Read more
Tùng tùng cắc
tùng - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 1. Không
hề giả vờ, ngay cả về cái sọ
Thầy Fugai được coi là người rất trí huệ và
hào phóng, vậy mà ông ấy là người khắt khe nhất cả với bản thân mình và đệ tử của
ông ấy.
Ông ấy lên núi để toạ thiền. Ông ấy sống
trong hang, và khi ông ấy đói ông ấy đi tới làng để xin bã cá.
Một hôm một sư có tên là Bundo, bị hấp dẫn
bởi sự khổ hạnh của Fugai, đến hang và hỏi xin ở lại qua đêm.
Thầy dường như hài lòng cho ông này lên, và
sáng hôm sau chuẩn bị cháo gạo cho ông này. Không có bát, ông ấy đi ra ngoài và
trở về với chiếc sọ ông ấy tìm thấy gần ngôi mộ. Ông ấy rót đầy cháo vào sọ và
đem nó tới cho Bundo.
Ông khách từ chối chạm vào nó, và nhìn
Fugai dường như ông ấy đã phát điên.
Vào lúc này Fugai trở nên bực tức và đánh
đuổi ông ta ra khỏi hang. 'Đồ ngu!' ông ấy quát ông này. 'Với ý niệm trần tục của
ông về điều ô trọc và thanh tịnh, làm sao ông có thể coi bản thân ông là phật tử
được?'
Vài tháng sau thầy Tetsgyu tới thăm ông ấy
và bảo ông ấy rằng thầy nghĩ điều đáng tiếc lớn là ông ấy đã từ bỏ thế gian.
Fugai cười to và nói: 'Ồ, dễ bỏ thế gian và trở thành cây cảnh, điều khó là trở
thành phật tử thực thụ.'
Chân lí là một, nhưng nó có thể
được tiếp cận tới theo nhiều cách. Chân lí là một, nhưng nó có thể được diễn đạt
theo nhiều cách.
Hai cách là rất bản chất; mọi
cách đều có thể được chia vào hai phân loại. Hiểu tính cực cơ bản đó là tốt.
Hoặc bạn tiếp cận tới chân lí
qua tâm trí hoặc bạn tiếp cận tới chân lí qua con tim. Cho nên có hai kiểu tôn
giáo trên thế giới - cả hai đều thực, cả hai đều có nghĩa, nhưng cả hai đối lập
lẫn nhau - tôn giáo của tâm trí và tôn giáo của con tim.
Tôn giáo của tâm trí tin rằng nếu
bạn trở nên vô ý nghĩ, nếu tâm trí bị bỏ đi, bạn đạt tới chân lí. Tâm trí là
rào chắn; vô trí sẽ là cổng. Phật giáo, Jaina giáo, Đạo giáo - đây là những tôn
giáo của tâm trí. Chúng là tôn giáo của phân tích sâu, tôn giáo của nhận biết
sâu, tôn giáo của chứng ngộ.
Thế rồi có những tôn giáo của
con tim: Do Thái giáo, Ki tô giáo, Hồi giáo, Hindu giáo. Họ tin rằng con đường
đi qua con tim, rằng con tim phải được tan biến trong người được yêu, trong điều
Thiêng liêng.
Những tôn giáo thứ nhất là tôn
giáo của thiền. Từ 'meditation' không đích xác đúng nhưng không có từ khác để dịch
dhyana trong tiếng Anh, vì ngôn ngữ này không bao giờ biết tôn giáo của thiền
cho nên từ này không tồn tại. Mọi ngôn ngữ phương Tây, thực ra, đã chỉ biết tới
tôn giáo của con tim cho nên họ có từ hoản hảo cho con đường đó - cầu nguyện.
Nhưng với dhyana họ không có từ nào cho nên từ meditation là từ duy nhất có thể
được dùng. Thực ra, dhyana đích xác ngụ ý cái đối lập; dhyana ngụ ý chính điều
ngược lại. Từ 'meditation' bắt nguồn từ gốc Hi Lạp 'medonai' điều ngụ ý nghĩ về.
Từ 'meditation' ngụ ý nghĩ về, còn dhyana, điều chúng ta đang dịch là
meditation, ngụ ý làm sao không nghĩ; làm sao hiện hữu trong trạng thái vô ý
nghĩ; làm sao đi tới điểm mà bạn hiện hữu nhưng không có việc nghĩ; trạng thái
của vô trí, nhận biết thanh tịnh. Nhưng meditation là từ duy nhất cho nên chúng
ta sẽ dùng nó.
Thiền là cực điểm của việc tìm
kiếm Phật giáo. Thiền là việc nở hoa tối thượng của con đường thiền. Từ 'zen' bắt
nguồn từ dhyana. Dhyanan trở thành 'chen' trong tiếng Trung Quốc, thế rồi
'chen' trở thành 'zen' ở Nhật Bản. Nhớ điều này: Thiền khởi nguồn ở Ấn Độ với
Phật Gautam. Khi Phật Gautam đạt tới chứng ngộ tối thượng của ông ấy, trạng
thái vô trí, thế giới đi tới biết con đường của phân tích, con đường của tư duy
đúng, con đường của việc nhớ đúng, và con đường của cách làm tan biến mọi suy
nghĩ bằng việc trở nên ngày càng nhận biết hơn về các ý nghĩ. Chỉ bằng việc
quan sát ý nghĩ, dần dần, dần dần chúng mờ nhạt đi - bạn đơn giản trở thành người
quan sát, bạn không bị đồng nhất với việc nghĩ của bạn, bạn đứng sang bên và bạn
liên tục quan sát, dường như bạn đang đứng bên vệ đường và quan sát giao thông.
Tâm trí giống như việc giao thông, rất tuần hoàn, liên tục đi theo vòng tròn, rất
lặp lại, gần như cái máy. Bạn liên tục làm cùng điều lặp đi lặp lại mãi. Toàn
thể cuộc sống của bạn không là gì ngoài việc lặp lại được kéo dài, rất tuần hoàn.
Tâm trí là vòng tròn tượng trưng, vòng tròn, và nó chuyển động. Nếu bạn quan
sát, dần dần bạn trở nên nhận biết về vòng tròn này, về cái vòng luẩn quẩn của
tâm trí. Lặp đi lặp lại nó mang tới cùng xúc động: cùng giận, cùng ghét, cùng
tham, cùng bản ngã... Và bạn đi tiếp mãi. Bạn chỉ là nạn nhân.
Một khi bạn trở nên nhận biết về
tâm trí và bạn bắt đầu quan sát nó, chiếc cầu bị gẫy, bạn không còn bị đồng nhất
với tâm trí nữa. Một khi bạn không bị đồng nhất với tâm trí, tâm trí biến mất
vì nó cần sự hợp tác của bạn để có đó.
Mười ngày sắp tới chúng ta sẽ
nói về Thiền. Nhưng để hiểu nó đúng, bạn phải hiểu cái đối lập nữa - cái đối lập
trở thành sự tương phản, bối cảnh.
Con đường của cầu nguyện không
phân tích; nó không cố nhận biết hay tỉnh táo. Ngược lại, con đường của cầu
nguyện làm tan biến bản thân người ta một cách hoàn toàn trong lời cầu nguyện.
Bạn phải không chứng kiến, bạn phải không là người quan sát; bạn phải bị say
như người say và mất hút, hoàn toàn mất hút.
Trên con đường của cầu nguyện,
yêu là mục đích. Bạn phải yêu thương; bạn phải tràn đầy yêu tới mức bản ngã của
bạn tan biến trong yêu của bạn, tan chảy trong yêu của bạn. Trên con đường của
cầu nguyện, Thượng đế là giả thuyết cần thiết. Tôi gọi nó là giả thuyết vì nó
là một nhu cầu trên con đường của cầu nguyện nhưng nó không phải là nhu cầu
trên con đường thiền.
Trên con đường thiền không Thượng
đế nào được cần, do đó có ảnh hưởng và hấp dẫn về Thiền ở phương Tây. Thượng đế
đã trở thành gần như không thể nào hiểu thấu được. Chính từ 'Thượng đế' có vẻ bẩn
thỉu. Khoảnh khắc bạn nói 'Thượng đế' bạn lảng tránh mọi người. Do đó có hấp dẫn
về Thiền ở phương Tây. Ki tô giáo đang chết vì giả thuyết đó đã được dùng quá
nhiều, đã bị khai thác quá nhiều. Cái kia, chính cái đối lập, được cần tới.
Trên con đường của cầu nguyện bạn
phải bị say; trên con đường của thiền bạn phải tỉnh táo. Trong cả hai con đường
bản ngã biến mất. Nếu bạn tỉnh táo đầy đủ không có bản ngã vì trong nhận biết
hoàn toàn bạn trở thành trong suốt tới mức bạn không tạo ra bất kì cái bóng
nào. Nếu bạn say hoàn toàn, trong yêu sâu sắc với Thượng đế, lần nữa bạn biến mất
- vì trong yêu bạn không thể hiện hữu. Điều tối thượng là như nhau: bản ngã biến
mất. Và khi bản ngã không có đó bạn đi tới biết chân lí là gì.
