Chương 9. Nới lỏng nguyên nhân của tù túng

Chương 9. Nới lỏng nguyên nhân của tù túng

Price:

Read more

Yoga: Alpha và Omega (Tập 8)
Bài giảng về Kinh Yoga của Patanjali
Chương 9. Nới lỏng nguyên nhân của tù túng

39. Nới lỏng nguyên nhân của tù túng và biết các kênh cho phép tâm trí đi vào thân thể của người khác.
40. Bằng việc làm chủ udana hiện thời, người yogi có khả năng thăng lên và đi qua mà không tiếp xúc qua nước, bãi lầy, gai nhọn v.v.
41. Bằng việc làm chủ samana hiện thời, người yogi có khả năng làm cho ngọn lửa dạ dầy thành rực sáng.
42. Bằng việc thực hiện samyama trên mối quan hệ giữa ê te và tai, việc nghe siêu hình trở thành sẵn có.
43. Bằng việc thực hiện samyama trên mối quan hệ giữa thân thể và ê te và đồng thời đồng nhất bản thân mình với những thứ nhẹ, như bông rơi xuống, người yogi có khả năng đi qua không gian.
Một trăm năm trước, một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thế giới, Friedrich Nietzsche, đã tuyên bố rằng Thượng đế chết. Ông ấy đã tuyên bố cái gì đó đã trở thành rõ ràng hơn cho mọi người. Ông ấy đơn giản tuyên bố cảm giác của mọi nhà tư tưởng của thế giới, đặc biệt những người có xu hướng khoa học. Khoa học đã thắng mọi ngày chống lại tôn giáo, mê tín; và khoa học đã chinh phục nhiều tới mức gần như chắc chắn là trong tương lai Thượng đế không thể tồn tại được, tôn giáo không thể tồn tại được. Điều được cảm thấy trên khắp thế giới là Thượng đế đã trở thành một phần của lịch sử và Thượng đế sẽ tồn tại trong các bảo tàng, trong thư viện, trong sách, nhưng không trong tâm thức con người. Điều được cảm thấy là dường như vật chất đã thắng cuộc chiến cuối cùng, chung kết với Thượng đế.
Khi Nietzsche tuyên bố Thượng đế chết, ông ấy ngụ ý rằng bây giờ cuộc sống sẽ không là định mệnh theo bất kì cách nào. Nó đã trở thành ngẫu nhiên, bởi vì Thượng đế không là gì ngoài nguyên lí phối hợp của cuộc sống. Thượng đế là sự thống nhất hữu cơ của cuộc sống. Thượng đế là năng lượng đó, cái gắn mọi thứ lại với nhau. Thượng đế là luật đó, cái đã làm nên hài hoà từ hỗn độn. Một khi Thượng đế không có đó, nguyên lí điều phối không có đó, thế giới lại trở thành hỗn độn, chỉ là ngẫu nhiên. Cùng Thượng đế, mọi trật tự biến mất. Cùng Thượng đế mọi nguyên lí biến mất. Cùng Thượng đế mọi khả năng để hiểu cuộc sống biến mất. Và cùng Thượng đế con người cũng biến mất.
Bản thân Nietzsche đã tuyên bố rằng Thượng đế chết và con người bây giờ tự do, nhưng thực ra một khi Thượng đế chết, con người không có đó. Thế thì con người chỉ là vật chất, không gì hơn - giải thích được, không còn là bí ẩn nữa, không có chiều sâu nào, không có cái vô hạn nào thêm, và không có nghĩa nào thêm, không có ý nghĩa nào thêm, chỉ là sự ngẫu nhiên - đã xuất hiện một cách ngẫu nhiên, sẽ biến mất một cách ngẫu nhiên.
Nhưng Nietzsche đã chứng minh sai. Dường như đó là cái gì đó giống tuổi thanh niên của khoa học; thế kỉ mười chín là tuổi của khoa học đã lớn. Và mọi thanh niên đều quá đầy tự tin, quá lạc quan, thực ra lạc quan ngu xuẩn, cùng điều đó cũng là trường hợp với khoa học nữa. Ở Tây Tạng họ có câu ngạn ngữ rằng mọi người trẻ đều nghĩ người già là ngu, nhưng mọi người già đều biết rằng mọi người trẻ là ngu. Người trẻ chỉ nghĩ, nhưng người già biết. Khoa học là sự trưởng thành trẻ nhất trong tâm thức con người, và khoa học tự tin quá nhiều. Nó thậm chí đã tuyên bố Thượng đế chết và tôn giáo không còn liên quan, tôn giáo là "ngoài ngữ cảnh." Tôn giáo là một phần của thời thơ ấu của nhân loại, họ đã tuyên bố. Freud đã viết một cuốn sách, Tương lai của ảo tưởng - về tôn giáo, rằng nó chỉ là ảo tưởng và không có tương lai thực.
Nhưng Thượng đế vẫn sống, và phép màu đã xảy ra trong một trăm năm này. Nếu Nietzsche quay lại ông ấy sẽ không có khả năng tin được điều đã xảy ra. Tâm trí khoa học càng xuyên thấu vào trong vật chất, nó càng đi tới biết rằng vật chất không tồn tại. Thượng đế sống sót, vật chất chết. Vật chất đã gần như biến mất khỏi từ vựng khoa học. Nó tồn tại trong ngôn ngữ bình thường, nhưng đấy chỉ là vì thói quen cũ; bằng không thì bây giờ không có vật chất. Việc xuyên thấu của khoa học càng sâu, họ càng đi tới hiểu rằng đó là năng lượng chứ không phải là vật chất. Vật chất là việc hiểu lầm. Năng lượng đang di chuyển nhanh thế, với tốc độ lớn tới mức nó cho ảo tưởng về cái gì đó rắn chắc. Tính rắn chắc chỉ là ảo tưởng.
Thượng đế không phải là ảo tưởng. Tính rắn chắc của thế giới là ảo tưởng. Tính rắn chắc của những bức tường này là ảo tưởng; chúng có vẻ rắn chắc bởi vì các hạt năng lượng, các điện tử, đang di chuyển với tốc độ mà bạn không thể thấy được chuyển động.
Thỉnh thoảng bạn có quan sát quạt điện quay rất nhanh không? Thế thì bạn không thể nhìn thấy cánh được, các cánh quạt ấy. Và nếu quạt điện thực sự chuyển động với tốc độ như điện tử, bạn có thể ngồi lên nó và bạn sẽ không bị ngã xuống, và bạn sẽ không cảm thấy chuyển động này. Bạn có thể bắn nó bằng viên đạn và viên đạn sẽ không xuyên qua giữa các lỗ hổng, bởi vì tốc độ của viên đạn sẽ không lớn như tốc độ của cánh quạt.
Đây là điều đang xảy ra. Vật chất đã biến mất, không còn hợp thức nữa.
Nhưng điều khoa học đã khám phá ra không thực là khám phá; nó là khám phá lại. Yoga đã từng nói về điều đó trong năm nghìn năm - ít nhất. Yoga gọi năng lượng đó là prana. Từ này prana là rất có ý nghĩa, rất có nghĩa, hàm chứa với nghĩa. Nó được làm ra từ hai gốc tiếng Phạn. Một là pra; pra nghĩa là đơn vị cơ sở của năng lượng, đơn vị nền tảng nhất của năng lượng. Và na nghĩa là năng lượng. Prana nghĩa là: đơn vị nền tảng nhất là năng lượng. Vật chất chỉ là bề mặt. Prana là điều thực có đó - và nó không phải là vật chút nào. Nó giống nhiều như cái không, hay bạn có thể gọi nó gần như cái không. Cái không nghĩa là không vật nào. Cái không không có nghĩa cái không; cái không đơn giản nghĩa là nó không phải là một vật. Nó không rắn chắc, nó không tĩnh, nó không thấy được, nó không sờ được. Nó có đó, nhưng bạn không thể chạm tới nó được. Nó có đó, nhưng bạn không thể thấy nó được. Nó có đó, bên ngoài và bên dưới mọi hiện tượng. Nhưng nó là đơn vị nền tảng nhất; bạn không thể đi ra ngoài nó được.
Prana là đơn vị cơ sở của toàn thể cuộc sống. Đá, cây, chim, người, Thượng đế, mọi thứ đều là biểu hiện của prana, trên các mức khác nhau, trên những hiểu biết khác nhau, trên những tích hợp khác nhau. Cùng prana di chuyển và biểu lộ như hàng triệu, như nhiều, nhưng đơn vị cơ sở là một.
