Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Triệu Châu (Joshu) – Tiếng Gầm Của Sư Tử – Osho
Bài Nói Về Thiền
Chương 6. Điều Tối Thượng Ở Đây
Nghe hoặc Tải MP3 'Triệu Châu (Joshu) - Tiếng Gầm Của Sư Tử' ê
Osho ơi,
Một dịp, khi Triệu Châu đón tiếp những người mới tới trong đạo
tràng của mình, ông ấy hỏi một người trong số họ, "Ông đã ở đây từ trước
chưa?"
"Dạ rồi ạ," sư này đáp.
"Uống chén trà đi!" Triệu Châu nói với anh ta. Rồi ông
ấy quay sang một người mới tới khác và nói, "Ông đã ở đây từ trước
chưa?"
"Dạ chưa ạ, kính thầy," vị khách đáp. "Đây là lần
thăm đầu tiên của tôi ở đây."
Triệu Châu nói với anh ta, "Ông uống chén trà đi!"
Ông trưởng đạo tràng kéo Triệu Châu sang bên và nói, Một người
đã ở đây từ trước, và thầy cho anh ta chén trà. Người kia chưa từng ở đây, và
thầy cũng cho anh ta chén trà. Ý nghĩa của điều này là gì?"
Triệu Châu gọi to giọng, "Ông trưởng!"
"Dạ?" Ông trưởng đạo tràng đáp.
"Ông uống chén trà đi!" Triệu Châu chỉ thị.
Maneesha này, cách thức
của Thiền là rất nhẹ nhàng, rất vô trọng lượng. Nó diễn tả bản thân nó theo
cách đơn giản nhất. Nhưng chỉ bởi vì điều đó, hàng triệu người nghĩ mình thông
minh đã hiểu lầm nó. Điều hiển nhiên, cái đơn giản, trở thành rào chắn với họ.
Tâm trí bao giờ cũng quan tâm tới điều không thể được.
Cần phải hiểu tại sao
tâm trí bao giờ cũng thích thú điều không thể được: bởi vì điều không thể được
chẳng bao giờ có thể được đạt tới, và tâm trí có thể cứ sống, thu lấy ngày một
nhiều lực hơn, đưa bạn ngày một xa hơn với bản thân bạn. Bởi vì điều không thể
được không thể nào được đạt tới, nên nó là thắng lợi vĩ đại của tâm trí. Tâm
trí né tránh cái hiển nhiên và cái đơn giản bởi vì chúng không chỉ là đạt được,
chúng đã được đạt tới rồi.
Cho nên đó là một chiến
lược rất chính trị, một nỗ lực ngoại giao về phần tâm trí, không để cho bạn thấy
cái hiển nhiên - phật đó là bạn.
Trong giai thoại đơn
giản này bạn cười; bạn cười dường như nó là một chuyện đùa. Nó nói mọi thứ cần
được nói, nó chứa toàn bộ tinh tuý của Thiền. Nhưng bạn cười bởi vì bạn đã
không hiểu các ngụ ý của nó. Đôi khi người ta cười bởi vì người ta không hiểu;
đôi khi người ta cười bởi vì người ta hiểu; đôi khi người ta cười chỉ để che dấu
sự kiện là người ta đã không hiểu. Bạn cười bởi vì nó có vẻ như trò đùa - nhưng
nó chỉ giống như trò đùa thôi. Nó là toàn bộ triết lí của Thiền. Bây giờ để tôi
đọc nó cho bạn cùng ngụ ý của nó...
Một dịp, khi Triệu
Châu đón tiếp những người mới tới trong đạo tràng của mình, ông ấy hỏi một người
trong số họ, "Ông đã ở đây từ trước chưa?"
Một điều nhỏ bé cần
được lưu ý: một, bản thân thầy ở ngay tại bàn đón tiếp người mới tới. Thiền là
nỗ lực để nhìn vào trong các tiềm năng của bạn. Sao để phí thời gian? - không để
phí đến vài khoảnh khắc. Cho nên thầy ra đón người mới tới ngay tại cổng của đạo
tràng. Ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên với từng người mới tới thầy sẽ quyết định
liệu người đó có đáng để làm việc với hay không, hay chỉ để cho người đó uống
chén trà rồi đi tiếp.
Và câu hỏi mà thầy đã
hỏi không ngụ ý điều bạn nghĩ nó ngụ ý. "Ông đã ở đây từ trước chưa?"
Thầy không nói về 'ở đây' thông thường; thầy đang nói về 'ở đây' tối thượng. Điều
đó không liên quan với chỗ này, với đạo tràng này, hay với Triệu Châu. Nó liên
quan tới trạng thái thiền nơi thời gian dừng lại và chỉ cái bây giờ còn lại;
nơi không gian biến mất và chỉ cái ở đây được bỏ lại sau.
Cái bây giờ và ở đây
này, hai từ này, hàm chứa toàn bộ cách tiếp cận của Thiền. Nếu bạn có thể ở đây
và bây giờ, chẳng cần phải làm cái gì khác cả. Mọi cánh cửa của bí ẩn của sự tồn
tại sẽ được mở ra cho bạn.