Không ai đã bao giờ có khả năng
nói nó là gì; không ai sẽ bao giờ có khả năng nói nó là gì. Kinh nghiệm này là
tối thượng, bao la tới mức nó là không thể xác định được. Nó là vô giới hạn thế
nó không thể bị đặt vào trong lời - lời là rất hẹp và kinh nghiệm này là bao la
vô cùng. Nhưng từ cả hai con đường, mọi người đạt tới cùng đích.
Chân lí là một. Vedas nói,
'Chân lí là một nhưng nó đã được thấy theo những cách khác nhau bởi những người
thấy.'
Cho nên nhớ điều đó. Mọi tôn
giáo về căn bản, về bản chất, đều dẫn tới cùng đích. Ngay cả khi chúng dường
như rất đối lập, ngay cả khi chúng dường như đối lập đối xứng, chúng vẫn dẫn tới
cùng đích.
Cho nên tuỳ bạn muốn chọn con
đường nào. Nếu bạn có tình cảm với Thượng đế - không phải là niềm tin, một mình
niềm tin sẽ không có tác dụng, niềm tin chỉ là thứ chết - nếu bạn có tình cảm với
Thượng đế, nếu, bằng việc nghe thấy từ 'Thượng đế', bạn bắt đầu thấy tim đập rộn
ràng tinh tế, bạn cảm thấy run rẩy, bạn cảm thấy được hứng khởi, con tim bạn bắt
đầu đập nhanh hơn, nếu chính từ 'Thượng đế' cho bạn sự kính nể lớn, thế thì bạn
có thể đi trên con đường của cầu nguyện. Thế thì Thiền không dành cho bạn, thế
thì Thiền đơn giản được quên đi, vì thế thì Thiền sẽ là việc làm rối loạn.
Nhưng nếu từ 'Thượng đế' không
có nghĩa với bạn, nếu nó đã thực sự chết với bạn, nếu Thượng đế thực sự chết,
nó không khơi gợi tình cảm nào trong bạn, không xúc động nào trong bạn, nó
không làm rung động bạn, nó không gây xoáy lốc cho bản thân của bạn trong cái
không biết, thế thì Thiền dành cho bạn. Ngày càng nhiều người sẽ phải đi trên
con đường Thiền vì Ki tô giáo, Hindu giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo - tất cả,
theo một cách nào đó, đã từng khai thác quá nhiều. Họ đã làm mất sự hấp dẫn của
họ.
Phật giáo vẫn còn không bị hư hỏng,
vẫn còn mầu mỡ, và đặc biệt với tâm trí hiện đại có sức hấp dẫn rất sâu - vì
tâm trí hiện đại được tạo ra từ thái độ khoa học và Thiền là tuyệt đối khoa học,
siêu khoa học. Nó đi tới chính gốc rễ của tâm trí bạn và nó không đòi bạn tin
vào bất kì cái gì. Nó không có giả thuyết nào dù là bất kì cái gì. Nó không đòi
rằng bạn phải tin vào cái gì đó, nó không có mê tín.
Từ 'mê tín-superstition' là rất
hay. Nó bắt nguồn từ từ Latin 'superstes' điều ngụ ý: cái sống sót, tàn dư của
quá khứ, những thứ đã trở thành vô tích sự nhưng vẫn còn dai dẳng từ thói quen.
Bạn đi tới nhà thờ nhưng bạn không có bất kì tình cảm nào để đi tới đó, và mọi
đêm trước khi lên giường bạn cũng có thể cầu nguyện nữa - nhưng nó chỉ là cử chỉ
bất lực vì không có con tim trong nó. Bạn đơn giản lặp lại trên môi; bạn nói
đãi bôi cho nó. Đó có thể chỉ là thói quen cũ, ước định cũ: bạn đã được dạy từ
chính thời thơ ấu làm cầu nguyện, cho nên bạn tiếp tục. Tâm trí liên tục lặp lại
cái quen thuộc.
Cho nên điều này phải bị lừa bởi
bạn. Không ai khác có thể quyết định được nó cho bạn. Bạn phải tìm trong con
tim riêng của bạn. Nếu bạn vẫn có hồn nhiên đó điều được cần cho con đường cầu
nguyện, nếu bạn vẫn như đứa trẻ, nếu bạn vẫn có thể tin cậy, có thể tin, nếu bạn
vẫn có thể có đức tin, thế thì không có nhu cầu bận tâm về Thiền vì đó sẽ là
con đường gian nan không cần thiết. Bạn có thể đơn giản tan chảy và hội nhập
vào trong Thượng đế.
Tôi đã đọc một giai thoại - tôi
thích nó.
Một tối một linh mục tới thăm
Ireland đang bước đi dọc con đường quê, thì ông ấy bắt gặp một quí ông già lão.
Khi họ bước đi cùng nhau tận hưởng buổi tối, một cơn bão đột nhiên nổi lên và họ
tìm chỗ trú ẩn. Họ nói chuyện một chốc và thế rồi khi im lặng giáng xuống họ,
ông già lấy ra một cuốn sách cầu nguyện và bắt đầu cầu nguyện.
Linh mục Mĩ, quan sát ông ta, sững
sờ rất lâu bởi một loại hào quang nào đó bao quanh ông ta khi ông ta cầu nguyện.
Không chủ tâm ông linh mục nói to, 'Ông phải ở rất gần Thượng đế.'
Ông già dừng lại, mỉm cười và
nói, 'Vâng, ngài rất mến tôi.'
'Vâng, ngài rất mến tôi.' Đó là
cầu nguyện tất cả là gì. Nó không chỉ là bạn yêu Thượng đế - một mình điều đó sẽ
không giúp gì. Nếu bạn cũng có thể cảm thấy tình yêu của Thượng đế chảy tới bạn,
chỉ thế mới được; nếu bạn có thể cảm thấy sự hiện diện của ngài khắp xung quanh
bạn, chỉ thế thì việc cầu nguyện trở thành có thể.
Cầu nguyện là có thể như cái
bóng của sự hiện diện được cảm thấy của ngài. Bạn không thể cầu nguyện trong
phòng trống rỗng nếu ngài không hiện diện. Bạn sẽ cầu nguyện với ai? Bạn sẽ thốt
ra con tim bạn cho ai? Cho ai? Cầu nguyện là vô tích sự nếu sự hiện diện không
được cảm thấy. Nếu sự hiện diện được cảm thấy, thế thì bạn ở trong việc cầu
nguyện - dù bạn nói cái gì đó hay không. Bạn có thể không nói ra một lời, bạn
có thể đơn giản đầy kính nể tới mức bạn vẫn còn im lặng, nhưng bạn sẽ cảm thấy
sự hiện diện. Vâng, cảm thấy sự hiện diện của Thượng đế là điều cầu nguyện tất
cả là gì.
Nhưng nếu Thượng đế chết, nếu bạn
không cảm thấy cái gì, không bài ca nào nảy sinh trong tim bạn vì Thượng đế, nếu
sự hiện diện đã biến mất khỏi thế gian - bạn nhìn cây và bạn chỉ thấy cây và
không Thượng đế nào ẩn ở đó, bạn nhìn trời và bạn chỉ thấy trời và không thấy sự
hiện diện vô hạn của ngài - thế thì Thiền sẽ là con đường của bạn.
Thiền sẽ là tôn giáo của thế kỉ
sắp tới vì khoa học đã giết chết, hay đã làm hư hỏng rất tệ, năng lực để tin cậy.
Nhưng không có gì để lo nghĩ cả - bạn có thể đi từ chiều khác. Nhưng thế thì
không có vấn đề về yêu, về sự hiện diện, về Thượng đế, về cầu nguyện - không
cái gì thuộc loại đó.
Khi thế giới phương Tây lần đầu
tiên trở nên nhận biết về Phật giáo, Jaina giáo, Đạo, họ không thể tin được vào
điều đó. Đây là kiểu tôn giáo gì vậy? Không có Thượng đế trong chúng. Họ không
thể tin được rằng tôn giáo có thể tồn tại mà không có khái niệm Thượng đế; Thượng
đế bao giờ cũng là trung tâm của tôn giáo. Cho nên họ nghĩ rằng đây phải là bộ
luật đạo đức. Chúng không phải vậy. Chúng là một loại tôn giáo khác toàn bộ. Và
Ấn Độ, vào những ngày của Phật và Mahavir, hai mươi nhăm thế kỉ trước, đã đạt tới
cùng thái độ khoa học như thế giới phương Tây đã đạt tới bây giờ. Hai mươi nhăm
thế kỉ trước, Ấn Độ đã nhận ra - ít nhất, những người rất, rất thông minh, chói
lọi, tỉnh táo - họ đã nhận ra rằng Thượng đế cũ đã chết. Họ đã nhận ra rằng Thượng
đế của cầu nguyện đã chết.
