Chương 1. Người chủ tuyệt đối

Chương 1. Người chủ tuyệt đối

Price:

Read more

Quay vào trong - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 1. Người chủ tuyệt đối


Thưa thầy kính yêu,
Ryusui nói:
Trống rỗng là tên cho hư không, tên cho điều không thể hiểu thấu, tên cho núi, sông, toàn thể thế gian. Nó cũng được gọi là hình tướng thực. Trong mầu lục của thông, sự xoắn xuýt của bụi gai, không có đi hay đến. Trong mầu đỏ của hoa và mầu trắng của tuyết, không có sinh và không có tử.
Hỉ, nộ, ái, lạc - đây là ảo tưởng vô thuỷ và vô chung. Chứng ngộ, thực hành, nhận ra - đây là điều vô tận và vô biên. Vậy, trống rỗng là tên cho không vật khác; mọi vật đều là hình tướng thực. Trong mọi thế giới, theo mọi hướng, không có cái thứ hai, không có cái thứ ba.
Do đó, trong cách biểu lộ nền tảng, không có ảo vọng hay chứng ngộ, không thực hành hay nhận ra. Ngay cả nói về thực hành và nhận ra, cũng là quan điểm tương đối.
Trong tông phái chúng ta, từ việc vào đầu tiên, điểm này nên được thực hành dù ngồi, nằm, hay bước đi quanh. Khi ngủ, chỉ ngủ, không có quá khứ hay tương lai. Khi ông thức, không có ngủ. Điều này được gọi là người chủ tuyệt đối.
Maneesha, Ryusui đang trỏ tới một câu hỏi rất nền tảng mà Phật Gautam đã nêu ra lần đầu tiên trong lịch sử con người.
Câu hỏi là, chứng ngộ có là cái gì đó được đạt tới, được ham muốn, được khao khát không? Nếu là vậy, thế thì phải có thực hành, kỉ luật, nghi lễ, và toàn thể các thứ phụ theo. Và hàng triệu người đã đi lạc lối trong việc tìm kiếm chứng ngộ. Phật là người đầu tiên đã nói rằng mọi thứ là tuyệt đối tuỳ tiện vì bạn không cần đi bất kì đâu. Chứng ngộ là chính bản tính của bạn.
Chính tâm thức tạo ra bạn; ngôi nhà này, thân thể này không phải là bạn. Và tâm trí này cũng không là bạn. Và chẳng có vấn đề gì về đứng sang bên và quan sát tâm trí và việc vận hành của nó, đứng sang bên và quan sát các cử chỉ của thân thể. Người quan sát này là thực tại của bạn, chân lí của bạn. Nó đã ở đây rồi, cho nên đừng đi tìm ở đâu đó khác. Bất kì khi nào, bất kì chỗ nào bạn tìm thấy nó, bạn bao giờ cũng sẽ thấy nó ở đây và bây giờ. Bây giờ là thời gian và ở đây là không quan. Nếu bạn có thể là bây giờ ở đây, bạn là một Phật Gautam.
Tôi đã nghe một câu chuyện nhỏ về một người vô thần lớn. Cả ngày anh ta tranh cãi chống lại tôn giáo, chống lại mọi loại mê tín. Anh ta đã viết trong phòng khách của mình dòng chữ lớn: GOD IS NOWHERE - Thượng đế không có ở đâu cả.
Thế rồi một đứa con nhỏ được sinh ra cho anh ta.
Một hôm đứa bé nhìn vào dòng chữ này. Nó mới học viết, học bảng chữ cái, cho nên nó không thể xoay xở đọc được GOD IS NOWHERE; ngược lại, nó đọc: GOD IS NOW HERE - Thượng đế là bây giờ ở đây - nowhere có thể được chia thành hai từ.
Người bố nghe thấy điều đó và ngạc nhiên. Anh ta chưa bao giờ nghĩ về điều đó, rằng 'nowhere-không ở đâu' bao gồm 'now-bây giờ' và 'here-ở đây'.
Đứa trẻ nhỏ đã làm thay đổi toàn thể cách tiếp cận của anh ta; anh ta bắt đầu nghĩ về bây giờ và ở đây. Và anh ta phân vân... vì anh ta chưa bao giờ là bây giờ; tâm trí anh ta đã từng lang thang trong quá khứ hay trong tương lai, nhưng không bao giờ bây giờ, không bao giờ trong hiện tại.
Tâm trí không có quan hệ với hiện tại.
Khoảnh khắc này, nếu bạn ở đây, tâm trí không còn nữa.
Tâm trí cần quá khứ như kí ức, và tâm trí cần tương lai như phóng chiếu. Không có tương lai và quá khứ, tâm trí không thể tồn tại. Và hiện tại là nhỏ thế, chỉ một phần giây. Trong hiện tại, không có công việc cho tâm trí làm - hoặc nó có thể làm việc nào đó cho tương lai hay việc nào đó cho quá khứ, nhưng nó tuyệt đối bất lực khi có liên quan với hiện tại.
Người bố đã đánh bại nhiều triết gia, nhưng đứa con nhỏ này đã làm thay đổi toàn thể đời anh ta vì anh ta bắt đầu ở đây, và ở bây giờ, và anh ta thấy khu vực mới mở ra bên trong bản thân mình.
Khu vực đó là thiền.
Thiền nghĩa là không tâm trí - không quá khứ, không tương lai, không hiện tại... chỉ vĩnh hằng, tấm gương thuần khiết phản ánh cái toàn thể và không bị ghi dấu bởi bất kì cái gì. Hệt như bầu trời không bị ghi dấu bởi mây bay, hay mặt trời mọc, hay đêm trăng tròn, bầu trời vẫn còn không bị ghi dấu nào.
Bạn đã nghe bài cú Thiền về cái bóng của tre... trải trên các bậc ngôi đền, nhưng chúng không làm ra bất kì tiếng ồn nào.
Trăng trên trời được phản xạ trong ao nhỏ nhất nhưng nó không quấy rối ao. Nó không tạo ra ngay cả một gợn sóng. Và phép màu là, ao không muốn trăng được phản xạ mà trăng cũng không muốn được phản xạ. Nhưng sự tồn tại tự phát điều khiển một hiện tượng đẹp - một trăng được phản xạ khắp trên trái đất.
Trong sông, trong đại dương, trong ao, trong hồ, trong suối... ngay cả trong một giọt sương trên lá sen, trăng tròn được phản xạ đầy đủ như trong đại dương lớn nhất.
Nhưng mọi thứ đang xảy ra im lặng thế theo cách riêng của nó.
Trong sự tồn tại không có nỗ lực, không có ý định. Mọi thứ là rất thảnh thơi và thoải mái.
Phật Gautam là người đầu tiên nói rằng bất kì ai đang đi tìm bản thân mình đều là người ngu. Chính việc đi tìm đang ngăn cản bạn tìm thấy. Đừng tìm! Đừng đi bất kì đâu, cứ ngồi xuống và nhắm mắt lại và ở bên trong. Quên mọi điều về quá khứ và tương lai đi, quên thân thể và tâm trí đi - bạn là người chủ. Đây chỉ là một ngôi nhà, nhà trọ tạm thời; đến sáng bạn sẽ phải đi tiếp. Lữ khách tiếp tục đi từ nhà trọ này sang nhà trọ khác, cho nên đừng bị gắn bó với nhà trọ nơi bạn tình cờ ở ngay bây giờ trong khoảnh khắc này.
Tách rời, xa cách, chỉ quan sát... và tâm trí biến mất.
Tâm trí là sự gắn bó của bạn với thân thể và qua thân thể gắn bó với thế giới và mọi tham, giận, yêu, ghét, ghen của nó. Toàn thế giới là phóng chiếu của tâm trí bạn, trong đó bạn sống trong chịu đựng và đau khổ - hay thỉnh thoảng chút ít vui vẻ, chút ít hoan lạc, nhưng rất nông cạn, thậm chí không sâu hơn làn da.
Nhưng đằng sau mọi điều này có ẩn nấp vị phật, nhận biết, tâm thức của bạn - không bị che mờ, không trầy xước, từ vĩnh hằng tới vĩnh hằng.
Nhận ra điều này là kinh nghiệm vĩ đại nhất trên thế giới.
Nhưng mọi tôn giáo đã từng dẫn mọi người đi lạc lối, đi tìm các thượng đế mà không tồn tại, cầu nguyện trước các thượng đế mà họ không bao giờ gặp. Không lời cầu nguyện nào đã từng được đáp ứng, nhưng mọi tôn giáo được tổ hợp vào trong mưu đồ đem bạn đi xa khỏi bản thân bạn. Đây là những cách thức... Thượng đế là xa xăm; tự nhận ra sẽ phải trải qua thực hành, kỉ luật gian nan. Mọi người không thể đảm đương được điều đó. Không ai có ngần ấy thời gian, không ai có ngần ấy năng lực cho việc tự hành hạ. Không ai là kẻ tự bạo tới mức người đó có thể trở thành thánh nhân.