Chừng nào bạn còn chưa đi tới biết prana bên trong bản thân bạn, bạn sẽ không có khả năng biết Thượng đế là gì. Và nếu bạn không thể biết được nó bên trong bản thân bạn, bạn không thể biết được nó ở bên ngoài, bởi vì bên trong bạn nó gần thế. Đó là lí do tại sao Patanjali có thể biết nó từ năm nghìn năm trước Albert Einstein và đồng sự. Năm nghìn năm là thời gian dài cho khoa học đi tới hiểu nó, nhưng họ đã cố gắng từ bên ngoài. Patanjali đã chìm vào sâu trong bản thể riêng của ông ấy; đó là kinh nghiệm chủ quan. Và khoa học đã từng cố gắng để biết nó một cách khách quan. Nếu bạn muốn biết cái gì đó một cách khách quan, bạn phải lấy con đường rất dài. Đó là lí do tại sao nhiều chậm trễ thế. Nếu bạn đi vào trong, bạn đã tìm được con đường ngắn nhất để biết nó là gì.
Bình thường bạn không biết bạn là ai, bạn ở đâu. Bạn đang làm gì ở đây? Mọi người tới tôi và họ nói, "Chúng tôi đang làm gì ở đây? Tại sao lại chúng tôi? Để làm gì?" Tôi có thể hiểu lẫn lộn của họ, nhưng dù bạn ở bất kì đâu và dù bạn làm bất kì cái gì, vấn đề sẽ vẫn còn như cũ - chừng nào bạn còn chưa hiểu cội nguồn bạn tới từ đâu, chừng nào bạn còn chưa hiểu cấu trúc cơ sở của bản thể của bạn, chừng nào bạn còn chưa đi tới biết prana của bạn, năng lượng của bạn. Tôi đã nghe, chuyện xảy ra:
Mulla Nasruddin ra thăm đồng và nhét đầy túi toàn dưa hấu. Anh ta định đi thì người chủ ló ra. "Tôi đi qua thôi," Mulla bắt đầu giải thích, "thì đột nhiên một cơn gió mạnh thổi tôi ngã nhào qua hàng rào rơi vào cánh đồng này." "Thế dưa hấu thì sao?" người chủ hỏi. "Thưa ông, gió mạnh tới mức tôi phải chộp bất kì cái gì tôi có thể vớ phải. Và đó là làm sao mà dưa hấu bị rời ra." "Nhưng ai để chúng vào túi của anh?" "Nói thật," Mulla đáp, "tôi cũng tự hỏi tôi về điều đó đấy."
Đây là tình huống. Làm sao bạn ở đây? Tại sao bạn ở đây? Ai đã để bạn vào trong túi? Mọi người đều tự hỏi.
Triết học, họ nói, bắt nguồn từ việc tự hỏi; nhưng đừng liên tục đơn giản tự hỏi và tự hỏi. Bằng không tự hỏi trở thành một loại vẩn vơ. Thế thì bạn không bao giờ đạt tới. Thay vì đơn giản tự hỏi, cố làm cái gì đó đi. Bạn ở đây, chừng ấy là chắc chắn. Bạn tỉnh táo là bạn ở đây, chừng ấy cũng là chắc chắn. Bây giờ hai chất liệu này là đủ cho thực nghiệm yoga. Bạn hiện hữu: việc hiện hữu có đó. Bạn nhận biết rằng bạn hiện hữu: tâm thức có đó. Hai điều này là đủ làm ra phòng thí nghiệm của bản thể bạn cho thực nghiệm yoga.
Yoga không cần những điều phức tạp cho vận hành của nó. Nó là đơn giản nhất. Hai điều: bạn và nhận biết của bạn rằng bạn hiện hữu. Đủ rồi. Hai điều này bạn có; mọi người đều có chúng. Không ai thiếu trong hai điều này. Bạn có cảm giác nào đó rằng bạn hiện hữu, và tất nhiên bạn là nhận biết về cảm giác nào đó. Hai điều này là đủ. Đó là lí do tại sao người yogi không có phòng thí nghiệm, không có công cụ phức tạp - và họ không bao giờ cần bất kì tài trợ nghiên cứu nào từ Rockefeller hay Ford. Họ chỉ cần chút ít bánh mì, nước, và họ sẽ tới và ăn xin trong thị trấn và sẽ biến mất trong nhiều ngày. Sau một hay hai tuần họ sẽ tới lần nữa và ăn xin lần nữa và họ sẽ biến mất lần nữa.
Họ đã làm thực nghiệm lớn: thực nghiệm trong thực tại con người. Và chỉ với hai điều nhỏ bé, nhưng những điều nhỏ bé này lại không nhỏ bé. Một khi bạn biết chúng, chúng là hiện tượng lớn nhất đã từng có.
Cho nên điều đầu tiên về lời kinh ngày hôm nay là việc khám phá ra prana. Điều đó trở thành chính nền tảng của ngôi đền của yoga. Bạn thở. Yoga nói bạn không chỉ thở không khí; bạn cũng thở prana. Thực ra không khí chỉ là phương tiện cho prana, chỉ là trung gian. Bạn không sống bằng hơi thở. Hơi thở chỉ như ngựa, và bạn chưa nhìn vào người cưỡi ngựa. Người cưỡi ngựa là prana.
Bây giờ nhiều nhà phân tâm đã bắt gặp điều huyền bí này - người cưỡi ngựa tới trên hơi thở, đi trên hơi thở, liên tục chuyển động vào và ra. Nhưng dầu vậy ở phương Tây nó không được thừa nhận là sự kiện khoa học. Nó đáng phải được thừa nhận bởi vì bây giờ khoa học nói vật chất không còn đó nữa và mọi thứ đều là năng lượng. Đá sỏi, đá tảng, là năng lượng; bạn là năng lượng. Cho nên phải xảy ra nhiều trò chơi năng lượng bên trong bạn, triều lên và triều xuống của năng lượng.
Freud vớ phải sự kiện này. Tôi nói "vớ phải nó" bởi vì mắt ông ấy không mở; ông ấy bị bịt mắt. Ông ấy không phải là người yogi. Ông ấy lại bị mắc vào thái độ khoa học của việc làm mọi thứ thành khách quan. Ông ấy gọi nó là "dục tình." Nếu bạn hỏi người yogis họ sẽ nói dục tình là prana ốm yếu. Khi prana không sống, khi bằng cách nào đó năng lượng của prana đã trở nên bị kìm lại, bị chặn lại, đó là điều Freud đã đi tới biết. Và điều đó là giải thích được bởi vì ông ấy làm việc chỉ với người ốm, người thần kinh, người điên, người tâm thần. Và làm việc với người ốm, bị rối loạn tinh thần, ông ấy đi tới biết rằng thân thể họ đang mang năng lượng bị chặn nào đó và chừng nào năng lượng này chưa được xả ra, họ sẽ không mạnh khoẻ trở lại. Người yogis nói dục tình là prana đi sai. Nó chỉ là prana bị bệnh. Nhưng dầu vậy Freud vớ được cái gì đó mà về sau có thể trở thành rất, rất có ý nghĩa.
Và một trong các đệ tử của ông ấy, Wilhelm Reich, đã đi sâu hơn vào trong nó, nhưng ông ấy bị chính phủ Mĩ bắt vì ông ấy không thể chứng minh được rất khoa học, điều rất khách quan, điều ông ấy nói. Ông ấy chết trong nhà tù như người điên, được xác nhận là điên. Ông ấy là một trong những người vĩ đại nhất đã từng được sinh ra ở phương Tây. Nhưng lần nữa ông ấy đã làm việc bị bịt mắt. Ông ấy còn chưa làm việc như người yogi phải làm việc. Thái độ khoa học là việc hoàn tác của ông ấy.
Reich đã thử làm tiếp xúc với năng lượng này mà người yogis gọi là prana, và ông ấy gọi nó là "orgone." "Orgone" là tốt hơn "dục tình" vì "dục tình" cho cảm giác dường như nó là năng lượng dục. "Orgone" là từ tốt hơn, bao hàm hơn, thấu đáo hơn, lớn hơn "dục tình," và cho khả năng cho năng lượng di chuyển ra ngoài dục hay chạm tới những cõi giới cao hơn của hiện hữu mà không có dục. Nhưng ông ấy gặp rắc rối vì ông ấy cảm thấy nó nhiều và ông ấy quan sát nhiều tới mức ông ấy bắt đầu tích luỹ năng lượng prana, orgone, trong các hộp. Ông ấy đã làm các hộp orgone. Không gì sai trong chúng, người yogis đã từng làm việc trên điều đó hàng thế kỉ. Đó là lí do tại sao người yogis cố sống gần như trong các hang động như cái hộp, chỉ với một cửa ra vào nhỏ.
