Chương 12. Người lang thang trong bầu trời tự do

Chương 12. Người lang thang trong bầu trời tự do

Price:

Read more

Thiền - Sét Kim cương - Osho
Chương 12. Người lang thang trong bầu trời tự do


Osho kính yêu,
Một lần, Bách Nham nói với Dược Sơn, người đang đọc kinh, "Ông phải dừng người ngu lại."
Khi cuộn văn bản lại, Dược Sơn hỏi, "Giờ là mấy giờ rồi?" Bách Nham đáp, "Chính ngọ."
Dược Sơn tiếp đó nói, "Vẫn còn hình mẫu này."
Bách Nham đáp ứng: "Ta thậm chí không có hư không," với điều đó Dược Sơn nói, "Ông quá giỏi."
Bách Nham bình, "Ta chỉ là vậy. Ông thì sao?"
Dược Sơn nói, "Tôi đi khập khiễng, vụng về cả trăm đường, lóng ngóng cả nghìn lần; dầu vậy tôi vẫn đi theo đường này."
Một dịp khác, Dược Sơn hỏi một sư, "Ông từ đâu tới?"
"Từ hồ miền nam," sư đáp.
"Hồ có làm ngập bờ không?" Dược Sơn hỏi.
"Còn chưa," sư trả lời.
Thế rồi Dược Sơn nói, "Mưa nhiều thế và hồ vẫn chưa đầy nhỉ?"
Nhưng sư im lặng.
Những giai thoại nhỏ này là kho báu quí giá nhất. Không ngôn ngữ nào khác, không tôn giáo nào khác đã đạt tới hiểu biết tinh tế như thế - điều mà một câu chuyện nhỏ, hoàn toàn trần trụi, không được tô điểm, có thể trở thành cái trỏ tới chân lí tối thượng.
Giai thoại Thiền không phải là cái gì đó để đọc. Khi có liên quan tới đọc, chúng là vô giá trị. Chúng là cái gì đó để được sống; đó là cách duy nhất để hiểu chúng. Trí tuệ là tuyệt đối không được cần tới. Điều được cần là hồn nhiên; điều được cần không phải là tri thức, mà là khiêm tốn, khiêm tốn rằng biết, "Tôi không biết gì."
Với hiểu biết này rằng bạn không biết gì, những đối thoại nhỏ này giữa các Thiền sư trở thành có nghĩa mênh mông, nhưng bạn phải lắng nghe không bằng tai, mà bằng tâm; không bằng tâm trí mà bằng bản thể im lặng của bạn. Cái gì đó rất quan trọng đang được truyền đạt. Chăm chú vào.
Một lần, Bách Nham nói với Dược Sơn, người đang đọc kinh, "Ông phải dừng người ngu lại."
Không có cái gì dũng cảm hơn Thiền. Đã từng có các Thiền sư đốt kinh sách linh thiêng, đã từng có các Thiền sư đốt ngay cả tượng gỗ của Phật Gautam vì đêm quá lạnh.
Bách Nham đang nói với Dược Sơn, "Ông phải dừng người ngu lại."
Mọi cái gọi là người trí thức thông thái, bác học, giáo sĩ, tất cả đều là người ngu; vì để mọi người bị dính líu vào trong kinh sách là đem họ đi xa khỏi bản thân họ.
Bạn sẽ không tìm thấy bản thân bạn trong kinh sách. Bạn phải đi vào trong, bỏ mọi kinh sách, triết lí và tôn giáo bên ngoài, dù chúng dường như đúng thế nào, dù logic của chúng hợp lí và có lí thế nào. Logic không thể làm dịu cơn khát của bạn, và cội nguồn của nó không là cùng như cội nguồn của yêu.
Logic nảy sinh từ tâm trí bạn, yêu nảy sinh từ trái tim bạn. Nhưng yêu nảy sinh từ trái tim là giống như không khí của Poona - bị ô nhiễm, hoàn toàn bị ô nhiễm. Poona là thành phố bị ô nhiễm thứ tư trên thế giới. Yêu của tâm trí chỉ là lời, yêu của trái tim có chút cuộc sống, nhưng nó rất bị què quặt. May mắn là bạn không kết thúc ở trái tim, con đường đi sâu hơn một chút.
Có loại yêu khác; chỉ để tạo ra phân biệt chúng ta sẽ gọi nó là từ bi. Nó là yêu không có ham muốn sở hữu, yêu không có ham muốn quyền lực, yêu muốn đơn giản chia sẻ phúc lạc của nó, duyên dáng của nó, niềm vui của nó, và không đòi hỏi cái gì đền đáp lại.