Cho nên khi một người
như Triệu Châu hỏi, "Ông đã ở đây từ trước chưa?" thì đừng hiểu lầm
ông ấy. Ông ấy không nói về chỗ đó đâu, ông ấy đang nói về vô không gian và vô
thời gian. "Ông đã bao giờ trong thiền sâu chưa?" Đó là điều ông ấy
đang hỏi.
"Dạ rồi ạ,"
sư này đáp.
"Ông uống chén
trà đi!"
Sư này đã hiểu nghĩa
của 'ở đây'. Không phải là sư đã từng ở đây trong đạo tràng này từ trước, nó
đơn giản có nghĩa là anh ta đã biết tới trạng thái của việc ở đây. "Dạ rồi
ạ" đơn giản hàm ý mênh mông, rằng "Tôi không phải là người mới tới, đừng
tính tôi vào đám người mới tới. Tôi đã ở đây rồi - tôi có thể ở đâu khác được?"
Nhưng điều đó không
được nói ra một cách tường minh thế. Đó là cái đẹp của Thiền, rằng nó bỏ lại phần
quan trọng nhất cho bạn khám phá ra. Khi sư này nói, "Dạ rồi ạ," sư
cũng nói, qua mắt mình và qua cử chỉ của mình, "Thầy đang hỏi loại câu hỏi
gì vậy? Tôi còn có thể ở đâu khác được nữa? Mọi người đều ở đây, dù người đó ở
bất kì chỗ nào - điều đó không thành vấn đề. Ở đây là chỗ duy nhất nơi người ta
có thể ở được."
Cái "dạ rồi ạ"
này không hiểu lầm được. Anh ta không ngụ ý rằng anh ta đã từng ở chỗ này; anh
ta nói, "Tôi bao giờ cũng ở đây rồi - tôi có thể ở đâu khác được?"
Với kính trọng lớn
lao Triệu Châu nói, "Ông uống chén trà đi!"
Chén trà trong Thiền
không giống như nó ở bất kì đâu khác trên thế giới. Chén trà là sự đón nhận lớn
lao nhất mà một Thiền sư có thể trao cho bạn. Chén trà đại diện cho nhận biết.
Sau khi uống trà bạn không thể đi ngủ được; do đó trà trở thành một trong những
biểu tượng quan trọng nhất của nhận biết, của thiền. "Ông uống chén trà
đi" không đơn giản ngụ ý là, "Ông uống chén trà đi." Chắc chắn
chén trà được trao cho bạn, nhưng với hiểu biết là chén này đầy nhận biết. Chén
trà đã được nhiều thiền sư dùng theo nhiều cách.
Một giáo sư triết học
tới Triệu Châu. Ông ta có nhiều câu hỏi trong tâm trí, nhiều câu trả lời phức tạp
mà ông ta đã vay mượn từ mọi kinh sách và hệ thống triết lí.
Trèo lên núi ông ta
vã mồ hôi, trông có vẻ hơi mệt mỏi. Triệu Châu đón ông ta và bảo ông ta,
"Ông mệt rồi... đợi chút nhé, tôi sẽ pha chén trà cho ông. Lúc đó không phải
là giờ cho trà - bằng không thì trà đã được đem ra mời ngay - tôi sẽ pha nó một
cách đặc biệt. Ông cứ đợi và nghỉ ngơi đi."
Và Triệu Châu pha
trà, đem trà tới, đặt chén và đĩa vào tay ông giáo sư, và bắt đầu rót trà từ ấm
ra - và cứ rót mãi, cho tới miệng chén. Ông giáo sư quan sát và rồi ông ta thấy
rằng bây giờ, nếu thêm trà nữa được rót thì nó sẽ tràn ra ngoài mất. Nhưng ông
ta vẫn đợi, cho tới khi chiếc chén đã đầy và cái đĩa cũng đầy nốt. Thế rồi ông
ta không thể kìm được mình nữa, ông ta nói, "Đợi đã! Ông làm gì vậy? Bây
giờ chén và đĩa không thể chứa thêm một giọt trà nào nữa được."
Triệu Châu nói,
"Ông đã bao giờ hỏi cùng câu hỏi đó về tâm trí ông chưa? Có còn chỗ nào,
chỗ rỗng nào, để cho một giọt trà có thể xoay xở vào vừa được không? Ông quá đầy
với những ý nghĩ. Biết bao nhiêu câu trả lời, biết bao nhiêu câu hỏi! Ông đã đọc
quá nhiều, ông học quá nhiều nên không thể trở nên chứng ngộ được.
"Chiếc chén trà
này đơn giản mang tính biểu tượng. Tôi muốn chỉ cho ông rằng trước khi ông có
thể hỏi bất kì câu hỏi nào với tôi, thì tôi phải làm rõ ràng quan điểm của
mình: ông phải thành trống rỗng đã; bằng không thì tôi phải xin lỗi ông thôi,
tôi không thể trả lời được. Ông không còn chỗ để nhận nó."
Triệu Châu đã dùng
chén trà trong những tình huống khác. Bây giờ ông ấy nói, "Ông uống chén
trà đi!"
Triệu Châu quay sang
một người mới tới khác và nói, "Ông đã ở đây từ trước chưa?"
Bạn có thể không thấy
khác biệt trong các câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất là, "Ông đã ở đây từ trước
chưa?" Sự nhấn mạnh là vào ở đây. Trong câu hỏi thứ hai sự nhấn mạnh là
vào ông.