Bây giờ những hang động đó có vẻ rất mất vệ sinh, và làm sao họ sống ở đó trong nhiều năm được? Không có không khí đi vào bởi vì không có thông gió. Tối thế, bẩn thỉu, và người yogis đã sống hoàn hảo và mạnh khoẻ tới mức điều đó gần như phép màu. Họ làm gì ở đó và làm sao họ sống được ở đó? Theo ý thức hệ khoa học hiện đại họ phải đã chết, hay nhiều nhất họ phải đã sống như những người rất ốm yếu, suy nhược; nhưng người yogis chưa bao giờ bị suy nhược. Họ là một trong những người sống động nhất mà có thể bắt gặp, rất sinh động. Họ đã làm gì? Cái gì đã xảy ra? Họ đã tạo ra orgone, và với orgone để ở trong một chỗ đặc biệt, quạt thông gió không được cần tới; thực ra quạt thông gió sẽ không cho phép orgone tích luỹ bởi vì một khi không khí tới đó thì năng lượng orgone là người cưỡi - nó nhảy lên không khí và đi ra. Không lối chuyển không khí nào là được cần, thế thì hết tầng nọ tới tầng kia của orgone cứ tích luỹ lại, và người ta có thể phát triển mạnh trên nó và sống trên nó.
Wilhelm Reich đã tạo ra một cái hộp orgone nhỏ, và ông ấy đã giúp cho nhiều người ốm. Ông ấy bảo họ cứ nằm vào trong hộp orgone, và ông ấy sẽ đóng cái hộp lại và bảo họ nghỉ ngơi, và trong vòng một giờ người này đi ra, cảm thấy rất sống động, sinh động, náo nức khắp với năng lượng. Và nhiều người đã báo cáo rằng bệnh của họ biến mất sau vài thực nghiệm với orgone.
Hộp orgone hiệu quả tới mức không biết gì tới luật pháp của đất nước và không bận tâm tới chúng, Wilhelm Reich bắt đầu sản xuất chúng trên cơ sở số lượng lớn và ông ấy bắt đầu bán chúng. Thế rồi ông ấy bị Cơ quan quản trị thức ăn và thuốc bắt và ông ấy bị yêu cầu chứng minh điều đó. Bây giờ khó mà chứng minh được bởi vì năng lượng là không nắm bắt được. Bạn không thể chỉ nó cho bất kì ai. Nó là kinh nghiệm, và là kinh nghiệm rất bên trong.
Bạn không hỏi Albert Einstein chỉ ra điện tử, nhưng bạn có thể tin được vào ông ấy bởi vì bạn có thể đi và xem Nagasaki và Hiroshima. Bạn có thể thấy hậu quả, bạn không thể thấy được nguyên nhân. Không ai đã bao giờ nhìn thấy nguyên tử, nhưng nguyên tử có, bởi vì nó có thể tạo ra hiệu quả.
Phật đã định nghĩa chân lí là cái có thể tạo ra hiệu quả. Chính định nghĩa của Phật về chân lí là rất hay. Không bao giờ có lại và không bao giờ trước đây đã từng có định nghĩa hay như thế về chân lí: cái có thể tạo ra hiệu quả. Nếu nó có thể tạo ra hiệu quả nó là thực.
Không ai đã thấy nguyên tử, nhưng chúng ta phải tin vào nó bởi vì Nagasaki và Hiroshima. Nhưng không ai chịu nghe Wilhelm Reich và bệnh nhân của ông ấy. Đã có nhiều người sẵn sàng xác nhận, "Chúng tôi đã được chữa khỏi," nhưng đây là cách thức - một khi thái độ nào đó trở nên được chấp nhận chung - mọi người trở nên mù quáng. Họ nói, "Tất cả những người này đều bị thôi miên. Ngay chỗ đầu tiên họ phải đã không ốm - hay họ đã tưởng tượng bản thân họ được chữa - hay nó chẳng là gì ngoài tính gợi ý." Bây giờ bạn không thể đi và nói cho những người đã chết ở Hiroshima, "Anh đã tưởng tượng rằng anh chết"; họ đơn giản biến mất.
Nhìn sư việc này: chết là đáng tin hơn sống.
Và toàn thể thế giới hiện đại hướng chết nhiều hơn hướng sống. Nếu bạn giết một người bạn sẽ được mọi báo chí đưa tin, bạn sẽ trở thành dòng tít lớn. Nhưng nếu bạn làm sống lại một người, không ai đã bao giờ đi tới biết về điều đó. Nếu bạn sát hại, tên bạn trở thành cái tên nổi tiếng, nhưng nếu bạn đem cuộc sống cho mọi người, không ai sẽ tin vào bạn. Họ sẽ nói bạn là kẻ lừa bịp hay kẻ lừa dối.
Điều đó bao giờ cũng là vậy. Không ai tin vào Jesus; họ đã giết ông ấy. Không ai tin vào Socrates; họ đã giết ông ấy. Họ đã giết ngay cả người rất hồn nhiên như Aesop, người kể chuyện nổi tiếng. Ông ấy chưa bao giờ làm cái gì, ông ấy chưa bao giờ tạo ra tôn giáo hay triết học nào, và ông ấy không nói gì chống lại bất kì ai. Ông ấy chỉ tạo ra vài chuyện ngụ ngôn hay. Nhưng những chuyện ngụ ngôn đó làm cho mọi người khó chịu bởi vì ông ấy nói những chân lí lớn lao thế trong các chuyện ngụ ngôn đó và theo cách đơn giản tới mức ông ấy đã bị sát hại.
Bạn liên tục giết những người có tính khẳng định tôn vinh cuộc sống. Bạn đòi hỏi bằng chứng.
Nếu ai đó tới tôi và hỏi tôi đang làm gì ở đây, điều đó sẽ là khó. Nếu bạn xác nhận, họ sẽ nói bạn chắc điên. Đây là cái gì đó. Nếu ai đó chống lại tôi, họ sẽ tin vào người đó; nếu ai đó ủng hộ tôi, họ sẽ không tin người đó. Nếu ai đó chống lại - dù ngu xuẩn đến đâu - họ sẽ không tranh cãi với người đó; họ sẽ nói, "Đúng." Và nếu ai đó ở cùng tôi và ủng hộ tôi - dù thông minh đến đâu - họ sẽ cười; một cách có chủ ý họ sẽ nói, "Tôi biết, anh bị thôi miên." Hỏi Ts. Phadnis mà xem; mọi người nói rằng ông ấy bị thôi miên.
Đây là cái vòng luẩn quẩn của biện luận. Nếu tôi thuyết phục bạn, bạn bị thôi miên; nếu tôi không thể thuyết phục được bạn, tôi là sai. Cho nên đằng nào tôi cũng sai. Nếu ai đó được thuyết phục...
Chuyện xảy ra. Swabhav ở đây. Vài năm trước, anh ấy tới với hai người em trai; cả ba đã tới để tranh cãi với tôi. Và Swabhav là người biện luận nhiều nhất trong cả ba; nhưng anh ấy là người chân thành và giản dị. Anh ấy dần dần trở nên được thuyết phục. Anh ấy đã tới như người lãnh đạo với hai người em khác; thế rồi anh ấy trở nên được thuyết phục. Thế rồi hai người kia trở nên chống lại anh ấy. Bây giờ họ nói anh ấy bị thôi miên. Họ đã thôi không tới; họ sẽ không nghe tôi. Bây giờ họ sợ: nếu Swabhav có thể bị thôi miên, họ cũng có thể bị thôi miên. Họ né tránh, và họ đã tạo ra cơ chế phòng thủ bảo vệ quanh họ. Nếu tôi có thể thuyết phục được người em khác - bởi vì tôi biết một người vẫn có thể bị thuyết phục - thế thì người còn lại sẽ trở nên phòng thủ hơn, và thế thì người đó sẽ nói, "Hai anh em mất rồi." Và người còn lại cũng rất tốt bụng; có khả năng cho anh ta nữa. Thế thì cả gia đình sẽ nghĩ cả ba đã phát điên.
Đây là cách mọi sự diễn ra. Nếu bạn không thể thuyết phục được, bạn là sai; nếu bạn có thể thuyết phục, thế nữa bạn cũng sai.
Nhiều người, những người rất thông minh, tiến sĩ, giáo sư, nhà phân tâm - được xác nhận - nhưng toà án sẽ không nghe. Họ nói những người đó tất cả đều đồng mưu trong cùng trò chơi. "Chỉ cho chúng tôi năng lượng orgone ở đâu đi! Mở hộp ra và cho chúng tôi nhìn nó ở đâu. Nó là cái hộp thường, chẳng có gì cả. Và anh bán nó, lừa mọi người, dối trá."
Wilhelm Reich chết trong tù. Dường như nhân loại còn chưa học được gì từ lịch sử; điều đó vẫn cứ lặp lại cùng kiểu, diễn đi diễn lại.
Tại sao bạn chống đối tình yêu nhiều thế, bởi vì năng lượng orgone là năng lượng yêu sao? Tại sao bạn chống lại cuộc sống nhiều thế và tại sao bạn thiên nhiều thế về cái chết? Cái gì đó đã không tiến hoá trong bạn. Bạn không sống động tới mức bạn không thể tin được rằng sống có khả năng nhiều hơn và cao hơn. Và nếu ai đó đạt tới một đỉnh cao hơn, bạn không thể tin được rằng điều đó là có thể. Bạn phải phủ nhận. Điều đó trở thành gần như việc tấn công của bạn.
