Chương 2. Đạo đức: không là gì ngoài vọng

Chương 2. Đạo đức: không là gì ngoài vọng

Price:

Read more

Quay vào trong - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 2. Đạo đức: không là gì ngoài vọng


Thưa thầy kính yêu,
Huệ Năng nói:
Thiện tri thức, pháp môn này nói toạ thiền vốn chẳng chấp tâm trí, cũng chẳng chấp tịnh, cũng chẳng phải là chẳng động. Nếu nói chấp tâm trí, tâm trí vốn là vọng, biết tâm trí như huyễn cho nên chẳng chấp. Nếu nói chấp tịnh, tự tính vốn tịnh, chỉ do vọng niệm che khuất chân như, nếu chẳng có vọng niệm, tính tự thanh tịnh; khởi tâm trí chấp tịnh, lại sanh vọng tịnh. Vọng chẳng xứ sở, kẻ chấp là vọng, tịnh chẳng hình tướng, lại lập tướng tịnh cho là công phu; kiến giải như vậy chướng tự bản tính, lại bị tịnh trói.
Thiện tri thức, nếu người tu theo pháp chẳng động, khi thấy mọi người mà chẳng thấy tất cả thị phi, thiện ác, lỗi lầm của người, tức là tự tính chẳng động. Thiện tri thức, kẻ mê thân dù chẳng động, mở miệng thì nói thị phi, tốt xấu, hay dở của người; như vậy là trái ngược với đạo, nếu chấp tâm trí tịnh tức là chướng đạo.
Maneesha, có kẽ hở mênh mông giữa đạo đức và tôn giáo. Phần lớn các tôn giáo đều chỉ là đạo lí; chức năng của họ là để quyết định cái gì là tốt, cái gì là xấu, cái gì là đúng, cái gì là sai. Họ nhìn vào con người qua hành động của người đó và họ quyết định bản thể bên trong nhất của người đó một cách tương ứng, nhưng đây là cách tiếp cận sai.
Đôi khi một người nghĩ mình đang làm việc tốt, và với người khác cũng có thể nghĩ dường như việc người đó đang làm điều tốt, lại sẽ gây hại nhiều lắm - tất nhiên không chủ định...
Chẳng hạn, Krishna, trong Shrimad Bhagavadgita, đã biện minh rằng đệ tử của ông ấy Arjuna phải đi vào chiến tranh. Bố của Arjuna có người anh bị mù, và ông ấy có một trăm con trai - có lẽ vì mù ông ấy chẳng có gì khác để làm! - và bây giờ vấn đề là vương quốc thuộc vào ai. Các con trai đã tới tuổi. Mãi cho tới giờ bố của Arjuna đã từng cai trị vương quốc vì người anh mù không thể làm được điều đó, cho nên vấn đề này chưa bao giờ nảy sinh trước đây. Nhưng giờ đó là tình huống khác.
Arjuna chỉ có năm anh em, kể cả bản thân ông ấy, và ở phía bên kia là một trăm người con trai. Họ đòi rằng vì bố của họ đã bị từ chối một nửa vương quốc chỉ bởi vì ông ấy mù, giờ họ muốn giành lấy toàn thể vương quốc, "... vì anh chỉ có năm người, và chúng ta có một trăm người."
Mọi quân đội của cả hai phe đều tụ tập gần Delhi ở một vùng đất trống bao la. Krishna là người đánh xe của Arjuna. Thấy tình huống này - ở cả hai phe đều có các họ hàng; mặc dầu họ đánh nhau, họ là anh em con chú con bác, và theo mọi cách mọi người đều bị dính líu với nhau - ông của Arjuna, là một trong những người trí huệ nhất vào thời đó, Bhisma, đã quyết định ở về phe của người con mù.
Ông ấy yêu Arjuna... Arjuna là cung thủ bậc thầy, và có mọi khả năng rằng anh ta sẽ thắng. Người thầy đã dạy cho Arjuna cũng đã dạy cho một trăm anh em họ của anh ta. Bây giờ đó là việc phân chia khó khăn thế. Người thầy này đã dạy cho họ về cung thuật cũng đã chọn ở cùng phe với người mù. Việc mù của ông ấy đã tạo ra một loại thông cảm, rằng ông ấy đã bị phủ nhận và giờ là thời dành cho các con của ông ấy. Nhưng thầy cũng yêu Arjuna như đệ tử giỏi nhất của mình.
Nhìn thấy sự phức tạp này, biết hoàn toàn rõ rằng anh ta sẽ thắng nhưng đó sẽ là cuộc tàn sát những người bạn, gia đình, họ hàng riêng của anh ta, Arjuna nói với Krishna, "Đem xe ngựa của tôi lên trước để tôi có thể thấy ai là ở phe tôi và ai là ở phe bên kia."
Nhìn các bộ mặt, anh ta nói, "Tôi cảm thấy không thích đánh nhau. Ngai vàng không xứng với cuộc tàn sát đó, và tôi không thể quan niệm được bản thân mình trên ngai vàng với tất cả những người này bị chết. Tôi đã yêu mến họ, chúng tôi đã sống cùng nhau, chúng tôi đã chơi cùng nhau. Bây giờ điều này là rất không may. Tốt hơn cả là tôi lui về Himalayas và để cho các anh em của tôi cai trị vương quốc. Hiển nhiên, bố của họ đã bị phủ nhận vì việc mù của ông ấy. Và đó không phải là lỗi của ông ấy." Nhưng Krishna rất cố chấp.
Em của Krishna đã gả cho Arjuna - ông ấy có quyền lợi được đầu tư rằng Arjuna phải có được vương quốc, chiến thắng cuộc chiến. Ông ấy biện minh ủng hộ cuộc chiến như điều cần thiết bản chất vào khoảnh khắc này "...vì một trăm anh em họ đó toàn là kẻ có tội, kẻ say, kẻ đánh bạc. Chính bổn phận của anh, vì điều thiện, là chiến đấu. Đó không phải là vấn đề chỉ là đánh nhau giữa hai bên, đó là tranh đấu giữa bóng tối và ánh sáng. Đó là tranh đấu giữa Thượng đế và Quỉ." Nhưng Arjuna đã không bị thuyết phục, và chiến lược cuối cùng của Krishna là chiến lược mà tôi gọi là rất lừa dối.
Krishna là một trong những hoá thân hoàn hảo của Thượng đế Hindu. Có những hoá thân khác là hoá thân một phần, nhưng Krishna là hoá thân hoàn hảo.
Nhưng nếu bạn nhìn vào ông ấy mà không có định kiến nào, ông ấy là chính khách hoàn hảo! Con át chủ bài cuối cùng là điều ông ấy nói, "Là hoá thân của Thượng đế, ta ra lệnh cho anh đi vào chiến tranh. Nhớ lấy, đó là ý chí của Thượng đế. Không cái gì xảy ra mà ngược với ý chí của Thượng đế. Ngay cả một chiếc lá rơi khỏi cây cũng không được nếu không có ý chí của Thượng đế."
Bây giờ, điều này là quá nhiều đối với Arjuna đáng thương để chống đối lại. Một cách không sẵn lòng, anh ta đi vào cuộc chiến. Anh ta thắng cuộc chiến. Tới giờ điều đó đã năm nghìn năm rồi, nhưng nó đã đập vỡ chính xương sống của đất nước này. Sau cuộc chiến tranh đó đất nước này không bao giờ quan tâm tới chiến tranh, nó không bao giờ đi xâm lược bất kì nước nào. Nó đã bị nhiều nước xâm lược - những nước nhỏ đã cai trị nó trong hai nghìn năm liên tục - và nó thậm chí đã không kháng cự lại vì nó đã thấy, trong cuộc ‘Đại chiến’ Ấn Độ như điều đó được gọi, cuộc tàn sát nhân loại thế - với mục đích quyền lực sao? Với mục đích tiền bạc sao? Nhưng Arjuna đã bị điều khiển bởi chính luận cứ rất khéo: "Không cái gì xảy ra mà không có ý chí của Thượng đế. Làm sao điều đó có thể xảy ra mà không có ý chí của Thượng đế? Cho nên đừng mang tâm trí của anh vào, cứ làm điều Thượng đế muốn."