Bạn có thể hiểu những giai thoại này chỉ từ yêu của bạn. Cho nên trong khi tôi đang đọc, lắng nghe tới chính trung tâm bản thể bạn... và tôi đã từng dạy bạn không là cái gì khác ngoài việc đi vào trong trung tâm. Từ giờ trở đi tôi muốn bạn, ngay cả khi tôi đang đọc, không chỉ là người nghe, mà là thiền nhân. Trong im lặng tuyệt đối những hoa này của vĩnh hằng nở ra.
Dược Sơn phân vân, vì kinh sách là kinh sách linh thiêng. Và Bách Nham, người mà bản thân ông ấy đã được biết tới là một thầy lớn, đã nói dừng người ngu lại, "Ném những kinh sách này đi. Mọi tri thức của ông, làm nghèo thực tại đi, đều không là gì cả; vì ông không biết theo cách riêng của ông, ông đơn giản sống theo thượng đế học, triết lí, tôn giáo vay mượn. Ông có thể nói như phật, ông có thể trích dẫn đích xác lời của Phật, nhưng nếu bản thân ông không là phật, ông là người ngu."
Điều đó nhắc tôi về ngày cuối cùng của cuộc sống của Phật Gautam trên trái đất này. Hôm đó là đêm trăng tròn. Nó là sự trùng hợp kì lạ; ông ấy được sinh ra vào đêm trăng tròn, ông ấy trở nên chứng ngộ vào đêm trăng tròn và ông ấy chết vào đêm trăng tròn. Cuộc sống đẹp đẽ, đối xứng, hài hoà làm sao, nơi kết thúc và bắt đầu và giữa tất cả là cùng như nhau.
Ông ấy chết, nhưng ông ấy có hàng nghìn đệ tử, và vấn đề là ở chỗ ông ấy đã chẳng để lại cái gì dưới dạng viết. Các đệ tử bận tâm về những thế kỉ sắp tới, rằng mọi người sẽ không bao giờ biết tới chiều cao lớn mà Phật Gautam đã đạt tới, chiều sâu của tâm thức mà ông ấy đã chạm tới. Mọi lời ông ấy đã thốt ra trong bốn mươi hai năm phải được ghi lại cho các thế kỉ sắp tới.
Nhưng đó là vấn đề. Trong bốn mươi hai năm ông ấy đã từng nói, và người duy nhất đã liên tục hiện diện là Ananda. Các đệ tử khác đôi khi ở cùng ông ấy; đôi khi họ đi thuyết giảng, và đôi khi họ sẽ ở cùng Phật, đặc biệt trong mùa mưa, khi việc đi lại là khó khăn. Nhưng không ai ở cùng Phật Gautam mọi lúc, ngoại trừ Ananda. Và trí nhớ của Ananda là không thể nào tin nổi, nhưng rắc rối là ở chỗ bản thân ông ấy đã không chứng ngộ.
Ba trăm đệ tử, những người đã chứng ngộ, tụ tập lại với nhau trong một phòng họp, nhưng mọi người nói, "Vài điều tôi đã nghe, nhưng tôi không thể nói về toàn thể giáo huấn của thầy, tôi đã không cùng ở với thầy mọi lúc thầy giảng." Ba trăm người đó đã chứng ngộ, và họ nói, "Chúng tôi có thể nói kinh nghiệm của chúng tôi là gì, nhưng nếu ông muốn có lời của Phật Gautam, ông sẽ phải để Ananda vào, người vẫn đang ngồi bên ngoài phòng, trên bậc cửa." Ông ấy đã không được phép vào, vì ông ấy chưa chứng ngộ.
Và bản thân Ananda không sẵn sàng nói một lời trừ phi ông ấy trở nên chứng ngộ, vì ông ấy không muốn làm mất tính thiêng liêng hay diễn giải lầm. Ông ấy biết ông ấy còn đầy những nhược điểm con người. "Vậy các ông sẽ chỉ phải đợi, tôi sẽ làm hết sức mình. Tôi có thể đã trở nên chứng ngộ trước các ông, vì tôi tới ngay từ những ngày đầu, nhưng không may tôi đã coi Phật Gautam đương nhiên có đó. Không may khác là ở chỗ tôi là anh họ của ông ấy, cho nên tôi không bao giờ cảm thấy từ sâu bên dưới... Tôi chạm chân ông ấy, nhưng tôi biết rằng tôi là anh họ ông ấy. Tôi nghe ông ấy, nhưng tôi biết rằng trong cuộc sống bình thường ông ấy chắc phải nghe theo tôi, vì tôi lớn hơn ông ấy.
"Bốn mươi hai năm trôi qua và tôi thường xuyên ở cùng ông ấy, hết ngày nọ tới ngày kia, và tôi bỏ lỡ ông ấy. Tôi nhớ mọi lời ông ấy đã thốt ra, vì tôi biết rằng không ai thường xuyên ở quanh ông ấy, và một ngày nào đó điều đó sẽ được cần tới. Tôi phải viết điều đó ra, nhưng giờ tôi chỉ có nước mắt - các ông sẽ phải đợi."