Nếu tôi nói tôi là Thượng đế, điều đó trở thành việc tấn công. Tôi đơn giản nói rằng bạn cũng có thể trở thành thượng đế, đừng bao giờ bằng lòng với cái ít hơn. Nhưng bạn cảm thấy bị xúc phạm. Và bạn đang sống chỉ hai phần trăm các khả năng của bạn; chín mươi tám phần trăm khả năng của bạn bị phí hoài. Dường như bạn được cho một trăm ngày để sống và bạn chỉ sống hai ngày rồi chết. Ngay cả những nhà tư tưởng lớn, các hoạ sĩ, nhạc sĩ, thiên tài, họ chỉ sống mười lăm phần trăm tiềm năng của họ. Nếu bạn có thể cháy dữ dội tới cực điểm của bạn, bạn trở thành thượng đế.
Tình huống là tới mức tôi muốn kể cho bạn một giai thoại để giải thích cho nó.
Cohen đụng mạnh vào Levy Issaacs người trông buồn nản khủng khiếp. "Có chuyện gì vậy?" anh ta hỏi.
"Tôi bị phá sản rồi," Isaacs yên tĩnh nói. "Kinh doanh của tôi thất bại rồi."
"Ồ, tốt," Cohen nói, "tài sản theo tên vợ anh thì sao?" "Làm gì có tài sản theo tên vợ tôi."
"Này, thế thì tài sản theo tên con anh?" "Làm gì có tài sản theo tên con tôi."
Cohen đặt tay lên vai Levy, "Levy, anh rất sai lầm. Anh không phải là bị phá sản - anh bị huỷ hoại."
Đây là tình huống bạn đang ở: không chỉ có phá sản, bị huỷ hoại. Nếu bạn không trở nên sống động, nếu bạn không đưa sức sống mới vào prana và năng lượng của bạn, bạn bị huỷ hoại - và bạn sẽ sống với ý tưởng giả rằng bạn đã sống. Và bạn được hỗ trợ bởi toàn thể đám đông những người bao quanh bạn bởi vì họ gần như đã chết như bạn vậy, cho nên bạn nghĩ đây là qui tắc. Đây không phải là qui tắc.
Nỗ lực hướng tới tôn giáo chỉ bắt đầu khi bạn bắt giữ được điều này - kinh này, mạch này - rằng bất kì cái gì bạn làm đều gần như không là gì cả. Bạn đang làm phí hoài cơ hội lớn. Chừng nào bạn còn chưa bắt đầu cảm thấy Thượng đế bên trong bạn, đừng bao giờ lắng đọng vào cái gì. Nếu bạn dừng lại nghỉ đêm thì được, tốt, nhưng đến sáng bắt đầu ra đi. Nhớ điều đó như một tiêu chí rằng sự hoàn thành của bạn là tính thượng đế của bạn.
Khi prana của bạn nở hoa, bạn là Thượng đế. Ngay bây giờ prana của bạn chỉ đang bò trên đất - thậm chí không đứng lên và bước.
Tôi đã nghe nói về một người ăn xin tới gõ cửa một nhà lớn. Bà chủ nhà ra mở cửa. Người nay ngay lập tức làm shashtang, người đó cúi mình toàn thân nằm trên đất. Người đó bò tới chân bà ấy. Một người rất mạnh mẽ, mạnh khoẻ, hoàn toàn mạnh khoẻ và trẻ. Bà này hỏi, "Ông làm gì vậy? Sao ông phí hoài năng lượng và bò dưới chân mọi người? Sao ông không làm việc! Sao ông cứ hỏi xin, ăn xin, bò ra thế!"
Người này nhìn lên và nói, "Thưa bà, tôi là người rất khoa học. Tôi di chuyển theo bảng chữ an pha bê ta." Bà này nói, "Ông ngụ ý gì, theo bảng chữ an pha bê ta?"
Người này nói, "A là Asking - hỏi. B là Begging - ăn xin. C là Crawling - bò. Làm việc (Work) còn rất, rất xa xôi, W mà..." Theo bảng chữ an pha bê ta! Đừng có theo thứ tự a b như thế.
Nếu bạn dùng prana của bạn chỉ cho chủ định dục, bạn đang bò. Chừng nào năng lượng còn chưa đi tới sahasrar, chừng nào prana còn chưa tới đỉnh đầu của bạn, tới chính đỉnh, bạn sẽ không có khả năng bay trong bầu trời. Bạn sẽ vẫn còn bị cầm tù và bạn sẽ vẫn còn khổ. Hạnh phúc là khi bạn bay. Hạnh phúc là khi bầu trời là bao la, không giới hạn. Hạnh phúc là khi bạn đã học được đỉnh cao nhất, cao trào của bản thể của bạn, khi bạn đã chạm tới đỉnh cao nhất.
Bây giờ tới lời kinh.
Nới lỏng nguyên nhân của tù túng và biết các kênh cho phép tâm trí đi vào thân thể của người khác.
"Bandha karana shaithilyat" - "Nới lỏng nguyên nhân của tù túng." Nguyên nhân của tù túng là gì? Sự đồng nhất. Nếu bạn bị đồng nhất với thân thể, bạn không thể đi ra ngoài nó. Bất kì khi nào đồng nhất của bạn có đó, đều có việc cầm tù của bạn. Nếu bạn nghĩ bạn là thân thể, chính việc nghĩ của bạn sẽ không cho phép bạn làm cái gì đó mà có thể được làm chỉ khi bạn biết rằng bạn không là thân thể. Nếu bạn nghĩ bạn là tâm trí, thế thì tâm trí là thế giới duy nhất của bạn; bạn không thể đi ra ngoài nó được.
Bạn đã học một ngôn ngữ đặc biệt, và bạn liên tục diễn giải mọi kinh nghiệm qua ngôn ngữ đó. Cho dù bạn bắt gặp một người đã đi ra ngoài sự đồng nhất thân thể, bạn sẽ nhìn kinh nghiệm của người đó lại theo kinh nghiệm riêng của bạn. Bạn sẽ diễn giải. Nếu bạn bắt gặp vị phật, bạn sẽ không nhìn vào phật tính của người đó; bạn sẽ chỉ nhìn thân thể của người đó. Bởi vì bạn có thể thấy chỉ cái bạn đang là. Bạn không thể thấy cái gì hơn.
Bạn là sự hàm chứa của bạn. Nhớ đừng bị đồng nhất với những thứ thấp hơn.
Có những người đơn giản sống để ăn. Họ không ăn để sống, họ sống để ăn. Và họ cứ ăn và nhồi vào. Họ trở thành chỉ là thức ăn, không cái gì khác. Họ giống như tủ lạnh - chất đầy, không cái gì khác trong họ. Và họ cứ làm điều đó một cách liên tục; và họ không bao giờ nghĩ dù một khoảnh khắc, "Mình đang làm gì thế này? Đây có phải là toàn thể cuộc sống không? - thế thì mình đang sống vô vị, tẻ nhạt."
Mulla Nasruddin ngã bệnh. Vợ nói, "Em đi gọi bác sĩ nhé?" Anh ta nói, "Không. Gọi bác sĩ thú ý chứ."
Cô ấy nói, "Anh ngụ ý gì? Anh có điên không, hay bị sốt quá cao mê sảng? Sao lại bác sĩ thú y? Sao lại bác sĩ cho con vật?"
Anh ta nói, "Anh sống như cây cỏ, anh làm việc như la, anh nghĩ như lừa, và anh ngủ cùng với bò. Em gọi bác sĩ thú y đi, anh không phải là người. Chỉ bác sĩ thú y mới có thể hiểu được anh."
Nhìn mà xem, quan sát điều bạn đang làm cho bản thân bạn. Sống thực vật sao? Chỉ nhồi nhét thức ăn vào sao? Hay chỉ khao khát mê đắm ngày càng nhiều dục, chỉ săn đuổi đàn bà hay đàn ông sao?
Một người đàn bà rất đáng yêu hỏi tôi, "Osho ơi, tôi có nên ở một mình, hay tôi nên săn đuổi đàn ông?" Cô ấy đã qua thời kì sung sức nhất, tuổi của cô ấy. Bây giờ đây là lúc ở một mình và hạnh phúc; bây giờ săn đuổi gần như là ngu xuẩn. Cho nên tôi bảo cô ấy, "Bây giờ không cần." Nhưng ở phương Tây có vấn đề; ngay cả đàn bà già cũng phải giả vờ rằng họ là trẻ. Và họ liên tục săn đuổi bởi vì đó là cuộc sống duy nhất của họ. Nếu dục biến mất, họ nghĩ cuộc sống biến mất, bởi vì thế thì sống để làm gì? Đó là toàn thể nghĩa của họ.