Nếu như tôi mà ở vị trí của Arjuna tôi sẽ đặt mũi tên và cung của tôi vào trong xe ngựa và đi hướng tới Himalayas, với việc nói rằng "Đây là ý chí của Thượng đế - tôi có thể làm được gì? Không cái gì xảy ra mà không có ý chí của ngài. Bây giờ đây là điều đang xảy ra!" Nhưng anh ta đã bị mắc bởi luận cứ này và Krishna đã thuyết phục anh ta rằng đó là cuộc chiến thiện.
Không cuộc chiến nào là thiện cả! Không cuộc chiến nào có thể thiện. Mọi kẻ gây chiến trên thế giới đều đã từng cố chứng minh cùng một điều, rằng "Cuộc chiến này là vì điều thiện." Adolf Hitler đã giết sáu triệu người Do Thái ở Đức chỉ vì Thượng đế và vì đất cha. Ông ấy đã làm việc phục vụ lớn cho đất cha của ông ấy...
Bạn không thể tìm được bất kì cuộc chiến nào mà được chiến đấu vì bất kì lí do nào tốt hơn: vì Thượng đế, nhiều cuộc viễn chinh thế; vì Thượng đế, nhiều người sống thế, đặc biệt đàn bà, đã bị thiêu sống.

Đạo đức chỉ quan tâm tới hành động. Và tôi muốn nói với bạn, Thiền chẳng liên quan gì tới đạo đức. Nó là tính tôn giáo thuần khiết, nó là quan điểm cao hơn nhiều. Nó không quyết định cái gì là đúng và sai, nó đơn giản muốn tâm thức bạn có sự sáng tỏ để nhìn trong mọi tình huống. Vấn đề không bao giờ là về quyết định. Việc quyết định có nghĩa là hoài nghi đã nảy sinh. Việc quyết định nghĩa là bạn đang vẩn vơ; quyết định nghĩa là một nửa của bạn ở phía này và một nửa của bạn ở phía kia, và bạn bị rắc rối về đi đâu.
Con người của tâm thức thanh tịnh không bao giờ quyết định, người đó đơn giản hành động một cách tự phát. Không cái gì tốt với người đó và không cái gì xấu với người đó.
Điều tốt duy nhất là có ý thức và điều xấu duy nhất là vô ý thức. Hành động không được tính tới. Điều này phải được hiểu - thế thì lời của Huệ Năng sẽ là rất dễ. Ông ấy đang làm một phát biểu rất nền tảng.
Huệ Năng nói
Thiện tri thức, pháp môn này nói tọa thiền vốn chẳng chấp tâm trí, cũng chẳng chấp tịnh, cũng chẳng phải là chẳng động. Nếu nói chấp tâm trí, tâm trí vốn là vọng, biết tâm trí như huyễn cho nên chẳng chấp. Nếu nói chấp tịnh, tự tính vốn tịnh, chỉ do vọng niệm che khuất chân như.
Vấn đề không phải là tìm ra trong ý nghĩ của bạn cái gì là đúng và cái gì là sai, trong hành động của bạn cái gì là đúng và cái gì là sai. Vấn đề là tìm ra tâm thức toàn bộ và mãnh liệt tới mức chỉ bất kì cái gì đúng còn lại, và bất kì cái gì sai đều bốc cháy. Bạn không phải quyết định.
Và khi hành động nảy sinh từ thiền im lặng, nó có thanh tịnh và cái đẹp và hương thơm. Nó chẳng liên quan gì tới đạo đức hay vô đạo đức. Những điều đó là những suy xét rất thấp của xã hội, của đám đông tập thể. Thiền thuộc vào những đỉnh cao nhất của Himalayas, những đỉnh cao nhất của tâm thức. Từ đó, cái nhìn là rõ ràng theo mọi hướng. Không cần quyết định; bạn đơn giản thấy cái gì là đúng. Bạn thậm chí không nghĩ về nó, bạn đơn giản hành động. Bạn không nghĩ về hậu quả.
Từ thanh tịnh này, chỉ hoa hồng có thể nở ra. Từ thanh tịnh này, không có khả năng bất kì cái gì ác nảy sinh trong bạn.
Mối quan tâm của Thiền là tính tôn giáo thuần khiết - không phải là tôn giáo, nhớ lấy. Tôn giáo đã trở thành gần như bị đồng nhất với quan niệm đạo đức, với những lời răn. Nhưng thời gian liên tục thay đổi; mọi khoảnh khắc, mọi thứ đều chuyển động. Bạn không thể quyết định được cái gì là đúng mãi mãi, bạn chỉ có thể tùy thuộc vào sự sáng tỏ của bạn. Cái là đúng hôm nay có thể là sai ngày mai. Lời răn thuộc vào chính lớp đạo đức thấp nhất.
Tôi nhớ, khi Thượng đế làm ra thế giới và ngài đi quanh để thuyết phục về các lời răn, ngài đã hỏi người Babylon, người Ai Cập, và mọi người hỏi, "Trước hết nói cho chúng tôi, chỉ như hàng mẫu thôi, lời răn của ngài là gì? Nói cho chúng tôi một lời răn."
Và Thượng đế nghĩ lời răn tốt nhất mà không có biện luận nào sẽ là "Ông phải không ngoại tình."
Người Ai Cập nói, "Thế thì chúng tôi sẽ làm gì? Giữ lời răn lại cho ngài đi; chúng tôi sẽ tìm cách riêng của chúng tôi để quyết định làm cái gì và không làm cái gì. Ngài đã làm đủ những điều ngài đã làm cho chúng tôi, giờ cứ mặc chúng tôi."
Và ngay trên đường ngài đã gặp Moses. Là người Do Thái, bạn có thể hiểu, cách tiếp cận của Moses là khác toàn bộ. Khi Thượng đế hỏi, "Ông có muốn được lời răn không?" mọi người khác đã hỏi, "Lời răn là gì?" Chỉ mỗi Moses hỏi, "Bao nhiêu?"
Thượng đế nói, "Nó tuyệt đối cho không đấy, ông không phải trả cái gì cả."
Moses nói, "Trong trường hợp đó, tôi sẽ lấy mười."
Và với mười lời răn đó người Do Thái đang mang một tải trọng như núi trên tim họ. Mọi thứ trở thành sai, mọi thứ đều làm cho bạn cảm thấy mặc cảm.
Và điều này không chỉ đúng về người Do Thái - mọi tôn giáo đều đã dùng chiến lược này để khai thác con người bằng việc làm cho con người cảm thấy mặc cảm. Điều đầu tiên để làm con người thành nô lệ là làm cho người đó cảm thấy mặc cảm, rằng bất kì cái gì người đó làm đều sai. Thế thì người đó mất dũng khí của mình. Thế thì người đó không còn đủ mạnh để chống lại sự nô lệ đang tới.
Cái gọi là đạo đức và vô đạo đức của bạn toàn là những phương cách của những kẻ ăn bám (parasites), tu sĩ (priests), chính khách (politicians)... Chữ 'p' này là kì lạ - toàn lợn! Và bạn sẽ bị choáng mà biết rằng lợn là một trong những hóa thân Hindu của Thượng đế. Avirbhava không có đây; cô ấy đang đi tìm các thần cổ khác ở Viễn Đông; bằng không, cô ấy chắc đã thích rồi. Cô ấy đã có lợn rồi, nhưng cô ấy không biết rằng nó là hóa thân Hindu.