Nói điều này đơn giản là nói rằng
con tim của con người đã chết; nó không còn hoạt động nữa. Cho nên một con đường
mới phải được tìm ra trên đó con tim không phải là sự cần thiết cơ bản. Phật và
Mahavir đã phát triển một loại tôn giáo mới - tôn giáo thiền, không có Thượng đế
nào, không có cầu nguyện nào, không có niềm tin nào. Không cái gì được yêu cầu
về phần bạn ngoại trừ việc tìm kiếm, ngoại trừ tâm trí tìm tòi, ngoại trừ việc
truy tìm sâu sắc - có vậy thôi.
Thế giới sẽ ngày càng nhiều
'thiền nhân' hơn. Thiền là việc nở hoa tối thượng của tâm Phật.
Trước khi chúng ta đi vào trong
thế giới của Thiền, vài điều cần được hiểu về tâm trí. Một điều: tâm trí vận
hành vì hợp tác của bạn. Bạn có thể dừng nó nếu bạn rút lại sự hợp tác của bạn.
Không có việc rút lại sự hợp tác của bạn, bạn không thể dừng được nó. Cho nên
toàn thể phương pháp của Thiền là làm sao rút lại sự hợp tác này. Nhiều người cố
dừng tâm trí mà không rút lại sự hợp tác - thế thì bạn sẽ phát rồ, thế thì bạn
sẽ làm cái gì đó ngớ ngẩn, không thể được. Một mặt bạn liên tục rót năng lượng
vào trong tâm trí và mặt khác bạn liên tục cố dừng nó.
Dường như là bạn lái xe và bạn
liên tục nhấn ga và đồng thời bạn liên tục nhấn phanh nữa. Bạn sẽ phá huỷ toàn
thể cái máy này; bạn đang làm hai điều mâu thuẫn cùng nhau.
Thiền không thiên về dừng tâm
trí một cách trực tiếp, nó thiên về rút sự hợp tác của bạn khỏi tâm trí theo
cách tinh tế. Khi nhiều năng lượng được rút ra khỏi tâm trí, nó bắt đầu suy sụp
theo cách riêng của nó và một khoảnh khắc tới khi tâm trí đơn giản biến mất -
vì chính bạn đang hỗ trợ nó; chính bạn đang duy trì nó; chính bạn người vô tình
liên tục rót năng lượng vào trong nó. Qua ham muốn của bạn, qua phân biệt của bạn,
qua chọn lựa của bạn, qua cái thích và không thích của bạn, bạn liên tục rót
năng lượng vào trong nó.
Cho nên Thiền nói, nếu bạn thực
sự muốn tâm trí dừng lại... Không có cách khác cho Thiền để đi tới biết chân lí
trừ phi tâm trí dừng lại. Vì nếu tâm trí liên tục vận hành, nó là cái máy chiếu.
Thế thì thực tại vận hành như màn ảnh và bạn liên tục phóng chiếu tâm trí bạn
lên nó, bạn liên tục thấy cái bạn muốn thấy, bạn liên tục nghe thấy cái bạn muốn
nghe. Bạn không bao giờ thấy thực tại như nó vậy, bạn không bao giờ thấy cái
đang đó, bạn làm biến chất thực tại. Tâm trí là kẻ làm biến chất lớn.
Cho nên tâm trí, cái máy phóng
chiếu, phải bị dừng lại. Thế thì đột nhiên thực tại xuất hiện như nó vậy, bởi
vì không cái gì được phóng chiếu lên nó. Bạn đang ngồi trong rạp chiếu phim, bạn
chỉ thấy màn ảnh trắng, và thế rồi máy chiếu bắt đầu chạy. Thế thì màn ảnh biến
mất và bạn thấy bộ phim, câu chuyện lớn lộ dần ra. Bạn quên hoàn toàn màn ảnh,
tính trắng, sự thanh tịnh của nó, sự trinh nguyên của nó - mọi thứ bị quên đi.
Bạn bị mất hút trong thế giới mơ. Thế rồi máy chiếu dừng lại và đột nhiên bạn
nhận ra đã chẳng có gì cả. Màn ảnh đã là trống rỗng. Đó chỉ là trò chơi của các
cái bóng - bạn đã bị lừa, bạn đã bị gạt.
Ở Ấn Độ chúng ta gọi thế giới
là maya, ảo vọng. Nó ngụ ý: không phải là không có chân lí trong nó, nhưng chân
lí bị ẩn kín. Chân lí bị ẩn kín như màn ảnh trắng trong rạp chiếu phim và bạn
đã phóng chiếu các ham muốn và mơ của bạn lên trên nó và đã quên hoàn toàn thực
tại là gì.
Thiền nói dừng máy chiếu lại, tắt
nó đi, và bạn sẽ có khả năng biết cái đang đấy. Và biết cái đang đấy, là tự do;
biết cái đang đấy là được giải thoát; biết cái đang đấy, là được chứng ngộ.
Cho nên tâm trí là rào chắn. Và
tâm trí là việc lặp lại liên tục. Vì bạn không bao giờ quan sát nó, bạn không
nhận biết về nó. Không cái gì mới đã bao giờ xảy ra trong tâm trí; nó bao giờ
cũng cũ rích mục nát. Không cái gì mới đã bao giờ có thể xảy ra trong tâm trí
vì nó là cái máy. Cái máy chỉ có thể liên tục chơi cùng một thứ lặp đi lặp lại
- nó giống như chiếc đĩa hát.
Nhìn nó và dần dần bạn sẽ có khả
năng thấy tính máy móc của nó. Gurdjieff thường nói rằng nếu một người nhận ra
rằng mình là cái máy thế thì có khả năng. Nếu một người nhận ra rằng anh ta chỉ
là máy, thế thì có khả năng đi ra ngoài cái máy đó. Thế thì con người có thể trở
nên có ý thức.
Tôi đã đọc một giai thoại rất
hay. Không có chuyện trong nó, chỉ một trích đoạn từ sổ cái chi tiền tiêu vặt.
1/11 Quảng cáo chọn thư kí .50
2/11 Hoa cho bàn thư kí .80
8/11 Lương tuần cho thư kí
L30.00
9/11 Nước hoa cho thư kí L6.00
11/11 Kẹo cho vợ .10
13/11 Ăn trưa cho thư kí và bản
thân L9.45
15/11 Lương tuần cho thư kí
L35.00
17/11 Chơi bạc cho vợ và bản
thân L1.00
18/11 Đi nhà hát cho thư kí và
bản thân L6.00
19/11 Kẹo cho vợ .10
20/11 Lương của Doreen L40.00
21/11 Đi nhà hát-ăn tối cho D
và bản thân L20.00
2/12 Khám bệnh phố Harley
L150.00
3/12 Áo choàng lông cho vợ
L700.00
4/12 Quảng cáo chọn thư kí nam
.50
Ghi chép lại đi. Làm ra cuốn nhật
kí nhỏ về tâm trí bạn và bạn sẽ thấy sự chuyển động vòng tròn và vòng tròn. Làm
cuốn nhật kí là tốt, nhưng làm nó cho bản thân bạn thôi, không để ai đó khác đọc
nó. Thế rồi nhìn vào nó, quan sát nó, và bạn sẽ thấy - cùng hình mẫu nổi lên,
trồi lên bề mặt lặp đi lặp lại. Đây là việc phí hoài cuộc sống vô cùng vì chẳng
cái gì mới xảy ra trong nó.
Chân lí bao giờ cũng mới và tâm
trí bao giờ cũng cũ. Đó là lí do tại sao tâm trí và chân lí không bao giờ gặp gỡ.
Tâm trí bao giờ cũng là của quá khứ, chân lí bao giờ cũng là của hiện tại. Đó
là lí do tại sao tâm trí và chân lí không bao giờ gặp gỡ. Tâm trí là cái bạn đã
biết; chân lí là cái đang đó để mà được biết. Tâm trí là cái đã biết và chân lí
là cái không thể biết hay không biết. Tâm trí chỉ là việc ghi lại mọi thứ đã xảy
ra. Tâm trí không phải là cuộc phiêu lưu; chân lí là cuộc phiêu lưu.
Có một câu ngạn ngữ cổ nói,
'Không có gì mới dưới mặt trời.' Nếu bạn nghĩ về tâm trí ngạn ngữ này là đúng.
Nhưng nếu bạn nghĩ về chân lí, ngạn ngữ này là tuyệt đối sai. Thế rồi có một ngạn
ngữ khác - mà là đúng - nói, 'Không có gì cũ dưới mặt trời.' Mọi thứ là tuyệt đối
tươi và mới - như lá tươi nhú ra trên cây. Chân lí bao giờ cũng trẻ, tâm trí
bao giờ cũng già. Đó là lí do tại sao Jesus nói với đệ tử của ông ấy, 'Chừng
nào ông chưa trở thành giống như trẻ nhỏ, ông sẽ không có khả năng vào trong
vương quốc Thượng đế của ta.'