Đàn bà hiểu. Hiểu điều gì đó là rất dễ khi bạn ở gần tôi, nhưng khi bạn đi xa thì vấn đề quay lại bởi vì hiểu biết đó là do tôi. Tôi đã gần như sở hữu bạn; trong tia chớp đó bạn có thể thấy nhiều điều rất dễ dàng. Ngày hôm sau cô ấy viết một lá thư, "Osho ơi, đúng rồi, thầy đúng rồi. Tôi không nên săn đuổi. Nhưng về chuyện tình cờ thì sao?" Ở đây bạn quay lại.
Đừng bò, đứng dậy đi. Upanishads nói: "Uttishtha jagrat prapya varanni bodhayat" - "Đứng dậy; trở nên nhận biết." Bởi vì trở nên nhận biết là cách duy nhất để đứng dậy, vươn lên và soải cánh bay cao.
Nguyên nhân của tù túng là việc đồng nhất. Kinh này nói, "Nới lỏng nguyên nhân của tù túng..." Nếu bạn có thể nới lỏng nó ra một chút, thảnh thơi nó một chút, nếu bạn có thể nhổ bật rễ bản thân bạn khỏi thân thể và tâm trí, bạn sẽ đạt tới kinh nghiệm rất lớn lao; và kinh nghiệm đó là: bạn có thể đi vào thân thể người khác.
Nhưng tại sao đây là kinh nghiệm lớn lao? Một khi bạn có thể đi vào trong thân thể người khác, sự đồng nhất với thân thể bị mất đi vĩnh viễn. Thế thì bạn biết rằng bạn đã đi vào trong nhiều thân thể trước đây; bạn đã đi vào trong hàng triệu thân thể, đã ở lại, đã yêu, đã khổ và đã nghĩ rằng bạn là thân thể này nọ. Khi bạn không bị quá đồng nhất với thân thể và tù túng là lỏng lẻo, bạn có thể thử điều đó.
Bạn có thể đi vào trong thân thể của người chết. Phật thường phái đệ tử của ông ấy tới nghĩa địa. Người Sufis đã làm việc rất nhiều trên phương pháp này; họ sẽ sống trong nghĩa địa nơi có người chết, và khi một thân thể còn tươi mới được đem chôn họ sẽ cố gắng đi vào trong thân thể được đem chôn đó. Một khi bạn có thể đi vào trong thân thể của người khác, đột nhiên cách nhìn của bạn trở thành tuyệt đối rõ ràng rằng thân thể chỉ là ngôi nhà bạn ở. Nếu bạn đã sống trong ngôi nhà riêng của bạn, bị giam mãi mãi, dần dần bạn trở nên bị đồng nhất với ngôi nhà, bạn bắt đầu nghĩ dường như "mình là ngôi nhà"; nhưng nếu bạn có thể đi và thăm nhà của bạn bè, đột nhiên bạn thấy rằng bạn không phải là nhà: nhà bị bỏ lại đằng sau, bạn ở trong ngôi nhà khác. Thế thì cách nhìn trở thành rõ ràng.
Và việc làm chùng sự đồng nhất có thể cũng có ích nhiều. Bạn có thể giúp ai đó rất sâu sắc nếu bạn có thể làm chùng việc tù túng của bạn. Đây là một trong những phương pháp của shaktipat. Bất kì khi nào thầy muốn giúp bạn, phải lau sạch bạn, kênh năng lượng của bạn, lối chuyển của bạn, nếu nó bị chắn, thầy đơn giản sở hữu bạn. Thầy đơn giản giáng xuống trong bạn, và năng lượng của thầy, của phẩm chất cao hơn, thuần khiết hơn, không bị chặn, đi vào trong các kênh năng lượng của bạn. Chúng trở thành mở. Thế thì năng lượng riêng của bạn có thể di chuyển dễ dàng trong chúng. Đây là toàn thể nghệ thuật của shaktipat. Nếu đệ tử sẵn sàng buông xuôi, thầy có thể sở hữu đệ tử ngay lập tức.
Và một khi bạn bị năng lượng của thầy sở hữu, một khi prana của thầy bao quanh bạn, đi vào trong bạn, nhiều điều được thực hiện rất dễ dàng mà bạn không thể làm được trong nhiều năm. Bạn sẽ phải mất nhiều năm bởi vì bạn sẽ làm việc, làm việc… công việc là vất vả, các khối chắn là chính các khối đá, bạn đã tích luỹ chúng trong nhiều, nhiều kiếp, và năng lượng của bạn là rất nhỏ, chỉ nhỏ giọt, vài giọt sương năng lượng. Chúng mất đi mất lại trong sa mạc. Chúng mất đi mất lại trong đá. Nhưng nếu thầy có thể đi vào trong bạn như thác đổ, nhiều điều đơn giản bị tẩy đi. Và khi thầy đã đi từ bạn, đột nhiên bạn bắt đầu là một người khác toàn bộ - sạch hơn, trẻ hơn, đầy sức sống... và mọi chỗ chuyển năng lượng đều mở. Chỉ gõ cửa chút ít và bạn đi.
Khi thầy đi vào thân thể của đệ tử, thầy để lại đằng sau thầy trong vài khoảnh khắc một cơ hội lớn tới mức nếu đệ tử định dùng nó, người đó có thể đạt tới - dễ dàng thế, đơn giản tới mức gần như không có nỗ lực nào.
Có những trường phái nào đó, những trường phái được gọi là trường phái của siddhas, họ không cho phép đệ tử của họ làm việc trên bất kì kĩ thuật nào. Guru siddha guru đơn giản bảo họ ngồi bên cạnh ông ấy và chờ đợi. Họ bắt đầu trong satsang, và đó là phương pháp cực mạnh, nhưng để có điều đó sự thành tâm lớn là được cần tới. Một hoài nghi và nó không thể xảy ra được, một chút ít chống cự và nó không thể xảy ra được. Người ta phải hoàn toàn mở. Người ta phải hoàn toàn là mặt trăng, chỉ thế thì thầy mới có thể sở hữu được bạn.
"Nới lỏng nguyên nhân của tù túng và biết các kênh cho phép tâm trí đi vào thân thể của người khác." Hai điều được cần tới. Thứ nhất, nới lỏng tù túng; và điều khác, nhận biết, tri thức về các kênh để bỏ thân thể từ đâu và làm sao vào lại nó - làm sao đi vào thân thể của người khác. Bởi vì nếu bạn không biết bỏ thân thể từ đâu, bạn có thể không có khả năng vào lại lần nữa. Cho nên chỉ nới lỏng tù túng sẽ không có tác dụng; bạn sẽ phải rất, rất nhận biết về thế giới bên trong của thân thể bạn.
Bình thường chúng ta biết chỉ phần bên ngoài, chỉ phần làn da. Đó là lí do tại sao mọi người cứ đánh phấn, khử mùi da họ. Hmm?... đó là toàn thể thân thể của họ. Họ không biết cái máy lớn ẩn bên trong là gì. Bạn không nhận biết. Chỉ phần da, chỉ bề mặt, cái không là gì ngoài cái vỏ bên ngoài. Dường như bạn đi xem đền Taj Mahal và bạn chỉ đi lòng vòng lòng vòng và xem các tường bên ngoài và quay lại. Bạn nhìn vào trong gương, gương đơn giản phản xạ da bạn, lớp vỏ bên ngoài, và bạn bị đồng nhất với nó. Bạn nghĩ, "Mình là người này." Bạn không là vậy. Bạn là rất, rất vĩ đại - nhưng bạn chưa bao giờ nhìn từ bên trong.
Làm không đồng nhất với thân thể đi, thế rồi nhắm mắt lại và cố cảm thân thể từ bên trong. Cố chạm vào thân thể từ bên trong, cảm thấy nó thế nào từ bên trong. Lấy định tâm và từ đó nhìn quanh - và những điều bí ẩn mở ra các bí mật của chúng cho bạn. Đó là cách những người yogis đi tới biết về các kênh, các trung tâm, các nadis, trường năng lượng, làm việc về các trường năng lượng - từ đó bạn có thể ra khỏi thân thể và cách bạn có thể vào lại và cách bạn có thể đi vào trong thân thể người khác.
Một tri thức lớn, toàn thể địa thế của thân thể bên trong là được cần. Người ta phải biết nó; bằng không bạn sẽ bỏ lỡ nó. Nhiều lần điều đó đã xảy ra.
Đó là lí do tại sao Patanjali đơn giản cho lời kinh và không đi vào chi tiết bởi vì nếu chi tiết được mô tả, có những người ngu sẽ thử. Không chi tiết nào được cho. Bạn không thể làm được cái gì chỉ bằng việc đọc kinh này. Thực ra mọi chi tiết thực hành đã không được mở ra cho bạn. Patanjali giữ chúng là bí mật. Chúng chỉ dành cho những người đang làm việc với thầy. Chúng không thể được nói một cách công khai, bởi vì người tò mò có đó và họ sẽ thử, và thỉnh thoảng họ có thể thoát ra ngoài thân thể nhưng thế thì họ sẽ không có khả năng đi vào. Thỉnh thoảng họ có thể đi vào trong thân thể người khác và có thể không có khả năng thoát ra. Thế thì họ sẽ tạo ra rắc rối cho bản thân họ và cho người khác.