"Ông đã ở đây từ
trước chưa?"
"Dạ chưa ạ, kính
thầy," vị khách đáp.
Người đó đang nói,
"Tôi không còn nữa - làm sao tôi có thể ở đây từ trước được?"
Cả hai sư đều đã hiểu
khác biệt này. Mặc dầu câu hỏi có vẻ tương tự, họ đã thấy nhấn mạnh của thầy. Họ
đang quan sát mắt thầy, họ đang quan sát mặt thầy, họ đang nhìn tay thầy.
Nói với một Thiền sư
không phải là đối thoại bình thường - đó là giao cảm toàn bộ, từ con người sang
con người.
Sư thứ nhất đã hiểu
rõ, và sư thứ hai cũng hiểu rõ. Anh ta nói, "Dạ chưa ạ, kính thầy."
Nhưng phần bản chất vẫn
còn bên cạnh. Phần bản chất là, "Làm sao tôi có thể còn được? Tôi không
còn nữa, tôi chưa bao giờ có cả; câu hỏi này không nảy sinh. Tôi đã cố gắng tìm
ra bản thân mình - không có ai cả."
Triệu Châu nói với
anh ta, "Anh uống chén trà đi!!"
Ông trưởng đạo tràng
kéo Triệu Châu sang bên và nói, Một người đã ở đây từ trước, và thầy cho anh ta
chén trà. Người kia chưa từng ở đây, và thầy cũng cho anh ta chén trà. Ý nghĩa
của điều này là gì?"
Ông trưởng là sư trưởng
của đạo tràng. Ông ấy đã thấy mâu thuẫn trong đó - ông này chắc phải là con người
logic lắm. Ông ấy không thể thấy được phần ẩn kín đã được trao đổi giữa Triệu
Châu và hai người mới tới này.
Ông ấy kéo Triệu Châu
sang bên và hỏi, "Ý nghĩa của điều này là gì vậy? Thầy đưa ra cùng một câu
trả lời cho hai vị khách - mặc dầu một người đã tới thăm trước đây, còn người
kia thì chưa. Nhưng việc thầy mời chén trà là như nhau."
Triệu Châu gọi to giọng,
"Ông trưởng!"
"Dạ?" Ông
trưởng đạo tràng đáp.
Đây cũng là phương
pháp có ý nghĩa hay được Thiền sử dụng: bỗng nhiên gọi khi không có nhu cầu.
Khi bỗng nhiên ai đó được gọi, trong một khoảnh khắc suy nghĩ của người đó dừng
lại bởi vì sự liên tục không có đó. Tâm trí có thể vận hành chỉ với sự liên tục.
Ông ấy đang hỏi,
"Thầy đã mời chén trà cho những người mới tới khác nhau; cho hai người
khác nhau, cùng một lời chào mừng. Tôi có thể thấy mâu thuẫn trong nó."
Bây giờ ông ấy muốn biết ý nghĩa của điều này.
Thay vì trao cho ông ấy
ý nghĩa,
Triệu Châu gọi to giọng,
"Ông trưởng!"
Điều đó phá vỡ tiến
trình suy nghĩ của ông ấy, bỗng nhiên đem lại nhận biết.
"Dạ?" Ông
trưởng đạo tràng đáp.
"Ông uống chén
trà đi!" - thỉnh thoảng ông cũng có chút khả năng nhận biết đấy - Triệu
Châu chỉ thị.
Chén trà là biểu tượng
của nhận biết. Thiền không tặng cái gì ngoài nhận biết, và thiền tặng nhận biết
cho mọi người, không có phân biệt nào. Người đã ở đây, người đã chưa ở đây; người
là sư trưởng của đạo tràng - nhưng khi có liên quan tới Triệu Châu, ông ấy chẳng
có gì khác để tặng họ ngoại trừ chén trà. Chén trà ngụ ý Triệu Châu chỉ có thể
tặng nhận biết, tính quan sát, việc chứng kiến. Chén trà đã trở thành một trong
những biểu tượng quan trọng nhất trong giới Thiền.
Cho nên nó không phải
là chuyện đùa.
Triệu Châu đã làm điều
đó thành rõ ràng cho mọi người, mà không nói gì về Thiền cả, cả ba người có
liên quan, rằng "Các ông đã tới với một người chỉ có thể tặng một chén
trà; các ông không nên trông đợi điều gì khác. Ta dạy cho các anh nhận biết -
còn các anh cả ba đều có khả năng về nó. Ngay cả sư trưởng thỉnh thoảng cũng có
khả năng về nó."
Một Thiền sư tương
truyền đã nói - vào mọi sáng trong cuộc sống của ông ấy sau chứng ngộ của ông ấy,
điều đầu tiên vào buổi sáng ông ấy sẽ nói là, "Osho!" Bởi vì ông ấy
đã trở nên chứng ngộ bây giờ, và phải dùng từ mang tính vinh dự...
'Tôn kính' có hơi kém
hơn 'Osho'. 'Tôn kính' chỉ có nghĩa là kính trọng; 'Osho' cũng có nghĩa kính trọng,
và yêu, và lòng biết ơn. Bạn có thể đã không nghĩ về điều đó - bởi vì mọi người
đều không nghĩ về các từ; bằng không thì ý nghĩa lạ sẽ xuất hiện ra từ chúng. Bạn
đã bao giờ nghĩ vậy chưa? - 'kính trọng - respect' đơn giản có nghĩa nhìn lại:
re-spect, nhìn lại một lần nữa. Nó đơn giản nghĩa là ai đó đẹp tới mức bạn phải
nhìn lại, thêm một lần nữa; bạn không thể chỉ cứ đi mà không nhìn lại. Từ điều
này, 'tính kính trọng' đã nảy sinh.