Một cách tự nhiên, kết quả tối thượng là nhân loại ngày nay: mọi người đã đánh mất con đường của mình về với bản thân mình.
Và đó là một bước thôi - chỉ quay vào trong. Nó không phải là phát hiện, nó không phải là khám phá, nó không phải là phát minh. Nó đơn giản là nhớ lại.
Bạn có thể quên nó, bạn có thể nhớ nó. Đây chỉ là hai điều bạn có thể làm về bản tính của bạn, về tâm thức bản chất của bạn.
Nhưng giữa hai điều này không có mấy khác biệt; khác biệt giữa ngủ và thức là khác biệt duy nhất. Và người thức hôm nay đã ngủ hôm qua; người ngủ hôm nay có thể trở nên thức ngày mai, cho nên nó chỉ là vấn đề thời gian. Nó chỉ là vấn đề về quyết định của bạn, khi nào nhận ra. Khi có liên quan tới phật tính, nó đang chờ đợi đó từ vĩnh hằng tới vĩnh hằng. Dù bạn nhận ra nó hay không, không thành vấn đề.
Nếu bạn nhận ra nó, mọi hành động của bạn sẽ thay đổi. Thế giới quan của bạn sẽ thay đổi. Tâm trí sẽ không còn là người chủ của bạn nữa, nhưng sẽ là người hầu rất tốt và rất hiệu quả, cái máy tính sinh học tốt. Nhưng đầu tiên, người chủ phải được nhận ra; thế thì tâm trí và thân thể vận hành tương ứng theo trí huệ của người chủ.
Ryusui là một thầy lớn. Ông ấy nói:
Trống rỗng là tên cho hư không.
Trong các từ điển và từ điển bách khoa bạn sẽ thấy trống rỗng có ngụ ý phủ định.
Trong kinh nghiệm của thiền nhân, trống rỗng không có tính phủ định. Điều đơn giản là ở chỗ căn phòng của bạn đầy đồ đạc. Bạn đã bao giờ nghĩ về căn phòng, chỗ đó ngụ ý không gian không? Bạn bỏ mọi đồ đạc ra - cái gì còn lại đằng sau? Bình thường, bất kì ai đều sẽ nói rằng bây giờ căn phòng là trống rỗng.
Phật là người đầu tiên nói rằng bây giờ căn phòng mới thực sự là căn phòng, trống rỗng mọi thứ, chỉ là bản thân nó. Mọi đồ đồng nát đã bị bỏ đi. Trống rỗng theo quan niệm của Phật là phẩm chất rất khẳng định - khẳng định nhất.
Phật đã đưa vào trong thế giới nhiều quan điểm nguyên bản; đây là một trong những đóng góp của ông ấy.
Trống rỗng và hư không không thực sự ngụ ý điều bạn bình thường ngụ ý bởi chúng. Trống rỗng đơn giản có nghĩa là bầu trời tâm thức của bạn thanh tịnh, không mây. Và hư không đơn giản có nghĩa là 'no-thingess – không vật'. Chỉ đặt dấu gạch nối vào và thế rồi bạn sẽ thấy thay đổi xảy ra: no-thingness không vật. Tâm thức của bạn không phải là vật, nó không phải là đối thể. Nó bao giờ cũng là chủ thể. Bạn không thể đặt nó ra trước bản thân bạn và xem xét nó.
Đó là vấn đề trước nhà khoa học: nhà khoa học không thể nhận ra được tâm thức vì người đó không thể làm tâm thức thành đối thể để xem xét. Người đó không thể mổ xẻ được nó. Người đó không thể tìm ra nó được hợp thành từ cái gì. Người đó không thể tháo nó ra thành từng phần và nhìn sâu hơn vào trong nó, vì tâm thức không phải là vật. Nó là ‘không-vật’ - nhưng nó hiện hữu. Nó là ‘sự hiện hữu’ thuần khiết.
Khi tâm trí bạn dừng việc suy nghĩ và bạn trở nên được tách rời khỏi thân thể bạn, im lặng vô cùng giáng lên bạn và bản thể chói sáng được hiển lộ, điều tôi gọi là vị phật.
Phật đơn giản nghĩa là người đã thức tỉnh. Mọi người đều có tiềm năng này. Rất ít người đã nhận ra nó, nhưng mọi người đều có tiềm năng này. Nếu bạn không nhận ra, không ai chịu trách nhiệm cho điều đó ngoại trừ bạn. Và nó ở gần thế...
Nhưng đây là khó khăn: Khi các vật là rất hiển nhiên chúng ta có xu hướng quên chúng. Chúng ta có thể nhìn xa nhưng chúng ta không thể nhìn vào trong được.
Thực ra toàn thể giáo dục, văn hoá, văn minh của chúng ta đều chuẩn bị cho chúng ta là ai đó trong thế giới này, để có thành tựu lớn lao nào đó. Không nền văn hoá nào dạy trẻ em rằng "Các con không phải trở thành bất kì ai, các con chỉ đi vào trong và tìm ra con là ai." Và chừng nào chúng ta chưa tìm thấy một nền văn hoá, một hệ thống giáo dục trên thế giới mà giúp cho mọi người tìm ra phật tính của họ, chúng ta sẽ vẫn còn là kẻ man rợ.
Ryusui nói:
Trống rỗng là tên cho hư không, tên cho điều không thể hiểu thấu, tên cho núi, sông, toàn thể thế gian.
Tôi muốn nói, toàn thể vũ trụ này là hoàn toàn trống rỗng - nhưng trống rỗng này là không phủ định.
Bây giờ ngay cả những nhà vật lí cũng đã đi tới hiểu... Những ngôi sao mới, được sinh ra mọi ngày; ngôi sao già, chết đi mọi ngày. Người ta có thể hỏi, sao mới từ đâu tới...? Khi có liên quan tới Thượng đế, ngài đã bắt đầu sáng tạo từ sáu nghìn năm trước và ngài đã làm việc của mình trong sáu ngày. Ngày thứ bẩy ngài đi nghỉ và kể từ đó ngài đã không được thấy ở đâu nữa. Kì nghỉ dài thế! Một điều là chắc chắn: rằng thế giới mà ngài đã tạo ra phải đã được tạo ra trong sáu ngày vì nó là đống lộn xộn thế. Bạn không thể tạo ra một thế giới tốt hơn trong sáu ngày.
Tôi đã nghe nói rằng khi Henry Ford chết, ông ấy chạm trán với Thượng đế - đó chỉ là tin đồn, tôi không thể trao thẩm quyền cho bạn lan truyền nó. Thượng đế hỏi Henry Ford, "Ông là người thông minh, vĩ đại; ông đã làm ra những chiếc xe vĩ đại thế. Ông nghĩ gì về sáng tạo của ta?"
Henry Ford nói, "Chỉ là chuyện tầm phào! Sáng tạo của ngài..."
Thượng đế nói, "Ông phải cư xử như người Ki tô giáo chứ! Dùng những từ như thế là không tốt. Và cái gì sai với thế giới?"
Ông ấy nói, "Mọi thứ đều sai! Chẳng hạn, con người không có bánh răng ngược. Con người không thể quay lại thời thơ ấu, quay lại thời thanh niên, cứ đi tiếp và trở nên già và thế rồi quay lại lần nữa. Người thông minh, bình thường cũng có thể hiểu rằng bánh răng ngược sẽ là việc giúp đỡ lớn lao. Và ông đã đặt điểm vui thú của con người vào chỗ xấu và bẩn thế - giữa hai ống xả! Và ngài nghĩ bản thân ngài là đấng sáng tạo lớn lao... và dẫu sao đi chăng nữa, ngài đã ở đâu mọi lúc này?"
Nhưng tôi không biết - đây là chuyện tầm phào.
Tôi không muốn làm tổn thương tình cảm tôn giáo của bất kì người nào.
Khi có liên quan tới vật lí, mọi ngôi sao lớn đều bắt nguồn từ hư không, và mọi ngôi sao lớn chết đi và biến mất vào trong hư không lần nữa. Lần đầu tiên vật lí hiện đại đã xác nhận ý tưởng của Phật Gautam rằng mọi thứ đều là hư không. Đôi khi nó lấy hình tướng và đôi khi nó biến mất vào trong đại dương của sự tồn tại.
Cũng giống như sóng trong đại dương - trong đêm trăng tròn chúng trở thành sóng triều thế... và thế rồi chúng biến mất. Ném một hòn đá nhỏ vào trong hồ im lặng, và nó sẽ tạo ra hết vòng tròn nọ tới vòng tròn kia, và những vòng tròn đó lại sẽ biến mất và hồ sẽ im lặng.