Cho nên các chi tiết không được cho, chi tiết bao giờ cũng phải được trao trong sự thân thiết cá nhân. Những lời kinh này đơn giản cho bạn khuôn khổ.
Bằng việc làm chủ udana hiện thời, người yogi có khả năng thăng lên và đi qua mà không dính nước, bãi lầy, gai nhọn v.v.
Khi lần đầu tiên những người Eskimos được khám phá ra, những người khám phá đơn giản ngạc nhiên biết rằng họ có gần một tá từ cho tuyết - một tá. Họ không thể tin được một tá từ được cần tới để làm gì. "Tuyết" là đủ rồi. Hay bạn có thể có thêm một từ nữa, "băng," nhưng điều đó sẽ có tác dụng. Nhưng người Eskimos có gần một tá, và thậm chí còn nhiều từ hơn, cho tuyết. Họ sống trong tuyết; họ đã thấy mọi tâm trạng của tuyết. Họ đã biết tuyết theo những cách khác nhau. Một người sống ở nước nhiệt đới không thể đơn giản hình dung được tại sao cả tá từ được cần cho nó.
Người yogis nói rằng prana có năm dạng khác nhau, cách làm việc, trường năng lượng trong bạn. Bạn sẽ nói đơn giản "việc thở" là đủ. Chúng ta chỉ biết hai điều - thở ra, hít vào - có vậy thôi. Nhưng người yogis sống trong thế giới của prana và họ đã đi tới biết sự khác biệt tinh tế, cho nên họ đã làm ra năm phân loại. Những phân loại đó phải được hiểu. Chúng là rất có ý nghĩa. Thứ nhất là prana, thứ hai là apana, thứ ba là samana, thứ tư là udana, thứ năm là vyana. Có năm biểu lộ của prana trong bạn, và từng biểu lộ đều có công việc khác nhau làm bên trong.
Prana, phân loại thứ nhất, là việc hô hấp. Apana, phân loại thứ hai, là việc giúp cho bài tiết; nó giúp lau sạch thân thể khỏi mọi chất bài tiết. Chuyển động của ruột tới từ apana, và nếu bạn biết cách làm việc trên nó, bạn có thể lau sạch ruột của bạn mà không ai khác có thể làm được. Người yogis có ruột sạch nhất. Và điều đó là rất, rất có nghĩa bởi vì một khi ruột sạch toàn bộ, một khi ruột già là sạch hoàn hảo, toàn thể con người bạn cảm thấy nhẹ, dường như bạn có thể bay. Gánh nặng biến mất.
Bình thường ruột già của bạn mang nhiều chất bài tiết thối rữa - của toàn thể cuộc sống của bạn, hết tầng nọ tới tầng kia. Bên trong, những thành bên trong của ruột già, phân cứ tích luỹ lại khô và cứng. Nó tạo ra nhiều chất độc, nó làm cho bạn nặng nề. Nó làm cho bạn thành sẵn có hơn cho lực hút. Nhiều nhấn mạnh được cho trong yoga để dọn sạch toàn thể dạ dầy để cho không chất độc nào còn lại trong nó bởi vì nếu không thì chúng cứ tuần hoàn trong máu bạn, chúng cứ tuần hoàn trong não bạn, và chúng tạo ra một trường năng lượng đặc biệt quanh bạn, cái là nặng nề, tăm tối, đen.
Khi ruột già là sạch hoàn hảo, hào quang nảy sinh quanh đầu bạn; và những người có con mắt cảm nhận có thể thấy nó một cách dễ dàng. Và bạn cảm thấy dường như bạn giống chiếc lông.
Phân loại thứ hai, apana, là chất bài tiết. Phân loại thứ ba, samana, là tiêu hoá và cung cấp nhiệt thân thể. Nếu bạn biết chức năng của phân loại thứ ba và nếu bạn trở nên nhận biết nó ở đâu, việc tiêu hoá của bạn sẽ trở thành tuyệt đối hoàn hảo. Bình thường bạn ăn nhiều nhưng bạn không tiêu hoá nó. Bạn liên tục ăn và bạn không bao giờ cảm thấy được thoả mãn. Bạn liên tục tọng vào thân thể mà không tiêu hoá nó. Nếu người ta biết cách dùng samana, một lượng nhỏ thức ăn sẽ cho người ta nhiều năng lượng hơn khối lượng lớn thức ăn cho bạn. Đó là lí do tại sao người yogis có thể nhịn ăn trong nhiều ngày mà không có hại gì cho thân thể họ. Thỉnh thoảng họ sẽ ăn chút ít lượng thức ăn, và họ sẽ tiêu hoá nó toàn bộ. Thức ăn của bạn không được tiêu hoá toàn bộ. Đó là lí do tại sao chất bài tiết của bạn có thể trở thành thức ăn cho một số con vật khác và nó có thể tiêu hoá được. Nhiều giá trị thức ăn vẫn còn bị bỏ lại trong đó.
Và phân loại thứ ba cung cấp nhiệt cho thân thể nữa. Ở Tây Tạng họ đã phát triển toàn thể hệ thống nhiệt thân thể, tạo ra nhiệt thân thể, trên samana. Họ thở theo cách nào đó, theo nhịp nào đó, để cho rung động samana vận hành một cách hiệu quả bên trong thân thể. Họ tạo ra nhiều nhiệt. Họ có thể tạo ra nhiều nhiệt tới mức tuyết đang rơi, và một lạt ma Tây Tạng sẽ đứng trần - vã mồ hôi - dưới trời quang. Khắp nơi là tuyết; và bạn sẽ ớn lạnh. Bạn sẽ không có khả năng ra khỏi nhà, và ông ấy đứng trong tuyết rơi - vã mồ hôi.
Đây là một trong các kiểm tra. Khi ở Tây Tạng ai đó trở thành người trị liệu, đầu tiên người đó phải trải qua kiểm tra mà trong đó người đó phải tạo ra nhiệt thân thể của mình. Nếu người đó không thể tạo ra được điều đó, người đó không được cho chứng chỉ để hành nghề y. Điều đó rất khó. Không ngành y nào khác trên thế giới đòi hỏi nhiều như vậy với người trị liệu. Nó không chỉ là thi vấn đáp; nó không chỉ là bạn học nhồi nhét cái gì đó và nôn nó ra trên giấy thi. Bạn phải chỉ ra rằng thực sự bạn đã trở thành người chủ nhiệt thân thể bạn bởi vì toàn thể cuộc đời bạn sẽ làm việc trên năng lượng nhiệt của bệnh nhân của bạn. Nếu bạn không phải là người chủ, làm sao bạn có thể làm việc trên người khác được? Cho nên cả đêm người được kiểm tra phải đứng bên ngoài trong tuyết rơi. Chín lần trong cả đêm những người chấm thi sẽ tới và chạm vào thân thể bạn để xem liệu bạn có vẫn còn vã mồ hôi không. Nếu bạn có thể tạo ra ngần ấy nhiệt thân thể, bạn là người chủ của samana. Bây giờ bạn có thể trở thành người chữa lành, chính việc chạm tay của bạn sẽ trở thành phép màu chữa lành.
Ở Tây Tạng họ dạy rằng khi bạn chạm tay hay lấy mạch bệnh nhân, bạn phải thở theo cách nào đó; chỉ thế thì bạn mới biết hệ thống thở của bệnh nhân. Và một khi bạn biết hệ thống thở của bệnh nhân, bạn đã biết mọi thứ về người đó và bạn biết cái gì cần được làm. Bình thường các bác sĩ cố quan sát triệu chứng trong bệnh nhân mà không di chuyển bản thân họ trong một không gian đặc biệt của tính cảm nhận, nhưng ở Tây Tạng - và toàn thể phương pháp của họ dựa trên yoga của Patanjali - đầu tiên bác sĩ phải đi vào không gian nào đó từ đó ông ta có thể cảm, thấy nơi có vấn đề của bệnh nhân - nơi prana của bệnh nhân bị rối, nơi prana của bệnh nhân bị nghẹn, nơi phải tìm ra.