Nhưng 'Osho' còn chứa
phần tử nào đó thêm nữa: yêu và lòng biết ơn. Nó còn nhiều hơn là 'tôn kính'.
'Tôn kính' là từ Ki tô giáo và được dùng cho các giám mục có học, các nhà truyền
giáo, các linh mục. 'Osho' không thể được dịch đúng là 'tôn kính' bởi vì nó chỉ
được dùng cho người đã chứng ngộ, không dành cho người có học.
Và Thiền sư này hay gọi
mọi buổi sáng, "Osho, ông vẫn còn đó đấy chứ?" Ông ấy tự hỏi mình về
sự hiện diện riêng của mình: "Ông vẫn còn đó đấy chứ? Thế thì uống chén
trà đi!"
Đệ tử của ông ấy biết
rất rõ rằng mọi sáng đây là điều đầu tiên ông ấy sẽ nói với chính mình, cho nên
họ chuẩn bị sẵn ấm đun nước, làm nó reo lên. Và họ bảo ông ấy, "Thầy ơi,
sao thầy làm điều này?"
Và ông ấy hay nói,
"Ta ngạc nhiên là sự tồn tại đã cho ta một ngày nữa. Ta không xứng đáng,
ta không xứng với điều đó. Ta đã không làm gì để xứng với một ngày nữa, lại mặt
trời mọc nữa, và toàn thể bầu trời, và toàn thể vũ trụ. Ta chỉ muốn chắc chắn rằng
ta ở đây. Vũ trụ đẹp đẽ này một ngày nào đó sẽ bị lấy đi khỏi ta."
Và ông ấy hay tự trả
lời mình nữa. Trước hết ông ấy sẽ nói, "Osho, ông có đây chứ?"
Và ông ấy sẽ nói,
"Vâng thưa ông."
Thế rồi ông ấy sẽ
nói, "Thế thì uống chén trà đi!"
Đây là độc thoại. Các
đệ tử đã pha chén trà. Họ yêu thầy, họ yêu cách tiếp cận nhỏ bé, đẹp đẽ này với
buổi sáng.
Đêm qua rồi - đêm là
biểu tượng của đêm mà trong đó phần lớn chúng ta sống cả đời; sáng chưa bao giờ
tới.
Chén trà tuyên bố rằng đêm qua rồi, dậy đi! Nhận biết và thấy toàn thể cái đẹp của sự tồn tại. Vũ trụ này đã cho phép bạn thêm một ngày nữa - bạn không thể đòi hỏi, nó là món quà. Một ngày nào đó mặt trời sẽ lên và hoa hồng sẽ nở nhưng bạn sẽ không có đó để mà mở hội cho buổi sáng này. Và không có cách nào mà phàn nàn, điều đó tuyệt đối ở trong tay vũ trụ. Nhưng chúng ta đã không bày tỏ lòng biết ơn của mình ngay cả cho cuộc sống của mình. Bạn có nghĩ rằng có thể có gì còn quí giá hơn cuộc sống, hơn tâm thức không? Và sự tồn tại trao nó cho bạn mà chẳng đòi hỏi đền đáp lại nào. Ít nhất bạn cũng có thể cám ơn chứ. Việc cám ơn này là lời cầu nguyện đích thực duy nhất; tất cả mọi lời cầu nguyện khác đều trẻ con, chúng chẳng là gì ngoài những đòi hỏi được giấu kín.
Vừa hôm nay Anando mới
báo cho tôi... Một nhóm các học giả nghiên cứu Ki tô giáo đã làm việc nhiều năm
về lời cầu nguyện Chúa - mọi người Ki tô giáo đều phải nói lời cầu nguyện Chúa
- và toàn bộ nghiên cứu của họ bây giờ đã được đưa ra công luận. Họ đã thấy rằng
trong lời cầu nguyện Chúa, ngoại trừ từ abba, cha, mọi thứ khác đều giả cả.
Jesus đã gọi "Abba!" mọi thứ khác đã được những người khác thêm vào.
Hàng triệu người Ki
tô giáo sẽ bị choáng váng, và thậm chí sẽ bị choáng váng hơn nữa bởi vì chính
các học giả Ki tô giáo đã tìm ra rằng tất cả mọi lời khác trong Lời cầu nguyện
Chúa đều đã do người khác thêm vào. Họ có thể không nghe các học giả này - điều
có thể nhất là họ sẽ không nghe.
Nhưng khi Anando báo
cáo điều đó cho tôi, tôi lại nghĩ rằng chỉ nói , "Abba" - đó là từ Do
Thái cho 'cha' - là đủ; lời cầu nguyện là đầy đủ. Chỉ để có mối quan hệ với sự
tồn tại trong mối quan hệ yêu thương, gọi sự tồn tại là "Abba," lời cầu
nguyện được kết thúc. Bạn còn có thể nói gì hơn được nữa? Bạn đã biểu lộ lòng
biết ơn của mình, bạn đã biểu lộ rằng "Ngài là ngọn nguồn của sự hiện hữu
của con." Do đó "Abba" là đích xác đúng, nhưng nhiều hơn thế thì
lại là bổ sung không bản chất.
