ta bảo tôi, “Nhờ ân huệ của thầy mà nhiều
người đã được lợi.”
Bây giờ đây là một tâm trí ngu
ngốc. Trước hết nó tạo ra bệnh tật và qua cùng cái ngu ngốc đó nó cũng tạo ra
cách chữa. Nó bắt đầu thấy những thứ tưởng tượng. Bản ngã là gốc rễ cho mọi bệnh
tật. Mọi người tới tôi và nói, “Chúng tôi thấy hào quang quanh thầy.” Có thể bạn
có vấn đề về mắt đấy. Bạn có thể mắc chứng ảo giác. Hay bạn có thể đã thấy nhiều
bức ảnh các vị thánh trong lịch với vầng hào quang được vẽ quanh họ. Điều đó có
thể đã ghi dấu vào tâm trí bạn có hơi nhiều chút ít, và bạn có thể đã phóng chiếu
nó. Nhưng xin bỏ tôi ở ngoài tất cả những điều này. Thế thì bạn nói, “Nhưng làm
sao chúng tôi có thể tin vào thầy được, bởi vì chúng tôi đã thấy nó bằng chính
mắt mình.”
Mắt bạn mù. Đảm bảo gì có đó về
điều bạn đang thấy? Nhưng nếu tôi phủ nhận nó, họ không sẵn sàng chấp nhận điều
đó, bởi vì họ có thể cúi đầu dưới chân tôi chỉ khi họ có thể thấy hào quang của
tôi. Đấy là một điều kiện cho bản ngã của họ. Nếu họ không thể thấy hào quang,
thế thì phỏng có ích gì mà đi cúi đầu dưới chân tôi? Họ có thể trở thành đệ tử
của tôi chỉ khi được chứng minh rằng tôi không phải là một thầy bình thường - rằng
tro từ tay tôi, là bùa hộ mạng, đồng hồ chế tạo tại Thuỵ sĩ - chỉ thế thôi. Thế
thì bản ngã của họ sẽ được thoả mãn.
Có một tầng lớp nào đó những kẻ
ngốc, và đám đông những kẻ ngốc này áp đặt cái ngốc nghếch của họ thậm chí lên
guru của họ. Tôi chỉ gọi người mà không cho phép cái loại áp đặt này xảy ra, là
thầy. Chỉ thế thì người đó mới có thể có ích cho bạn, chỉ thế thì người đó mới
có thể đưa bạn vượt ra ngoài hoài nghi. Mặc dầu vấn đề là dễ dàng và thoải mái
cho thầy khi nói rằng bất kì cái gì bạn nói cũng đều đúng cả, bởi vì thế thì sẽ
không có rắc rối cho ông ta và bạn sẽ không lâm vào rắc rối. Cả hai đều là đối
tác trong giấc mơ giả. Thế giới của bạn đã là giả rồi, và bạn đã tạo ra guru giả
từ tâm trí trần tục của bạn. Và từ những guru giả này bạn trông đợi nhận ra
chân lí!
Tìm kiếm tính tự nhiên đi bởi
vì điều thiêng liêng ẩn kín trong nó. Nó là tự nhiên toàn bộ. Nó là tự nhiên
như cây cối, chim chóc, con vật, mặt trăng, các vì sao cùng núi non và thác đổ.
Nếu bạn tìm thấy ai đó tự nhiên, đừng rời bỏ sự hiện diện của người đó. Đừng lo
nghĩ về việc thấy hào quang của người đó và đừng trông đợi bất kì phép màu nào
từ thầy.
Nhờ ân huệ của thầy tôi,
Charandas,
Mọi hoài nghi đã tan biến,
Mọi lời nói và biện luận đã tan
biến,
Sahajo còn lại, tự nhiên
Và thế thì bạn đã hướng tới việc
là tự nhiên rồi.
Là tự nhiên đi. Duyên dáng đi.
Nếu bạn trở thành tự nhiên, bạn sẽ trở thành thực. Hiểu rằng từ ‘tự nhiên’ là đồng
nghĩa với từ ‘điều thiêng liêng’. Nếu cái không tự nhiên của bạn mất đi, thế
thì mọi bệnh tật cũng qua, thế thì mọi dối trá cũng qua, thế thì sansara - bánh
xe sinh tử - cũng mất đi. Ngày bạn trở thành tự nhiên, sẽ có việc mưa rào nước
cam lồ trong cuộc sống của bạn, mưa rào không mây.
Daya nói, “Thấy, tâm trí được
ngập trong niềm vui mênh mông.” Bạn đơn giản trở thành tự nhiên, thế thì không
có chậm trễ. Tại đây bạn trở nên tự nhiên, và tại kia ‘có ánh sáng vô hạn mà
không chớp sáng.” Thế thì, không chớp sáng, có ánh sáng vô hạn. Nó là ánh sáng
không có nguồn. Nó không tới từ đâu cả, nó bao giờ cũng có đó. Nó là vĩnh hằng,
và nó là “mưa rào không mây.”
Không mây nào có thể được thấy
trên trời và trời mưa rào, nước cam lồ mưa rào, bởi vì nước cam lồ đó là bản chất
của sự tồn tại này. “Tâm trí được nhấn chìm trong niềm vui mênh mông” - và thế
thì bạn nhảy múa, chìm trong niềm vui, bởi vì không nỗi buồn nào còn lại. Nỗi
buồn là trong mù quáng của bạn. Nỗi buồn là trong bản ngã của bạn, trong cái
không tự nhiên của bạn. Nó đã qua. Daya nói, “Thấy, tâm trí chìm ngập trong niềm
vui mênh mông.” Và bây giờ, thấy ân huệ, thấy chân lí khắp xung quanh, bạn nhảy
múa, chìm ngập trong niềm vui mênh mông này...
... mưa rào không mây.
Đủ cho hôm nay.
Xem tiếp Chương 10 - Quay về Mục lục
0 Đánh giá