Tâm trí rất tinh ranh và láu lỉnh,
nhưng không thông minh. Thông minh là phẩm chất của nhận biết còn tinh ranh
cùng láu lỉnh chỉ là cái thay thế cho thông minh. Cho nên tâm trí liên tục giở
thủ đoạn láu lỉnh và với cái láu lỉnh đó, bản thân tâm trí bị bắt. Trong cái
láu lỉnh và tinh ranh riêng của nó, nó bị mất. Nhớ điều này rằng bạn sẽ không
trở nên thông minh bởi việc là láu lỉnh, bạn sẽ trở nên thông minh bởi việc nhận
biết nhiều hơn. Láu lỉnh không nhất thiết là dấu hiệu của thông minh. Ngay cả
người ngu cũng có thể là láu lỉnh. Láu lỉnh bắt nguồn từ kinh nghiệm: bạn làm
các thứ nhiều lần, bạn học. Tâm trí trở thành giống chiếc máy tính - từng kinh
nghiệm được nạp vào trong nó và nó liên tục học và tích luỹ tri thức và nó liên
tục dùng tri thức đó.
Thông minh có phẩm chất khác
toàn bộ: nó chẳng liên quan gì tới kinh nghiệm, nó có cái gì đó liên quan tới
nhận biết. Tinh ranh bắt nguồn từ kinh nghiệm; thông minh bắt nguồn từ nhận biết.
Đó là lí do tại sao mọi người trở nên rất tinh ranh... và người hippies là đúng
khi họ nói không bao giờ tin vào người lớn hơn ba mươi tuổi. Vì vào lúc một người
trở thành tinh ranh, người ta đã học được các thủ đoạn và cách thức của thế giới.
Nhưng đứa trẻ là thông minh vì
đứa trẻ tỉnh táo hơn, tỉnh táo rạng ngời hơn. Nhìn đứa trẻ đang quan sát cái gì
đó. Nếu đứa trẻ đang quan sát ốc sên, cứ quan sát đứa trẻ này - nó tỉnh táo làm
sao, toàn bộ làm sao trong khoảnh khắc đó. Dường như nó đã trở thành chỉ đôi mắt;
toàn thể con người nó được đổ ra qua đôi mắt. Đứa trẻ là thông minh, và người
già trở thành tinh ranh và láu lỉnh. Đứa trẻ không có kinh nghiệm cho nên nó
không thể dùng quá khứ. Nó phải đối diện với hiện tại.
Và toàn thể thái độ Thiền là ở
chỗ bạn sẽ phải trở thành đứa trẻ lần nữa; bạn sẽ phải đạt tới thời thơ ấu lần
thứ hai trong đó bạn bỏ mọi kinh nghiệm. Tâm trí không là gì ngoài cái tên cho
toàn thể quá khứ được tích luỹ. Tâm trí không phải là thực thể thực sự; chỉ là
quá khứ được chồng chất lên. Nếu bạn phân tán nó, nếu bụi của quá khứ được lau
sạch khỏi chiếc gương bản thân bạn, bạn sẽ trở thành thông minh. Và chỉ thông
minh mới có thể biết chân lí là gì.
Sau bài giảng một sinh viên nói
với Hegel, 'Thưa giáo sư Hegel, tôi bị lẫn lộn bởi việc dạy của thầy vì thực tại
có vẻ khác hoàn toàn.'
Hegel nói, 'Bạn thân mến, mọi
thứ đều là tồi nhất đối với thực tại.'
Thiền không phải là triết lí vì
triết lí ngụ ý học thuyết nào đó về thực tại. Thiền là chạm trán hoàn toàn với
thực tại. Nó không có học thuyết, nó không có triết lí, nó không có kinh sách.
Nó chỉ là việc chạm trán trực tiếp với thực tại. Mọi kinh sách thuộc về tâm
trí, mọi triết lí thuộc về tâm trí và mọi học thuyết là sự láu lỉnh của tâm
trí. Tâm trí liên tục an ủi bản thân nó qua việc tạo ra triết lí mà nó biết.
Rất khó vẫn còn trong dốt nát
vì chính điều đó làm tan nát bản ngã. Cho nên tâm trí tạo ra triết lí và cho bạn
ảo vọng về tri thức.
Thiền là cách biết. Nó không có
tri thức. Nó chỉ là phương pháp luận để biết, để đối diện, để đương đầu - ngay
lập tức, ở đây bây giờ, trực tiếp. Nó là việc truyền trực tiếp.
Clemenceau, chính khách Pháp được
một nhà ngoại giao hỏi ông ấy nghĩ gì về các nhà ngoại giao.
Clemenceau nói, 'Các nhà ngoại
giao là những người giải quyết các vấn đề mà đã được các nhà ngoại giao khác tạo
ra.'
Đó là điều các triết gia cũng
làm và đó là điều toàn thể chức năng của tâm trí là gì. Tâm trí tạo ra vấn đề
và thế rồi tâm trí cố giải nó.
Thiền vứt bỏ hoàn toàn toàn thể
trò chơi này. Nó không phải là trò chơi tâm trí. Thiền nói không có vấn đề để
được giải và không có giải pháp được làm, vì không có vấn đề ngay chỗ đầu tiên.
Thiền nói không bao giờ có vấn đề trong sự tồn tại. Chính tâm trí thủ đoạn đầu
tiên tạo ra vấn đề - và tất nhiên, khi bạn có vấn đề, bạn phải giải nó. Cho nên
điều đó tạo ra giải pháp. Vấn đề là giả, vậy làm sao bạn có thể tìm ra giải
pháp thực cho vấn đề giả? Giải pháp cũng là giả. Thế thì giải pháp tạo ra mười
vấn đề nữa - và cứ thế nó diễn ra mãi. Triết lí tiếp triết lí được tạo ra và tất
cả chúng là trống rỗng, toàn rác rưởi, toàn phế liệu. Thiền tuyệt đối chống lại
việc triết lí bởi vì Thiền chống lại tâm trí.
Bây giờ câu chuyện Thiền này.
Thầy Fugai được coi là người rất
trí huệ và hào phóng, vậy mà ông ấy là người khắt khe nhất cả với bản thân mình
và đệ tử của ông ấy.
Thiền nghiêm khắc. Nó là con đường
rất gian truân. Nó không phải là trò chơi để chơi, nó là chơi với lửa. Bạn sẽ
không bao giờ còn như cũ một khi bạn đi vào trong thế giới của Thiền. Bạn sẽ được
biến đổi toàn bộ, nhiều tới mức bạn sẽ không có khả năng nhận ra bản thân bạn.
Người đi vào trong thế giới của Thiền và người đi ra là các thực thể khác toàn
bộ. Không có sự liên tục, bạn trở thành gián đoạn với quá khứ của bạn. Mọi sự
liên tục của tâm trí; mọi đồng nhất của tâm trí; mọi cái tên, mọi hình dạng, đều
là của tâm trí. Khi tâm trí bị bỏ đi bạn đột nhiên trở thành gián đoạn với quá
khứ - mà không chỉ với quá khứ, bạn trở thành không được kết nối với thời gian.
Và đó là toàn thể bí mật của
Thiền: trở nên không được kết nối với thời gian. Thế thì bạn trở nên được kết nối
với vĩnh hằng. Và vĩnh hằng là ở đây-bây giờ; vĩnh hằng không biết tới quá khứ
và không biết tới tương lai; vĩnh hằng là hiện tại thuần tuý. Thời gian không
biết tới hiện tại - thời gian là quá khứ và tương lai. Bình thường chúng ta
nghĩ rằng thời gian được chia thành ba phân loại: quá khứ, hiện tại và tương
lai. Điều đó là tuyệt đối sai. Thời gian được chia thành chỉ hai phân loại: quá
khứ và tương lai. Hiện tại không phải là một phần của thời gian chút nào. Quan
sát, nhìn mà xem. Hiện tại là khi nào? Khoảnh khắc bạn nhận ra rằng đây là hiện
tại, nó đã là quá khứ rồi. Khoảnh khắc bạn nói, 'Vâng, đây là hiện tại,' nó đã
qua rồi, nó là quá khứ. Hay nếu bạn nói, 'Đây sẽ là hiện tại,' nó vẫn là tương
lai. Bạn không thể nhận ra được hiện tại, bạn không thể sờ mó được hiện tại, bạn
không thể chỉ ra được hiện tại. Trong thế giới của thời gian không có hiện tại.
Khi bạn nhìn lên đồng hồ nó đã
chuyển đi rồi, không một khoảnh khắc nào nó dừng lại. Khi bạn quan sát nó, thế
nữa nó cũng đang chuyển đi. Đó là điều Heraclitus ngụ ý khi ông ấy nói, 'Ông
không thể bước hai lần vào trong cùng dòng sông.' Sông đang chảy. Quá khứ có
đó, tương lai có đó, và tương lai liên tục được chuyển thành quá khứ. Không một
khoảnh khắc nào là hiện tại ở đó, không một khoảnh khắc nào đồng hồ dừng lại,
không một khoảnh khắc nào sông dừng lại. Heraclitus là đúng. Bạn không thể bước
hai lần vào cùng một dòng sông. Một trong các đệ tử của ông ấy đã nói với ông ấy,
'Thưa thầy, tôi đã thử, thầy đúng. Nhưng một điều nữa tôi muốn thêm vào - thầy
không thể bước ngay cả một lần vào trong sông.' Điều đó đích xác là cách nó vậy.
Khi thầy chạm vào sông, khi chân thầy chạm sông, sông đang chảy đi. Khi thầy nhấn
chân vào một li trong sông, sông đang chảy đi. Khi thầy nhấn chân vào hai li
trong sông, sông đang chảy đi. Đến lúc thầy chạm đáy, sông đã chảy nhiều tới mức
thầy không thể nói thầy đã bước vào cho dù một lần trong cùng một dòng sông.
Trong thời gian không có hiện tại;
hiện tại không phải là một phần của thời gian. Hiện tại là một phần của vĩnh hằng.
Hiện tại có nghĩa là bây giờ và bây giờ không biết tới quá khứ và không biết tới
tương lai.
Một khi bạn gián đoạn với tâm
trí, bạn gián đoạn với thời gian. Và thời gian và không gian là cùng nhau.
Trong thế kỉ này Einstein đã
khám phá ra rằng thời gian và không gian không phải là hai thứ tách rời; chúng
là một thứ, hay hai mặt của cùng một thứ. Cho nên ông ấy gọi toàn thể thứ này
là 'không thời gian' để nhấn mạnh sự kiện là thời gian không là gì ngoài chiều
thứ tư của không gian. Nếu thời gian biến mất, không gian cũng biến mất.
Cho nên người đã đi ra ngoài
tâm trí mình là đi ra ngoài thời gian và không gian. Người đó hiện hữu, nhưng bạn
không thể nói người đó ở đâu; người đó hiện hữu, nhưng bạn không thể nói người
đó ở lúc nào. Lúc nào và ở đâu tất cả đều tan biến. Người đó đơn giản hiện hữu,
không có bất kì định nghĩa nào về ở đâu và lúc nào. Đây là điều Phật gọi là chứng
ngộ. Đây là tự do, tuyệt đối tự do. Không cái gì giới hạn bạn.
Nhưng con đường này là rất
nghiêm khắc. Nó phải là vậy vì nó là một loại tự tử tối thượng. Bạn tự tử. Bạn
làm cho tâm trí tự tử. Bạn bỏ tâm trí, bạn bỏ thời gian, bạn bỏ không gian. Thế
giới mà bạn đã biết cho tới giờ biến mất và cái gì đó mới toàn bộ, cái gì đó
không thể định nghĩa được, nảy sinh trong tâm thức bạn.
Thầy Fugai được coi là người rất
trí huệ và hào phóng, vậy mà ông ấy là người khắt khe nhất...
Thiền sư phải nghiêm khắc vì
ông ấy đang cố giết bạn.
Mới vài ngày trước, một
sannyasin tới và tôi hỏi cô ấy dự định ở lại đây bao lâu. Cô ấy nói ba tháng.
Thế là tôi nói, 'Được, điều đó sẽ là đủ để giết bạn.' Cô ấy nói, 'Cái gì!?'
Nhưng giờ cô ấy đã hiểu và vấn đề - sẵn sàng chết.
...cả với bản thân mình và đệ tử
của ông ấy.
Ông ấy lên núi để toạ thiền.
Thiền đơn giản ngụ ý ngồi.
Trong tiếng Nhật Bản họ có một từ đầy đủ, 'zazen-toạ thiền'. Nó ngụ ý ngồi im lặng,
không làm gì.
Mọi việc làm là của tâm trí. Bất
kì khi nào bạn làm, tâm trí bước vào hiện hữu. Bất kì khi nào bạn muốn làm cái
gì đó, tâm trí lập tức bắt đầu lập kế hoạch. Ngay cả với ý tưởng về làm bạn bắt
đầu rót năng lượng vào trong tâm trí.
Thiền là việc ngồi đơn giản.
Không làm gì, thậm chí không suy ngẫm... vì suy ngẫm, từ cửa sau việc làm lại bước
vào. Thiền đơn giản nói, ngồi và không làm gì. Không nghĩ dưới dạng làm, nghĩ
dưới dạng hiện hữu. Chỉ hiện hữu. Cho nên trong nhiều năm người tìm kiếm Thiền
đơn giản ngồi. Đó là việc làm gian nan nhất trên thế giới và tôi có thể cảm thấy
bạn sẽ hiểu nó. Đó là điều gian nan nhất để làm - chỉ ngồi. Bạn sẽ muốn làm cái
gì đó vì cái đó giữ cho bạn bận tâm, và bạn liên tục cảm thấy rằng bạn đang làm
cái gì đó, rằng bạn là ai đó. Và ít nhất nó không bao giờ cho bạn bất kì cơ hội
nào để đối diện với bản thân bạn. Việc làm của bạn là việc trốn chạy khỏi bản
thân bạn, để cho bạn không bao giờ đi tới mặt đối mặt, để cho bạn không bao giờ
đương đầu với bản thể riêng của bạn. Bạn liên tục né tránh.
Cho nên mọi người liên tục làm
cả nghìn lẻ một thứ, nhiều thứ trong chúng là tuyệt đối không cần thiết. Không
chỉ chúng là không cần thiết, nhiều thứ trong chúng đơn giản tạo ra rắc rối cho
họ. Nghĩ về bản thân bạn mà xem. Bạn đã làm gì? Bạn đã tạo ra địa ngục quanh bạn
nhưng bạn vẫn liên tục làm.
Mọi người tới tôi và họ hỏi,
'Chúng tôi nên thiền về cái gì? Chúng tôi nên tụng mật chú gì?' Và nếu tôi nói,
'Không cái gì, bạn đơn giản ngồi. Bạn chỉ đối diện với tường và ngồi im lặng và
để thời gian trôi qua và không làm gì cả. Mọi thứ sẽ lắng đọng theo cách riêng
của chúng. Bạn đơn giản ngồi. Vì nếu bạn bước vào và can thiệp bạn sẽ làm ngầu
bùn mọi thứ lên thêm. Xin bạn cứ ngồi trên bờ. Để cho sông chảy.' Họ nói,
'Nhưng làm sao người ta có thể ngồi mà không làm gì cả? Ít nhất cho chúng tôi mật
chú để chúng tôi có thể lẩm nhẩm nó bên trong. Nếu không có hoạt động nào bên
ngoài, thế thì để chúng tôi có hoạt động nào đó bên trong.'
Đó là lí do tại sao ở Mĩ,
Maharishi Mahesh Yogi có hấp dẫn nào đó. Thiền siêu việt không là gì ngoài việc
chuyển hoạt động từ bên ngoài vào bên trong. Và tâm trí Mĩ gần như thần kinh.
Cái gì đó phải được làm. Nếu bạn không làm cái gì đó bạn đang làm phí thời
gian. Làm cái gì đó đi! Cái gì không phải là vấn đề, nhưng cứ làm cái gì đó.
Nói và hoạt động và năng nổ - làm cái gì đó, liên tục làm cái gì đó, liên tục
di chuyển, nhanh, nhanh.
Bây giờ, nếu bạn đơn giản nói,
'Không làm gì cả, ngồi im,' điều đó có vẻ gần như không thể được. Làm sao người
ta có thể ngồi im lặng được? 'Cho chúng tôi hoạt động bên trong nào đó.' Thế là
mật chú được cho. Thế là bạn lẩm nhẩm bên trong, 'Aum, aum, aum; Ram, Ram,
Ram,' - bất kì cái gì cũng có tác dụng. Bất kì abracadabra nào. Bạn có thể làm
ra mật chú riêng của bạn. Bạn ngu mà đi hỏi ai đó về mật chú, bạn có thể tạo ra
mật chú riêng của bạn: 'Blah, blah, blah!' Điều đó sẽ cho bạn cùng im lặng và
yên bình như bất kì thiền siêu việt nào. Cứ có hoạt động bên trong và bạn cảm
thấy thoải mái.
Thiền không có mật chú. Thiền
không phải là thiền siêu việt. Nó là điều gian nan nhất mà con người đã từng cố
gắng... không làm gì cả, zazen, chỉ ngồi.
Không thể nào tin được rằng đôi
khi một người tìm kiếm Thiền đã ngồi trong hai mươi năm không làm gì - thế rồi
ánh sáng tới. Mọi thứ trở nên im lặng thế trong người đó, thậm chí không chút lập
loè năng lượng, không bận bịu, không cái gì. Người đó gần như chết vì mọi hoạt
động đã biến mất. Thế thì người ta đi tới mặt đối mặt với bản thân mình, thế
thì bạn đi tới biết bạn là ai.
Tâm trí là hoạt động. Và nếu
người ta phải bỏ tâm trí, người ta phải bỏ hoạt động.
Ông ấy lên núi để toạ thiền. Ông
ấy sống trong hang, và khi ông ấy đói ông ấy đi tới làng để xin bã cá.
Chỉ với vài bã cá ông ấy lại phải
đi xuống làng, bằng không ông ấy ngồi trong hang không làm gì cả.
Cái mà bạn đang tìm kiếm đã ở
bên trong bạn rồi. Nhưng bạn bị bận bịu quá nhiều với những thứ khác cho nên bạn
không thể rơi được vào trong nó. Khi mọi hoạt động bị mất, mọi níu bám biến mất.
Bạn không thể bám được vào bất kì cái gì, bạn đơn giản liên tục rơi vào trong
và vào trong mãi. Rắc rối của bạn nảy sinh vì bạn khao khát hoạt động. Bạn đã
bao giờ nghe người nào bị rắc rối bởi cái 'bên trong' không? Cái 'bên trong'
không bao giờ gây rắc rối cho bất kì ai. Cái 'bên trong' đó, nội tâm, chính cốt
lõi đó của bản thân bạn, là sẵn có cho bạn ngay bây giờ, nhưng bạn không sẵn có
cho nó. Bạn đứng quay lưng lại nó.
Hoạt động là sansar, hoạt động
là thế giới; và khi Thiền nhân nói rời bỏ thế giới, họ không ngụ ý bỏ nhà, bỏ
chợ, họ ngụ ý bỏ gắn bó với hoạt động. Cho dù bạn phải làm cái gì đó, làm nó một
cách rất thụ động. Nếu bạn bước đi trên phố, bước đi, nhưng bước rất thụ động.
Bên trong, toạ thiền liên tục; bên trong, bạn vẫn còn ngồi, chỉ bên ngoài bạn
di chuyển. Nếu bạn đang ăn, thì ăn, nhưng bên trong bạn vẫn còn ngồi. Dần dần
tư thế bên trong đó được đạt tới - khi người ta có thể làm mọi thứ và vậy mà vẫn
không có hoạt động. Đạo nhân gọi nó là vô vi, hành động mà không có hành động.
Một khi bạn biết cách ngồi bên trong, thế thì bạn có thể làm nhiều thứ, thế thì
nó sẽ không là việc quấy nhiễu. Nhưng đầu tiên người ta phải đi tới rễ, tới nền
tảng sâu, tới việc định tâm.
Một hôm một sư có tên là Bundo,
bị hấp dẫn bởi sự khổ hạnh của Fugai, đến hang và hỏi xin ở lại qua đêm.
Thầy dường như hài lòng cho ông
này lên, và sáng hôm sau chuẩn bị cháo gạo cho ông này. Không có bát, ông ấy đi
ra ngoài và trở về với chiếc sọ ông ấy tìm thấy gần ngôi mộ. Ông ấy rót đầy
cháo vào sọ và đem nó tới cho Bundo.
Ông khách từ chối chạm vào nó,
và nhìn Fugai dường như ông ấy đã phát điên.
Bạn có thể phát điên theo hai
cách. Một cách là cách sai, cách kia là cách đúng. Bạn có thể phát điên nếu bạn
hoàn toàn mất hút trong tâm trí bạn. Thế thì bạn bị bật rễ khỏi bản thể bạn. Và
bạn có thể không có vẻ điên với người khác nhưng bạn sẽ điên. Bạn có thể không
có vẻ điên với người khác vì người khác cũng điên như bạn. Thế gian này là nhà
thương điên lớn. Bình thường mọi người là điên; thực ra, không điên gần như là
bất bình thường. Mọi người khác biệt về mức độ nhưng mọi người đều điên. Và khi
các nhà phân tâm giúp bạn thành bình thường họ đơn giản mang bạn trở lại mức độ
điên của xã hội, họ mang bạn tới mức được cho phép về mặt pháp lí. Bạn ra ngoài
chút ít giới hạn của xã hội cho nên họ kéo bạn lại. Đó là điều họ gọi là điều
chỉnh.
Nhưng con người có thể trở nên
điên theo cách khác, theo cách đúng. Người ta có thể tuột ra khỏi tâm trí vào
trong im lặng bên trong, vào trong vô ý nghĩ bên trong, trống rỗng bên trong.
Thế thì người đó sẽ lập tức dường như là điên với chúng ta. Nếu bạn nhìn vào mắt
của người đã đạt tới zazen bạn sẽ kinh hoàng. Mắt người đó sẽ giống như vực thẳm,
không đáy; bạn sẽ né tránh mắt người đó. Người đó sẽ nhìn bạn và vậy mà người
đó sẽ không nhìn bạn. Mắt người đó sẽ trống rỗng, và bạn sẽ cảm thấy rằng người
đó đã phát điên. Theo một cách nào đó người đó đã đi ra ngoài tâm trí, và đi ra
ngoài tâm trí là phát điên.
Cho nên tất cả những người vĩ đại
như Jesus hay Phật hay Mansoor, tất cả họ đều dường như điên với người đương đại
của họ. Khi Jesus bị đóng đinh ông ấy đã bị đóng đinh như một người thần kinh
đang tạo ra rắc rối, người đã đi ra ngoài tâm trí mình. Ông ấy bị đóng đinh như
một trong những tội phạm nguy hiểm nhất. Khi Socrates bị đầu độc, ông ấy bị đầu
độc vì ông ấy là điên theo cách nào đó. Ông ấy đã đưa mọi người khác tới điên.
Xã hội bao giờ cũng sợ những
người đạt tới zazen vì hấp dẫn của họ là lớn nhưng hành vi của họ là không thể
nào hiểu được. Hành vi của họ phải là không thể hiểu được vì họ vận hành từ một
trung tâm khác toàn bộ với trung tâm của bạn.
Với con người của toạ thiền
không có khác biệt giữa xương sọ hay bình bát. Xương sọ được làm từ đất như
bình bát được làm từ đất. Mọi sọ dần dần sẽ tan biến trong đất lần nữa và thế
thì bạn có thể làm ra bình bát từ đất và bạn sẽ không bị bận tâm. Nhưng nếu chiếc
sọ được mang tới cho bạn, bạn sẽ thậm chí không thể nào chạm vào nó được; uống,
ăn từ nó sẽ gây nôn, mửa. Không thể được.
Nhưng với con người của toạ thiền
cái bên trong đã xảy ra - mọi thứ là như nhau. Nó là cùng thực tại trong các
hình dạng khác nhau. Từ cùng vàng bạn có thể làm ra loại trang sức này hay loại
trang sức khác, điều đó không tạo ra khác biệt nào. Nó là cùng thực tại, cái trở
thành sọ, nó là cùng thực tại, cái trở thành bình bát. Vậy khác biệt là gì?
Người đã từng ở sâu bên trong bản
thân mình biết rằng toàn thể thực tại bao gồm một lực căn bản, nó là một năng
lượng cho dù nó lấy những hình dạng khác nhau.
Và người không thể chạm được
vào chiếc sọ, không thể tin được rằng ai đó có thể cúng tiến nó như bình bát để
ăn từ đó. Người đó đã nghĩ gì? Tâm trí người đó đang vẩn vơ, quay tròn, 'Đây là
sọ người.' Ý tưởng này, chính ý tưởng này, gây buồn nôn. Người đó nghĩ rằng người
này Fugai đã phát điên.
Vào lúc này Fugai trở nên bực tức
và đánh đuổi ông ta ra khỏi hang. 'Đồ ngu!' ông ấy quát ông này. 'Với ý niệm trần
tục của ông về điều ô trọc và thanh tịnh, làm sao ông có thể coi bản thân ông
là phật tử được?'
Mọi khái niệm đều là của tâm
trí. Nói rằng cái này đẹp và cái này xấu là của tâm trí. Thực ra, không cái gì
là đẹp và không cái gì là xấu. Nếu tâm trí biến mất, thế thì cái gì sẽ là đẹp
và cái gì sẽ là xấu? Thích và không thích tất cả đều thuộc vào tâm trí.
Bạn nghĩ về thế giới mà xem.
Con người đã biến mất, thế chiến thứ ba đã xảy ra và con người đã biến mất.
Trái đất sẽ vẫn còn như vậy. Hoa sẽ nở hoa, nhưng chúng sẽ có đẹp không? Chúng
sẽ đơn giản là bản thân chúng, không đẹp, không xấu. Mọi thứ sẽ là bản thân nó
nhưng sẽ không có đánh giá về nó vì người đánh giá đã biến mất.
Tâm trí của người đạt tới toạ
thiền đã biến mất. Người đó không còn là người, vì mọi quan niệm, giá trị, thái
độ, định kiến của người đó đã biến mất. Bây giờ người đó nhìn mà không có định
kiến nào, không có ủng hộ và chống đối. Người đó đơn giản nhìn. Mắt người đó trống
rỗng vì người đó chẳng có gì để phóng chiếu. Thế thì mọi sự xuất hiện theo cách
khác toàn bộ.
Nhưng với người thường, người
đó sẽ có vẻ gần như điên vì điên đơn giản ngụ ý người ở ngoài tâm trí mình. Thực
ra, người đó ở ngoài tâm trí mình - nhưng người đó đã đi vào trong bản thân người
đó.
Cho nên có hai kiểu điên: bạn
có thể ở ngoài tâm trí và không trong bản thân bạn, thế thì bạn là không lành mạnh;
bạn có thể ở ngoài tâm trí bạn và trong bản thân bạn, thế thì bạn đạt tới mạnh
khoẻ thực. Bạn trở thành toàn thể, bạn trở thành linh thiêng.
'Đồ ngu!' ông ấy quát ông này.
'Với ý niệm trần tục của ông về điều ô trọc và thanh tịnh, làm sao ông có thể coi
bản thân ông là phật tử được?'
Phân biệt là của tâm trí; vô
phân biệt là của vô trí.
Fugai đã cố tạo ra một tình huống
cho người đáng thương này. Người này đã bỏ lỡ. Fugai đã tạo ra một phương cách
để cho người này có thể được đánh thức. Ông ấy đã lay mạnh ông này để kéo ông
này ra khỏi các giấc mơ về thích và không thích, thanh tịnh và ô trọc, đẹp và xấu,
thiện và ác. Toàn thể nỗ lực đã là đập tan tâm trí người này vì toàn thể Phật
giáo chỉ bao gồm điều đó - làm sao đập tan tâm trí.
Người ta nói về một Thiền sư,
người, trong thời trẻ của mình, đã là đệ tử của một thầy khác, rằng ông ấy đã
làm việc vất vả trong việc thiền của mình trong nhiều tháng cùng thầy. Một hôm
thầy tới, ngồi trước ông ấy với viên gạch và bắt đầu cọ viên gạch lên đá. Âm
thanh có đó và nó làm sao lãng và quấy rối đệ tử trẻ.
Chung cuộc, cáu kỉnh, anh thanh
niên hỏi, 'Thầy làm gì vậy?'
Thầy nói, 'Ta đang cố làm
gương.'
Đệ tử nói, 'Thầy có điên
không?' Chỉ bằng việc đánh bóng gạch gương không thể được tạo ra, thầy có thể
đánh bóng nó cả đời thầy. Gương không được làm theo cách đó.'
Và thầy nói, 'Thế thì ta chẳng
có gì để nói với ông. Ông đang cố đánh bóng tâm trí ông. Gương không được làm
theo cách đó nữa. Ta vứt gạch này đi - xem đấy - ông làm cùng điều.'
Bỏ tâm trí đi. Vấn đề không phải
là đánh bóng tâm trí, thay đổi tâm trí, làm cho nó ngày một rõ hơn. Vấn đề
không phải là thay đổi tâm trí, vấn đề là bỏ nó hoàn toàn.
Phật giáo là nỗ lực bỏ tâm trí
toàn bộ. Nhưng làm sao bỏ tâm trí? Nếu bạn liên tục suy nghĩ - thích và không
thích, định kiến, cái này là tốt, cái này là xấu - thế thì bạn không thể bỏ được
tâm trí vì chính tâm trí phân biệt, biện biệt, chính tâm trí phân chia, phân loại.
Mọi phân loại đều là của tâm trí. Đó là lí do tại sao Phật tử không nói rằng
Thượng đế là thiện và Quỉ là ác, vì với Phật tử Thượng đế và Quỉ cả hai đều là
của tâm trí - thiện và ác. Đó là lí do tại sao Phật tử không chọn cõi trời và địa
ngục vì họ nói cả hai đều là của tâm trí - địa ngục và cõi trời. Bỏ toàn thể
tâm trí đi. Và bằng việc bỏ tâm trí, mọi phân biệt đều bị bỏ và bạn ở trong thực
tại sâu sắc, không phân biệt.
Đó là điều chân lí là gì. Nó
không phải là Thượng đế, nó không phải là Quỉ; nó không phải là sáng, nó không
phải là tối - nó ở bên ngoài cả hai.
Vài tháng sau thầy Tetsgyu tới
thăm ông ấy và bảo ông ấy rằng thầy nghĩ điều đáng tiếc lớn là ông ấy đã từ bỏ
thế gian. Fugai cười to và nói: 'Ồ, dễ bỏ thế gian và trở thành cây cảnh, điều
khó là trở thành phật tử thực thụ.'
Rất dễ bỏ thế giới, rất dễ từ bỏ.
Bất kì kẻ hèn nào cũng có thể làm được điều đó. Dễ trốn khỏi thế giới, nhưng trốn
chạy không phải là biến đổi. Rất dễ ngồi hướng ra ngoài như cây cảnh - bạn có
thể trở thành tượng, tĩnh lặng không chuyển động chút nào - nhưng vấn đề thực
là bỏ chuyển động của tâm trí, làm việc bên trong của tâm trí. Bạn có thể ngồi
im lặng từ bên ngoài nhưng nếu rối loạn bên trong liên tục diễn ra thế thì bạn
không là Phật tử.
Phật tử ngụ ý người đã trở
thành Phật, người đã đạt tới chứng ngộ. Và điều đó xảy ra chỉ khi những chuyển động
bên trong đã dừng lại, khi suy nghĩ đã dừng lại, khi tâm trí không còn là chủ.
Khi tâm trí không còn thao túng bạn, khi tâm trí chỉ là cái máy - nếu bạn cần,
bạn dùng nó, bằng không bạn gạt nó sang bên - bạn tự do khỏi tâm trí, bạn đã đạt
tới quyền làm chủ riêng của bạn.
Dễ thay đổi từ bên ngoài, thay
đổi thực phải xảy ra bên trong. Nhớ điều đó. Dùng bên ngoài để giúp bên trong
thay đổi, nhưng đừng bao giờ tin rằng thay đổi bên ngoài là tất cả. Ngồi im lặng,
vì tư thế ngồi sẽ giúp ích. Khi thân thể ngồi bất động đầy đủ điều đó giúp cho
tâm trí thảnh thơi, vì thân thể và tâm trí không phải là hai thứ tách rời -
chúng là một. Bạn không là thân thể và tâm trí, bạn là thân tâm. Bạn là tinh thần
thân thể, cho nên mọi thứ xảy ra trong thân thể đều có rung động tinh tế trong
tâm trí; và bất kì cái gì xảy ra trong tâm trí đều đạt tới thân thể.
Đó là cách nếu bạn uống rượu cồn,
tâm trí trở nên say. Rượu cồn đi vào trong thân thể nhưng nó ảnh hưởng tới tâm
trí. Nếu bạn uống LSD hay cần sa hay ma tuý khác nào đó, nó ảnh hưởng tới tâm
trí. Bạn uống nó vào trong thân thể, bạn tiêm nó vào trong thân thể, và nó đạt
tới tâm trí. Hay, nếu bạn huấn luyện tâm trí, lập kỉ luật cho tâm trí, điều đó
đạt tới thân thể bạn nữa. Nếu tâm trí bạn hạnh phúc, nếu bạn đã huấn luyện nó...
Chẳng hạn, có các triết gia
tích cực huấn luyện tâm trí, như triết lí của Emile Coue: liên tục tự thôi miên
bản thân bạn, gợi ý cho bản thân bạn, 'Mình đang khá lên hơn mọi ngày mình đang
trở nên ngày một từ bi hơn, tốt bụng, đáng yêu.' Nếu bạn liên tục lặp đi lặp lại
điều này, ý tưởng tinh tế sẽ lắng đọng trong tâm trí, nó sẽ ảnh hưởng tới thân
thể bạn. Đó là cách nhiều bệnh có thể được chữa bằng thôi miên - vì ngay chỗ đầu
tiên chúng có thể chỉ là gợi ý của bạn và không phải là bệnh thực. Trong một trăm
bệnh gần bẩy mươi nhăm bệnh chỉ là thứ tinh thần thuần tuý, nhưng chúng ảnh hưởng
tới thân thể. Nếu tâm trí lấy chúng vào, nếu tâm trí bị ảnh hưởng, thế thì sớm
hay muộn thân thể đi theo. Cả hai tâm trí và thân thể là một, cho nên bất kì
cái gì ảnh hưởng tới cái này đều ảnh hưởng tới cả cái kia nữa. Chúng là song
song, chạy cùng nhau. Sự cân bằng tinh tế được giữ giữa hai điều này.
Cho nên tôi không nói đừng dùng
bên ngoài - bạn phải dùng nó, nhưng đừng nghĩ rằng đó là tất cả. Dùng bên ngoài
để thay đổi bên trong. Thế thì bạn sẽ không chỉ trở thành cây cảnh, thế thì bạn
sẽ không chỉ là tượng, bạn sẽ trở thành Phật thực.
Chuyện xảy ra là một người tìm
kiếm Thiền tới một thầy và hỏi thầy,
'Tôi đã tới từ chỗ rất xa, tôi
đã đi hàng nghìn dặm để tới chân thầy.'
Thầy hỏi, 'Để làm gì? Ông muốn
gì?'
Người này nói, 'Tôi muốn trở
thành Phật.'