Ba trăm người chứng ngộ đã đợi trong hai mươi bốn giờ trong khi Ananda ngồi ở bậc của phòng họp với nước mắt. Ông ấy quên ăn, ông ấy quên uống, ông ấy quên toàn thế giới. Và sau bốn mươi hai năm liên tục nhấn mạnh vào việc ở bên trong, lần đầu tiên ông ấy thử nó. Ông ấy đã nghe nó và nghe nó và nghe nó nhiều tới mức nó đã trở thành gần như một việc cũ kĩ, ông ấy biết khi nào Phật Gautam sắp nói, "Đi vào trong."
Nhưng bây giờ Phật Gautam không có đó và ông ấy phải đi vào trong, bằng không toàn thể giáo huấn sẽ bị mất. Ông ấy là bình chứa duy nhất. Và trong vòng hai mươi bốn giờ ông ấy đã trở nên chứng ngộ. Đó đã là nỗ lực tập trung vô cùng. Ông ấy ngồi trên bậc cửa với quyết tâm này: "Hoặc tôi trở nên chứng ngộ, hoặc các ông sẽ phải thiêu xác tôi. Tôi sẽ không đi khỏi đây."
Với tính toàn bộ và mãnh liệt như vậy người ta không thể né tránh việc được chứng ngộ. Và khi ông ấy trở nên chứng ngộ, nước mắt đã thay đổi phẩm chất. Toàn thể bản thể ông ấy trở nên toả sáng và ba trăm đệ tử chứng ngộ bắt đầu nhảy múa; họ mở cửa và đón Ananda. Họ nói, "Không có ông thế giới sẽ không bao giờ biết Phật Gautam là loại người nào."
Vì điều này, mọi kinh sách đều là kí ức của Ananda. Mọi kinh sách Phật giáo đều bắt đầu, "Tôi đã nghe..." Nó là sự bắt đầu khiêm tốn thế; Ananda không thể nói bất kì cái gì nhiều hơn, vì vào lúc ông ấy nghe nó ông ấy không chứng ngộ. Bây giờ ông ấy biết rằng điều ông ấy nghe là đúng, nhưng vào lúc đó nó chỉ là được nghe, nó không được trải nghiệm.
Bạn ở đây. Tôi không muốn bạn ở vị trí của Ananda. Tôi muốn bạn ở vị trí để nói, "Vâng, nó là vậy" - không phải là bạn đã nghe, mà bạn đã trải nghiệm.
Kinh sách là chết, và các học giả những người đã dành cả đời họ để đọc kinh sách và các diễn giải không chỉ phí hoài kiếp sống riêng của họ, họ lừa cả triệu người. Họ liên tục thuyết giảng, chẳng biết điều họ đang thuyết giảng. Họ giống như người mù dạy về ánh sáng, người mù nói về hoa hồng và mầu sắc của chúng. Và bởi vì mọi người khác đều mù, không ai ngăn cản họ.
Đó là cơ hội hiếm hoi khi may mắn một người chứng ngộ, Bách Nham, đi qua khi Dược Sơn đang đọc kinh sách. Chỉ đi ngang qua ông ấy nói, "Ông phải dừng người ngu lại."
"Ông phải dừng người ngu lại."
Khi cuộn văn bản lại, Dược Sơn hỏi, "Giờ là mấy giờ rồi?" Bách Nham đáp…
Đây là những điều tinh tế, tao nhã của thế giới của Thiền. Nó là câu hỏi kiểm tra. Dược Sơn là một học giả lớn, và ông ấy không thể để Bách Nham đi mà không kiểm tra xem liệu bản thân Bách Nham có chứng ngộ không hay liệu ông này chỉ làm bẽ mặt mình bằng việc nói, "Ông phải dừng người ngu lại."
Ông ấy hỏi, "Giờ là mấy giờ rồi?"
Một câu hỏi đơn giản, bạn sẽ nghĩ vậy; nhưng nó không phải là câu hỏi đơn giản vì những người biết thiền, biết rằng tâm trí biến mất và cùng với tâm trí, thời gian biến mất. Thời gian là phóng chiếu của tâm trí. Không có tâm trí không có thời gian. Có vĩnh hằng, có khoảnh khắc này, nhưng bạn không thể nói khoảnh khắc này là gì.
Nếu Bách Nham cũng chỉ là học giả, ông ấy chắc đã bị mắc vào câu hỏi này. Nhưng ông ấy là thầy. Ông ấy đáp, "Chính ngọ." Khoảnh khắc này là chính trưa.