Cũng những học giả
này, vài tháng trước đây, đã làm một việc nghiên cứu vô cùng và họ đã đe doạ
toàn thể Ki tô giáo bằng nghiên cứu của họ. Tôi cứ nghĩ rằng người Ki tô giáo sẽ
để ý, nhưng chẳng ai đã để ý gì tới nó. Còn tôi là người không Ki tô giáo, thế
mà tôi lại để ý tới nó!
Họ đã đi tới kết luận
rằng Jesus không phải là con trai của Mary Đồng trinh, có bố là Thánh thần
thiêng liêng. Nói thẳng, ông ấy thực sự là con của Mariam và Joseph. Nhưng để
tránh Joseph và để thay thế Joseph bằng Thượng đế, toàn thể chiến lược này đã
được sử dụng. Cho nên, làm việc qua những kinh sách cổ họ đã thấy rằng điều này
hoàn toàn giả - Jesus không phải là con hoang!
Nhưng kì lạ là những
người lãnh đạo Ki tô giáo trên toàn thế giới, thay vì sung sướng rằng Jesus là
người con theo kết hôn chính thức, lại bị sốc. Ông ấy phải là con hoang chứ; bằng
không thì hòn đá tảng của nền tảng sẽ bị bỏ đi mất. Đó là phép màu thứ nhất, rằng
bản thân Thượng đế... bởi vì Thánh thần thiêng liêng và Thượng đế là một.
Đấy chỉ là cái mẹo để
nói về Thánh thần thiêng liêng và thế rồi trong câu tiếp lại nói rằng Thánh thần
thiêng liêng và Thượng đế là một. Thế thì tại sao lại che dấu Thượng đế đằng
sau Thánh thần thiêng liêng? Sao không đem thẳng ông ấy vào vụ làm cho người
đàn bà đồng trinh có mang? Điều đó sẽ có vẻ khó xử cho vị trí cao của Thượng đế,
cho nên một nhân vật trung gian đã được lôi ra: Thánh thần thiêng liêng.
Nhưng nếu Thánh thần
thiêng liêng mà thực sự là cha của Jesus, thế thì Thượng đế nhiều nhất chỉ có
thể là bác - nếu ông ấy là anh của Thánh thần thiêng liêng. Điều đó tuỳ thuộc
vào việc ông ấy là ai, theo cách ông ấy có quan hệ với Thánh thần thiêng liêng,
nhưng một điều là chắc chắn: ông ấy không thể là bố của Jesus được.
Ông giám mục của England
lập tức phản ứng, nói "Lí thuyết về Mary Đồng trinh và Thánh thần thiêng
liêng là rất nền tảng của Ki tô giáo và chúng ta không thể thay đổi nó được."
Nhưng các nhà nghiên cứu riêng của họ lại đang nói rằng đấy chỉ là bịa đặt để
làm cho Jesus thành đặc biệt. Mọi người được sinh ra đều từ bố và mẹ của mình,
nhưng để làm cho Jesus thành đặc biệt... một anh chàng đáng thương phải được biến
thành đứa con hoang! Và đó chính là nền tảng của Ki tô giáo.
Cùng nhóm học giả đó
đã tìm ra rằng ngay cả Thượng đế cũng không cần thiết cho Ki tô giáo, vì không
có bằng chứng nào về Thượng đế cả. Mà cũng chẳng có bằng chứng ráo gì về Thánh
thần thiêng liêng. Tất cả những gì chúng ta có thể nói là ở chỗ Jesus và việc
đóng đinh ông ấy đã xảy ra. Không có bằng chứng nào ngay cả về việc phục sinh của
ông ấy. Vấn đề là, bạn có thể tìm ra được ai sẽ trở thành người Ki tô giáo chỉ
bởi vì Jesus đã bị đóng đinh không? Toàn thể tôn giáo này bị chấm dứt! Thượng đế
bị rút đi, Thánh thần thiêng liêng bị rút ra, việc sinh đồng trinh bị rút ra...
Điều này tạo ra vẻ bề
ngoài kì lạ về Ki tô giáo. Những điều này đã tạo nên Ki tô giáo, và chẳng có
cái gì trong số chúng lại là điều tinh tuý cho bất kì tính tôn giáo nào.
Và cũng nhóm đó lại
làm ra phát biểu rằng tất các mọi phép màu đều giả cả. Thế là giáo hoàng phải
nói. Ông ấy nói, "Không có phép màu thì Ki tô giáo sẽ bị chấm dứt. Chúng
ta cần phép màu; bằng không có cái gì là khác biệt giữa người thường và đứa con
duy nhất của Thượng đế?"
Khác biệt là ở chỗ
ông ấy đi trên nước, ông ấy biến nước thành rượu, ông ấy làm cho người chết sống
lại, ông ấy chữa bệnh và chữa lành chỉ bằng cách chạm vào mọi người. Và nhóm học
giả Ki tô giáo này chắc chắn rất trung thực, rằng tất cả mọi phép màu này phải
được thêm vào chỉ để nâng Jesus lên một vị trí đặc biệt, trên nhân loại.