Cùng điều đó là đúng với châm cứu. Điều đó đã phát triển từ yoga Đạo. Nhìn vào bên trong vận hành của năng lượng, prana, họ trở nên nhận biết rằng có bẩy trăm điểm trên thân thể mà là các điểm năng lượng, và chỉ bằng việc ấn vào những điểm đó toàn thể trường năng lượng của thân thể có thể được thay đổi và biến đổi. Khi bạn bị đau đầu, người châm cứu có thể không chạm vào đầu bạn; không cần. Ông ấy sẽ chạm vào đâu đó khác bởi vì năng lượng trong thân thể tồn tại theo cực, âm và dương. Nếu bạn bị đau đầu, thế thì ở đâu đó khác - tại cực đối lập - người đó sẽ tìm ra một điểm và người đó sẽ chỉ ấn chiếc kim vào một chút. Thậm chí điều đó cũng không được cần. Ngay cả không ấn kim - chỉ ấn chút xíu bằng ngón cái của người đó - và đột nhiên đau đầu hết. Và nó là điều huyền bí, làm sao nó xảy ra được? Người đó đã thay đổi trường năng lượng của bạn. Bằng việc ấn nó vào đâu đó, người đó đã thay đổi toàn thể trường; bạn bây giờ có trường năng lượng khác, trường năng lượng khác đi.
Châm cứu đang trở nên ngày càng khoa học hơn ở phương Tây, đặc biệt ở nước Nga xô viết, bởi vì một người đã phát triển một loại chụp ảnh mới - chụp ảnh Kirlian. Và qua chụp ảnh đó bẩy trăm điểm có thể được thấy qua ảnh chụp - và đích xác bẩy trăm điểm đó đã được biết tới bởi những người yogi Đạo, chẳng có trung gian nào, chẳng có chụp ảnh, chẳng có máy ảnh nào. Họ đi tới biết nó từ bên trong.
Phân chia thứ tư là udana, nói và trao đổi. Khi bạn nói, kiểu prana thứ tư được dùng. Và cùng kiểu prana có thể được huấn luyện; nếu prana đó có thể được huấn luyện, bạn trở thành người nói thôi miên, hay bạn có thể trở thành ca sĩ thôi miên. Tiếng nói của bạn có thể có phẩm chất thôi miên. Chỉ lắng nghe nó, và mọi người có thể bị hấp dẫn.
Và cùng điều đó được dùng cho trao đổi. Những người đang có khó khăn về cách trao đổi - và nhiều người, hàng triệu người, đang trong khó khăn đó, làm sao trao đổi, làm sao quan hệ với người khác, làm sao yêu, làm sao là bạn bè, làm sao cởi mở, làm sao không bị đóng - tất cả họ đều có khó khăn nào đó về udana. Họ không biết cách dùng năng lượng prana, điều làm cho bạn trôi chảy và làm cho năng lượng của bạn trở nên mở và bạn có thể dễ dàng đạt tới người khác và không có khối chắn.
Và phân loại thứ năm là vyana, điều phối và tích hợp. Phân loại thứ năm giữ bạn được tích hợp. Khi phân loại thứ năm rời khỏi thân thể, bạn chết. Thế thì thân thể bắt đầu tan rã, huỷ hoại. Nếu phân loại thứ năm có đó, cho dù toàn thể việc thở của bạn dừng lại, bạn sẽ vẫn còn sống. Đó là điều người yogis đang làm. Khi người yogis biểu lộ rằng họ có thể dừng tim họ lại, họ dừng bốn phân loại - bốn prana đầu - họ giữ phân loại thứ năm. Nhưng phân loại thứ năm là tinh tế tới mức chưa tồn tại công cụ nào mà có thể phát hiện được nó. Cho nên trong mười phút bạn có thể quan sát trong mọi cách có thể và bạn sẽ thấy rằng người yogi hoàn toàn chết và các bác sĩ sẽ xác nhận rằng người đó chết, và người đó sẽ quay lại. Phân loại thứ năm là tinh tế nhất, chính mạch giữ cho bạn là một thể thống nhất hữu cơ.
Nếu bạn có thể biết tới cái thứ năm, bạn sẽ có khả năng biết Thượng đế, không trước điều đó. Bởi vì chức năm của cái thứ năm ở bên trong bạn là cùng như chức năng của Thượng đế trong tính toàn bộ. Thượng đế là vyana; ngài giữ cái toàn thể gắn lại với nhau - các ngôi sao. Hàng triệu ngôi sao, tính vô hạn của không gian, tất cả gắn lại với nhau. Nếu bạn biết thân thể bạn, thân thể bạn là một tiểu vũ trụ, đại diện cho toàn thể đại vũ trụ. Trong tiếng Phạn họ gọi thân thể pind là tiểu vũ trụ, và cái toàn thể brahmand, là đại vũ trụ. Và toàn thân bạn là sự thu nhỏ. Nó có mọi thứ mà cái toàn thể có, không cái gì thiếu. Nếu bạn có thể hiểu được tính toàn bộ của bạn, bạn sẽ hiểu tính toàn bộ của tất cả.
Hiểu biết của chúng ta vẫn còn ở mức nơi chúng ta đứng. Nếu ai đó nói rằng không có Thượng đế, người đó đơn giản nói rằng người đó đã không đi tới biết cái gì đó có tính hợp nhất trong bản thể riêng của người đó, có vậy thôi. Đừng tranh đấu với người đó, đừng tranh cãi với người đó, bởi vì luận cứ không thể cho người đó kinh nghiệm về vyana. Chứng minh không thể cho người đó kinh nghiệm về vyana. Người yogis chưa bao giờ tranh cãi; họ nói, "Tới đi, thực nghiệp với chúng tôi - giả thuyết thôi. Không cần tin vào điều chúng tôi nói. Chỉ thử; chỉ cố xem nó là gì. Một khi bạn đi tới cảm thấy vyana của bạn, đột nhiên Thượng đế xuất hiện, thế thì Thượng đế lan toả khắp nơi." Để tôi kể cho bạn một giai thoại:
Người thuê nhà được bà chủ nhà nhờ giải quyết hộ một vấn đề cho bà ấy. Bà ấy nói với anh ta, "Tôi có hai con vẹt này trong một lồng; một con là vẹt trai và con kia là vẹt gái, nhưng tôi không biết con nào là con nào. Anh có thể giúp tôi được không?"
Người thuê nhà nói, "Vâng, thưa bà, tôi không biết gì về vẹt cả, nhưng tôi bảo bà nó là gì - bà đặt tấm vải đen che cái lồng lại trong nửa giờ, thế rồi bỏ tấm vải đen ra và xem con chim nào bị bứt lông khoang cổ một chút - con đó sẽ là con đực."
Thế là bà ấy làm điều đó - bà ấy lấy vải đen phủ lên lồng, để nó đấy trong nửa giờ, rồi bỏ nó ra. Rõ ràng là một con vẹt bị bứt chút lông quanh cổ. "Bà thấy chưa," anh ta nói, "đấy là con đực."
"Ô, vâng," bà ấy nói, "nhưng làm sao tôi sẽ biết được trong tương lai?"
Thế là anh ta nói, "Thắt giải băng quanh cổ nó đi, thế thì bà sẽ biết." Và bà chủ nhà làm điều đó.
Trưa hôm đó cha sở tới uống trà. Con vẹt ngó vào chiếc cà vạt của ông ấy và nói, "Ồ - họ đã bắt ông vào lúc đó chứ gì!"
Bất kì cái gì là kinh nghiệm của chúng ta đều trở thành diễn giải cho cái toàn thể. Chúng ta bị giới hạn vào kinh nghiệm của chúng ta; chúng ta sống qua nó, chúng ta nhìn qua nó. Cho nên khi một người nói không có Thượng đế, cảm thấy từ bi với người đó đi. Đừng cảm thấy giận. Người đó đơn giản nói rằng người đó đã không bắt gặp cái gì trong người đó mà có thể tương ứng với Thượng đế, điều có thể cho một chỉ báo. Người đó thậm chí đã không tìm ra một tia sáng bên trong bản thể mình.
Làm sao người đó có thể tin được rằng có tồn tại cội nguồn, mặt trời, cội nguồn cuộc sống và ánh sáng? Không, người đó không thể tin được. Người đó hoàn toàn mù, tuyệt đối mù; thậm chí không một tia sáng nào đã qua mắt người đó. Cảm thấy từ bi cho người đó đi. Giúp người đó, đừng tranh cãi, bởi vì luận cứ sẽ không giúp gì cho người đó.
Không ai có thể thuyết phục bất kì ai về Thượng đế. Nó chẳng liên quan gì tới việc tin chắc; nó là cải tâm.
"Bằng việc làm chủ udana hiện thời, người yogi có khả năng thăng lên và đi qua mà không dính nước, bãi lầy, gai nhọn v.v." Nếu bạn đã trở nên hoà điệu và bạn đã làm chủ prana được biết như udana, bạn có thể thăng lên bởi vì chính udana kết nối bạn với trọng lực.