Dược Sơn tiếp đó nói, "Vẫn còn hình mẫu này."
Ông ấy đang nói tới hình mẫu của quá khứ, hiện tại và tương lai; ông ấy đang nói với Bách Nham rằng lời của ông này "Chính ngọ," ngụ ý rằng đã có sáng và sẽ có tối - rằng vẫn có thời gian.
Đó là lí do tại sao ông ấy nói, "Vẫn còn hình mẫu này, phân chia này - sáng, trưa, tối, chiều, đêm và ngày. Tâm trí ông đầy phân chia. Khi không có tâm trí không có phân chia."
Bách Nham đáp lại rằng ông ấy không có cái gì,
"Ta thậm chí không có hư không," với điều đó Dược Sơn nói, "Ông quá giỏi."
Trong bất kì hoàn cảnh nào khác, dường như là Dược Sơn đang ca ngợi ông ấy bằng việc nói, "Ông quá giỏi," nhưng đó không phải là ca ngợi trong Thiền, nó là kết án rất tinh vi: "Ông vẫn là nhà trí thức lớn, đừng giả vờ là thầy."
Bách Nham bình, "Ta chỉ là vậy. Ông thì sao?"
Ông ấy đã không phủ nhận ông này. Ngược lại ông ấy đơn giản chấp nhận điều đó: "Đây là thực tại của tôi, tôi chỉ là thế này, người dốt nát. Tôi không tuyên bố là chứng ngộ, tôi không tuyên bố cái gì, thậm chí tôi không biết hư không. Ông thì sao?"
Dược Sơn nói, "Tôi đi khập khiễng, vụng về cả trăm đường, lóng ngóng cả nghìn lần; dầu vậy tôi vẫn đi theo đường này."
Ông ấy không sẵn sàng bỏ kinh sách của mình, nhưng ông ấy không là kẻ bản ngã, ông ấy chấp nhận bản thân ông ấy.
"Tôi đi khập khiễng, vụng về cả trăm đường, lóng ngóng cả nghìn lần; dầu vậy tôi vẫn đi theo đường này."
Một dịp khác, Dược Sơn hỏi một sư, "Ông từ đâu tới?"
"Từ hồ miền nam," sư đáp.
"Hồ có làm ngập bờ không?" Dược Sơn hỏi.
"Còn chưa," sư trả lời.
Thế rồi Dược Sơn nói, "Mưa nhiều thế và hồ vẫn chưa đầy nhỉ?"
Nhưng sư im lặng.
Ông ấy có thể nói gì được? Điều đó là đúng, có nhiều mưa thế, nhưng hồ không tràn ngập.
Đây là những phát biểu có tính biểu tượng. Thầy mưa xuống nhiều hơn là bạn đã bao giờ có thể chứa, nhưng bạn thậm chí không đầy; nói gì về tràn ngập?
Là đệ tử là cơ hội lớn để nhận mưa, cái đang mưa rào liên tục từ ân huệ và kinh nghiệm của thầy. Chừng nào bạn chưa bắt đầu trở thành hồ tràn ngập, bạn đã không làm xong bài tập về nhà. Bạn đã làm phí thời gian của bạn, bạn đã làm phí cơ hội có giá trị.
Dược Sơn là đúng khi ông ấy nói, "Mưa nhiều thế và hồ vẫn chưa đầy nhỉ?"
Sư đáng thương này không có câu trả lời. Nhưng ngay cả trong im lặng của ông ấy có sự biết ơn lớn lao.
Có đối thoại của Socrates, Plato, Aristotle; và trong thời hiện đại Martin Buber đã làm sống lại toàn thể triết lí của Socrates, với điểm trung tâm là đối thoại này. Nhưng Martin Buber đã không nhận biết - và ông ấy đáng ra có thể đã nhận biết, vì ông ấy đã sống vài năm trước - rằng đối thoại của ông ấy vẫn còn là cùng đối thoại của Socrates, hai mươi nhăm thế kỉ sớm hơn.
Đây là loại đối thoại khác; nó không có lí do rõ ràng, nhưng bên trong có nhiều sáng suốt thế.
Một nhà thơ đã viết:
Mây vô tâm
rời hang núi;
nước rót đầy lỗ và chảy tràn.
Một bài thơ khác viết:
Mây, không lưu tâm,
đi ra từ hang núi;
chim, mệt vì bay,
muốn về nhà.
Đây là những phát biểu về bạn.
Mây không có tâm trí nào rời khỏi hang núi; chim mệt mỏi khao khát trở về nhà, chỉ để nghỉ ngơi.
Mây không có người hướng dẫn, chúng không có thời gian biểu, chúng không có bản đồ; chúng là kẻ lang thang trong bầu trời tự do. Con người của Thiền giống như mây, giống như chim, với ham muốn vô cùng đạt tới nhà tối thượng.