Những tu sĩ này đã làm cho con người tuyệt đối không suy nghĩ. Họ đã áp đặt chỉ một điều, mặc cảm và niềm tin. Nó là chiếc kiếm hai lưỡi: phía này nó làm cho bạn mặc cảm, và phía kia nó làm cho bạn tin - vì làm sao bạn sẽ gạt bỏ được mặc cảm của bạn? Tu sĩ có đó để giúp bạn. Ông ta đã tới, theo cách riêng của ông ta, người trung gian giữa bạn và Thượng đế.
Mới vài tháng trước Giáo hoàng Polack đã mang một tội mới vào thế giới; nó chưa bao giờ tồn tại trước đây. Tội mới này, ông ấy đã tuyên bố, là thú tội trực tiếp với Thượng đế. Bạn phải thú tội qua kênh đúng, qua tu sĩ Cơ đốc giáo, vì nếu bạn bắt đầu làm cú gọi điện trực tiếp tới Thượng đế, thì mục đích của tu sĩ là gì và mục đích của giáo hoàng là gì? Mục đích của họ là đứng giữa bạn và Thượng đế. Và vấn đề là, không có Thượng đế; đó là bịa đặt của họ. Cho nên một cách tự nhiên họ phải đứng ở giữa để che giấu hư cấu này. Nếu họ loại bỏ bản thân họ... nếu bạn loại bỏ mọi tu sĩ, mọi thượng đế sẽ biến mất. Họ đã được con người tạo ra.
Kinh Thánh nói Thượng đế tạo ra con người theo hình ảnh riêng của ngài. Điều đó là tuyệt đối vô nghĩa. Ngược lại, có thể nói là con người đã tạo ra mọi thượng đế theo tưởng tượng riêng của mình. Chỉ hư cấu. Và từ những thượng đế đó giáng xuống paigambaras, nhà tiên tri, tirthankaras, avataras, đấng cứu thế, Christs. Hư cấu đơn giản về Thượng đế có tính sinh sôi tới mức nó tạo ra cả nghìn lẻ một hư cấu, và con người bị bao quanh bởi thế giới hư cấu trong đó, chỉ những quyền lợi được đầu tư là được lợi. Toàn thể nhân loại bị nghiền nát, bị hi sinh cho các ý tưởng không tồn tại chút nào.
Thiền chẳng liên quan gì tới bất kì tôn thờ nào, bất kì Thượng đế nào, bất kì tôn giáo nào. Nó chẳng liên quan gì với bất kì đạo đức nào. Nó là hiện tượng rất hiếm hoi.
Huệ Năng nói:
nếu chẳng có vọng niệm, tính tự thanh tịnh
Mọi thứ được cần là gạt ảo vọng của bạn sang bên, và tự tính nguyên bản của bạn sẽ nảy sinh, và lần đầu tiên, bạn sẽ có mắt để thấy và tai để nghe sự tồn tại.
Bằng không, những chủ tiệm này - người Ki tô giáo và người Hindus và người Mô ha mét giáo và người Do Thái - không bao giờ cho phép bạn đạt tới sự tồn tại. Ngay trên đường bạn gặp tu sĩ. Mọi hướng đều đầy tu sĩ; bất kì chỗ nào bạn đi bạn sẽ gặp tu sĩ và ông ta sẽ trao tay cho bạn nhiều lời răn nhất bạn có thể mang. Ông ta sẽ cho bạn các giá trị thường hằng trong thế giới vô thường. Ông ta sẽ cho bạn các ý tưởng phi tự nhiên điều không thể được thực hiện, và bởi vì chúng không thể được thực hiện chúng làm cho bạn cảm thấy mặc cảm.
Gần như mọi sự đồng dục đều được các tôn giáo, tu viện tạo ra, nơi họ buộc đàn ông và đàn bà sống tách rời. Điều đó nhất định xảy ra. Năng lượng dục sẽ chuyển đi đâu? Bạn không cho họ bất kì công thức nào, bất kì giả kim thuật nào cho bất kì biến đổi nào của năng lượng này. Bạn chỉ tách rời đàn ông và đàn bà, và đàn bà trở thành đồng dục nữ, đàn ông trở thành đồng dục nam. Và bây giờ hàng nghìn năm tôn giáo của bạn đã không tạo ra cái gì ngoài AIDS. Đó là đóng góp lớn nhất của mọi tôn giáo của bạn.
Tôi đã từng tiếp xúc với đủ loại sư - những người truyền giáo Hindu, Phật giáo, Jain giáo, Ki tô giáo - và tôi ngạc nhiên là những người này đang làm trệch hướng tính tự nhiên của mọi người, sự thanh tịnh của họ. Tình yêu giữa đàn ông và đàn bà có tính tôn giáo, có sự thiêng liêng. Nó là tự nhiên khi nó kéo dài - mặc dầu nó là ảo vọng đẹp. Nhưng vậy thì sao? Mọi thứ đều là vọng - sao không có vọng tốt? Sao cứ khăng khăng vào có ác mộng? Nhưng trong tu viện của bạn, ác mộng được tạo ra.
Những điều kì lạ, điều không thể tin được, đã xảy ra trong thời Trung Cổ. Hàng nghìn đàn bà bị thiêu nhân danh Thượng đế; các tu sĩ tận hưởng điều đó nhiều lắm. Một phiên toà đặc biệt được tạo ra để quyết định liệu người đàn bà có là phù thuỷ hay không. Và tiêu chí là gì để người đàn bà là phù thuỷ? Tiêu chí là liệu cô ấy có làm tình với Quỉ hay không. Họ tra tấn người đàn bà này, chỉ bởi vì việc tra tấn người đàn bà này chung cuộc phải thú nhận rằng cô ấy đã làm tình với Quỉ; bằng không họ sẽ tiếp tục tra tấn cô ấy. Có giới hạn cho kiên nhẫn của con người. Và một khi cô ấy đã thú nhận rằng cô ấy có chuyện tình với Quỉ, toà án được tự do quyết định rằng cô ấy phải bị thiêu sống.
Bây giờ, không có phù thuỷ nào được tìm thấy. Dường như Quỉ đã chán đàn bà... hay có thể nó cũng đã chuyển thành tình dục đồng giới. Người ta chẳng bao giờ biết về những thượng đế và quỉ này.
Mọi thứ là hư cấu, không tin được tới mức đã có thời người ta tin rằng chim của Quỉ được chia nhánh. Và đàn bà, hàng nghìn đàn bà, đã thú nhận trước toà rằng "Vâng, điều đó là đúng - nó làm tình theo cả hai lỗ mở cùng nhau." Vô nghĩa thế! Và những giám mục và giáo hoàng và hồng y giáo chủ lớn và phiên toà đặc biệt, Hội thẩm đoàn lớn, quyết định theo nhưng điều ngu xuẩn này... Và đầu tiên người đàn bà đáng thương đã bị tra tấn nhiều tới mức họ chỉ thấy một lối thoát - thú tội. Bất kì cái gì được nói ra, họ phải chấp nhận nó.
Bây giờ, Quỉ không còn việc kinh doanh diễn ra trên thế giới nữa. Xem như hậu quả, kinh doanh riêng của Thượng đế trở thành thất bại, phá sản.
Thiền không quan tâm tới những thượng đế như vậy và quỉ như vậy, điều chỉ là những ác mộng tưởng tượng. Mối quan tâm của nó là gạt sang bên mọi hư cấu của tâm trí và để cho sự thanh tịnh tự nhiên của bạn có tiếng nói của nó.
Tính tự nhiên đó, mọi tôn giáo đều kết án. Tính tự nhiên đó không cần bất kì thượng đế nào. Bạn không thể tìm ra được rằng cây có thượng đế, hay sư tử có thượng đế, hay bất kì chim nào có thượng đế. Khoảnh khắc con người trở thành tự nhiên, đơn giản, không bị che mờ bởi bất kì hư cấu nào do các tu sĩ tạo nên để khai thác và bú máu con người, người đó đơn giản thấy rằng mình là một phần của vũ trụ bao la này và bất kì cái gì là tự nhiên, bất kì cái gì nảy sinh từ bản thể nguyên bản riêng của mình đều là tính tôn giáo duy nhất, sự chân thành duy nhất.