Bạn thấy nhiều chim thế, những con chim lớn thế, bay lượn. Điều vẫn còn là bí ẩn cho các nhà khoa học là làm sao chúng bay được với trọng lượng như thế. Những con chim đó theo tự nhiên biết cái gì đó về udana; nó là tự phát cho chúng. Chúng thở theo cách nào đó. Nếu bạn cũng có thể thở theo cách đó, bạn sẽ cảm thấy đột nhiên bạn bị cắt rời khỏi trọng lực. Với trọng lực bạn có kết nối nào đó từ bên trong con người bạn. Điều này có thể được ngắt kết nối.
Và điều đó xảy ra cho nhiều người mà không có việc biết. Thỉnh thoảng đang thiền, đang ngồi, đột nhiên bạn cảm thấy rằng bạn đang thăng lên. Mở mắt ra - bạn sẽ thấy bản thân bạn đang ngồi trên đất. Nhắm mắt lại - bạn lại cảm thấy bạn thăng lên. Thân thể vật lí của bạn có thể không thăng lên, nhưng sâu bên trong cái gì đó đã trở nên được ngắt ra và bạn cảm thấy lỗ hổng giữa bạn và trọng lực. Đó là lí do tại sao bạn cảm thấy rằng bạn đang thăng lên. Điều này cũng có thể đi ngày càng sâu hơn, và một ngày nào đó có thể bạn thăng lên thật.
Có một người đàn bà ở Bolivia đã được mọi công nghệ, phương pháp khoa học quan sát. Bà ấy thăng lên. Bà ấy có thể đi trong vài giây cao quãng một mét trên đất - chỉ bằng việc thiền. Bà ấy ngồi và thiền, và bà ấy bắt đầu nâng lên.
Bằng việc làm chủ samana hiện thời, người yogi có khả năng làm cho ngọn lửa dạ dầy thành rực sáng.
Thế thì bạn có thể tiêu hoá rất dễ dàng, và một cách toàn bộ. Và không chỉ có thế, khi ngọn lửa dạ dầy của bạn cháy sáng, toàn thân bạn sẽ có ánh sáng rực rỡ quanh nó, một phẩm chất nào đó của lửa, tính sống động.
Và ngọn lửa này giúp cho người yogi làm thuần khiết toàn thể con người của người đó bởi vì ngọn lửa này thiêu cháy mọi thứ mục nát và rác rưởi trong bạn, tất cả những cái đó phải không có đó. Nó phá huỷ mọi cái không thuần khiết và độc bên trong thân thể bạn.
Và ngọn lửa này, nếu nó có thể được cháy một cách thực sự toàn bộ, có thể thiêu cháy cả tâm trí bạn nữa. Ý nghĩ có thể bị thiêu cháy trong nó, ham muốn có thể bị thiêu cháy trong nó.
Và Patanjali nói rằng một khi bạn đã tìm thấy ngọn lửa này, bằng việc thở theo cách nào đó và đem tới năng lượng prana nào đó và tích luỹ nó bên trong, bạn có thể thiêu cháy toàn thể ham muốn sống - bạn có thể thiêu cháy chính hạt mầm của ham muốn. Thế thì không còn sinh cho bạn nữa. Điều này ông ấy gọi là nirbeej samadhi, samadhi vô hạt mầm, khi ngay cả hạt mầm cũng đã bị thiêu cháy.
Bằng việc thực hiện samyama trên mối quan hệ giữa ê te và tai, việc nghe siêu hình trở thành sẵn có.
Từ trong tiếng Phạn cho ê te là akash. Nó toàn diện hơn là "ê te"; akash nghĩa là toàn thể không gian, toàn thể cái trống rỗng bao quanh mọi thứ. Akash nghĩa là tính không mà từ đó mọi thứ đi ra và trở lại, tính không nguyên thuỷ mà đã có từ lúc bắt đầu và sẽ lại có ở lúc kết thúc. Mọi thứ tới từ nó và biến mất vào trong nó. Tính không này không chỉ là cái không có gì. Nó không có tính phủ định; nó là tiềm năng và khẳng định tuyệt đối, nhưng vô hình dạng.
Bằng việc thực hiện samyama trên quan hệ giữa akash này, tính vô hình dạng này đang bao quanh bạn, và tai bạn... Đây là khám phá yoga, rằng tai bạn là trong điều chỉnh với akash. Đó là lí do tại sao bạn có thể nghe thấy âm thanh: âm thanh được tạo ra trong akash, trong ê te, và tai bạn tương ứng với akash bên trong thân thể bạn. Mắt bạn tương ứng với mặt trời; tai bạn tương ứng với akash, với ê te. Nếu bạn có thể đem samadhi của bạn tới akash và tai bạn và quan hệ của chúng, bạn sẽ có khả năng nghe thấy bất kì cái gì bạn muốn nghe.
Đây là cái gì đó rất huyền bí, nhưng không phải là phép màu. Nó có luật khoa học đằng sau nó như ti vi hay radio. Chỉ việc điều chỉnh nào đó là được cần. Nếu tai bạn ở trong điều chỉnh nào đó với akash, bạn bắt đầu nghe thấy điều mà bình thường không sẵn có. Bạn có thể nghe được ý nghĩ của người khác. Không chỉ điều đó, bạn có thể nghe được các ý nghĩ đã được thốt ra từ hàng nghìn năm trước. Bạn có thể nghe lại Phật. Bạn có thể nghe lại Krishna đang trao thông điệp của ông ấy cho Arjuna. Bạn có thể nghe lại Jesus đang cho bài giảng trên núi. Bởi vì bất kì cái gì được tạo ra vẫn còn trong akash; nó không bao giờ mất đi; theo một cách tinh tế nó được bảo tồn.
Trong Thông thiên học họ gọi những bản ghi này là bản ghi akashic. Mọi thứ đều có đó, được ghi lại, được vào băng, một khi bạn có thể tìm ra chìa khoá. Và chìa khoá đó tồn tại trong việc đem samyama tới quan hệ của ê te với tai bạn.
Bằng việc thực hiện samyama trên mối quan hệ giữa thân thể và ê te và đồng thời đồng nhất bản thân mình với những thứ nhẹ, như bông rơi xuống, người yogi có khả năng đi qua không gian.
Và nếu bạn mang samyama tới thân thể bạn và tới akash và tới quan hệ của chúng.
Akash là vô hình dạng, nirakar, những cái vô hạn quanh bạn. Thân thể bạn chỉ là con sóng trong đại dương akash. Trước khi nó nảy sinh nó đã ở trong akash không biểu lộ; sau khi bạn chết nó sẽ lại biến mất vào trong akash. Ngay bây giờ con sóng này được nối với akash; nó không được tách rời ra. Chỉ đem nhận biết của bạn tới con sóng và mối quan hệ của sóng với đại dương và bạn sẽ có khả năng biến mất hay xuất hiện, tương ứng theo ý chí của bạn.
Người yogi có thể biểu lộ bản thân người đó ở nhiều chỗ đồng thời; người đó có thể gặp một trong những đệ tử của mình ở Calcutta và gặp người khác ở Bombay và người khác ở California. Một khi bạn biết cách trong hoà hợp với đại dương, bạn trở thành mạnh mẽ vô hạn.
Nhưng nhớ rằng những điều này không phải là để được ham muốn. Nếu bạn ham muốn chúng, chúng sẽ trở thành sự nô lệ. Những điều này không nên trở thành đối thể cho tham của bạn. Và khi chúng xảy ra theo cách riêng của chúng, bạn nên tiếp tục cúng dường chúng cho Thượng đế. Nói với ngài, "Tôi sẽ làm gì với chúng?'' Bất kì cái gì bạn đạt tới, cứ từ bỏ, trao nó lại cho Thượng đế. Nhiều điều hơn sẽ tới; cho cả cái đó nữa. Nhiều điều nữa sẽ vẫn tới; cho cái đó nữa. Và một điểm tới khi bạn đã từ bỏ tất cả, bản thân Thượng đế tới với bạn.
Thượng đế tới vào khoảnh khắc của dâng hiến tuyệt đối, hoàn toàn.
Cho nên xin đừng bắt đầu trở nên tham lam về những điều này. Và tôi đã không cho bạn chi tiết nào, cho nên cho dù bạn trở nên tham lam, bạn không thể làm được gì. Những chi tiết này được trao ở chỗ riêng tư. Những chi tiết này được trao trong mối quan hệ cá thể với cá thể. Và không có nhu cầu cho bạn tới tôi vì những chi tiết đó; bất kì khi nào bạn sẵn sàng, chúng sẽ được trao cho bạn dù bạn ở bất kì chỗ nào. Sự sẵn sàng của bạn là tất cả. Nếu bạn sẵn sàng chúng sẽ được trao cho bạn, và chúng sẽ được trao chỉ theo tỉ lệ với tính sẵn sàng của bạn để cho bạn không thể làm hại bản thân bạn được, bạn không thể làm hại người khác được; bằng không con người là con vật rất nguy hiểm. Bao giờ cũng nhớ nguy hiểm đó.
Xem tiếp Chương 10Quay về Mục lục

0 Đánh giá

Ads Belove Post