Thầy nói, 'Cút ngay khỏi đây!
Chúng ta đã có quá nhiều chư Phật ở đây.'
Thầy thường sống trong một ngôi
đền có tên là 'Đền một nghìn lẻ một chư Phật'. Đã có một nghìn lẻ một tượng Phật.
Thế là thầy nói, 'Thoát ra khỏi
nó! Ra ngay lập tức khỏi nó. Chúng ta mệt rồi. Chúng ta đã có một nghìn lẻ một
chư Phật ở đây, chúng ta không cần thêm bất kì ai khác. Nhưng nếu ông muốn trở
thành bản thân ông, ông có thể vào.'
Nhớ, Thiền không phải là bắt
chước. Không Thiền sư nào đã bao giờ có thể nghĩ tới viết sách như sách của
Thomas Campus 'Bắt chước Christ'. Không thể được. Chính tựa đề này sẽ bị cười
cho.
Tôn giáo thực không phải là bắt
chước bất kì người nào khác, nó là việc tìm ra cái ngã đích thực riêng của bạn,
bạn là ai. Cho nên chỉ kỉ luật bên ngoài sẽ không giúp ích; kỉ luật bên ngoài
có thể được dùng như phương tiện, nhưng nó không phải là mục đích.
Cho nên nhớ rằng điều cơ bản phải
xảy ra bên trong bạn.
'Ồ, dễ bỏ thế gian và trở thành
cây cảnh, điều khó là trở thành phật tử thực thụ.'
Điều khó bao giờ cũng là trở
thành người Ki tô giáo thực, người Mô ha mét giáo thực, người Hindu thực, Phật
tử thực, người Sikkh thực, vì điều khó là trở thành thực.
Con người là kẻ lừa dối. Con người
liên tục lừa bản thân mình. Và trở thành ai đó là dễ dàng hơn nhiều so với là bản
thân mình; đóng vai như ai đó là dễ dàng hơn nhiều so với là bản thân mình. Là
bản thân mình là gian nan. Bạn sẽ phải trải qua nhiều lửa; bạn sẽ phải trải qua
nhiều chết và tái sinh; bạn sẽ phải đi qua cuộc cách mạng lớn, chuyển hoá toàn
bộ. Điều đó là khó. Rất dễ giả vờ, rất dễ là rởm. Toàn thể thế giới đầy những
người tôn giáo rởm. Họ đi nhà thờ, họ đi tới tu viện hồi giáo, họ cầu nguyện, họ
giả vờ thiền, nhưng người ta đơn giản bị ngạc nhiên. Họ đang lừa ai? Họ đang lừa
bản thân họ và không ai khác.
Điều này phải được ghi nhớ vì bạn
đang trên đường, bạn ở đây là người tìm kiếm. Cạm bẫy lớn nhất cho người tìm kiếm
là trở thành nạn nhân của việc tự lừa dối; điều đó là rẻ và điều đó có vẻ như lối
tắt. Đừng bao giờ giả vờ. Một khi giả vờ lắng đọng, bạn đã lấy bước đi sai và sẽ
rất khó cho bạn đạt tới bất kì thực tại nào. Và bạn sẽ phải quay lại ngày này
ngày khác vì chừng nào bạn chưa bỏ việc giả vờ đó bạn sẽ không bao giờ trưởng
thành.
Chẳng hạn. Nếu bạn ở tuổi hai
mươi nhăm và bạn giả vờ và bạn liên tục giả vờ cho tới tuổi năm mươi, và thế rồi
bạn nhận ra rằng việc giả vờ nào đó đã xảy ra ở tuổi hai mươi nhăm, bạn sẽ phải
quay lại và hoàn tác nó. Bạn sẽ phải sống lại những năm hai mươi nhăm đó lần nữa.
Bạn sẽ tạo ra phức cảm không cần thiết và cuộc sống đã quá phức tạp rồi. Chừng
nào bạn chưa đi và bỏ tầng giả vờ đó ở tuổi hai mươi nhăm, mọi nhà của bạn sẽ ở
trên chân đế sai.
Đó là nghĩa của Liệu pháp
Nguyên thuỷ: bạn phải quay lại, đi ngược lại. Bất kì chỗ nào cái gì đó đã đi
sai, bạn phải đi ngược lại con đường, chuyển tới điểm đó, hoàn tác lại nút đó
và chuyển lần nữa.
Cho nên đừng tạo ra bất kì phức
cảm không cần thiết nào. Bạn ở đây với tôi - nhớ một điều: không giả vờ. Vì bạn
sẽ không lừa được bất kì ai, bạn sẽ chỉ lừa được bản thân bạn.
Đừng trở thành cây cảnh. Chân
lí phải được kiếm lấy. Nó không rẻ và không có lối tắt cho nó.
Tôi đã đọc một câu chuyện về
giáo sĩ đạo Hassid nổi tiếng. Ông ấy thường kể lại câu chuyện này cho đệ tử của
ông ấy.
Ngày xưa có một người rất ngu.
Khi người đó dậy buổi sáng thật khó cho người đó tìm ra quần áo của mình mà ban
đêm người đó cũng ngần ngại đi ngủ vì nghĩ về rắc rối người đó sẽ gặp khi thức
dậy.
Một tối chung cuộc người đó làm
nỗ lực lớn, lấy giấy và bút chì, và khi người đó cởi quần áo, ghi lại đích xác
chỗ người đó để mọi thứ người đó đã mặc. Sáng hôm sau, rất hài lòng với bản
thân mình, người đó lấy mảnh giấy và đọc: 'mũ' - nó kia. Người đó đội nó lên đầu.'Quần'
- chúng nằm đó.
Người đó mặc chúng. Và cứ thế mọi
sự diễn ra cho tới khi anh ta đã mặc đầy đủ.
'Tất cả rất cừ, nhưng giờ bản
thân mình ở đâu rồi?' anh ta hỏi với sự kinh hoàng. 'Mình đang ở đâu trong thế
giới?'
Anh ta nhìn và nhìn nhưng đó là
việc tìm kiếm vô vọng. Anh ta không thể tìm ra bản thân mình.
'Và đó là cách nó cũng xảy ra với
chúng ta,' giáo sĩ nói với đệ tử của ông ấy.
Nhớ, bạn có thể mặc như
sannyasin, bạn có thể trong áo choàng nâu, nhưng điều đó không tạo ra mấy khác
biệt chừng nào bạn chưa biết bạn ở đâu, chừng nào bạn chưa biết bạn là ai. Bạn
có thể khoẻ mạnh - ăn mặc như sannyasin nhưng điều đó sẽ không giúp gì mấy. Cho
nên đừng tin vào những thứ rẻ. Nó là giúp đỡ lớn lao theo cách nó là cử chỉ báo
rằng bạn đã trở thành sannyasin, nó là cử chỉ báo rằng bạn sẵn sàng đi tới bản
thân bạn, nó là cử chỉ lớn rằng bạn sẵn sàng đi vào trong cái không biết, trong
cái không quen thuộc, nó sẽ làm ra khác biệt lớn - nhưng đừng coi nó là cái
toàn thể. Nó chỉ là bắt đầu cuộc hành trình, không phải là kết thúc.
Một nhà thơ lớn, Robert Frost,
thường nói, 'Hai con đường rẽ ra trong rừng và tôi, tôi lấy con đường ít người
đã đi qua và điều đó đã làm ra mọi khác biệt.
Bạn đã chọn đi cùng tôi con đường
thường không được mọi người đi, không được đa số mọi người đi, bởi đám đông, bởi
quần chúng. Điều đó sẽ tạo ra khác biệt lớn, nhưng nó chỉ là bắt đầu. Đừng bao
giờ quên dù một khoảnh khắc rằng đây chỉ là bắt đầu. Và kết thúc còn rất xa và
nhiều nỗ lực, nhiều kỉ luật, nhiều biến đổi bên trong sẽ được cần tới. Và không
ai khác có thể làm điều đó cho bạn. Bạn phải được sinh ra cho bản thân bạn,
không ai khác có thể được sinh ra cho bạn. Bạn phải sống cho bản thân bạn,
không ai khác có thể sống tại chỗ của bạn. Và bạn phải yêu và bạn phải chết,
không ai khác có thể làm điều đó cho bạn. Sống có tính cá nhân cố hữu. Mọi điều
có nghĩa, mọi điều có ý nghĩa, phải được làm bởi bạn. Cái có thể được làm bởi
người phục vụ là không liên quan; cái có thể được làm bởi tu sĩ là không liên
quan. Biến đổi này bạn phải mang tới cho bản thân bạn. Điều đó sẽ là gian nan,
nhưng nhận nó như thách thức đi. Điều tốt là con đường này là gian nan bằng
không chúng ta sẽ chứng minh linh hồn mình ở đâu? Chúng ta sẽ chứng minh linh hồn
được kết tinh của chúng ta ở đâu?
Thách thức này là phúc lành.
Nhưng đừng bao giờ cố giả vờ.
0 Đánh giá