Chúng ta được làm ra từ chất liệu ‘hư không'.
Hư không không phải là hư không, như nó thường vẫn được hiểu; hư không là bụng mẹ của mọi thứ. Nó cho sinh thành ra mọi thứ và chung cuộc mọi thứ quay trở lại bụng mẹ của nó.
Do đó, sinh và tử cả hai đều chỉ chứng tỏ một điều: rằng sự tồn tại bao gồm chỉ hư không. Sinh và tử đơn giản là những gợn sóng.
Ông ấy đang nói, đây là tên cho điều không thể hiểu thấu, tên cho núi, sông, toàn thể thế gian. Và tôi bổ sung thêm - chỉ điều này sẽ không có tác dụng - nó là tên cho toàn thể vũ trụ, vũ trụ mà chúng ta đã đi tới biết qua các dụng cụ khoa học của chúng ta, và vũ trụ mà chúng ta còn chưa quen biết, và vũ trụ mà chúng ta sẽ không bao giờ được biết tới vì nó là vô hạn. Không có biên giới; tất cả đều giống như bong bóng xà phòng trong đại dương bao la. Những ngôi sao lớn, hành tinh, mặt trời, hệ mặt trời... chỉ là những bong bóng xà phòng. Chúng có thể còn đây trong hàng triệu hay hàng nghìn tỉ năm, chẳng thành vấn đề.
Trong vĩnh hằng của sự tồn tại, bốn triệu năm ánh sáng chỉ là một giây nhỏ bé.
Nó cũng được gọi là hình tướng thực.
Hư không là hình tướng thực vì nó là hình tướng duy nhất mà không bao giờ thay đổi. Mọi thứ tới rồi đi, chỉ hư không còn lại.
Trong mầu lục của thông, sự xoắn xuýt của bụi gai, không có đi hay đến. Trong mầu đỏ của hoa và mầu trắng của tuyết, không có sinh và không có tử.
Hỉ, nộ, ái, lạc - đây là ảo vọng vô thuỷ và vô chung.
Bằng việc gọi chúng là ‘ảo vọng’ ông ấy không ngụ ý rằng chúng bị kết án. Đó là hiểu nhầm mà ngay cả những người đi theo Phật vẫn liên tục mang. Nó đơn giản là mô tả về bản tính của chúng.
Chẳng hạn, trong rạp chiếu phim bạn biết rằng trên màn ảnh chẳng có gì ngoài ánh sáng và cái bóng, trò chơi giữa ánh sáng và bóng được chiếu lên trên màn ảnh trống rỗng. Nhưng bạn thích thú kịch bản, bạn thích thú bộ phim, câu chuyện. Bạn sẽ thấy mọi người kêu khóc khi có thảm kịch; bạn sẽ thấy mọi người cười, quên hoàn toàn rằng màn ảnh là trống rỗng.
Đó đích xác là điều Phật nói: ông ấy nói sự tồn tại là màn ảnh trống rỗng. Trên màn ảnh này nhiều nhân vật nảy sinh, nhiều vở kịch, nhiều thảm kịch, nhiều hài kịch. Nhưng bao giờ cũng nhớ, đây toàn là bong bóng xà phòng. Ông ấy không nói rằng bạn phải từ bỏ nó. Cái gì có đó để từ bỏ? Người ta không từ bỏ bong bóng xà phòng... người ta không từ bỏ ảo vọng. Người ta đơn giản hiểu rằng ảo vọng là ảo vọng và đó là chỗ kết thúc của nó.
Những người đã từ bỏ thế giới đều chống lại Phật Gautam. Họ nên bị hối thúc trả lời câu hỏi này, "Nếu thế giới là ảo vọng, ông đang đi đâu vậy? Và nếu thế giới là ảo vọng, phỏng có ích gì mà từ bỏ nó?" Tại sao không vui đùa thêm chút ít? Tại sao không phi nghiêm chỉnh thêm chút ít?
Sự tồn tại là tuyệt đối không nghiêm chỉnh. Nó vui đùa thế - bằng không cần gì nhiều hoa thế? Đó là sự vui vẻ thừa thãi, nó liên tục tạo ra cả nghìn loài hoa, chim và con vật và các vì sao. Nó là vở kịch không kết thúc.
Và bạn có thể đi đâu được? Bất kì chỗ nào bạn đi, nó đều là thế giới này; bạn sẽ đơn giản mất hút trong ảo vọng mới - rằng bạn đã từ bỏ thế giới.
Ý tưởng về từ bỏ này là bệnh lớn. Bạn đã từ bỏ cái gì? - ngay chỗ đầu tiên chẳng có gì để từ bỏ, chỉ cần hiểu. Phật giáo không hỗ trợ cho từ bỏ, nó hỗ trợ cho việc hiểu. Chỉ cần biết cái gì là nhất thời, ảo vọng, và chơi trò chơi này - tuân theo qui tắc. Chỉ đừng là kẻ ngốc.
Trong cuộc cách mạnh Nga năm 1917, khi Sa hoàng bị lật đổ và Lenin cùng Đảng Cộng sản của ông ấy lên nắm quyền, một người đàn bà bắt đầu bước đi ngay giữa đường.
Cảnh sát giao thông bảo người đàn bà này, "Đi vào đúng đường đi."
Người đàn bà này nói, "Bây giờ chúng ta tự do."
Viên cảnh sát cười. Anh ta nói, "Bà tự do, nhưng điều đó không có nghĩa là bà phải quấy rối giao thông. Nếu mọi người đều tự do trong giao thông, phần lớn họ sẽ không bao giờ về tới nhà họ! Toàn thể con đường sẽ trở thành nghĩa địa dài."
Người đàn bà đó chắc hẳn là người Ấn Độ. Bạn có thể thấy giao thông Ấn Độ. Tôi bao giờ cũng tự hỏi, làm sao mọi người sống sót được? Bản thân tôi không bao giờ đi ra ngoài. Chỉ giao thông là đủ ngăn cản bất kì ai đi ra khỏi nhà họ. Mọi người đi theo mọi hướng. Đây là cách mạng!
Con người của hiểu biết tuân theo qui tắc của trò chơi, biết hoàn toàn rõ rằng những qui tắc này chỉ là qui tắc; chúng không là chân lí. Chúng có thể bị thay đổi.
Ở Mĩ, bạn phải lái xe bên này, ở Ấn Độ bạn phải lái xe sang bên kia. Không thành vấn đề bạn chọn bên nào, nhưng bạn phải chọn một bên. Bằng không, sẽ có hỗn độn.
Biết rằng hỉ, nộ, ái, lạc - đây là ảo vọng vô thuỷ và vô chung không có nghĩa bạn phải từ bỏ chúng. Tôi muốn bạn biết rằng bạn phải hân hoan trong chúng, biết hoàn hảo rằng chúng là phim trên màn ảnh trống rỗng. Không có nhu cầu từ bỏ phim. Và bạn sẽ thu được gì bằng việc từ bỏ phim? Chỉ phí vé của bạn...
Chứng ngộ, thực hành, nhận ra - đây là điều vô tận và vô biên.
Vậy đừng nghĩ rằng vì một ngày nào đó bạn trở nên im lặng và thấy trạng thái phúc lạc sâu sắc bên trong bạn, công việc của bạn được hoàn thành. Nó đơn giản là bài tập về nhà. Bây giờ công việc bắt đầu, vì bạn đã nếm trải không gian bên trong của bạn. Bạn có thể đi sâu tuỳ ý. Ngay cả Thái Bình Dương cũng không sâu như tâm thức bạn. Tâm bạn được kết nối với tâm vũ trụ. Chắc chắn, cuộc hành trình này là vô tận.
Người ta không chỉ trở nên chứng ngộ; người ta liên tục trở nên chứng ngộ mọi ngày, ngày càng nhiều. Không bao giờ đi tới một điểm có thể được gọi là dấu chấm hết. Vâng, trên đường bạn có thể có vài chỗ nghỉ ngơi, dấu phẩy, dấu chấm phẩy, nhưng không bao giờ là chấm hết! Dấu chấm hết không tồn tại.
Vậy, trống rỗng là tên cho không vật khác; mọi vật đều là hình tướng thực.
Mọi vật đều là trống rỗng.
Trong mọi thế giới, theo mọi hướng, không có cái thứ hai, không có cái thứ ba.
Nó là một toàn thể, toàn thể sự tồn tại, và chúng ta không tách rời khỏi nó. Chúng ta được bắt rễ trong nó. Chúng ta không thể tồn tại chỉ một khoảnh khắc mà không có rễ của mình trong sự tồn tại. Những rễ đó là không nhìn thấy được, nhưng chúng ta đang thở - đây là rễ của chúng ta. Từng lỗ chân lông của thân thể đều đang thở - đây là rễ của chúng ta. Chúng không biểu lộ. Bạn thậm chí không nhận ra rằng toàn thân bạn đang thở, việc thở vũ trụ. Nếu, để sang bên cái mũi của bạn, toàn thân bạn được sơn dầy để cho bạn không thể thở được từ thân thể, bạn sẽ chết trong vòng ba giờ. Một mình mũi sẽ không đủ. Nó là rễ chính, nhưng tất cả những nhánh này, hàng nghìn nhánh, của rễ, được lan toả vào trong vũ trụ.