Maneesha đã hỏi,
Osho kính yêu,
"Mưa nhiều thế và hồ vẫn chưa đầy nhỉ."
Chúng tôi làm gì mà chúng tôi liên tục làm rò rỉ, và do vậy làm mất mọi thứ chúng tôi được cho?
Maneesha, đấy không phải là vấn đề về bất kì cái gì rò rỉ khỏi bạn, điều thực sự là tất cả các bạn đều là những hồ lớn và bạn sẵn sàng và cảm nhận, nhưng sẽ mất chút ít thời gian cho bạn được đầy. Nhiều mưa thế là không đủ cho bạn; tâm thức của bạn là hồ bao la tới mức ngay cả nhiều mưa thế cũng biến mất trong nó.
Cho nên đừng buồn. Hân hoan trong mưa, và bạn càng hân hoan, nó sẽ tới nhiều hơn. Bạn càng hân hoan, mây càng cảm thấy đón chào. Nhảy múa trong mưa và thời gian sẽ tới - không có nhu cầu cho bất kì vội vàng nào - khi bạn sẽ đầy, và không chỉ đầy mà còn tràn ngập. Mọi điều bạn cần là chờ đợi, chờ đợi im lặng, thậm chí không lo nghĩ về liệu hồ của bạn đã bao giờ được rót đầy chưa. Tôi nói với bạn, nó bao giờ cũng được rót đầy nếu bạn chờ đợi đủ lâu.
Thời gian của chờ đợi tuỳ thuộc vào sự mãnh liệt của bạn. Nếu sự mãnh liệt là quá nhiều, nó có thể tràn ngập chính khoảnh khắc này; nếu sự mãnh liệt là không lớn thế, chỉ hờ hững - chỉ hi vọng rằng ngày nào đó, có lẽ trong kiếp nào đó, bạn cũng sẽ trở thành vị phật...
Các tu sĩ đã từng lừa bạn, vì họ đã từng bảo bạn rằng phật tính là không dễ, bạn không thể trở thành phật ngay bây giờ - để trưởng thành sẽ mất thời gian, để trưởng thành sẽ mất nhiều kiếp.
Thực ra toàn thể ý tưởng về tái sinh đã nảy sinh ra từ điều này. Ở phương Tây không ai nghĩ về chứng ngộ, kiếp này là đủ; có nhà, xe, vườn, con cái, địa vị tốt - bạn còn muốn gì hơn nữa? Một cuộc đời, cuộc sống tốt, được kính trọng, là đủ; nó còn nhiều hơn đủ.
Thực ra sau độ tuổi ba mươi nhăm, nếu bạn đủ thông minh, bạn sẽ bắt đầu thấy chán. Mãi cho tới ba mươi nhăm, bạn còn ấu trĩ, bạn có thể có chuyện tình lãng mạn. Và nếu bởi tình cờ bạn sinh ra từ California, thậm chí tới độ tuổi bẩy mươi mọi người vẫn có chuyện tình lãng mạn, rơi vào yêu và rơi ra khỏi yêu.
Hiện tượng kì lạ này chỉ xảy ra ở California. Rơi vào xảy ra ở mọi nơi, nhưng rơi ra chỉ xảy ra ở California - có phẩm chất đặc biệt cho bầu khí hậu của nó. Nhưng bất kì người nào rơi vào thì nhất định rơi ra, dù California hay không California. Ở đây, mọi ngày tôi thấy... hôm nay tôi được báo cho rằng đây là bạn gái của ai đó, và hôm khác các bạn gái đã thay đổi. Cùng bạn trai ở đây, cùng bạn gái ở đây, nhưng sao không đổi nhau?
(Có tiếng cười bụng lớn từ đằng sau phòng.)
Nhìn đấy, Sardar Gurudayal Singh không bao giờ cười mà không có lí do rất lớn. Anh ấy đang già đi, nhưng anh ấy vẫn còn lãng mạn. Tôi không đi ra khỏi phòng tôi, nhưng tôi bao giờ cũng hỏi Sardar Gurudayal Singh đang làm gì. Và tôi bao giờ cũng được thông báo rằng anh ấy đã đổi bạn gái.
Có những kinh nghiệm mới, có lãnh thổ mới để thám hiểm là điều hoàn toàn đúng. Nhưng nếu bạn thông minh, bạn sẽ sớm trở nên nhàm chán; nó là cùng địa lí - chút ít bông xơ ở đây, chút ít bông xơ ở kia, và bạn ngu xuẩn thế mà kẹp lấy bông xơ! Sớm hay muộn người ta trưởng thành. Và nếu bạn không thể trưởng thành được ở đây, bạn sẽ không trưởng thành ở bất kì chỗ nào khác, vì cơ hội chừng này không được phép trên thế giới. Tôi bị kết án vì cơ hội này.
Một khi bạn chán với thế giới, thời gian đã tới để thức dậy; thế giới là giấc ngủ của bạn. Nó là mối quan tâm của bạn vào những điều trần gian điều giữ bạn không cho cái hồ của bạn được rót đầy bằng phật tính.
Bây giờ nhìn Avirbhava người đang ngồi ngay ở đây. Vài ngày trước cô ấy đã bỏ ý tưởng về đi mua sắm - cô ấy là người mua sắm lớn. Cứ hai hay ba tuần một thôi thúc lớn lại nảy sinh để đi mua sắm, sang Singapore, sang Bangkok, sang London; bất kì chỗ nào, bạn chỉ nói chỗ đó và Avirbhava sẵn sàng đi ngay. Nhưng tôi hi vọng cô ấy đang trưởng thành và sẽ bỏ mọi điều vô nghĩa này, vì đi mua sắm là gì? - thu thập đồ đồng nát.
Tôi biết rằng mọi người trong các bạn đều đang thu thập đồ đồng nát. Tôi liên tục bị ép nhận đồ đồng nát của bạn, cho nên tôi biết bạn đang thu thập cái gì. Không đi vào trong phòng của bạn, tôi biết cái bạn đang thu thập, vì bạn sẽ không cho tôi bất kì cái gì mà không lớn theo ước lượng của bạn. Thế rồi tôi liên tục đem đồ đồng nát đó cho người khác. Còn gì khác để làm? Vì người ta cần không gian nào đó để ngủ, để ngồi chứ...
Bây giờ nhìn đấy, thôi thúc của Avirbhava đang bắt đầu nghĩ tới Bangkok. Bangkok này là chỗ rất nguy hiểm. Và bạn có thể có bất kì loại đồng nát nào với giá vứt đi và Avirbhava vồ lấy mọi thứ. Bất kì cái gì cô ấy có thể vớ cô ấy vớ liền, và tôi chung cuộc là nạn nhân.
Tôi chưa bao giờ đi mua sắm trong đời tôi; tôi không có cơ hội, không có thời gian, không có không gian. Nhưng nhiều người thế đang mua sắm cho tôi. Họ thậm chí liên tục gửi qua bưu điện mọi thứ đồng nát mà họ nghĩ là có giá trị.
Nhưng tôi hi vọng rằng ngay cả Avirbhava sẽ thoát ra khỏi điều này. Nếu thôi thúc nảy sinh, cứ đi vào cửa hàng của bạn. Cửa hàng đó chỉ dành cho thôi thúc này. Nó không phải là trung tâm mua sắm, nó chỉ giúp cho bạn gạt bỏ ham muốn mua sắm của bạn. Cứ đợi một chút.
Và Maneesha, tất cả các bạn sẽ trở nên chứng ngộ như bất kì ai đã từng vậy. Mọi người không thể quan niệm được rằng trong một cuộc đời nhỏ bé họ có thể có khả năng tìm ra thời gian cho thiền, vì một ý tưởng sai về thiền đã được thuyết giảng - rằng bạn phải để thời gian nào đó mọi ngày, lặp lại mật chú nào đó; và thế rồi bởi ân huệ của Thượng đế, nếu ngài tốt bụng, nhưng không phải bởi nỗ lực của bạn, bạn có thể trở nên tự nhận ra. Và vì điều này, một kiếp sống nhỏ là không đủ. Cho nên mọi người đi tới đền chùa, và bạn có thể thấy, họ đi ra nhanh chóng.
Ở làng tôi, ngay phía trước nhà tôi là một cửa hàng kẹo ngon. Người chủ có hơi bị điếc và tôi thì thích thú việc điếc của ông ấy, vì bạn phải hét to vào tai ông ấy, và chỉ thế thì ông ấy mới nghe được. Vậy là tôi sẽ đi và hét vào tai ông ấy, "Bác ơi, bác gái đang gọi bác bên trong."
Và chỉ có những người này trong cả cái nhà và nhà thì dài và ông ấy biết rằng tin cậy vào tôi là không đúng, vì nếu ông ấy đi vào, tôi sẽ lấy vài cái kẹo mà chẳng có lí do gì. Nhưng ông ấy sợ bà ấy nữa; bà ấy là người đàn bà nguy hiểm - nếu bà ấy gọi, bạn phải tới. Tôi sẽ nói, "Bác đi đi, bằng không bác sẽ bị rắc rối đấy. Chỉ vì vài cái kẹo bác không thể tin cậy vào cháu được sao? Cháu sẽ trông cửa hàng cho bác, bác vào đi!"
Và khi ông ấy đi vào, tôi sẽ đóng cửa, ăn thoả thích bất kì cái gì tôi muốn và ông ấy gõ cửa từ bên trong, "Mở cửa ra!"
Ngoại trừ chuyện mua sắm đó, tôi không bao giờ làm bất kì cái gì khác... Nhưng ông ấy thích tôi, vì tôi mở cửa và tôi nói với ông ấy, "Bác đừng lo, không khách hàng nào tới đâu. Cháu đã ngồi đây chỉ để nhìn không con chó hay con vật nào đi vào cửa hàng."
Và ông ấy sẽ nói, "Cháu là cậu bé rất tốt."
Lần cuối tôi tới làng đó - ông ấy đã trở nên rất già, ông ấy sắp chết bây giờ - tôi đi vào và ông ấy nói với tôi, "Bác gái mất rồi."
Tôi nói, "Đó là tổn thất lớn cho cháu!"
Ông ấy nói, "Cháu định nói gì?"
Tôi nói, "Giờ cháu không sống ở đây thêm nữa; bằng không nó chắc sẽ là tổn thất lớn."
Ông ấy bao giờ cũng đã hiểu, nhưng ông ấy thường tự hỏi tôi sẽ ăn bao nhiêu kẹo. Và khi vợ ông ấy nói, "Ông lại vào à?" ông ấy nói, "Nhưng bà gọi mà."
Bà ấy nói, "Thế này thì quá lắm, tôi đã bảo ông rằng nếu tôi cần ông tôi sẽ tới. Đừng nghe bất kì ai, lại cái thằng bé đó."
Tôi nói, "Giờ bà già đó chết rồi, cháu thậm chí không thể nói với bác, ‘Bác ơi, bác gái đang gọi bên trong.'"
Ông ấy ứa nước mắt và ông ấy nói, "Bác chưa bao giờ nói cho cháu, nhưng bác biết rằng cháu đã ăn cắp và bác không bao giờ tin rằng bác gái gọi bác, vì bà ấy biết bác điếc; nhưng chỉ để cho cháu cơ hội bác vẫn đi vào trong."
Tôi nói, "Bác biết à?"
Ông ấy nói, "Cháu đã lừa bác mọi ngày, và mọi ngày cùng điều đó, ‘Bác gái đang gọi.' Và chung cuộc sau một hay hai lần bác đã bị bác gái cự tuyệt, bác sẽ không đi vào trong, bác chỉ đứng đằng sau cửa, thế rồi để cháu làm bất kì cái gì cháu thích. Cháu có thể làm hại gì mấy? Và thế rồi bác sẽ gõ cửa. Cháu tưởng bác không nhận biết về sự kiện này sao? Bác cũng biết rằng cháu thường lấy vài cái kẹo trong túi cháu."
Tôi thường có nhiều túi thời thơ ấu; chúng được cần, nhưng kể từ đó...
Tôi nhớ ông già này, nhưng khác hơn cửa hàng của ông ấy thì tôi đã không vào cửa hàng của bất kì ai, tôi chỉ trở nên được chứng ngộ một cách không may.
Mad Melvin và bạn anh ta, Fruitcake, đang ngồi quanh căng tin nhà thương điên ăn bơ đậu phộng và bánh mì xốt cà chua.
Đột nhiên, Mad Melvin nghiêng người qua và thì thào, "Tới đi trốn đây!"
"Thực à, thế nào?" Fruitcake hỏi.
"Tớ sẽ chạy qua lỗ khoá!" Melvin nhiệt tình đáp lại.
Vài phút sau, Melvin trở lại vừa cọ vào chỗ sưng u trên trán.
"Chuyện gì xảy ra vậy?" Fruitcake hỏi.
"Người gác đã sẵn sàng đón tớ," Melvin buồn bã nói. "Họ bỏ chìa khoá trong ổ!"
Trong nhà bếp Nhà Trắng, bếp trưởng Eggbreath và người trợ lí, Beaver, đang rán hành nào đó. Với nước mắt túa ra do hơi nước bốc lên trên mặt họ, Eggbreath nói, "Các ông biết đấy, Thượng đế đã cho chúng ta rau này để làm chúng ta khóc."
"Đúng rồi, tôi đoán vậy," Beaver nói vừa chùi mắt.
Vừa lúc đó, tổng thống Ronald đi qua bếp chỉ mặc mỗi đồ lót và đội mũ.
"Và các ông biết đấy," bếp trưởng tiếp tục, trỏ vào tổng thống, "Thượng đế cho chúng ta rau đó để làm chúng ta cười!"
Đó là sáng sớm tại Viện tâm thần Funnydale Mental Institute, và Y tá Brassboobs đang kiểm tra phòng khám để xem mọi người có ăn mặc đúng không. Nhưng khi cô ấy tới George, cô ấy để ý rằng anh ta đi giầy phải vào chân trái, và giầy trái vào chân phải.
"Lại đây, George," cô ấy nói dịu dàng. "Anh đã đi giầy nhầm chân, anh thân mến."
Nửa giờ sau, cô ấy quay lại và thấy rằng George vẫn mắc cùng vấn đề.
"George, anh thân mến," cô ấy nói, "tại sao anh không đi giầy chúng chân?"
"Nhưng tôi đã thử rồi!" George kêu lên. "Tôi đã nhìn khắp nơi, nhưng tôi không tìm thấy chân kia của tôi!"
Linh mục mới, cha Finger, bồn chồn với đám đông đầu tiên đến mức ông ấy gần như không nói được. Trước lần xuất hiện thứ hai trong bục giảng kinh, ông ấy hỏi cha Fungus có nhiều kinh nghiệm hơn làm sao ông ấy có thể thảnh thơi được.
"Dễ ợt," Fungus nói. "Lần sau, cứ rót chút rượu vốt ca vào bình nước của cha. Sau vài ngụm, mọi thứ sẽ diễn ra trôi chảy."
Chủ nhật tiếp sau, cha Finger rót cả chai vốt ca vào bình nước, và tiến hành uống và giảng như cơn bão. Ông ấy cảm thấy cao hứng.
Tuy nhiên, trở về phòng, ông ấy thấy một lưu ý từ cha Fungus:
Một. Lần sau nhấp ngụm, không tu cả bình.
Hai. Có mười lời răn, không phải mười hai.
Ba. Có mười hai tông đồ, không phải mười.
Bốn. Chúng ta không nói tới thánh giá là “chữ T hoa."
Năm. Ân huệ được khuyến cáo trước bữa ăn không phải là "Rub-a-dub-dub, nhờ thức ăn - Yaa-hoo!"
Sáu. Không nói tới bữa tối cuối cùng là "Ăn ngon cùng J.C. và các cậu."
Bẩy. David xoay Goliath, anh ta không "đá cứt ra từ nó."
Tám. Cha, con và thánh thần linh thiêng, không được nhắc tới là “Bố lớn, con trai và ma quỉ."
Chín. Ông bao giờ cũng phải nói "Đức Mẹ đồng trinh," không phải "Mary với anh đào."
Mười. Mặc dầu giáo hoàng là người Polack, chúng ta không nói tới ông ấy là Giáo hoàng Polack, hay như chàng ngố Polack.
Mười một. Cuối cùng, nhưng không kém quan trọng; tuần tới có cuộc thi kéo kẹo bơ tại nhà thờ thánh Peter - không phải là cuộc thi cháy túi tại nhà thờ thánh Taffy!
Bây giờ, đây là đúng lúc, Nivedano...
(Tiếng trống)
(Nói lắp bắp)
Nivedano...
(Tiếng trống)
Im lặng,
nhắm mắt lại.
Cảm thấy thân thể tuyệt đối đông cứng,
không chuyển động,
chỉ vẫn còn được định tâm bên trong.
Việc định tâm này làm bạn thành phật,
việc định tâm này là chính bụng mẹ
của mọi chư phật.
Ngày càng sâu hơn và sâu hơn,
hệt như mũi tên,
sét kim cương,
xuyên thấu
tới chính cốt lõi của bản thể bạn;
và bạn sẽ biết không gian này,
bầu trời,
cãi vĩnh hằng vô hạn của bản thể bạn.
Là phật
chính là hoa sen đã trưởng thành đầy đủ,
hoa sen của tâm thức.
Đây là khoảnh khắc lớn.
Nivedano...
(Tiếng trống)
Thảnh thơi, buông bỏ.
Chỉ là chết,
nhưng giữ lấy trung tâm.
Trung tâm này là vĩnh hằng của bạn,
nó không biết chết,
nó chỉ biết một điệu vũ phúc lạc
diễn ra mãi.
Toàn thể mọi thứ bao quanh bạn
đang mở hội cho bạn.
Đây là món quà quí giá nhất
Mà sự tồn tại có thể cho bạn.
Nivedano...
(Tiếng trống)
Quay lại,
ngồi vài khoảnh khắc,
hân hoan trong kinh nghiệm của bạn,
thu lấy kí ức này
để cho nó có thể trở thành ngọn lửa,
cháy hai mươi bốn giờ
trong thời kì đen tối nhất của đời bạn.
Ngay cả trong chết bạn sẽ thấy nó
ngọn lửa nhảy múa.
Với vị phật,
không có chết,
chỉ có sống
và sống
và điệu vũ vĩnh hằng.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, Osho.
Chúng ta có thể mở hội bẩy nghìn chư phật cùng nhau chứ?
Vâng, Osho.



0 Đánh giá

Ads Belove Post