Nhưng mọi thứ tự nhiên đều đã bị kết án. Và một khi một thứ bị kết án nó trở thành nỗi ám ảnh; nó trở thành rất đáng khao khát.
Tôi thường sống trong một thành phố, Raipur, và ngay đối diện qua đường với tôi là một người rất hợm hĩnh. Ông ta rất giầu và quyền thế. Một hôm ông ấy thấy một người đái bên cạnh vườn của ông ấy. Ở Ấn Độ điều đó là tuyệt đối tự nhiên; không có hiến pháp, không có luật chống lại điều đó. Ông ta gọi người hầu ra để đánh người này.
Tôi nhìn mọi sự này và tôi nói, "Không cần đâu. Ông cứ làm vài cái biển nhỏ để đây đó. Ông có một tài sản lớn, cái vườn bao la, cứ viết lên nó, 'Không đái ở đây.'"
Ông ta nói, " Ý tưởng này hay..." Và ngày hôm sau khi ông ấy thức dậy, khắp quanh tường mọi người đã đái đầy! - dường như toàn thể thành phố trở nên bị ám ảnh với việc đái...
Mọi việc phủ định tự nhiên đều nhất định tạo ra ám ảnh.
Gần như trở thành khó đi qua nhà ông ấy mà không đái... bao nhiêu bảng đang vẫy gọi bạn, bóng đái nhỏ giọt... Ông ấy giận tôi lắm. Ông ấy nói, "Tôi cứ tưởng ông là anh chàng tốt bụng!"
Tôi nói, "Dạ tôi không vậy đâu. Tôi đơn giản là người bình thường, tự nhiên. Những anh chàng tốt bụng... Ông mới là anh chàng tốt bụng."
Ông ấy nói, "Tôi tưởng ông là giáo sư tâm lí, cho nên ông sẽ cho tôi gợi ý hay. Ông đã cho cái loại gợi ý gì vậy?"
Tôi nói, "Đây là gợi ý tới thẳng từ Thượng đế!"
Chính Thượng đế là người đầu tiên cấm Adam và Eve không được ăn quả của cây trí huệ và cây cuộc sống vĩnh hằng. Chính bởi vì cấm đoán của ngài mà họ phải ăn. Dù Quỉ có thuyết phục Eve hay không, chẳng thành vấn đề. Nếu nó thuyết phục cô ấy, nó đã làm một hành động cách mạng lớn; nó đáng phải được tôn thờ vì điều đó.
Nhưng hiểu biết của tôi là ở chỗ chính bằng việc cho họ mệnh lệnh tránh hai cây này... và hai cây này chẳng là gì ngoài táo, hồn nhiên thế. Tôi đã sống nhiều năm chỉ bằng táo, chỉ để xem bao nhiêu tội lỗi... Chung cuộc các bác sĩ đều khuyên nhủ tôi, "Điều đó sẽ phá hủy sức khỏe của anh. Táo là tốt, nhưng chỉ một quả táo thôi."
Nhưng một quả táo đã phá hủy Adam và Eve. Họ trở thành tội nhân. Mà không chỉ họ trở thành tội nhân thôi - sau họ mọi con cháu họ cho tới bây giờ, tất cả chúng ta đều là tội nhân vì Adam và Eve đã không vâng lời Thượng đế.
Thực ra toàn thể trách nhiệm dồn lên Thượng đế. Tại sao ngài đã cho họ ý tưởng ngu xuẩn thế? Trong Vườn Eden bao la có hàng triệu cây. Nếu ngài không bảo họ, có lẽ chúng ta vẫn nhảy nhót từ cây nọ sang cây kia, kể cả Charles Darwin! Không cần tìm ra đuôi đã biến mất ở đâu; nó chắc vẫn còn treo quanh. Không cần tìm ra con người thiếu ở đâu; chưa bao giờ có bất kì người nào. Chính bởi vì không vâng lời - tôi sẽ gọi điều đó là nổi dậy - mà bạn ở đây. Bạn phải cám ơn Quỉ vì đã khơi gợi Eve ăn quả. Và luận cứ của nó là hoàn hảo; ngay cả Aristotle chắc cũng không có khả năng tìm ra bất kì lỗi nào trong biện luận của nó.
Nó nói, "Thượng đế đã cấm ăn chỉ hai cây này thôi. Bạn biết tại sao không? Vì nếu bạn ăn quả của cây trí huệ" - với tôi đó là biểu tượng, nó ngụ ý thiền - "và cuộc sống vĩnh hằng" - vì thiền chung cuộc tìm ra cội nguồn vĩnh hằng của cuộc sống... Hai cây đó được nối với nhau ở rễ; thực ra nó là một cây diễn đạt theo hai cách: cuộc sống vĩnh hằng và trí huệ - Thượng đế đã cấm các bạn, theo Quỉ, vì ông ta rất ghen tị. Nếu các bạn ăn những quả này các bạn cũng sẽ giống như các thượng đế, và thế thì mọi trò quyền lực của ngài, tính đặc biệt của ngài, đi đời. Ngài trở thành người bình dân. Mọi người đều là thượng đế.
Điều Ki tô giáo, Mô ha mét giáo, Do Thái Giáo đã làm là ngăn cản bạn khỏi trở thành các thượng đế. Đó là lí do tại sao trong tất cả ba tôn giáo này không có chỗ cho thiền, vì thiền sẽ đem bạn tới gốc rễ của bản thể bạn, nơi trí huệ nở hoa, nơi cuộc sống vĩnh hằng trở thành cuộc sống riêng của bạn. Bạn trở thành một phần của sự tồn tại đại dương, và từ tình huống này, từ trạng thái này, không có vấn đề về hữu tử hay bất tử. Bất kì cái gì bạn làm, bất kì cái gì bạn là đều là tốt, thiêng liêng; nó có phúc lạc và duyên dáng của riêng nó.
Và bởi vì nó tới từ cội nguồn nguyên thủy riêng của bạn, nó cho bạn tính cá nhân lớn. Bạn không còn là người Ki tô giáo hay người Hindu hay Phật tử; bạn không còn là người đi theo bất kì ai. Bạn đơn giản hân hoan trong sự tồn tại của bạn, nhảy múa trong hòa điệu với cây, với sông, với đại dương, với các ngôi sao... với gió luồn qua rặng thông... với mưa, với mây. Bạn đã trở thành một với cái toàn thể.
Không có vấn đề gì - bạn không thể làm hại bản thân bạn được, bạn không thể làm điều được coi là ác. Điều đó là có thể chỉ nếu bạn bị giữ xa khỏi cái ta nguyên bản riêng của bạn.
Việc tìm kiếm của Thiền không phải là về bất kì Thượng đế ngu xuẩn hay bất kì Quỉ nào. Việc tìm kiếm của nó là về mặt nguyên bản của bạn.
nếu chẳng có vọng niệm, tính tự thanh tịnh; khởi tâm chấp tịnh, lại sanh vọng tịnh.
Có những người cố là thanh tịnh. Trong các tôn giáo khác nhau có những mê tín khác nhau về cách người ta trở thành thanh tịnh.
Tôi có một người bạn: ông ấy rất già, nhưng ông ấy yêu tôi. Ông ấy được coi là cha của nghị viện Ấn Độ. Ông ấy liên tục, trong sáu mươi nhăm năm, vẫn còn là nghị sĩ của nghị viện Ấn Độ. Từ chính lúc bắt đầu ông ấy đã là nghị sĩ, mãi cho tới hơi thở cuối cùng chỉ mới vài năm trước. Nhưng ông ấy rất khắt khe.
Khi ở Delhi tôi thường ở trong nhà ông ấy. Ông ấy chỉ uống sữa, vì sữa là thức ăn thanh tịnh duy nhất: đích thân Thượng đế đã cho trẻ con chỉ sữa; mọi thứ khác được chế tạo bởi con người. Luận cứ này dường như thuyết phục - nhưng sữa phải bắt nguồn từ bò. Tôi nói, "Mãi tới điểm đó tôi có thể do dự đồng ý rằng trẻ con được cho ăn chỉ bằng sữa... nhưng trẻ con không được cho sữa của bò. Bò có con riêng của nó. Lấy sữa của bò là đang khai thác bò."
Và ông ấy không chỉ dùng sữa bò, bò phải tuyệt đối trắng, không chấm đen nào. Tôi nói, "Trời, ông nghĩ bò đen cho sữa đen sao?"
Ông ấy nói với tôi, "Để được an toàn hơn, tôi muốn sữa tuyệt đối thanh tịnh." Cho nên kẻ ngốc đó, mặc dầu ông ấy có nhiều bằng tiến sĩ văn chương danh dự, thường đem bò đi cùng ông ấy tới bất kì chỗ nào ông ấy đi. Sau xe của ông ấy sẽ là xe tải mang con bò thuần trắng. Bò trắng là không thể có được trong mọi làng - ông ấy là chính khách, và ông ấy phải đi thăm các khu vực bầu cử lớn; điều đó là không thể được... Bò bạn có thể thấy ở bất kì chỗ nào nhưng đôi khi chúng có miếng vá nâu, đôi khi miếng vá đen; điều đó làm cho chúng thành không thanh tịnh.
Ý tưởng kì lạ... Nếu bạn nhìn mà không định kiến nào, bạn chỉ có thể cười.
Tôi được sinh ra, không may là trong một gia đình Jaina. Đó là một trong những tôn giáo cổ đại nhất. Ngay cả trẻ nhỏ cũng không được phép uống vào ban đêm. Bạn có thể ăn chỉ sau khi mặt trời mọc, cho tới lúc mặt trời lặn. Sau đó thì thôi, ngay cả trẻ nhỏ có thể khát, có thể đói... nhưng không có cách nào.
Mãi cho tới khi tôi mười tám tuổi đã không có cách nào vì mọi thức ăn sẽ được phân phối vào trước lúc tối. Ban đêm, cho dù bạn đi vào bếp bạn cũng không thể tìm được bất kì cái gì.
Và việc ước định này của nhiều thế kỉ...
Tôi đi cắm trại cùng các bạn trong trường ở núi cạnh đó nơi đã có một lâu đài đẹp, rất cổ kính. Tất cả họ đều là người Hindus cho nên họ không quan tâm về ngày hay đêm. Tôi hỏi đi hỏi lại họ, "Nghĩ về tôi nữa đi. Khi nào các bạn sẽ chuẩn bị thức ăn?"
Họ nói, "Ngay bây giờ chúng tôi sẽ đi thám hiểm toàn thể lâu đài. Nó có nhiều thứ đáng để được thám hiểm..." Có dòng nước ngầm, bể bơi ngầm, phòng đẹp, những cột trụ chạm khắc, những bức tượng lớn. Cho nên tôi bị đói cả ngày, và đến đêm họ bắt đầu làm thức ăn.
Tôi chưa bao giờ ngửi thấy mùi thức ăn ngon thế! Nó chẳng là cái gì mấy, nhưng cơn đói của tôi nhiều thế, và tôi đã liên tục kìm giữ lại, rằng "Mình sẽ không ăn." Nhưng toàn thể bản tính của tôi lại nói rằng dạ dầy tôi đang quặn, cả ngày trèo núi, đi quanh lâu đài, vào trong lâu đài... và tất cả họ đều rất thuyết phục và họ nói, "Chúng tôi sẽ không nói cho bất kì ai đâu..."
Tôi nói, "Vấn đề không phải là nói cho bất kì ai. Vấn đề là tôi biết rằng tôi đang ăn ban đêm và đó là con đường chắc chắn xuống địa ngục." Nhưng chung cuộc họ đã thành công vì họ nói, "Nếu ăn ban đêm là con đường chắc chắn, thế thì bạn sẽ không thích đi tới bạn bè của bạn sao? Chúng tôi cũng đang đi cùng đường đây, bạn sẽ không một mình đâu."
Cơn đói của tôi và thuyết phục của họ, và hương thơm bay tới từ thức ăn, mọ thứ đều đồng mưu với nhau, và tôi đã ăn. Nhưng toàn thể việc ước định đã chống lại điều đó. Tôi phải nôn cả đêm, cho tới khi mọi hạt ngũ cốc tôi đã ăn đều bị tống ra. Tôi đi ngủ chỉ vào những giờ sáng sớm.
Nhưng điều đó đã trở thành một chỉ báo rõ ràng cho tôi về mê tín có thể làm được gì. Không ai khác nôn mửa cả; mọi người đều ngủ ngon thế, mệt từ việc thám hiểm cả ngày. Họ ngáy và tôi một mình. Tôi tự nhủ mình, "Những người này nói 'Chúng tôi sẽ cùng bạn,' nhưng chỉ tôi đang trong địa ngục! Tất cả họ đều tận hưởng giấc ngủ ngon - phải đã có những giấc mơ đẹp - còn tôi không thể ngủ được vì thức ăn đó, chừng nào tôi chưa tống nó ra..."
Thực hành thanh tịnh không phải là thanh tịnh thực.
Thanh tịnh phải tới từ tính tự phát của bạn.
Bất kì cái gì được thực hành đều làm cho bạn thành kẻ đạo đức giả, và mọi cái gọi là người tôn giáo đều là kẻ đạo đức giả vì họ đang thực hành tôn giáo.
Bất kì cái gì bạn muốn thực hành bạn đều có thể thực hành - bạn có thể ép buộc bản tính của bạn vào trong vô thức, vào trong vô thức tập thể, hay thậm chí sâu hơn, vào vô thức vũ trụ, nhưng nó sẽ vẫn còn ở đó, và bất kì khoảnh khắc nào... Bạn đang ngồi trên núi lửa. Bản tính của bạn có thể bùng nổ và mọi ước định của bạn sẽ bị tống đi. Điều tốt là việc bùng nổ này xảy ra và chúng bị tống đi, cho nên chỉ bản tính thanh tịnh của bạn, không có ước định của bất kì ai, còn lại như cội nguồn của lời của bạn, của hành động của bạn, của cử chỉ của bạn.
Người tôn giáo, theo nghĩa này, là con người bản tính và nguyên bản. Người đó không thuộc vào bất kì tổ chức nào. Thuộc vào bất kì tổ chức nào là đi ngược lại bản tính.
Cứ thuộc vào tự nhiên là đủ.
Tịnh chẳng hình tướng, lại lập tướng tịnh cho là công phu; kiến giải như vậy chướng tự bản tính, lại bị tịnh trói.
Có hai loại người trên thế gian: những người khổ từ mặc cảm vì họ không thể xoay xở đi ngược lại bản tính của họ, và những người khác đang khổ từ tính thánh nhân của họ vì họ không nghe theo bản tính của họ và tiến lên, chống lại nó. Tất nhiên họ có sự kính trọng, nhưng toàn thể bản thể họ là nghèo nàn. Toàn thể bản thể họ đang bắt lửa. Họ có thể đã trở thành thánh nhân bằng việc làm mọi thứ ngu xuẩn mà xã hội bao quanh họ mong đợi... chẳng hạn ở đây ở Ấn Độ bạn sẽ thấy nhiều người đứng trên đầu. Ngay cả thủ tướng, Jawaharlal Nehru, vẫn thường đứng trên đầu mình mọi sáng trong vườn, và ông ấy được kính trọng vì điều đó vô cùng. Ông ấy đã không làm gì cho đất nước, nhưng ông ấy được kính trọng vì ông ấy đi theo yoga.
Sự thực là ở chỗ nếu bạn đứng trên đầu bạn quá ba phút, bạn sẽ phá huỷ nhiều tế bào tinh tế, và có hàng triệu những tế bào đó trong hộp sọ nhỏ của bạn. Nếu bạn đứng trên đầu máu sẽ tới như trận lụt vì sức hút trọng trường, và trận lụt đó phá huỷ phần thông minh nhất của não bạn.
Tại sao con vật đã không phát triển bộ não như vậy? - vì chúng theo phương nằm ngang. Việc tuần hành máu là ngang nhau từ đầu tới đuôi. Duy nhất con người đứng thẳng, trên hai chân. Điều đó tạo ra khả năng cho sự tăng trưởng của não, vì khi bạn đứng máu không lên như trận lụt mà theo khối lượng vừa phải, vừa mức được cần. Người càng thông minh, càng có trong đầu mình hệ thống các tế bào càng tinh tế và phức tạp.
Albert Einstein đã để lại bộ não của ông ấy được xét nghiệm sau cái chết của ông ấy. Bản thân ông ấy bị phân vân: "Tại sao người khác không thông minh thế? Phải có gì đó sai với tôi." Ông ấy muốn biết, nhưng đằng nào cũng không có cách nào để truyền đạt thông báo cho ông ấy khi ông ấy chết. Bây giờ chúng ta biết vấn đề là gì: ông ấy có nhiều tế bào tinh tế này hơn hai mươi sáu phần trăm so với não người thường. Bây giờ những tế bào đó có thể được nuôi dưỡng, nhưng không bằng việc đứng trên đầu bạn.
Đứng trên đầu là điều xấu nhất mà bạn có thể làm cho thông minh của bạn, nhưng theo ước định Hindu tư thế đó là có giá trị rất cao. Chẳng biết gì về điều đang xảy ra bên trong, mọi người đã theo nó trong hàng nghìn năm. Không phải ngẫu nhiên mà bốn mươi phần trăm những người nhận giải thưởng Nobel là người Do Thái; điều đó rất không tỉ lệ, khi nhìn vào toàn thể thế giới. Chỉ ba người Hindus đã có khả năng nhận giải thưởng Nobel mãi cho tới giờ. Một đất nước bao la thế, nền văn hoá cổ đại thế, nhiều người thực hành thế, nhiều kỉ luật thế, nhưng khi có liên quan tới thông minh nó lại rất thấp. Và yoga là một trong các lí do - giữ cho não mọi người không tăng trưởng.
Nhưng bất kì cái ngớ ngẩn nào, nếu liên tục được nói cho bạn, đều trở thành kỉ luật lớn. Mọi tôn giáo đều chống lại tôi bởi lẽ đơn giản rằng tôi đang cố làm thành rõ ràng cho người thông minh trên khắp toàn cầu rằng bạn không phải thực hành bất kì cái gì, bạn không phải lập kỉ luật cho bản thân bạn theo bất kì cách nào, bạn không phải đi theo bất kì lời răn nào - bạn chỉ phải đi vào trong và cho phép tự tính riêng của bạn được chuyển động tương ứng với sự trưởng thành riêng của nó. Đừng quấy rối nó. Mọi điều bạn có thể làm là không quấy rối bản tính bên trong của bạn và bạn sẽ nở hoa như bất kì đoá hoa lớn nào.
Thiện tri thức, nếu người tu theo pháp chẳng động, khi thấy mọi người mà chẳng thấy tất cả thị phi, thiện ác, lỗi lầm của người, tức là tự tính chẳng động. Thiện tri thức, kẻ mê thân dù chẳng động, mở miệng thì nói thị phi, tốt xấu, hay dở của người; như vậy là trái ngược với đạo, nếu chấp tâm tịnh tức là chướng đạo.
Bạn không phải là người theo truyền thống và bạn không phải là người chống truyền thống. Đây là vấn đề lớn: rất dễ là người phi chính thống, nhưng điều đó là thay đổi nhà tù của bạn từ chính thống sang phi chính thống, từ truyền thống sang phi truyền thống. Cả hai đều mù, cả hai đều che khuất tự tính của bạn. Bỏ cả hai, phủ định và khẳng định, có và không đi. Đơn giản hiện hữu, không có bất kì phán xét nào, và trong việc hiện hữu không có bất kì phán xét nào, nổi lên những đỉnh lớn nhất của tâm thức mà con người đã từng đương đầu.
Kyogen viết:
Bằng một cú tôi quên luôn mọi tri thức!
Chẳng hữu dụng gì với kỉ luật nhân tạo,
vì, đi như tôi sẽ đi,
tôi biểu lộ con đường cổ đại.
Nhà thơ Thiền khác:
Sáo không lỗ
là khó thổi nhất.
... Không chỉ khó, nó là không thể được. Cho nên điều nhà thơ này nói là, sáo có mọi khả năng mang tới những bài ca cho thế giới; bạn chỉ phải mởi mọi cánh cửa và cửa sổ của bạn, mọi lỗ của bạn. Ngoài ra, mọi tre sẽ là sáo; chúng có tiềm năng. Chỉ hơi chút khác biệt - mở vài cánh cửa, vài cửa sổ, chỉ vài cái lỗ trong tre hổng - và nó trở thành nhạc cụ lớn. Sự tồn tại có thể chảy qua nó và có thể trở thành con sóng nhạc lớn. Sự tồn tại có âm thanh riêng của nó và âm nhạc riêng của nó. Chúng ta chỉ phải đủ im lặng để nghe thấy âm thanh vô âm.
Ba Tiêu viết:
Không có cái gì ông nhìn
mà không là hoa;
Không có cái gì ông có thể nghĩ tới
mà không là trăng.
Những phát biểu lớn lao, cô đọng thế... Không có cái gì ông nhìn mà không là hoa - nó có thể trong hạt mầm, nó có thể chưa biểu lộ, nhưng không có cái gì mà không có tiềm năng nở hoa. Không có cái gì ông có thể nghĩ tới mà không là trăng.
Trăng đã trở thành biểu tượng trong Thiền vì Phật Gautam. Phật Gautam được sinh ra vào đêm trăng tròn, ông ấy trở nên chứng ngộ vào đêm trăng tròn, và ông ấy chết vào đêm trăng tròn. Vì sự trùng hợp này mà trăng đã trở thành biểu tượng của Phật.
Dù bạn ở đâu, dù bạn là ai, bạn là trăng, vị phật.
Câu hỏi 1
Maneesha đã hỏi:
Thưa thầy kính yêu,
Tôi hiểu thầy đã nói gần đây rằng không có giác quan nào được trao cho chúng tôi để đưa chúng tôi vào bên trong, và do đó thiền là trên tự nhiên - siêu việt.
Vậy cái gì là thôi thúc, năng lượng khơi gợi một người đi lên trên cái là tự nhiên? Và tại sao việc đi vào trong lại ảnh hưởng tới cuộc sống của một số người, thậm chí thay đổi toàn bộ cuộc sống của một số người, trong khi nó để những người khác tuyệt đối không bị chạm tới?
Maneesha, bạn đã hỏi hai câu hỏi. Một là, "Vậy cái gì là thôi thúc, năng lượng khơi gợi một người đi lên trên cái là tự nhiên?" Chán đấy.
Bạn đã bao giờ thấy con trâu chán, hay con lừa chán chưa? Trong toàn thể tự nhiên bạn sẽ không tìm ra bất kì con nào chán ngoại trừ con người. Chán là phẩm chất duy nhất khi có liên quan tới con người, một phẩm chất rất cao.
Con người trở nên chán với tự nhiên nữa, nhưng trước hết người ta phải đi tới là tự nhiên. Khi bạn trở thành tự nhiên, dần dần, dần dần bạn trở nên chán với nó. Và chán đó đang được các nhà hiện sinh bên phương Tây thảo luận, nhưng không có hiểu biết những hệ luỵ sâu hơn mà phương Đông đã đương đầu. Các nhà hiện sinh dừng lại với chán; phương Đông đã không dừng lại với chán, nó đã lấy bước nhảy lượng tử. Nó đã đi ra ngoài tự nhiên.
Nhưng bên ngoài tự nhiên không phải là chống lại tự nhiên. Bên ngoài tự nhiên đơn giản là trên tự nhiên, siêu nhiên, siêu việt trên tự nhiên.
Cho nên điều đầu tiên là tìm ra cái ta, tự nhiên. Không có mấy rắc rối trong việc đó, bạn chỉ phải gạt vọng tưởng sang bên. Thế rồi chẳng mấy chốc bạn sẽ bắt đầu cảm thấy chán với bản thân tự nhiên vì nó có tính lặp lại: thức dậy buổi sáng, ăn thức ăn, đi làm, về nhà vào buổi tối, lên giường... cái vòng... im lặng, an bình, không căng thẳng hơn những ngày xưa, không buồn khổ và lo nghĩ thêm nữa về những ngày xưa, rất hài lòng. Nhưng ngay cả hài lòng tại điểm nào đó cũng trở thành chán, ngay cả an bình tại điểm nào đó cũng trở thành nặng nề.
Ngay cả chứng ngộ tại điểm nào đó cũng phải bị bỏ đi.
Khoảnh khắc bạn bỏ chứng ngộ bạn siêu việt trên tự nhiên. Chứng ngộ là điểm tối thượng mà tới đó tự nhiên có thể đem bạn tới, và thế rồi có vách đá. Nhảy vào trong cái không biết, biến mất vào trong vũ trụ - đó là bước nhảy lượng tử.
Vậy có hai cú nhảy: một cú là cú nhảy rất nhỏ, từ vọng tưởng sang tự nhiên; cú nhảy kia thực sự là Chuyện lớn - nhưng chán là nguyên nhân.
Cứ nhìn vào cuộc đời của Phật Gautam mà xem - không tivi, không thuốc lá, không bài để chơi, không cờ vua, không đá bóng, không trận đấm bốc... Cuộc đời của Phật đáng thương là gì? - chỉ im lặng, im lặng vĩnh hằng, nơi không cái gì xảy ra, không đá bóng.
Đó là lí do tại sao tôi nói rất khó cho người Mĩ trở nên được chứng ngộ. Họ được giải trí nhiều tới mức điểm chán không bao giờ tới. Họ liên tục đổi vợ... Ở Ấn Độ bạn nhất định phát chán với vợ bạn, nhưng ở Mĩ bạn sẽ đơn giản đổi vợ. Tại sao bị chán?
Thời gian trung bình ở Mĩ cho mọi thứ là ba năm: trong ba năm bạn phải đổi vợ, bạn phải đổi xe, bạn phải đổi nhà, bạn phải đổi việc, bạn phải đổi thành phố, bạn phải đổi mọi thứ. Cách này... và bẩy giờ rưỡi một ngày, hàng triệu người chỉ ngồi dính vào ghế trước cái hộp ngốc nghếch đó, cái ti vi.
Bây giờ họ đã bắt đầu một hiệp hội lớn, hội những khoai tây TV, và mọi người đang trở thành thành viên và đeo phù hiệu khoai tây.
Ở Mĩ rất khó trở nên chứng ngộ. Nhiều thứ thế đang diễn ra...
Điều tốt là Phật đã được sinh ra từ hai mươi nhăm thế kỉ trước, ở Ấn Độ. Ở đây, mọi thứ rất tĩnh lặng như cũ. Cứ đi vào vùng sâu xa hơn của đất nước mà xem, vào một làng, và bạn sẽ thấy cuộc sống hoàn toàn chán - đơn giản, nhưng chẳng có gì, chỉ sự đơn giản. Sự đơn giản này đi tới điểm mà bạn muốn biến mất vào trong vũ trụ. Đó là thôi thúc đi ra ngoài tự nhiên.
"Và tại sao việc đi vào trong ảnh hưởng tới cuộc sống của một số người, thậm chí thay đổi toàn bộ cuộc sống của một số người, trong khi nó để những người khác tuyệt đối không bị chạm tới?"
Điều đó tất cả tuỳ thuộc vào tính nhạy cảm của mọi người. Bạn có thể bắt gặp vị phật, bạn thậm chí có thể bắt tay vị phật, và bạn có thể không nhận ra bất kì cái gì bất thường chút nào. Bạn là tre không có lỗ. Bạn không có đủ cảm nhận.
Để nhận ra vị phật trong bản thân điều đó là phẩm chất thiền lớn. Chừng nào bạn chưa thiền bạn sẽ không có khả năng thấy sự rạng ngời của vị phật cũng không thấy nhịp điệu tim đập của ông ấy, không thấy duyên dáng và cái đẹp của ông ấy, không thấy vùng năng lượng được tạo ra quanh ông ấy như lực từ. Bạn đi càng sâu vào trong thiền, bạn càng có thể nhận ra nhiều hơn. Cho nên vài người đang trong con đường cảm nhận - nhà thơ, vũ công, nhạc sĩ, những người sáng tạo, người không bị giới hạn bởi những biên giới của tri thức được trao cho họ mà bao giờ cũng tìm cái mới, bao giờ cũng mở để đón nhận vị khách mới - những người này sẽ nhận ra vị phật ngay lập tức. Nhưng có hàng triệu người nữa mà với họ phật chỉ là lời. Họ là tre không có lỗ. Họ sẽ không bị ảnh hưởng chút nào.
Điều đó là không may, nhưng bạn không thể can thiệp vào cuộc sống của ai đó được. Bạn không thể bắt đầu khoan lỗ vào cuộc sống của ai đó để làm cho người đó cảm nhận. Bạn chỉ phải đợi: có lẽ thời gian của họ còn chưa tới. Có lẽ ngày mai, hay ngày kia... và không thành vấn đề trong sự vĩnh hằng của thời gian. Bất kì khi nào nó xảy ra nó bao giờ cũng tươi tắn và mới mẻ, bất kì khi nào nó xảy ra, nó bao giờ cũng sớm sủa.
Bây giờ, chúng ta hãy khoan vào vài lỗ hổng trong mọi người mà không chạm tới bất kì tuốt nơ vít nào.
Chỉ bàn tay sẽ là đủ!
(Thầy làm cử chỉ cù hướng tới Anando, và tạo nên đợt sóng cười khúc khích.)
Bạn không được chạm...
Jablonski đi tới cửa hàng kim khí và hỏi xin việc làm với người quản lí.
"Được," người quản lí nói, "anh có thể có việc làm nếu anh có thể bán hàng. Anh có thể bán hàng được không?"
"Tôi cho là vậy," Jablonski nói.
"Được," người quản lí nói, "xem tôi và học cái gì đó!"
Một người tới cửa hàng và hỏi người quản lí về hạt giống cỏ nào đó. "Lối đi thứ tư qua kia, giá thứ ba," người quản lí nói.
Người này quay lại với hạt giống cỏ và người quản lí nói, "Ông có muốn mua một trong những máy cắt cỏ mới của chúng tôi không? Chúng đang được bán hạ giá ngay bây giờ."
"Cái gì?" người này nói. "Nhưng tôi thậm chí đã có cỏ đâu."
"Tôi biết," người quản lí nói, "nhưng ông sẽ có cỏ trong vài tuần và thế thì ông sẽ cần máy cắt cỏ mới. Và nếu ông mua một chiếc bây giờ, nó sẽ rẻ hơn nhiều."
"Tôi cho là ông đúng," người này nói, và ông ta mua máy cắt cỏ.
"Vậy," người quản lí nói với Jablonski, "anh nghĩ anh có thể làm được điều đó không?"
"Chắc chắn," Jablonski đáp. "Không vấn đề gì!"
"Được," người quản lí nói. "Tôi phải ra ngân hàng. Anh tiếp quản đi - và bán!"
Jablonski gật đầu và đợi khách hàng thứ nhất của mình tới. Vừa lúc đó một người đàn bà bước tới anh ta và nói, "Băng vệ sinh ở đâu?"
"Lối đi thứ năm phía kia, giá thứ tư bên dưới," Jablonski đáp, một cách chuyên nghiệp.
Khi cô ta quay lại trả tiền, Jablonski hỏi, "Cô có máy cắt cỏ không?"
"Không. Sao vậy?" người đàn bà hỏi.
"Thế này," Jablonski nói, "cô có thể cắt cỏ trong khi cô không làm việc đéo nào!"
Leonard Loophole trẻ đang trong kì nghỉ trong rừng, và anh ta quyết định viết thư cho bạn gái của mình. Nhưng anh ta không mang giấy viết theo người, cho nên anh ta đi sang cửa hàng ở làng bên cạnh.
Bên trong, anh ta tiến tới cô gái đứng quầy, Molly Must, một cô tóc hung trẻ rất gợi tình.
"Cô có giấy bút không?" Leonard hỏi.
"Này," Molly nói, với giọng gợi tình, "tôi có thể đợi đến vài giây cuối, và thế rồi tôi hoàn toàn phát cuồng!"
Zabriski ra đi trong chuyến đi kinh doanh tới Ba lan. "Tớ bao giờ cũng ghét phải đi," anh ta nói với anh bạn mình, Klopski. "Tớ không bao giờ tin cậy được vợ tớ theo cách riêng của cô ấy. Bao giờ cũng có hoài nghi này... bao giờ cũng hoài nghi này."
"Đừng lo nghĩ," Klopski nói. "Tớ là bạn tốt nhất của cậu. Trong khi cậu đi, tớ sẽ để mắt lên cô ấy."
"Thực sao?" Zabriski nói. "Cậu sẽ làm điều đó cho tớ chứ? Tớ được nhẹ gánh thế. Tớ biết rằng tớ phải tin cậy vào vợ tớ, nhưng bao giờ cũng có hoài nghi này... bao giờ cũng hoài nghi này."
"Được thôi," Klopski nói. "Để chuyện đó cho tớ."
Ba tuần sau Zabriski trở về và gặp anh bạn mình. "Tớ e tớ có vài tin xấu," Klopski nói.
"Được, cái gì vậy?" Zabriski hỏi.
"Ngay đêm đầu tiên cậu đi," Klopski kể, "Tớ theo dõi Seamus O'Ryan lẻn vào trong cửa sau nhà cậu. Vợ cậu gặp anh ta ở đó chỉ đi dép cao gót và mặc si lip xa tanh đỏ."
"Thực sao?" Zabriski hỏi. "Thế rồi sao?"
"Thế rồi Seamus hôn vợ cậu và anh ta đưa tay vào trong si lip xa tanh đỏ của cô ấy."
"Thực sao?" Zabriski choáng hỏi. "Thế rồi sao?"
"Thế rồi," Klopski nói, "cô ấy đưa tay vào bên trong quần anh ta, và Seamus bắt đầu hôn vú cô ấy."
"Thực sao?" Zabriski hổn hển. "Thế rồi sao?"
"Thế rồi," Klopski tiếp tục, "họ ngã vào tràng kỉ. Cô ấy vứt si lip ra, anh ta vứt quần ra, và thế rồi đèn vụt tắt - thế là tớ không thể thấy được thêm nữa."
"Cái gì? Đèn tắt à?" Zabriski la lên. "Cậu thấy à? Bao giờ cũng có hoài nghi này!"
Nivedano...
(Tiếng trống)
(Nói lắp bắp)
Nivedano...
(Tiếng trống)
Im lặng, nhắm mắt lại.
Cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn bị đông cứng.
Thu bản thân bạn vào trong.
Không cái gì tồn tại bên ngoài,
chỉ tập trung vào trung tâm của bản thể bạn.
Đây là chỗ trú ngụ duy nhất - hiện hữu trong không gian này,
bạn ở bên ngoài chết, bên ngoài sống. Bạn đang gặp gỡ với sự tồn tại.
Ngoại trừ việc gặp gỡ này, mọi tôn giáo đơn giản chỉ là nói.
Từ điểm này bạn có thể lấy cú nhảy
và biến mất trong bầu trời mở. Nó là ở bên trong bạn
để siêu việt lên trên ngay cả bản thân bạn.
Hân hoan khoảnh khắc này, cảm thấy phúc lạc.
Thấy hoa ở mọi nơi.
Nhìn - trong mọi thứ, trăng.
Từ không gian phật tính của bạn
toàn thể sự tồn tại trở thành bài thơ lớn, bài ca lớn.
Một năng lượng sáng tạo lớn nảy sinh ra từ không gian này.
Hư không này, trống rỗng này là cội nguồn của nhành cỏ nhỏ nhất cho tới ngôi sao lớn nhất.
Sâu hơn... sâu hơn.
Đừng giữ lại bất kì cái gì, cứ đi sâu hơn.
Nivedano...
(Tiếng trống)
Thân thể có đó, tâm trí có đó,
nhưng bạn không là thân thể, bạn không là tâm trí.
Bạn chỉ là người quan sát, chỉ là nhân chứng.
Không cái gì đã bao giờ xảy ra cho bạn
và không cái gì sẽ bao giờ xảy ra cho bạn;
bạn chỉ là tấm gương, phản xạ.
Khoảnh khắc này, cái như thế này là bản tính nguyên bản của bạn.
Mọi thứ khác bị áp đặt lên bạn.
Không gian này là của riêng bạn một cách thanh tịnh.
Nhận ra điều này là trở thành phật.
Nó đơn giản là việc nhận ra:
bạn đã là phật,
bạn chỉ không có can đảm để nhận ra
và để nhớ nó trong công việc hàng ngày của bạn.
Hai mươi bốn giờ bạn là phật;
thậm chí không có ngày nghỉ cho phật của bạn.
Cứ giữ tâm thức này như dòng chảy ngầm,
tuôn chảy trong mọi hoạt động của bạn,
bước đi, ngủ...
Đây là tính tôn giáo duy nhất mà tôi biết. Mọi cái gọi là tôn giáo đều là việc khai thác chính trị, những hư cấu của các tu sĩ. Họ đã lấy đi toàn thể chân giá trị của việc là người; họ đã làm cho con người thành nô lệ, và bị hi sinh. Bạn chỉ có thể khẳng định tự do của bạn bằng việc là phật. Từ điều này, bất kì cái gì bạn làm đều đúng, đều thiện, đều duyên dáng.
Khoảnh khắc này, chỗ này được phúc lành tới mức
mười nghìn chư phật đã tan chảy như băng
hoà vào lẫn nhau.
Chỉ có một cái hồ phật tính; uống nó đi.
Nivedano...
(Tiếng trống)
Quay lại từ trải nghiệm lớn của bạn,
Nhưng đem hương thơm của nó đi cùng bạn.
Ngồi xuống như vị phật trong vài giây...
thu lấy mọi điều đã xảy ra trong vài
khoảnh khắc bên trong bạn,
trở thành nhận biết rõ ràng về con đường dẫn tới
cốt lõi bên trong nhất của bạn,
vì bạn sẽ đi và tới trên cùng
con đường mọi ngày.
Đây là con đường hướng tới nhà bạn,
nơi bạn là chủ, không là khách.
Được chứ, Manesha?
Vâng, thưa Thầy kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội chư phật chứ?

Vâng, thưa Thầy kính yêu!

0 Đánh giá

Ads Belove Post