Do đó, trong cách biểu lộ nền tảng không có ảo vọng hay chứng ngộ, không thực hành hay nhận ra. Ngay cả nói về thực hành và nhận ra cũng là quan điểm tương đối.
Trong thế giới phương Tây khái niệm về tính tương đối đã được Albert Einstein đưa vào, nhưng ở phương Đông điều đó đã cổ ít nhất mười nghìn năm. Tất nhiên Albert Einstein dùng nó theo nghĩa đặc thù, nhưng khái niệm về tính tương đối đã từng được chấp nhận ở phương Đông trong nhiều thế kỉ.
Mọi thứ là tương đối.
Cho nên khi một người không chứng ngộ và người khác chứng ngộ, khác biệt chỉ là tương đối. Nó không là tuyệt đối. Người đang ngủ có thể thức dậy bất kì khoảnh khắc nào; bạn chỉ phải vẩy chút nước lạnh vào mắt người đó.
Đó là điều đã xảy ra cho Trang Tử.
Một sáng ông ấy thức dậy - sáng mùa đông lạnh. Ông ấy đang ngồi trên giường, bọc mình trong chăn, rất buồn.
Ông ấy không phải là con người của buồn rầu. Thực ra, trong lịch sử triết học và tâm thức của thế giới, Trang Tử là người duy nhất, ngớ ngẩn thế và phi lí thế cùng lúc... Ông ấy là người rất vui đùa. Đệ tử của ông ấy chưa bao giờ thấy ông ấy nghiêm nghị thế. Họ hỏi ông ấy, "Có chuyện gì vậy thầy? Thầy ốm hay làm sao?"
Ông ấy nói, "Vấn đề lớn thế, ta không nghĩ các ông sẽ có khả năng giải được nó. Nhưng dẫu sao đi chăng nữa, ta sẽ kể cho các ông vấn đề này; có lẽ ai đó có thể giải được nó chăng. Vấn đề là, khi đang ngủ, trong giấc mơ, ta đã biến thành bướm."
Các đệ tử cười.
Họ nói, "Thầy đừng làm ồn ào không cần thiết về nó. Trong mơ mọi thứ đều xảy ra. Ai quan tâm?"
Trang Tử nói, "Các ông không hiểu ngụ ý! Nếu Trang Tử có thể biến thành bướm trong mơ, thế thì vấn đề là gì? - bướm có thể đã đi ngủ và mơ biến thành Trang Tử chứ. Giờ vấn đề là: ta là ai? Bướm mơ bản thân nó là Trang Tử sao? Và nếu ta có thể mơ bản thân ta là Trang Tử, không có lí do gì để bướm không thể mơ!"
Đệ tử nói, "Điều đó ở bên ngoài việc hiểu thấu của chúng tôi. Điều này là... chúng tôi chưa bao giờ nghĩ về nó. Chúng tôi đã trở thành nhiều thứ trong mơ của chúng tôi, và chúng tôi chưa bao giờ bận tâm."
Thế rồi đại đệ tử của ông ấy, Liệt Tử, người đã đi sang làng khác để thuyết giảng, quay về.
Các đệ tử đều đợi ông ấy...
Họ nói, "Thầy chúng ta rất buồn, và vấn đề của thầy dường như không có giải pháp nào."
Liệt Tử hỏi vấn đề là gì và các đệ tử nói, "Đây là vấn đề: thầy không ra khỏi giường. Thầy nói, 'Trước hết ta phải giải việc này; chỉ thế ta mới có thể dậy.'"
Liệt Tử đi ra giếng mà kéo lên một gầu nước lạnh.
Các đệ tử hỏi, "Ông làm gì vậy?"
Ông ấy nói, "Các ông cứ đợi đấy."
Và ông ấy vào dội cả gầu nước lên người Trang Tử!
Trang Tử nhảy phắt ra khỏi giường. Liệt Tử nói, "Tôi có phải đi lần nữa và đem tới gầu nước nữa, hay vấn đề đã được giải?"
Trang Tử nói, "Nó được giải rồi! Đừng đi nữa - lạnh quá! Ông ngốc, ông đã ở đâu? Nếu như tình cờ đó là con bướm đang mơ, ông chắc đã giết chết nó. Nhạy cảm thêm chút xíu đi!"
Nhưng đây là khác biệt duy nhất: bạn ngủ. Vị phật đã trở nên được thức tỉnh. Khác biệt là không rõ ràng, khác biệt là tương đối - bạn cũng có thể trở nên được thức tỉnh.
Do đó, Phật không tuyên bố bất kì sự cao siêu nào với những người vẫn đang ngủ. Đó là tự do của họ: nếu họ muốn ngủ, họ có thể ngủ, hết kiếp nọ tới kiếp kia. Nhưng một ngày nào đó họ sẽ phải trở nên mệt mỏi và chán với việc ngủ. Một ngày nào đó họ sẽ nhảy ra khỏi giường và nói "Đủ rồi!"
Khác biệt là chừng nấy thôi.
Cho nên không có vấn đề đi theo bất kì thực hành nào hay thậm chí nói về việc nhận ra vì không có mấy khác biệt, và khác biệt tồn tại là tương đối.
Trong tông phái chúng ta, từ việc vào đầu tiên, điểm này nên được thực hành dù ngồi, nằm, hay bước đi quanh. Khi ngủ, chỉ ngủ, không có quá khứ hay tương lai. Khi ông thức, không có ngủ. Điều này được gọi là người chủ tuyệt đối.
Nếu bạn đã thấy vị phật của bạn ở bên trong, bạn đã tìm ra người chủ tuyệt đối, điều không bao giờ đi bất kì chỗ nào, điều đơn giản vẫn còn bây giờ và ở đây.
Mitsuhiro đã viết bài cú:
Thận trọng với việc gặm nhấm
biểu tượng của hư không:
Răng ông sẽ vỡ.
Nuốt toàn thể nó đi...
... Đừng nhai nó. Ông ấy nói: đừng nghĩ, cứ nuốt toàn thể nó đi. Suy nghĩ về vấn đề lớn lao này nhất định làm vỡ răng ông. Tâm trí ông không có khả năng; nó không được ngụ ý dành cho nghĩ về cái tuyệt đối.
Mọi triết gia đều sai theo nghĩa là họ đang cố, qua tâm trí, hình dung ra cái gì đó về cái nền tảng, cái tuyệt đối - cái tối thượng. Họ không hiểu rằng tâm trí là việc vận hành tuỳ hứng của thân thể.
Nó đã đi tới giai đoạn này vì bạn phải giải quyết với thực tại, và tâm thức không thể giải quyết với thực tại được; nó đơn giản là tấm gương. Nó có thể phản xạ; nhiều hơn điều đó nó không thể làm được.
Thân thể phải tạo ra tâm trí tuỳ hứng để vận hành trong thế giới. Vận hành của nó không phải để nghĩ về cái tuyệt đối - làm sao nó có thể nghĩ về cái tuyệt đối mà nó đã không biết? Nhiều nhất nó có thể trở thành con vẹt: nó có thể lặp lại kinh sách nhưng những kinh sách đó sẽ không là việc nhận ra riêng của nó.
Và chừng nào cái gì đó chưa là việc nhận ra riêng của bạn, nó chỉ là gánh nặng không cần thiết.
... Và ông có kho báu
Bên ngoài hi vọng về phật và tâm trí.
Làn gió đông vuốt ve tai ngựa:
Mùi lông thơm dịu làm sao.
Thiền rất có tính thơ, nó nói mọi thứ không theo tam đoạn luận mà theo thơ. Nó có tính biểu tượng.
Socrates hay Plato hay Aristotle sẽ nói theo tam đoạn luận, theo logic. Phát biểu của họ sẽ có tính hợp lí. Thiền nói qua thơ ca. Phát biểu của nó là những chỉ dẫn gián tiếp, ngón tay chỉ trăng - nhưng ngón tay không phải là trăng.
Một nhà thơ Thiền khác nói, bạn đơn giản phải trống rỗng, trống rỗng mọi thứ:
Đơn giản ông phải trống rỗng “là” về nghĩa,
Và đừng lấy “không hiện hữu” làm thực.
Hiện hữu là thực tại của bạn, chỉ sự hiện hữu thuần khiết, vô danh, vô biên, vô giới hạn.