Nhưng không có nhu cầu
cho bất kì ai ở trên nhân loại; người ta chỉ phải trở nên nhận biết hơn, người
ta phải trở nên nhận biết về con người mình. Chính trong nhận biết đó con người
chạm tới điểm cao nhất của tâm thức. Mọi thứ khác không chỉ là trẻ con, mà còn
ngớ ngẩn nữa.
Tôn giáo đơn giản là
cái tên khác của thiền; bất kì cái gì được thêm vào nó đều tuyệt đối không cần
thiết. Nó là cản trở chứ không phải là giúp đỡ.
Cho nên việc Triệu
Châu trao chén trà cho mọi người, không có phân biệt nào, đích xác là điều tôi
đang làm đây - trao chén trà, nhưng theo cách trực tiếp hơn theo cách biểu tượng.
Bởi vì biểu tượng có thể bị hiểu lầm - nó đã bị hiểu lầm. Trong mọi đạo tràng
thiền ở Trung Quốc và ở Nhật Bản điều đó đã trở thành một truyền thống.
Một phụ nữ Nhật Bản
trẻ hay đến mọi buổi lễ trong cộng đồng ở Mĩ. Mẹ cô ấy rất nổi tiếng về trà đạo.
Nó đã trở thành nghề nghiệp; có vài người chuyên môn, chuyên làm trà đạo. Và
khi tôi quay lại đây, cô gái ấy bắt đầu tới đây. Thấy rằng tôi sẽ ở lại đây, cô
ấy muốn ở lại đây - cô ấy từ chối quay về. Mẹ cô ấy tới... và bà ấy là người phụ
nữ nổi tiếng, đã có tiếp xúc nhiều ngay cả với Nhật hoàng.
Bà ấy đem đứa con gái
tới tôi, và nói, "Ông bảo con gái tôi quay về Nhật Bản đi!"
Tôi nói, "Bà là người
phụ nữ nổi tiếng - bà phải hiểu điều tinh tuý của Thiền chứ. Điều tinh tuý nhất
là tự do. Bây giờ điều đó là tuỳ ở cô ấy: nếu cô ấy muốn đi, tôi sẽ không ngăn
cản cô ấy; nếu cô ấy không muốn đi, tôi sẽ không bảo cô ấy đi."
Người đàn bà này trở
nên cực kì giận dữ - đồng bóng. Tôi nói, "Cái kiểu đồng bóng này chẳng ích
gì."
Bà ấy trở nên giận dữ
tới mức bà ấy nói, "Ông không phải là phật!"
Tôi nói, "Chỉ bởi
vì tôi không bảo con gái bà đi mà tôi mất phật tính của mình! Tôi có thể chấp
nhận rằng tôi không là phật nhưng tôi không thể cướp đi tự do của bất kì
ai."
Bà ấy rất choáng
váng. Bà ấy nói, "Tôi có bao nhiêu mối tiếp xúc, và tôi hứa mở một trung
tâm cho ông ở Tokyo."
Tôi nói, "Tất cả
những trò hối lộ này chẳng ích gì cả. Việc ở lại đây hay không ở lại đây tuyệt
đối là tự do của con gái bà. Mối quan tâm của của tôi không phải là liệu cô ấy ở
đây hay cô ấy đi xa."
Bà mẹ này phải đã ép
buộc cô ấy - bà ấy là một người đàn bà mạnh mẽ - bà ấy phải đã ép buộc cô bé ba
ngày liền, cho nên cô gái tới tôi nói, "Tôi sẽ đi mặc dầu bản thân tôi
không muốn. Xin thầy cho tôi một trong các áo choàng của thầy."
Tôi cho cô ấy một
trong những chiếc áo choàng của mình và tôi bảo cô ấy, "Đừng lo. Mẹ bạn sẽ
thảnh thơi, và đôi khi bà ấy sẽ không phản đối và bạn có thể tới."
Nhưng một lần cô ấy
đi mất, người mẹ đã không cho phép cô ấy tới thậm chí vào ngày nghỉ. Cô ấy trốn
đi.
Tôi bảo cô ấy,
"Điều này là không tốt. Bạn nên bảo mẹ bạn rằng bạn đi; bạn nên biểu lộ
tính chính trực của mình. Nhưng như một tên trộm, không nói cho ai, bạn đã đơn
giản trốn đi. Bạn sẽ không bao giờ có khả năng tha thứ cho mình. Bạn phải đi tốt
hơn, và chừng nào bạn còn chưa có đủ dũng cảm tới với một tuyên bố tuyệt đối về
tính cá nhân của mình... và bạn cũng đủ lớn rồi, bạn không là đứa trẻ."
Nhưng tôi mới được biết
từ Geeta, cũng là một người Nhật Bản và đã ở đây gần như từ vĩnh hằng - lâu như
tôi nhớ tôi đã gặp cô ấy ở đây - cô ấy nói rằng gần một phần ba con gái Nhật Bản
bị mẹ họ ngăn cản mãi tận tới lúc lấy chồng. Người mẹ ở Nhật Bản có quyền lực thế
- điều tôi chưa bao giờ biết tới. Một phần ba con gái vẫn còn chưa có gia đình
chỉ bởi vì người mẹ sẽ không cho phép điều đó.
Cho nên Geeta bảo
tôi, "Thầy đang nói về tự do, và thậm chí còn không có tự do để lấy chồng!"
Nhưng con người đang
sống với những từ đẹp đẽ: tự do, dân chủ, tình yêu - nhưng tất cả đều là những
từ trống rỗng. Văn minh không tồn tại, văn hoá không tồn tại. Không có độc lập
trong thế giới này. Kinh nghiệm riêng của tôi đã hoàn toàn là cay đắng. Tự do
duy nhất mà tôi biết là khả năng thức tỉnh dậy, và tự do biết tới bản thân mình
và gốc rễ của mình trong sự tồn tại. Ngoại trừ điều đó, tất cả đều là những hứa
hẹn chính trị sẽ không được thực hiện bao giờ.
Cho nên chỉ vài người
mới sống tự do, như Phật Gautam hay Triệu Châu hay Nam Tuyền. Tôi muốn tất cả
các bạn đều sống tự do, nhưng tôi phải phân biệt rõ ràng cho bạn. Có hai loại tự
do: một là tự do khỏi, và tự do kia là tự do vì. Tự do khỏi thì không khó lắm
đâu, nhưng tự do thật là tự do vì - vì sự sáng tạo nào đó, vì yêu nào đó, vì
kinh nghiệm nào đó.
Tự do thứ nhất, tự do
khỏi, là tiêu cực. Nó chuẩn bị nền tảng, nhưng nó không phải là tất cả.
Tự do thứ hai là cái
thực - tự do vì. Việc tạo ra cái ta của bạn, việc khám phá ra phật của bạn, việc
khám phá tiềm năng của bạn, việc để thoát ra quyền năng riêng của bạn, việc sống
dưới bầu trời với tiếng gầm của sư tử, không sợ cái gì. Nhưng đây là khả năng
chỉ cho người đã đạt tới cội nguồn riêng của mình. Đó là điều chúng ta đang cố
gắng làm tại chỗ này: cố gắng khám phá ra cội nguồn từ đó bạn có thể có tự do
khỏi mọi sự tù túng và vì mọi việc sáng tạo.
Ryushu đã viết:
Tôi quan sát im lặng
mây xuân
lớn lên trên bầu trời
bao la,
núi xanh và tóc trắng
trên phía đối diện
của bức mành tre;
xa xôi cách trở trời
và đất
là mưa bằng hoa trắng,
và tất cả chúng đang
rơi
vào mắt một thiền sư.
Chỉ mỗi dòng cuối làm
cho cả bài thơ thành cực kì có ý nghĩa. Chỉ mỗi dòng cuối: vào mắt một thiền sư
- hàng nghìn bông hoa. Khi bạn đi vào tính chủ thể của mình, bạn không có hai mắt
- đó là lí do tại sao, ở Ấn Độ, họ bắt đầu nói về con mắt thứ ba. Đó chỉ là biểu
tượng, nhưng nó có ý nghĩa lớn lao: khi bạn đi sâu vào bên trong hơn, hai mắt của
bạn hội nhập lại với nhau thành một lực; cái đó trở thành con mắt thứ ba của bạn.
Và trong con mắt thứ
ba này, hoa trắng, và tất cả chúng đang rơi vào trong mắt một thiền sư.
Ryushu ngạc nhiên, rằng
"Mình là sư nghèo mà biết bao nhiêu cái đẹp cứ rơi, cứ mưa rào lên mình thế."
Thiền thậm chí làm
người ăn xin thành hoàng đế. Và không có thiền thì ngay cả hoàng đế cũng chỉ là
kẻ ăn xin và không là cái gì hơn thế.
Maneesha đã hỏi:
Osho ơi,
Tôi nghe thầy nói trong khi chúng tôi thiền rằng sự mãnh liệt của
nỗ lực của chúng tôi sẽ kéo chúng tôi hướng tới trung tâm của mình. Tôi cũng đã
nghe thầy nói rằng các đệ tử tiềm năng bị hút bằng từ trường tới thầy. Liệu có
cái tương tự và mối nối giữa hai điều này không?
Maneesha này, chúng
không phải là hai điều đâu. Đấy là cùng một năng lượng đem bạn tới gần thầy
hơn, và đấy là cùng năng lượng sẽ đem bạn tới gần bản thân mình hơn. Nói cách
khác, ở gần hơn với mình là ở gần hơn với thầy. Chúng không phải là hai điều.
Thầy là ở trung tâm, và khoảnh khắc bạn đạt tới trung tâm bạn sẽ ngạc nhiên: phật
đã đạt tới đó trước bạn.
Mọi thầy đều là phật,
và mọi đệ tử đều là phật tiềm năng. Đó là cùng một năng lượng; ở đâu đó nó đã
trở nên biểu lộ, ở đâu đó nó vẫn còn ngủ, nhưng không có khác biệt về chất.
Bây giờ đến lúc cho
Sardar Gurudayal Singh rồi. Anh chàng đáng thương này phải đợi quá lâu... và
anh ấy không trở nên chứng ngộ vì sợ rằng người ta không bao giờ biết chuyện
đùa là gì sẽ được kể lại khi anh ấy đã đi rồi. Những chuyện đùa này đang giữ
anh ấy lại bờ bên này; bằng không thì anh ấy đã đi qua bờ bên kia từ lâu trước
rồi. Anh ấy là người rất cổ đại, giải ngũ khỏi quân đội, nhưng anh ấy sẽ không
rời đi chừng nào tôi còn tiếp tục kể chuyện đùa.