Nhưng là trống rỗng tới mức toàn thể bầu trời tâm thức của bạn hiện hữu mà không có mây. Trong trống rỗng đó nảy ra hiểu biết tối thượng - điều Phật gọi là Thiên đường Hoa sen. Trong trống rỗng đó bạn trở thành một với linh hồn vũ trụ.
Và không có việc nhận ra này, cuộc sống của bạn là vô giá trị.
Một bài thơ của Sozan:
Cây không rễ,
lá vàng rải rác.
Bên ngoài trời xanh -
không mây, không tì vết.
Chỉ một mô tả... Tôi sẽ lặp lại:
Cây không rễ…
Bầu trời không có rễ ở đâu cả.
lá vàng rải rác.
Bên ngoài trời xanh -
không mây, không tì vết.
Tính bên ngoài này là bản tính của bạn, tính bên ngoài này là phật tính của bạn. Một khi được tìm ra, bạn đã tìm thấy người chủ.
Câu hỏi từ Maneesha:
Thưa thầy kính yêu,
Chỉ mắt của người chứng ngộ mới có thể thấy cái trống rỗng sao?
Maneesha, đây chỉ là những cách nói khác nhau cho cùng một điều - trống rỗng, chứng ngộ, con mắt của chứng ngộ, trí huệ của chứng ngộ, chói sáng của chứng ngộ. Đây chỉ là những cách nói khác nhau về việc nhận ra tối thượng bên trong. Nó bao la tới mức nó có thể được mô tả bằng cả nghìn lẻ một cách.
Nhưng điều này chắc chắn là đúng: rằng không có con mắt của chứng ngộ bạn không thể thấy được cái trống rỗng. Thực ra cả hai chúng xảy ra cùng nhau, đồng thời, trống rỗng và chứng ngộ. Chúng không phải là hai thứ.
Và câu hỏi khác tới từ giáo sư Schneider-Wessling. Ông ấy đã hỏi một câu hỏi quan trọng vô cùng. Con trai ông ấy đã là sannyasin, và ông giáo sư này đang ngồi trước tôi. Ông ấy cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Thế giới về Khoa học sáng tạo, Nghệ thuật và Tâm thức. Bây giờ chăm nom cho ông ấy, để ông ấy trở về Đức như một sannyasin... một cách bí mật. Không cần tuyên bố điều đó cho công chúng. Cứ giữ điều đó là bí mật!
Ông ấy đã lo nghĩ liệu có hỏi câu hỏi này hay không, vì điều đó có thể làm rối rắm loạt bài giảng về Thiền.
Thưa giáo sư, khi có liên quan tới tôi, không cái gì làm rối cả. Bạn có thể hỏi bất kì câu hỏi nào và nó lập tức khớp vào loạt bài của tôi! Bạn sẽ thấy.
Câu hỏi 2
Câu hỏi của anh ấy là:
Tại sao tâm trí phát triển theo hướng phá hủy?
Con người đã sống gần bốn triệu năm trên hành tinh này. Trong bốn triệu năm này phần lớn thời gian đã có đêm tối không lửa, thú hoang, nguy hiểm khắp xung quanh, và mọi khoảnh khắc đều đầy sợ hãi. Từ nỗi sợ và nguy hiểm này, con người đã phải tạo ra năng lực nào đó để sống còn.
Bạn có thể đã quan sát rằng con của con người là đứa con yếu nhất trên thế giới. Nó cần chăm sóc trong nhiều năm cho tới khi nó có thể đứng theo cách riêng của nó. Người mẹ liên tục lo sợ về đứa con: trong rừng thẳm - mọi thú hoang đang đi tìm thức ăn cũng như con người đã đi tìm thức ăn. Đó là tìm kiếm căn bản trong hàng triệu năm - thức ăn. Và ngay cả ngày nay, với hàng triệu người, đó là việc tìm kiếm căn bản.
Tâm trí đã phát triển như một biện pháp sống còn - cách ẩn giấu bản thân bạn, cách tìm ra hang, cách làm ra hang? Cách sống trong bóng tối mà không bị hại, cách sống trên cây? Đó là đã thời gian khó khăn trong hàng triệu năm.
Và con của con người yếu thế so với bất kì loài vật nào. Bạn không thể tranh đấu được, cho nên bạn phải phát minh ra vũ khí như cái thay thế. Bạn không có móng vuốt của hổ, bạn cần cái gì đó như cái thay thế. Bạn không có răng của sư tử hay cá sấu; bạn cần tính phát minh đủ để cho bạn không ở quá gần. Vì cho dù bạn có dao trong tay – điều là rất khó, dao thời đầu được làm bằng đá... cho dù bạn có dao trong tay và sư tử tới, điều có lẽ nhất là bạn sẽ run lên vì sợ và dao sẽ rơi xuống! Chỉ tiếng gầm của sư tử và bạn sẽ cứng đơ người; bạn sẽ không biết làm gì bây giờ.
Tôi đã nghe... một người cùng vợ và mẹ vợ đi săn. Đột nhiên họ nghe thấy từ cái hang gần đó tiếng la của bà mẹ vợ, "Cứu tôi với! Cứu tôi với!" Người vợ ngồi trên cây và cô ấy thấy một con sư tử ở đó, cho nên cô ấy yêu cầu chồng, người ở dưới cây cầm súng, "Mẹ em gặp chuyện rồi - sư tử đang đối mặt với mẹ. Anh làm cái gì đi!"
Anh chồng nói, "Bản thân sư tử lâm vào rắc rối rồi - sao mình phải làm cái gì? Mẹ vợ của em là đủ! Bà ấy đã kết liễu anh, bà ấy sẽ kết liễu con sư tử. Giờ đó là vấn đề của nó, không phải vấn đề của anh."
Con người đã phát minh ra tên để con người có thể ở xa khỏi thú hoang và vẫn giết chết chúng. Dần dần các vũ khí khác tới. Mọi vũ khí này tới vì sự bất lực của con người.
Khi con người tìm ra lửa, thế thì con người được an toàn hơn. Khi con người khám phá ra thuốc súng, đầu tiên ở Trung Quốc, con người thậm chí còn trở nên an toàn hơn nữa. Có lẽ người Trung Quốc đã trở nên văn minh trước bất kì người nào khác bởi lẽ đơn giản rằng họ đã kết liễu con thú hoang, và trong việc kết liễu thú hoang, nỗi sợ lớn, nỗi sợ thường xuyên và nguy hiểm đã biến mất.
Nhưng tâm trí vẫn còn, tâm trí đã được tạo ra qua hàng triệu năm. Nó vẫn còn sợ bóng tối, mặc dầu bạn biết không cần sợ bóng tối. Nhưng tâm trí không biết rằng thời thế đã thay đổi; thói quen của hàng triệu năm vẫn tiếp tục. Tâm trí không biết, tâm trí mù.
Một giáo sư, phó hiệu trưởng Đại học Varanasi, giáo sư Rajnath Pandey, đã ở cùng tôi, và ông ấy rất chống đối lại cách tôi trồng cây quanh nhà tôi. Tôi nói, "Sao thầy chống lại chúng nhiều thế?"
Ông ấy nói, "Những cây này là kẻ thù! Nếu anh không liên tục chặt chúng đi, nếu anh không liên tục bỏ chúng đi, sớm hay muộn nhà anh sẽ bị suy tàn và cây sẽ tiếp quản nó."
Con người đã từng tranh đấu với cây. Bây giờ chúng ta không nghĩ theo cách đó, nhưng ông ấy là đúng, ông ấy là con người của lịch sử. Tôi chưa bao giờ nghĩ về điều đó nhưng ông ấy là đúng, rằng cây đã giết người. Chúng ta phải phá hủy cây để tạo ra thành phố, làng mạc, và chúng ta phải phá hủy cây cối vì chúng che giấu thú hoang.
Con người đã trải qua cuộc vật lộn để sống còn tới mức con người không thể quên được những thói quen đó. Cho nên cho dù bây giờ chúng ta không bị thú hoang tấn công, chúng ta vẫn chuẩn bị vũ khí hạt nhân. Chúng ta không có lí do nào để tranh đấu, nhưng chúng ta miệt mài làm ngày càng nhiều vũ khí chỉ từ thói quen con vật cũ. Mọi người đều biết rằng Thế chiến thứ ba là không thể được, đơn giản vì Thế chiến thứ ba sẽ tiêu diệt mọi người. Không ai sẽ là người thắng và không ai sẽ là người thua. Tất cả đều bị kết thúc, toàn thể hành tinh này sẽ là nghĩa địa.
Toàn thể niềm vui của tranh đấu là trong việc chiến thắng - nhưng sẽ không có chiến thắng, vấn đề là gì? Điều đó tuyệt đối rõ ràng. Ngay bây giờ chỉ có năm nước có vũ khí hạt nhân, nhưng đến cuối thế kỉ này sẽ có hai mươi lăm nước có vũ khí hạt nhân. Người ta không thể hiểu nổi... để làm gì? Chúng ta đã có đủ vũ khí hạt nhân để phá hủy trái đất này bẩy trăm lần.
Và chỉ một người trong toàn thể lịch sử, Jesus Christ, đã phục sinh. Tôi không nghĩ rằng ông ấy sẽ phục sinh bẩy trăm lần. Mọi người còn nghi ngờ rằng ông ấy đã không phục sinh một lần này; ông ấy không bao giờ chết. Vì ở đây ở Ấn Độ, ở Kashmir, chúng ta có các nấm mồ của cả Jesus và Moses. Và một làng tồn tại ở Kashmir mang tên Jesus, Pahalgam, vì Jesus thường gọi bản thân ông ấy là 'người chăn chiên', người đã tới để cứu cừu. Pahalgam, theo tiếng Kashmir nghĩa là người chăn cừu, làng của người chăn cừu. Thật kì lạ, khi họ trốn chạy khỏi Ai Cập, Moses đã tới Kashmir để tìm bộ lạc bị lạc.
Moses phải mất bốn mươi năm tìm kiếm mới tìm ra Israel, và người Do Thái sẽ không bao giờ tha thứ cho ông ấy. Trong bốn mươi năm, cuộc hành trình dài thế qua toàn thể sa mạc Saudi Arabia - đến lúc ông ấy tới Jerusalem gần ba phần tư người ban đầu đã đi cùng ông ấy đều đã chết. Và cảm giác riêng của tôi là ở chỗ ông ấy không bao giờ tìm thấy Israel. Ông ấy phải nói với người của ông ấy... bản thân ông ấy đã tám mươi tuổi, mệt mỏi, hoàn toàn mệt mỏi... ông ấy đã tuyên bố Jerusalem là đất thánh họ đã đi tìm.
Tôi chẳng thấy Jerusalem đó có cái gì linh thiêng trong nó.
Và người Do Thái sẽ không bao giờ tha thứ cho Moses vì ông ấy đã đi qua mọi vùng đất dầu mỏ, mà bây giờ thực sự là những nước giầu có trên thế giới. Giá mà ông ấy đã dừng lại ở Saudi Arabia, hay ở Iran... Nhưng một bộ lạc bị lạc trong sa mạc. Việc tuyên bố Jerusalem chỉ che giấu thất bại của ông ấy.
Và Moses đưa người mới vào chịu trách nhiệm, người không quen biết ông ấy chút nào, vì hai phần ba người nguyên gốc đã chết rồi. Thế hệ thứ ba chỉ mới đi vào tuổi thanh niên và họ không có kính trọng, cũng như không người trẻ nào đã bao giờ có kính trọng thế hệ già hơn. Kẽ hở thế hệ này không phải là điều mới. Moses đã tìm ra cái cớ: "Ta phải đi. Ông chăm lo mọi sự, ta sẽ đi tìm bộ lạc bị lạc." Bộ lạc bị lạc đó đã đi tới Kashmir, và Kashmir chắc chắn giống như thiên đường.
Khi người Mông Cổ đầu tiên, Babur, tới Ấn Độ, thấy Kashmir ông ta đã không thể nào tin được vào điều đó. Những người tới từ sa mạc, thấy xanh tươi nhiều thế, hoa nhiều thế, nước trong như pha lê thế, đẹp thế, tuyết vĩnh hằng trên núi... Bộ lạc bị lạc đó thực sự đã tìm thấy thiên đường! Cho nên Moses ở lại đó với người của ông ấy. Những người Kashmir về căn bản là người Do Thái; bạn có thể nhìn vào mũi họ...
Bạn biết mũi của nhà bác học Jawaharlal Nehru; ông ấy là người Kashmir. Bạn biết cái mũi của Indira Gandhi; bà ấy là người Kashmir. Và Jesus, bạn bao giờ cũng phải nhớ, không bao giờ là người Ki tô giáo. Ông ấy được sinh ra là người Do Thái, ông ấy sống là người Do Thái, ông ấy tự tuyên bố mình là nhà tiên tri Do Thái - đó là tội của ông ấy. Ông ấy chết là người Do Thái, nhưng ông ấy đã chết ở Ấn Độ. Tôi đã thấy nấm mồ của ông ấy.
Chính sự trùng hợp kì lạ là các mồ của Moses và Jesus ở trong cùng một làng. Và đôi mộ này, gia đình chăm nom những mộ đó vẫn là người Do Thái. Người Mô ha mét giáo đã cải đạo toàn thể vùng Kashmir sang Mô ha mét giáo, nhưng họ bỏ lại một gia đình đó, do kính trọng Moses và Jesus.
Dường như là Jesus không bao giờ chết trên cây chữ thập. Cây chữ thập của người Do Thái là tới mức phải mất nhiều giờ để giết chết một thanh niên, và Jesus mới chỉ ba mươi ba tuổi. Người mạnh khoẻ và trẻ trung, cây chữ thập Do Thái sẽ giết người đó trong bốn mươi tám tiếng. Đó là quá trình giết chết một người chậm chạp nhất. Chỉ bằng việc đóng đinh bàn tay và bàn chân người đó vào cột... máu rỉ ra dần dần, dần dần. Phải mất bốn mươi tám giờ.
Và đã có thông đồng giữa những người theo Jesus và Pontius Pilate, thống đốc La Mã của vùng Judea, rằng ông ấy phải bị treo lên cây chữ thập vào thứ sáu, muộn nhất có thể được. Cho nên toàn thể quá trình này đã được để trễ lại. Đầu tiên ông ấy có cuộc nói chuyện riêng với Pontius Pilate, và thế rồi Jesus bị buộc phải mang cây chữ thập, cây chữ thập nặng; ông ấy ngã ba lần trên đường. Và chỗ được chọn để cây chữ thập là đồi nhỏ, cho nên theo mọi cách, họ đã cố trì hoãn thời gian. Việc đóng đinh đã xảy ra quãng gần hai giờ, và những người Do Thái dừng làm việc vào tối ngày thứ sáu. Mọi công việc phải được dừng lại trước khi mặt trời lặn vào ngày thứ sáu vì thứ bẩy là ngày sabbath của họ, ngày linh thiêng của họ.
Cho nên Jesus phải đã được đưa xuống từ cây chữ thập; ông ấy vẫn còn sống. Ông ấy có thể đã trong cơn mê man, nhưng ông ấy không chết. Và ông ấy được đưa vào trong hầm, nhưng những người gác hầm đều là lính La Mã, không phải người Do Thái. Họ cho phép ông ấy trốn đi. Bạn ông ấy đưa ông ấy ra. Ở lại Judea là nguy hiểm, và quay trở lại Judea khi ông ấy được chữa lành cũng là nguy hiểm.
Tin tức đã lan tới rằng có một chỗ ở Ấn Độ nơi Moses đã đi tới, và đã tìm ra bộ lạc bị lạc và đã chết. Jesus nghĩ, "Đó là chỗ duy nhất mình sẽ được ở nhà."
Ông ấy đã đi tới Kashmir và ông ấy đã sống cuộc sống lâu, một trăm mười hai năm. Điều đó được viết trên mồ của ông ấy bằng tiếng Do Thái. Ở Ấn Độ, không ai biết tiếng Do Thái.
Nhưng các cường quốc thế giới đang tích tụ vũ khí hạt nhân cho những người bình thường, người chỉ chết một lần; họ không bao giờ phục sinh.
Chỉ ở đây họ mới phục sinh - mọi đêm!
Có đủ vũ khí hạt nhân rồi. Nhưng đó là từ sợ hãi - tâm trí vẫn là tâm trí cũ lặp lại nỗi sợ, nguy hiểm cũ - rằng nếu bạn thôi làm vũ khí hạt nhân, kẻ thù sẽ không dừng. Và kẻ thù cũng nghĩ theo cùng thuật ngữ này; mọi nước đều nghĩ theo cùng thuật ngữ. Cho nên bẩy mươi phần trăm của cải, sản xuất, thiên tài, mọi thứ của thế giới đều được dành cho chiến tranh, điều sẽ không bao giờ xảy ra. Chỉ bằng việc làm nó toàn bộ thế, bạn đã làm cho nó thành lạc hậu.
Thưa giáo sư, tâm trí phải phát triển theo hướng phá huỷ chỉ để cứu lấy bản thân nó. Nhưng bây giờ điều đó không còn được cần tới nữa. Bây giờ năng lượng phá huỷ phải được biến đổi thành năng lượng sáng tạo. Và tâm trí có thể tạo ra vũ khí phá huỷ như bom nguyên tử và bom khinh khí, và phá huỷ các thành phố như Hiroshima và Nagasaki trong vòng vài giây... Và ngày nay bom mà chúng ta đã thả xuống Hiroshima và Nagasaki, khi so sánh với các tên lửa hạt nhân của Mĩ và Liên Xô - chỉ là trò chơi trẻ con, chỉ là đồ chơi. Chúng ta đã đi xa trong bốn mươi năm này: chúng ta có thể phá huỷ chính bản thân mình trong vòng mười phút.
Tính toàn bộ này là phúc lành lớn dưới dạng trá hình. Điều này có nghĩa là bây giờ chúng ta phải tìm ra cách bảo vệ bản thân mình khỏi sợ hãi của tâm trí, để bảo về bản thân chúng ta khỏi vũ khí riêng của chúng ta. Bây giờ không có kẻ thù nào để bị giết; bây giờ chiến tranh thế giới; nếu nó xảy ra chút nào, sẽ là tự tử.
Chúng ta phải cứu lấy bản thân mình khỏi tâm trí riêng của chúng ta. Tâm trí này được tạo ra vì lí do nào đó: để cứu chúng ta khỏi thú vật. Trong nhiều thế kỉ chúng ta đã ở trong nguy hiểm; bây giờ chúng ta đang bị nguy hiểm từ các vũ khí phá huỷ riêng của chúng ta.
Đây là khoảnh khắc lớn trong lịch sử nhân loại, và có lẽ trong toàn thể lịch sử của vũ trụ, vì chúng ta chỉ mới hoài nghi rằng có hành tinh nào đó nơi sự sống có thể tồn tại, nhưng không có bằng chứng chắc chắn nào. Có thể là duy nhất trái đất này có sự sống đã đi tới điểm là vài người đã trở thành chư phật, vài người đã đi tới biết bí mật vũ trụ của sự sống. Phá huỷ nó là ngu ngốc thế, là chống lại vũ trụ thế!
Cách duy nhất là tìm ra cái gì đó bên trong bạn mà có thể chế ngự tâm trí bạn. Bằng không tâm trí chẳng biết cái gì khác ngoại trừ phá huỷ; đó là chức năng mà nó đã được tạo ra để làm. Đó không phải là lỗi của nó, nhưng nó liên tục sợ chẳng vì lí do nào cả. Đôi khi nó biết rằng không có lí do để sợ; thế rồi nó bắt đầu hỏi, "Tại sao không có lí do để sợ?"
Tâm trí chỉ biết một ngôn ngữ - đó là ngôn ngữ của sợ, nguy hiểm, và làm sao sống còn và làm cho bản thân bạn an toàn đối lập với vũ trụ đối kháng.
Ngay cả một người vĩ đại như Bertrand Russell cũng đã viết một cuốn sách Chinh phục tự nhiên. Vẫn cùng nỗi sợ của tâm trí - chúng ta phải chinh phục. Ý tưởng này phải được thay đổi. Ý tưởng nên là bây giờ chúng ta phải hân hoan trong tự nhiên, chúng ta phải tìm ra điều huyền bí và bí mật của tự nhiên, và chúng ta phải đi ra ngoài tâm trí. Vật phẩm này không phải là bản tính của chúng ta.
Đó là điều chúng ta đang làm trong thiền.
Thiền tìm ra cái gì đó trong bạn mà cao siêu hơn tâm trí. Chỉ thế thì tâm trí mới có thể bị ngăn cản khỏi việc phá huỷ nhân loại và hành tinh đẹp này. Nó có tính phá huỷ mãi tới giờ là hoàn toàn được, nhưng bây giờ tình huống mới rồi và hoàn cảnh là khác toàn bộ.
Ai đó đã hỏi Albert Einstein, "Ông nghĩ gì về Thế chiến thứ ba?"
Ông ấy nói, "Tôi không thể nói gì được về Thế chiến thứ ba, nhưng tôi có thể nói cái gì đó về Thế chiến thứ tư."
Người hỏi đâm phân vân. Ông ta nói, "Nếu ông không biết về cái thứ ba, làm sao ông biết về cái thứ tư?"
Albert Einstein nói, "Cái thứ tư sẽ không bao giờ xảy ra; chừng đó thì có thể nói được. Nếu chúng ta để cho cái thứ ba xảy ra... vậy thì kết thúc luôn."
Nhìn vào quá khứ của tâm trí: Thành Cát Tư Hãn đã giết ba mươi triệu người, một mình ông ấy. Người kế tục của ông ấy, Thiết Mộc Nhi, đã giết bốn mươi triệu người. Chúng ta không biết đích xác con số với Nadir Shah, nhưng chúng ta biết về Adolf Hitler; ông ta đã giết ba mươi triệu người. Và bây giờ chúng ta sẵn sàng giết năm tỉ người, còn chưa nói gì tới hàng triệu chim chóc, hàng triệu con vật, hàng triệu cây cối - vì Thế chiến thứ ba sẽ là kết thúc cho mọi sự sống trên hành tinh này. Không chỉ con người sẽ bị giết, đó sẽ là tổn thất cho toàn thể vũ trụ.
Các nhà khoa học nói rằng có lẽ có năm trăm hành tinh nơi loại sự sống nào đó tồn tại, nhưng tất cả vẫn chỉ là phỏng đoán. Không chắc chắn, không liên lạc nào là có thể cho tới giờ. Mọi điều chúng ta biết là ở chỗ trong cái vô hạn bao la này, chúng ta là những người sống duy nhất với tiềm năng trở thành vĩnh hằng, trở thành bất tử. Theo mọi cách có thể trái đất này phải được cứu - khỏi tâm trí chúng ta.
Cách duy nhất tôi có thể thấy là thiền.
Mãi cho tới giờ, tâm trí đã là sự sống còn của chúng ta. Từ giờ trở đi, chỉ thiền mới có thể là sự sống còn của chúng ta vì thiền có nghĩa là đi ra ngoài tâm trí, tìm cái gì đó trong tâm thức của bạn cái là cao hơn tâm trí bạn, cái có thể chỉ huy tâm trí, cái có thể thu xếp lại tâm trí. Tâm trí chỉ là máy tính sinh học; nó cần dữ liệu mới, có vậy thôi. Thay vì sợ, nó có thể học yêu; thay vì ở trong nguy hiểm, nó có thể bắt đầu tận hưởng tính vĩnh hằng của cội nguồn cuộc sống của nó.
Không có chết. Chỉ hình tướng thay đổi, sự sống tiếp tục mãi mãi.
Đây là điều chúng ta đang cố làm ở đây. Đây là điều mọi chư phật của quá khứ đã từng làm, nhưng trong quá khứ họ đã không liên quan thế. Ngày nay tình huống là khác: ngày nay hoặc bạn nghe theo phật hoặc bạn tự tử. Không có chọn lựa khác - thiền hoặc tự tử, tự tử toàn cầu. Đó là phương án đơn giản, không có con đường thứ ba.
Vào thời của Phật Gautam đã không có mấy khó khăn - chiến tranh nhỏ, vài người bị giết, không có hại gì.
Nhưng bây giờ tâm trí phá huỷ đã mang chúng ta tới tình huống mà chúng ta phải làm lại luật cho tâm trí về xây dựng, về sáng tạo. Và nếu tâm trí có thể có tính phá huỷ thế, nó có thể được biến đổi theo cùng cách sang tính sáng tạo lớn, với cùng một năng lượng. Năng lượng là trung lập: bạn có thể để nó vào phục vụ cái chết hay bạn có thể để nó vào phục vụ sự sống.
Nỗ lực của chúng ta ở đây là đặt tâm trí chúng ta, thân thể chúng ta vào phục vụ sự sống - vào tính sáng tạo, vào âm nhạc, vào thơ ca, vào nhảy múa. Khoảnh khắc này là vĩ đại khi chúng ta có thể thay đổi tâm trí, nạp vào nó những thông tin mới. Và cùng tâm trí đã mang tới vũ khí hạt nhân, nay có thể đem tới niềm vui lớn, nhiều thức ăn, quần áo tốt hơn, mạnh khoẻ hơn, sống lâu hơn, ít bệnh hơn; nó có thể xoá bỏ tuổi già hoàn toàn.
Và khoảnh khắc này là chín muồi vì không người nào có chút ít thông minh lại có thể thiên về thế chiến thứ ba; chỉ vài chính khách trì trệ thôi - và cho dù họ không thể nói công khai rằng họ thiên về thế chiến thứ ba. Nhưng việc chuẩn bị của họ vẫn tiếp tục. Việc chuẩn bị đó là nguy hiểm, nguy hiểm theo nhiều cách, vì thế chiến thứ ba có thể xảy ra một cách tình cờ: vũ khí này đã trở nên phức tạp tới mức chỉ nhấn một nút...
Mới vài ngày trước đây tôi đã nói cho bạn về căn cứ hạt nhân của Xô viết mà đã có bản đồ của toàn thế giới trong văn phòng chỉ ra khoảng cách và thời gian, cần bao nhiêu thời gian để vũ khí hạt nhân của nó đạt tới vùng này hay vùng kia. Bản đồ này cũng có nút nhấn trên nó và một người trông nom, thấy rằng quá nhiều bụi tụ lại trên bàn điều khiển, đã lau bụi cho nó. Ông giáo sư chịu trách nhiệm tới. Ông ấy nói, "Anh ngốc vừa vừa chứ, anh làm gì vậy?"
Anh ta nói, "Tôi đơn giản lau bụi, có quá nhiều bụi..."
Ông giáo sư nói, "Anh có thấy không? Nước Anh đâu rồi? Anh đã lau cả nó đi rồi!"
Anh ta đã nhấn vào nút.
Nhưng tôi nghĩ chúng ta không muốn bị lau đi theo cách này. Bây giờ là lúc... Không câu hỏi nào lớn hơn đã từng được hỏi, và không bao giờ có việc ra đi theo cách này. Những người muốn tự tử có thể tự tử theo cách riêng của họ, nhưng họ không thể được phép phá huỷ toàn thế giới!
Giáo sư Wessling, câu hỏi của bạn tuyệt đối khớp với loạt bài Thiền này, vì Thiền là việc tìm kiếm vô trí, hay tâm trí vũ trụ, bên ngoài tâm trí con người.
Trước khi chúng ta đi vào bản thể riêng của mình, việc thiền mọi tối của chúng ta... Tôi không muốn giáo sư Wessling hiểu rằng chúng ta là người nghiêm chỉnh. Chúng ta rất không nghiêm chỉnh. Chúng ta tuyệt đối vui đùa; bất kì điều gì xảy ra chúng ta sẽ hát và nhảy múa tới chính khoảnh khắc cuối cùng.
Trong chuyến đi đầu tiên ra khỏi Ba Lan, Kabloski thấy mình ngồi cạnh một tu sĩ trong máy bay. Anh ta chưa bao giờ thấy một tu sĩ trước đây, và hỏi, "Sao ông mặc cổ áo sau ra trước vậy?"
"Vì tôi là cha," tu sĩ đáp, vừa mỉm cười.
"Buồn cười nhỉ," Kabloski nói, "Tôi cũng là cha mà!"
"À!" tu sĩ nói, "nhưng tôi là cha của hàng trăm người."
"Thực thế à?" Kabloski nói, nghĩ một chốc. "Trong trường hợp đó," anh ta tiếp tục, "chẳng phải ông nên mặc quần đằng sau ra đằng trước sao?"
Bé Rufus đã chơi trong rừng cả ngày. Đột nhiên, nó nhận ra rằng nó bị lạc và rằng trời muộn rồi. Nó săn lùng xung quanh tìm lối ra, nhưng chung cuộc từ bỏ. Quì trên đất, nó nắm tay lại.
"Cầu Trời," Rufus cầu nguyện, "con bị lạc. Xin chỉ cho con đường ra khỏi đây."
Vừa lúc đó một con chim nhỏ bay qua và ỉa một cục cứt lên bàn tay đang chìa ra của nó. Bé Rufus xem xét nó kĩ càng và rồi trở lại cầu nguyện.
"Ôi Trời ơi!" nó nói. "Con thực sự lạc mà, cho nên đừng cho con cứt đó!"
"Con đã khóa cửa cấm chồng con về nhà tuần trước vì đi chơi với lũ đàn bà khác," bà Bedspring trẻ thổn thức trong phòng thú tội. "Và giờ anh ấy muốn con đưa anh ấy về trở lại. Con phải làm gì, thưa cha?"
"Con phải đưa anh ấy về," cha Fungus đáp, vỗ về bàn tay cô ấy qua tấm rèm. "Đó là bổn phận Ki tô giáo của con. Nhưng trước hết," Fungus tiếp tục, siết chặt thêm cái nắm tay, "làm sao con thích có ngay cả kẻ đáng khinh đó!"
Một người Anh, một người Pháp và một người Do Thái Nga đang thảo luận về nghĩa của hạnh phúc thực.
"Về nhà từ công việc với người vợ yêu có rượu gin và thuốc bổ," người Anh phun ra.
"A, anh người Anh ơi!" người Pháp nói. "Hạnh phúc thực là gặp gỡ một cô gái nhỏ sắc sảo dành cả đêm với anh. Cô ấy vui chơi cùng anh và thế rồi để anh yên tĩnh và không tiếc nuối nào."
Người Do Thái Nga đang ngồi, suy nghĩ.
"Hạnh phúc thực," anh ta nói, "tôi đã trải nghiệm vài năm trước đây. Vào nửa đêm nhân viên KGB gõ cửa và quát lên: 'Herman Fingel! Anh bị bắt!'"
Người Anh và người Pháp cảnh giác nhìn anh ta.
"Vâng!" người Do Thái Nga nói, vừa mỉm cường sung sướng. "Và tôi hô lại họ: 'Herman Fingel sống ở tầng trên!'"
Bây giờ, Nivedano...
(Tiếng trống)
(Nói lắp bắp)
Nivedano...
(Tiếng trống)
Im lặng, nhắm mắt lại.
Cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng.
Thu tâm thức của bạn, sinh lực của bạn vào bên trong.
Đóng mọi cánh cửa và mọi cửa sổ.
Chỉ ở trong, được tập trung.
Tìm ra trung tâm sự sống của bạn,
vì đó cũng là trung tâm của vũ trụ.
Việc tìm ra nó là phúc lành lớn nhất mà con người đã từng trải nghiệm.
Tìm ra nó bạn là phật, chính khoảnh khắc này.
Là phật không phải là kỉ luật, nó không phải là thực hành.
Nó đơn giản là việc nhớ lại.
Nhớ lấy!
Chỉ cần chút nước lạnh vã lên mắt bạn...
Thức dậy!
Và khoảnh khắc này sẽ trở thành khoảnh khắc vĩ đại nhất của cuộc đời bạn.
Uống từ bản thể bên trong của bạn thật nhiều ánh sáng,
thật nhiều vui sướng như bạn có thể làm được.
Để điều đó chìm vào trong mọi tế bào và thần kinh của con người bạn.
Nivedano...
 (Tiếng trống)
Bây giờ thảnh thơi.
Thấy thân thể như chết, ở đó, xa xăm với bạn
và tâm trí cũng là một phần của nó, một cái máy;
bạn chỉ là người quan sát.
Việc quan sát đơn giản và bạn đạt tới cõi bên kia.
Bạn siêu việt trên sống và chết, bạn siêu việt trên nhị nguyên.
Bạn đi tới cảm thấy tính vĩnh hằng, tính bất tử,
tính toàn thể vũ trụ của bạn. Bạn không chỉ là một phần,
bạn là vũ trụ.
Đó là nghĩa của việc là phật.
Đây là người chủ mà chúng ta đã nói tới.
Mọi thứ khác đều thay đổi,
người chủ này bao giờ cũng còn bây giờ và ở đây.
Đây là hư không của bạn,
đây là trống rỗng của bạn,
chỉ không gian thuần khiết.
Và từ không gian thuần khiết này nảy sinh
mọi loại tính sáng tạo
mọi bài ca, mọi niềm vui, mọi điệu vũ. Duy nhất kinh nghiệm này,
nếu nó trở thành giống lửa hoang khắp thế giới,
có thể cứu nhân loại khỏi bản thân mình.
Nivedano...
(Tiếng trống)
Quay lại - một cách im lặng, một cách duyên dáng,
không vội gì.
Giữ lấy tâm thức
và kinh nghiệm bạn đã đạt tới,
vì bạn phải giữ nó như
dòng chảy ngầm, hai mươi bốn giờ
để cho mọi hành động đều phản ánh tâm thức của bạn,
từ bi của bạn, yêu của bạn, thiền của bạn.
Nó không phải là cái gì đó để được làm trong vài phút
và được kết thúc.
Nó là cái gì đó phải trở thành
chính việc thở của bạn,
chính nhịp tim đập của bạn.
Chỉ thế thì mới có khả năng
cho nhân loại tương lai,
cho con người mới
người có tâm trí sẽ không mang tính phá hủy,
người có trái đất sẽ không bị phân chia thành các quốc gia,
người có toàn thể năng lượng sẽ cống hiến cho việc làm sự sống
thành giầu có, thành phúc lạc, thành an bình, thành đáng yêu,
như các nhà thơ bao giờ cũng mơ tới,
và chỉ vài nhà huyền bí đã trải nghiệm.
Thiền là cách đi vào,
nó là cách đánh thức người chủ
người có thể kiểm soát tâm trí,
người có thể xích lại tâm trí,
người có thể dùng tâm trí trong phục vụ
có giá trị chân lí lớn
và cái đẹp và tình yêu và niềm vui.
Được chứ, Manesha?
Vâng, thưa Thầy kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật không?
Vâng, thưa Thầy kính yêu.

0 Đánh giá

Ads Belove Post