Wu, người phục vụ
Trung Quốc già tại Nhà hàng Trung Quốc Mye Long Dong bao giờ cũng bị đại tá
Wimple và các bạn nối khố của anh ta chòng ghẹo, bất kì khi nào họ tới ăn.
Chung cuộc, một hôm,
khi Wu đang phục vụ món tráng miệng và cà phê, thì đại tá Wimple ngửa người ra
sau trên chiếc ghế của mình, hút bập bập điếu xì gà lớn, và lớn tiếng công bố,
"Nào, Chink! Chúng tôi đã chòng ghẹo ông từ lâu tới giờ. Cho nên tôi đoán
từ giờ trở đi chúng tôi sẽ dừng đùa cợt với ông nữa. Ông nói gì nào?"
Người phục vụ già héo
hon dừng lại một chốc, rồi bắt đầu nói với nụ cười, "Được thôi Dokie! Các
anh không đùa tôi, thì tôi không đái vào cà phê!"
Katie kẻ lang thang
ăn thịt người ra khỏi rừng rậm và vào thành phố. Cô ta đi mua bán chút ít và rồi
dừng lại tại cửa hàng thịt người.
"Hôm nay óc bao
nhiêu?" Katie hỏi.
"Này,"
Butch, ông làm thịt người, đáp lại vừa trỏ lên giá trưng bày của mình, "óc
của nhà truyền giáo mười đô la nửa cân, óc ni cô hai mươi đô la, còn óc chính
khách hai trăm đô la."
"Hai trăm đô
la?" Katie la lên. "Điều đó không thể được! Làm sao mà họ lại đắt thế?"
"Thế này,"
Butch giải thích, có vẻ chạm tự ái, "Cô chẳng có ý tưởng nào về việc chúng
tôi phải bắt được bao nhiêu chính khách mới tìm được ra một người có óc
sao?"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)
(tiếng trống)
Im lặng; nhắm mắt lại.
Cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng. Bây giờ, nhìn vào bên trong - với
tính toàn bộ và sự khẩn thiết sâu sắc, cứ dường như đây là khoảnh khắc cuối của
bạn.
Đi ngày một sâu
hơn... Đem tâm thức bạn như mũi giáo, xuyên thấu vào chính trung tâm của con
người.
Không gian này là điều
chúng ta gọi là phật; im lặng này là điều chúng ta gọi là phật. Chỉ là nhân chứng,
bởi vì phật chỉ là nhân chứng, chỉ là tấm gương. Bạn không là thân thể, bạn
không là tâm trí, bạn chỉ là nhân chứng thuần khiết. Tại chính trung tâm của
con người bạn... im lặng trống rỗng hoàn toàn.
Để làm điều đó rõ
ràng,
Nivedano...
(tiếng trống)
Thảnh thơi, và quan
sát im lặng sự siêu việt của bạn lên mọi thứ - thân thể, tâm trí, thế giới. Bạn
ở bên ngoài. Bạn là cõi bên kia, tâm thức siêu việt. Vui mừng đi! Hàng nghìn
bông hoa kia đã bắt đầu mưa rào lên bạn.
Buổi tối đẹp này đã
trở thành một buổi tối rất bí ẩn và huyền bí. Mười nghìn chư phật được hội nhập
vào trong tâm thức đại dương. Thính phòng Phật này đã trở thành cái hồ tâm thức,
không gợn sóng nào.
Thu lấy thật nhiều
kinh nghiệm này, bởi vì chẳng mấy chốc Nivedano sẽ gọi bạn quay lại. Bạn phải
mang phật ra chu vi, vào các hoạt động bình thường của bạn, vào công việc thường
ngày của bạn. Chúng ta không từ bỏ thế giới này; chúng sẽ ở trong thế giới này
vậy mà không cho phép thế giới ở trong chúng ta. Điều này là có thể chỉ nếu bạn
là nhân chứng.
Sống như phật. Điều
duy nhất cần nhớ là: chỉ là nhân chứng. Nhân chứng là chìa khoá chính. Hàng
nghìn thầy đã đi tới cùng kết luận này: rằng việc ở trung tâm, chỉ là nhân chứng,
là trở thành phật, người thức tỉnh.Thế rồi, dần dần thuyết phục phật tới cuộc sống
đời thường của bạn. Từ cội nguồn ẩn kín, đem ông ấy vào các hoạt động hướng ngoại
của bạn.Khi bên trong và bên ngoài trở thành một, phép màu xảy ra.
Nivedano...
(tiếng trống)
Quay lại, nhưng quay
lại như phật - với duyên dáng, với im lặng, với cái đẹp, với lòng biết ơn.
Ngồi im lặng trong
vài khoảnh khắc, hân hoan với buổi tối diệu kì này, nhớ lại con đường bạn đã đi
tới trung tâm và quay lại. Con đường này phải được đi theo lặp đi lặp lại. Dần
dần, cái ở trung tâm cũng sẽ lan toả khắp chu vi bạn.
Ngày đó là ngày lễ hội
vĩ đại.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy kính
yêu.
Xem Tiếp Chương 7 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá