Chương 7. Vĩnh Hằng Trong Tay Ông Ấy

Chương 7. Vĩnh Hằng Trong Tay Ông Ấy

Price:

Read more

Thiền Osho by Vô Ngã

Sách Osho

(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)

Triệu Châu (Joshu) – Tiếng Gầm Của Sư Tử – Osho

Bài Nói Về Thiền

Chương 7. Vĩnh Hằng Trong Tay Ông Ấy







Nghe hoặc Tải MP3 'Triệu Châu (Joshu) - Tiếng Gầm Của Sư Tử' ê




Osho ơi,

Khi Đầu Tử còn ở tỉnh Tojo, Triệu Châu hỏi ông ấy, "Ông không phải là thầy Đầu Tử Ẩn dật sao?"

Đầu Tử nói, "Cho tôi trà, muối và tiền mặt!"

Triệu Châu quay trở về nơi ẩn dật, và tối hôm đó thấy Đầu Tử quay trở lại với chút dầu.

Triệu Châu nói với ông ấy, "Tôi nghe nói nhiều về Đầu Tử, nhưng mọi điều tôi thấy chỉ là một ông già bán dầu."

Đầu Tử nói, "Ông thấy người bán dầu già, nhưng ông không biết Đầu Tử."

Triệu Châu nói, "Vậy à, Đầu Tử thì sao?"

Đầu Tử dựng một cái chai lên và nói, "Dầu! Dầu!"

Tại lễ tang của một trong những sư của mình, Triệu Châu nhập vào đám rước và bình luận, "Đám rước dài toàn những thân người chết thế đi theo sau việc thức tỉnh của mỗi một người sống!"

Maneesha, Thiền tin vào cuộc sống mà bạn không quen thuộc, tin vào yêu mà bạn chưa từng mơ ước tới. Nó tin vào một chiều hướng hoàn toàn khác, một chiều hướng mà mọi thứ đều là điệu vũ, lễ hội.

Thiền là tôn giáo duy nhất của cuộc sống. Các tôn giáo khác chỉ là kẻ tôn thờ người chết. Cuộc sống chứa hàng triệu điều, từ những thứ rất nhỏ bé tầm thường tới những đỉnh tâm thức thiêng liêng vĩ đại nhất. Thiền không từ bỏ cái gì mà làm biến đổi nó như bậc đá bước lên cái cao hơn.

Nó là tôn giáo khẳng định cuộc sống duy nhất đã nảy sinh trong những thế kỉ trước. Khẳng định của nó là toàn bộ. Tất cả các tôn giáo khác đều là tôn giáo của chối bỏ. Bất kì cái gì dường như là chướng ngại, họ đều trốn chạy khỏi nó. Thiền cố gắng biến nó từ chướng ngại thành giúp đỡ - và Thiền đã thành công. Thành công của nó là mối quan tâm sâu sắc về con người mới đang tới.

Con người mới sẽ không nghĩ về Ki tô giáo như một tôn giáo, hay Hindu giáo hay Hồi giáo hay bất kì tôn giáo nào khác, bởi vì tất cả họ đều đang mang quá khứ chết. Cuộc sống đã thoát ra khỏi họ từ lâu trước đây rồi. Họ đã không cười hàng thế kỉ nay rồi; họ đã không trong hài hoà với âm nhạc vũ trụ. Họ đã quên mất ngôn ngữ của điệu vũ.

Mỗi mình Thiền dường như là khả năng cho con người tương lai. Nó sẽ tồn tại - khi tất cả các tôn giáo khác đã qua đi, Thiền sẽ là tôn giáo duy nhất trên trái đất. Trong thực tế, tất cả các tôn giáo khác đều đã chết rồi. Chỉ bởi vì thói quen cũ, huấn luyện cũ, chúng ta liên tục mang chúng, nhưng chúng đã chẳng đóng góp gì cho tâm thức con người cả. Thay vì đóng góp họ đã phá hoại nhiều lắm. Họ đã làm con người thành nô lệ, họ đã áp bức con người, họ đã đẩy con người chống lại con người; họ đã tạo ra vô vàn bạo hành, chiến tranh, tàn sát.

Thiền là tôn giáo của hoa, là tôn giáo của bài ca, là tôn giáo của cực lạc. Nó chẳng có gì trong mình để cố gắng né tránh cuộc sống dưới bất kì dạng nào, theo bất kì cách nào. Nó sống cuộc sống trong tính toàn bộ của nó - và phép màu là ở chỗ bằng việc sống một cách toàn bộ, từng khoảnh khắc trở thành quí giá thế... không có cách nào để đo cái đẹp của khoảnh khắc khi một người là toàn bộ, ở đây bây giờ.

Hai giai thoại này là rất nhỏ, nhưng ý nghĩa của chúng lại lớn lao. Giai thoại thứ nhất sẽ có vẻ rất kì lạ trừ phi bạn hiểu rằng trong từng hành động, Thiền sư gần như biến mất vào trong bản thân hành động đó. Tính toàn bộ của ông ấy lớn tới mức bạn gần như có thể nói rằng chỉ điệu vũ còn lại; vũ công biến mất.

Có lần người ta hỏi vũ công vĩ đại Nijinsky, "Khoảnh khắc lớn lao nhất trong đời ông là gì?"

Nijinsky nói, "Khoảnh khắc lớn lao nhất trong đời tôi là những khoảnh khắc khi chỉ điệu vũ còn lại và vũ công biến mất."

Cùng câu trả lời này được Picasso nêu ra. Trong khi ông ấy đang vẽ, ai đó hỏi ông ấy. Ông ấy nói, "Đừng hỏi bất kì cái gì ngay bây giờ. Trong khi tôi đang vẽ tôi chỉ là hoạ sĩ; tôi không phải là Picasso vĩ đại mà ông đã nghe nói tới. Và khi những khoảnh khắc sâu sắc nhất đó tới, thế thì ngay cả hoạ sĩ này cũng biến mất. Chỉ việc vẽ còn lại."

Nếu bạn có thể thấy được điểm này, thế thì giai thoại thứ nhất sẽ trở nên rõ ràng với bạn, bởi vì nó có chút ít khác thường...

Khi Đầu Tử còn ở tỉnh Tojo, Triệu Châu hỏi ông ấy, "Ông không phải là thầy Đầu Tử Ẩn dật sao?"

Đầu Tử nói, "Cho tôi trà, muối và tiền mặt!"

Ông ấy đã không trả lời câu hỏi này. Đó là một trong những điều quan trọng nhất phải hiểu: Thiền trả lời theo cách riêng của nó, không theo cách thông thường. Chúng ta trông đợi đối thoại xảy ra. Triệu Châu và Đầu Tử2 cả hai đều là những thầy xuất chúng. Triệu Châu đã hỏi ông ấy, "Ông không phải là thầy sao, Đầu Tử?" Chẳng nói gì về mình, Đầu Tử nói, "Cho tôi trà, muối và tiền mặt!" Điều đó nghĩa là gì?

Nó nghĩa là, "Ông là thầy vĩ đại, ông không cần được trả lời. Ông có thể tự thấy rằng Đầu Tử đang đứng trước ông. Việc trả lời ông sẽ là sự xúc phạm, ngụ ý rằng ông đã không thể tự mình thấy được sự toả sáng của Đầu Tử, sự hiện diện của ông ấy, trường năng lượng của ông ấy, hào quang của ông ấy. Không, tôi sẽ không xúc phạm một thầy lớn như Triệu Châu." Đó là lí do tại sao ông ấy đơn giản bỏ qua câu hỏi này.

Việc bỏ qua câu hỏi sẽ bị coi như sự xúc phạm ở bất kì đâu khác trong thế giới này - nhưng trong Thiền, việc bỏ qua câu hỏi này có ý nghĩa hoàn toàn khác. Nó biểu lộ sự kính trọng lớn lao: "Ông đang nói về cái gì vậy? Ông có mắt để thấy. Cũng như tôi có thể nhận ra được ông, ông có thể nhận ra được tôi; do đó câu hỏi này là không liên quan và tôi không định xúc phạm ông bằng việc trả lời nó." Thay vì trả lời, Đầu Tử hỏi, "Cho tôi trà, muối và tiền mặt. Tôi là Thiền sư nghèo."

Đầu Tử là một Thiền sư rất nghèo vì ông ấy sống ở nơi ẩn dật trên vùng núi non xa xôi nơi rất khó để mọi người tới. Ông ấy đã trở nên nổi tiếng là thầy Đầu Tử Ẩn dật, nhưng ông ấy rất nghèo. Cho nên thay vì bận tâm về việc nói, "Tôi là Đầu Tử," thì ông ấy đang biểu lộ sự nghèo khó của mình. Ông ấy được biết tới như thầy nghèo nhất - một trong những linh hồn vĩ đại nhất, nhưng nghèo nhất theo nghĩa ông ấy chẳng có mấy người theo. Ông ấy đã sống ở một nơi kì lạ đến mức không ai bận tâm mà tới đó, nó quá xa xôi. Và cách cư xử của ông ấy kì lạ thế...

Triệu Châu đã đi tới đó để gặp ông ấy, đã nghe nói nhiều về ông ấy. Có nhiều tin đồn về ông ấy và tại sao ông ấy không nhận đệ tử: "Bản thân ông ấy chịu trách nhiệm vì ông ấy cư xử theo cách mà đệ tử trốn tiệt! Ngay chỗ đầu tiên chẳng ai đi tới chỗ ẩn dật xa xăm đó. Nhưng đôi khi ai đó gom được lòng dũng cảm, và Đầu Tử cư xử theo cách mà người này mất hết tấm lòng và bằng cách nào đó cố gắng trốn thoát khỏi con người kì lạ này!"

Triệu Châu đã tới để gặp Đầu Tử, và Đầu Tử đang biểu lộ cái nghèo của mình bằng việc hỏi ông ấy, "Cho tôi chút trà! Đừng bận tâm về Đầu Tử - tại chính khoảnh khắc này tôi cần chút trà, chút muối và tiền mặt!"

Một con người của hiểu biết mênh mông - ông ấy tin cậy vào Triệu Châu rằng ông này sẽ hiểu: "Tại khoảnh khắc này, đừng hỏi những câu hỏi không cần thiết. Tôi thậm chí không kiếm được trà hay muối hay tiền mặt nào. Ông là thầy lớn, ông có hàng nghìn tín đồ. Tôi là một thầy nghèo, tôi không có tín đồ nào. Không ai khác chịu trách nhiệm cho điều đó; tôi chịu trách nhiệm. Tôi cư xử theo cách mà họ không thể nào hiểu nổi. Nhưng tôi không thể thay đổi mình được. Tôi phải vẫn còn là bản thân mình; tôi phải duy trì tính toàn vẹn của mình. Liệu đệ tử có ở lại với tôi hay không cũng không thành vấn đề; tôi một mình là đủ.

"Nhưng tại khoảnh khắc này ông phải mang tiền mặt nào đó - ông đã đi từ đạo tràng của ông từ xa xôi thế. Cho nên cho tôi chút trà - ông phải mang theo trà và muối; ông đã trong cuộc hành trình dài. Và chút ít tiền mặt thì cũng chẳng hại gì."

Bầy tỏ cái nghèo của mình - đó là danh tiếng của ông ấy, rằng ông ấy là người nghèo nhất vậy mà là một trong những thầy vĩ đại nhất. Bằng việc bầy tỏ cái nghèo của mình ông ấy đang nói, "Tự ông có thể thấy được rằng Đầu Tử đang đứng trước ông, hỏi xin tiền mặt. Ngay cả người nghèo nhất cũng có muối, nhưng tôi thậm chí muối cũng chẳng có."

Triệu Châu trở lại chỗ ẩn dật đó và tối hôm đó ông ấy thấy Đầu Tử quay lại với chút dầu. Ông ấy đã ở lại nơi ẩn dật của Đầu Tử cả ngày, chờ cho ông này về. Nhưng ông này đã biến mất ở đâu đó. Vào buổi tối Triệu Châu thấy ông này quay lại với chút dầu. Ông này nghèo thế, thậm chí không có dầu thắp đèn trong đêm. Cho nên ông này phải đã sang làng cạnh đó để xin chút dầu, và ông ấy vừa về tới với chai dầu.

Triệu Châu nói với ông ấy, "Tôi nghe nói nhiều về Đầu Tử, nhưng mọi điều tôi thấy chỉ là một ông già bán dầu."

Đầu Tử nói, "Ông thấy người bán dầu già, nhưng ông không biết Đầu Tử."

"Ông đang chỉ nhìn vào bên ngoài, ông không nhìn vào trong mắt tôi. Ông không nhìn vào trong chính con người tôi."

Triệu Châu nói, "Vậy à, Đầu Tử thì sao?"

Đầu Tử dựng một cái chai lên và nói, "Dầu! Dầu!"

Trong khoảnh khắc này không có Đầu Tử mà chỉ có chai dầu. Khi có liên quan tới Đầu Tử, ông ấy vắng mặt. Ông ấy chỉ là sự trống rỗng, cái không. Trong khoảnh khắc này ít nhất ông ấy có cái gì đó: "Vào buổi sáng khi ông tới tôi đã chẳng có gì, cho nên tôi đã hỏi xin ông chút trà, chút muối và chút tiền mặt. Đêm nay, tôi không có dầu. Tôi không phải là người bán dầu; tôi đã xin dầu này từ thị trấn. Và trong khoảnh khắc này, trong cái trống rỗng của tôi, không có ý nghĩ nào khác hơn ý nghĩ đơn giản 'Dầu! Dầu' và không gì khác."

Sẽ dễ dàng hơn để hiểu Nijinsky khi ông ấy nói, "Tôi biến mất trong điệu vũ của mình. Điệu vũ trở thành mãnh liệt tới mức tôi không còn nữa." Từ những kinh nghiệm như vậy Mevlana Jalaluddin Rumi, một nhà huyền môn Sufi, đơn giản đã làm việc xoay tít thành phương pháp duy nhất của mình. Những tín đồ của ông ấy được gọi là các thầy tu xoay tít. Họ xoay hàng giờ đồng hồ - điều đó không dễ. Bản thân Jalaluddin Rumihimself đã xoay ba mươi sáu giờ liên tục, và trong việc xoay đó ông ấy đã trở nên chứng ngộ bởi vì trong việc xoay đó ông ấy đã mất hút; chỉ việc xoay còn lại. Không có người bên trong. Chỉ có trống rỗng và im lặng hoàn toàn.

Dễ hiểu Jalaluddin Rumi, hay Picasso, hay Nijinsky. Có chút ít khó hiểu Đầu Tử hơn khi ông ấy nói, "Ông hỏi gì về Đầu Tử vậy? Tại khoảnh khắc này chỉ có dầu. Vào buổi sáng thì thậm chí dầu cũng chẳng có; tôi đã hỏi xin ông chút tiền mặt..."

Giai thoại nhỏ này giữa hai thầy có kinh nghiệm như nhau, có sự vĩ đại như nhau, có thể có ích rất nhiều cho bạn. Bất kì hoạt động nào, nếu nó trở thành toàn bộ tới mức bạn hoàn toàn bị hấp thu vào nó, đều trở thành việc thiền. Làm mất bản thân mình và vẫn còn ý thức - đó là công thức đơn giản nhất cho thiền.

Tại lễ tang của một trong những sư của mình, Triệu Châu nhập vào đám tang và bình luận, "Đám rước dài toàn những thân người chết thế đi theo sau việc thức tỉnh của mỗi một người sống!"

Người chết là một thầy, và thầy còn sống ngay cả trong cái chết của mình còn hơn bạn trong cuộc sống của bạn. Thầy chưa bao giờ chết. Đó là chính bí mật đã làm cho người đó thành thầy - rằng thầy biết không có cái chết. Thầy đã nắm được cái vĩnh hằng trong tay mình. Thầy mang cái bất tử trong chính chiều sâu của mình. Bạn có thể đốt xác thầy, nhưng bạn không thể đốt cái vĩnh hằng của thầy, cái bất tử của thầy.

Triệu Châu là phải khi ông ấy nói, "Nhìn vào đám tang kì lạ này! Trong sự thức tỉnh của một người đang sống... và người sống đó đang nằm trong quan tài; hàng nghìn thân người chết đang đi sau."

Với con người của hiểu biết, chừng nào bạn chưa hoàn toàn ý thức, bạn không thể công bố rằng bạn đang sống. Nhiều nhất bạn có thể nói bạn đang tồn tại, chỉ ở mức tối thiểu. Bạn chưa biết tới các đỉnh Himalaya của cuộc sống; bạn chưa biết chiều sâu Thái bình dương của tâm thức của bạn. Cho nên tâm thức của bạn mỏng tới mức phải là phép màu mà bạn mới xoay xở trong bẩy mươi năm để thở, để bước, để làm đủ mọi loại việc. Và gốc rễ của bạn vẫn còn bị bỏ quên lãng. Bạn không biết ngay cả việc bạn có gốc rễ. Bạn chưa bao giờ nuôi dưỡng cho gốc rễ của mình.

Bạn có hiểu rằng sự chú ý là thức ăn cho tâm thức không? Theo chính cách vô ý thức bạn nhận biết rằng nếu không ai chú ý tới bạn, bạn bắt đầu cảm thấy chút ít bối rối. Nếu cả thành phố quyết định vào một hôm rằng không ai sẽ chú ý tới bạn, cứ dường như bạn không có đấy, thì bản thân bạn sẽ bắt đầu nghi ngờ liệu bạn sống hay chết: "Mình tồn tại hay mình chỉ đang mơ?" Bạn cần sự chú ý liên tục.

Và đó là tranh đấu giữa cha mẹ và con cái, chồng và vợ, và bạn bè. Cuộc tranh chấp này là gì? - "Cho tôi nhiều chú ý hơn!" Tôi đã thấy những người vợ giật tờ báo khỏi tay chồng: "Trong khi em đang đây, anh ngụ ý gì bằng việc đọc mãi một tờ báo này cả ngày? Anh đã đọc nó bao nhiêu lần rồi?" Và anh chồng đáng thương đơn giản đọc nó để tránh phải nói chuyện với vợ; bởi vì mọi cuộc nói chuyện đều kết thúc bằng đánh nhau.

Không ai có thể tranh cãi với đàn bà được. Như tôi được biết, mãi cho tới nay không ai có khả năng này bởi vì đàn bà không cho phép bạn tranh cãi. Cô ấy có phương pháp luận riêng của mình, hoàn toàn khác. Cô ấy ném mọi thứ, cô ấy đập bể đĩa, cô ấy đánh trẻ nhỏ - đó là lí lẽ của cô ấy. Và anh chồng phải đồng ý với cô ấy, bằng không cô ấy sẽ đốt cả nhà! Anh ta phải nói, "Vâng, em đúng." Và anh ta biết rằng cô ấy không đúng chút nào, nhưng làm sao được? Cô ấy đã chiếm vị trí lợi hơn để đồng ý trong mọi giai đoạn rất sớm. Về sau, điều đó sẽ ngày một trở nên khó khăn hơn và khoảng cách trở nên ngày một lớn hơn và cô ấy trở nên ngày một gàn hơn.

Bạn không thể tranh cãi với người gàn. Và người đàn bà này đã thấy rằng điều đó rất lợi cho cô ấy: chồng phải đồng ý tại điểm nào đó, chắc chắn. Cô ấy chỉ phải gây sức ép ngày một nhiều hơn, quấy rầy anh chồng nhiều nhất có thể được và cuối cùng cô ấy bao giờ cũng là người chiến thắng. Cho nên, những người chồng đủ thông minh đều chấp nhận thất bại ngay từ đầu.

Đó là lí do tại sao chỉ có một loại chồng trên thế giới, và đó là loại sợ vợ; không tồn tại loại khác, chỉ một loại thôi. Tốt hơn cả là không lâm vào cãi lí chút nào.

Hai người đàn ông thường ngồi trong quán rượu, muộn trong đêm sau khi mọi người khác đã về cả. Khi quán rượu sắp đóng cửa, họ ngần ngại đứng dậy ra về. Họ là những người xa lạ, nhưng dần dần - bởi vì mọi đêm họ là những người duy nhất, người cuối cùng ra khỏi quán rượu - một người cuối cùng hỏi người kia, "Có chuyện gì vậy? Sao ông cứ ngồi ở đây mãi thế?"

Người kia nói, "Rất đơn giản, đó là lí do tại sao tôi đã không hỏi ông. Đấy là vợ tôi. Chừng nào bà ấy còn chưa ngủ, tôi còn phải ở lại đây. Nếu tôi thấy bà ấy còn thức, thế thì nhất định sẽ khó khăn. Bà ấy sẽ tạo ra loại rắc rối nào đó." Và thế rồi ông ta hỏi người thứ nhất, "Thế sao ông ngồi ở đây? Tôi nghĩ vấn đề chắc phải như nhau."

Người kia nói, "Không, tôi không lấy vợ. Đấy là vì chẳng có ai ở nhà cả, chỉ mỗi cái nhà trống rỗng, tối mò."

Người có vợ nói, "Ông ngu lắm! Ông là người may mắn nhất rồi. Ông nên tận hưởng bóng tối nhà ông đi! Nghe tôi đây này, tôi còn nhiều kinh nghiệm hơn. Ông làm phí thời gian của ông ở đây trong quán rượu này. Tôi phải ở đây, nhưng ông không phải ở đây.

Nhưng đây là vấn đề. Những người còn chưa biết tới đàn bà sẽ chẳng bao giờ biết rằng họ là một loại sinh vật khác - rất xinh để mà nhìn, rất hay để gặp gỡ tại bờ biển, nhưng giữ lấy khoảng cách. Một khi bạn tới gần hơn, lọt vào sự níu bám của họ, thì bạn biết - "Lạy trời!"

Người Hindus có ngôi đền ở Calcutta, có lẽ là ngôi đền nổi tiếng nhất của Ấn Độ. Nó là ngôi đền của Nữ Thượng đế Mẹ Kali, một người đàn bà da đen, dữ tợn, có bốn tay. Một tay bà ấy cầm thanh gươm tuốt trần, tay kia cầm cái đầu - chỉ cái đầu, bị chém ngọt, máu vẫn còn rỉ ra - đang đứng trên ngực của chồng mình.

Tôi thường tới ngôi đền đó, bởi vì những người đã tạo ra nó phải đã biết tâm lí nào đó. Cách thức xã hội bị quản lí, đàn ông nghĩ mình là người chủ. Đàn bà cho phép anh ta nghĩ, bởi vì đàn bà biết đích xác ai là chủ - cứ để cho anh ta hưởng thú! Chỉ một ý tưởng, chẳng hại gì trong đó - cứ để cho anh ta tận hưởng việc nghĩ rằng mình là chủ. Anh ta tự gọi mình là "chồng". Chồng nghĩa là nông dân, còn đàn bà là đất, và anh ta trồng trọt đất. Cứ để anh ta tận hưởng mọi thứ hư cấu này, nhưng thực tại hoàn toàn khác.

Những đàn ông này, những đàn bà này, cãi nhau, đánh nhau, chưa bao giờ đi tới biết cuộc sống trong sự thuần khiết của nó là gì. Họ không có thời gian. Và điều kì lạ nhất trong tất cả mọi điều... tôi đã nghe nói nhiều người, đang chơi bài hay chơi cờ, hay đi xem phim... bạn hỏi để làm gì và họ nói, "Chúng tôi định giết thời gian." Và chẳng ai phản đối cả!

Bạn nói gì vậy? Thời gian đang giết bạn đấy! Bạn có được cái ý tưởng mình có thể giết được thời gian ở đâu vậy? Bạn thậm chí không thể bắt giữ được thời gian nữa là. Thời gian đang lướt nhanh qua, nhanh tới mức bạn không thể thấy được nó. Tốc độ này ở ngoài hình dung của bạn. Làm sao bạn có thể giết được thời gian? Nhưng hàng triệu người trên khắp thế giới đang giết thời gian theo những cách khác nhau, cứ dường như cuộc sống đã được trao cho họ chỉ để phá huỷ.

Những người này chỉ nghĩ họ đang sống, bởi vì họ đã không biết tới các bí mật của cuộc sống. Họ đã không biết im lặng của trái tim. Họ chưa bao giờ đi vào trong cội nguồn sâu nhất của con người mình. Họ chưa bao giờ nuôi dưỡng gốc rễ mình bằng việc chú ý tới chúng.

Bạn càng đi sâu hơn, lấy toàn bộ sự chú tâm, bạn càng sống động hơn. Và thế thì thay đổi tới: từ thời gian, bạn đi vào vô thời gian. Trong thời gian, bạn nhất định chết. Trong thời gian mọi thứ được sinh ra và mọi thứ phải chết đi. Nếu bạn muốn tránh cái vòng luẩn quẩn của sinh và tử và toàn bộ nỗi thống khổ này, nỗi phiền não này, thế thì bạn phải đi từ thời gian sang vô thời gian.



Và đó là một bước nhỏ. Khoảnh khắc bạn đạt tới bên trong của chính trung tâm riêng của mình, bạn đã đi ra ngoài thời gian rồi. Bạn đã đạt tới cái vĩnh hằng. Cái vĩnh hằng đó là phật của bạn. Đây là tôn giáo bản chất. Mọi lời cầu nguyện của các tôn giáo khác, mọi kinh sách của họ, mọi nghi lễ của họ, đều không chỉ vô dụng mà còn nguy hiểm - nguy hiểm theo nghĩa là họ đang ngăn cản bạn không cho tìm ra tôn giáo bản chất. Họ là những tôn giáo giả. Những tôn giáo giả đó đã đánh mất nền tảng của mình, nhưng chỉ bởi vì thói quen cũ mà chúng ta vẫn cứ tiếp tục - đi nhà thờ, đi đền chùa, đi tới giáo đường.



Và tất cả những tôn giáo này đều trong tay của giới tu sĩ toàn thế giới. Chẳng thành vấn đề tu sĩ đó là giáo sĩ, hay giám mục, hay học giả; đó là mưu đồ lớn chống lại nhân loại. Tu sĩ, người liên tục cho bạn đồ chơi tội lỗi nhân danh tôn giáo, giữ bạn bị giam cầm, cho bạn cảm giác là bạn đang làm điều gì đó có tính tôn giáo. Ông ta giữ bạn, như Karl Marx nói, dưới ảnh hưởng của một loại ma tuý, thuốc phiện nào đó.

Tôi không đồng ý với Karl Marx ở cả nghìn lẻ một điều, nhưng trên điểm là giới tu sĩ, tôn giáo, đã là thuốc phiện cho mọi người, tôi đồng ý với ông ấy tuyệt đối, vô điều kiện, dứt khoát. Họ kìm hãm bạn chết. Họ chưa bao giờ cho phép bạn có cơ hội có cái nhìn vào cuộc sống vĩnh hằng.

Triệu Châu là phải khi ông ấy nói,

"Đám rước dài toàn những thân người chết thế đi theo sau việc thức tỉnh của mỗi một người sống!"

Bạn có thể là người sống chỉ nếu bạn bắt rễ vào trung tâm của bạn. Nếu bạn không bắt rễ vào trung tâm và chỉ sống ở chu vi, bạn chỉ sống làng nhàng, hờ hững, không mãnh liệt gì, không có khẩn thiết gì, không có niềm vui nào. Cuộc sống của bạn chỉ là từ trống rỗng.

Bạn phải tìm ra cuộc sống đích thực của mình. Nó có đó, ẩn bên trong bạn, nhưng bạn liên tục chạy đi đâu đó khác. Bạn chưa bao giờ nghĩ về việc đi vào trong. Chính ý tưởng này dường như kì lạ - "Có cái gì ở bên trong? Chỉ mỗi khung xương, máu, xương." Phỏng có ích gì mà tạo ra sợ hãi không cần thiết cho mình? Nếu bạn thấy khung xương của mình, bạn sẽ thực sự sợ hãi! Nhưng đấy không phải là điều chúng ta ngụ ý bởi cõi nội tâm. Với nội tâm chúng ta ngụ ý đi ra ngoài tất cả những cái vốn là vật chất. Bộ xương của bạn là vật chất, máu của bạn là vật chất, xương của bạn là vật liệu. Bằng việc đi vào nội tâm chúng ta ngụ ý vượt ra ngoài bộ xương này mà bạn nghĩ là bạn.

Và việc đi vào đơn giản thế. Chỉ chút ít thông minh và bạn có thể sống, một cuộc sống nhảy múa tràn đầy bài ca và tràn đầy hoa. Ít nhất với người của tôi, tôi muốn nói, đừng bao giờ dừng lại vì những cái nhỏ bé. Tìm ra bí mật toàn bộ của con người bạn, bởi vì trong việc tìm ra toàn thể bí mật của con người mình, bạn sẽ thấy toàn thể bí mật của vũ trụ. Thế thì cuộc sống trở thành hiện tượng hoàn toàn khác, lễ hội liên tục, từng khoảnh khắc đều là hội hè. Từng khoảnh khắc đều mở ra chiều hướng mới, bí ẩn mới. Toàn thể cuộc sống trở thành tràn đầy phép màu đến mức sự biết ơn sâu sắc tự nhiên nảy sinh trong bạn, để cúi mình xuống không phải với bất kì thượng đế nào mà với vũ trụ này, cái có chứa cây cối và con vật và chim chóc.

Vũ trụ này là nhà bạn. Bạn đi ra từ vũ trụ này và bạn trở lại trong vũ trụ này. Lời cầu nguyện là vô nghĩa. Chỉ lòng biết ơn... bạn thậm chí không phải dùng đến lời, chỉ cảm thấy lòng biết ơn.

Nhưng việc cảm thấy lòng biết ơn sẽ nảy sinh chỉ khi bạn đã kinh nghiệm những bí ẩn đó, sự huy hoàng, toàn thể khu vườn hoa được trao cho bạn. Và bạn đã không đòi hỏi về nó; bạn không xứng với nó theo bất kì cách nào, bạn đã không kiếm lấy nó. Nó là món quà tuyệt đối, từ dư thừa của chính bản thân sự tồn tại.

Sự tồn tại trĩu nặng, chứa đầy những huy hoàng mà nó muốn chia sẻ.

Nó không thể chia sẻ được chừng nào bạn còn chưa được định tâm trong con người của mình. Nó có thể chia sẻ các bí mật của nó chỉ với phật. Và bạn có mọi cơ hội trở thành phật.

Gido đã viết:

Không bao giờ có thể có việc vẽ chính xác

về việc nở hoa trong không trung...

Hiển nhiên, bởi vì việc nở hoa bao giờ cũng nhảy múa trong không trung, trong mưa, trong mặt trời. Làm sao có thể có việc vẽ chính xác được? Mọi ảnh chụp đều sẽ chết, mọi tranh vẽ đều sẽ chết.

Không bao giờ có thể có việc vẽ chính xác

về việc nở hoa trong không trung...

bỏ chổi vẽ xuống

và nhìn lại kĩ hơn:

Đó là khoảng trắng

của nền

mà hình ảnh được hiển hiện ra

Điều Gido ngụ ý nói là ở chỗ mọi thứ đều tuôn chảy và thay đổi. Không bao giờ có thể có bức ảnh chụp chính xác, bởi vì vào lúc ảnh được chụp và dương bản được tạo ra từ âm bản, bạn đã thay đổi rồi. Bạn đã trở nên già hơn; ảnh chụp không trở nên già. Bạn không còn là cùng con người đó.

Và điều đó áp dụng cho kinh nghiệm của bạn về thế giới này. Mọi thứ đều trong thay đổi, liên tục dịch chuyển, ngoại trừ một điều: đó là nhân chứng của bạn. Cho nên bỏ chổi vẽ và máy ảnh của bạn xuống - chỉ nhìn thôi. Và trong việc nhìn, nhớ đừng bị lạc trong cái được thấy. Nhớ tới người thấy - đó là điểm vĩnh hằng duy nhất bạn có thể phụ thuộc vào. Đó là an ninh duy nhất, chắc chắn duy nhất, điều duy nhất bạn có thể dựa vào. Mọi thứ khác đều đang dịch chuyển và thay đổi. Nó tất cả đều là luồng, mọi thứ xung quanh.

Điều đó là đẹp - nếu bạn hiểu nó như một luồng, nó là hoàn toàn đẹp. Nó trở thành điều thất vọng khi bạn bắt đầu làm nó thành thường hằng. Cuộc gặp gỡ của đàn ông và đàn bà là đẹp, nhưng khoảnh khắc bạn bắt đầu nghĩ tới hôn nhân, bạn bắt đầu phá huỷ cái gì đó đẹp đẽ đang lớn lên. Khoảnh khắc bạn tới phòng đăng kí kết hôn... vẫn còn có thời gian; trốn đi trước khi bạn đi vào bên trong!

Tôi đã nghe nói về một đôi đã tới phòng đăng kí kết hôn rồi, và họ đã điền vào giấy đăng kí kết hôn. Người đàn ông kí sau khi người đàn bà kí, và người đàn bà lập tức nói với quan toà, "Tôi muốn li dị!"

Ông ấy nói, "Cô có điên hay thế nào đấy không? Cô vừa mới kí vào giấy đăng kí! Điều gì đã xảy ra làm cho cô yêu cầu li dị?"

Người đàn bà nói, "Ông nhìn vào tờ giấy này này!" Trên tờ giấy đó, người đàn ông đã kí bằng chữ hoa to như con gà mái ghẹ... Người đàn bà đã kí theo chữ thường, nhỏ bé nhưng người đàn ông đã kí cứ như là dòng tiêu đề lớn trong tờ báo vậy!

Người đàn bà nói, "Thế này là đủ rồi. Tôi không muốn dính vào rắc rối với người đàn ông này nữa. Anh ta đã biểu lộ thực tại của mình và nó đã là xung đột. Tốt hơn cả là ra đi ngay từ đầu."

Một kinh nghiệm vô cùng là đi tới phòng đăng kí kết hôn và quan sát điều đang diễn ra ở đó hàng ngày. Một người đàn ông, chín mươi nhăm tuổi, tới phòng đăng kí kết hôn cùng vợ mình, chín mươi ba tuổi. Họ muốn li dị. Hộ tịch viên không thể nào tin được vào điều đó. Ông ta nói, "Ông bà đã kết hôn khi nào vậy?"

Người đàn ông nói, "Lâu quá rồi từ hồi trước, có lẽ đến bảy mươi năm trước rồi sao? Nhưng chúng tôi không chắc chắn. Dường như là với cách chúng tôi đang sống trong phiền não và xung đột liên tục, dường như là chúng tôi đã kết hôn từ vĩnh hằng. Tôi không thể nghĩ được vào lúc nào trong quá khứ lúc tôi còn chưa kết hôn với bà này."

Quan toà nói, "Nếu ông đã xoay xở được lâu thế rồi, bây giờ vấn đề chỉ là vài tháng nữa, cũng có thể vài năm. Ông bà đang ở chỗ cuối của con đường rồi. Bây giờ phỏng có ích gì nữa? Và nếu ông bà muốn li dị bởi vì phiền nhiễu và tranh đấu, thì sao ông bà không làm điều đó từ trước?"

Họ cả hai đều nói, "Chúng tôi đợi cho tất cả con cái của chúng tôi chết đi đã. Hôm nay đứa con trai cuối cùng đã chết; bây giờ chúng tôi được chấm dứt. Bây giờ, ít nhất trong vài tháng hay vài năm, chúng tôi có thể sống an bình. Chúng tôi đã chờ đợi và chờ đợi mãi, và cứ hi vọng rằng một ngày nào đó tất cả đều chết để cho chúng tôi không bỏ rơi con cái mình. Chúng tôi đã chịu đựng đủ mọi loại phiền não, nhưng hi vọng này rằng một ngày nào đó chúng tôi có thể li dị đã giữ cho chúng tôi sống. Bây giờ đừng từ chối chúng tôi nữa. Chúng tôi đã sống cả đời chỉ vì việc li dị này, chỉ để có vài khoảnh khắc độc lập, tự do."

Mọi sự trở nên khó khăn bởi vì bạn đòi hỏi và trông đợi điều gì đó phi tự nhiên. Bạn không thể làm cho bất kì cái gì thành thường hằng trong thế giới này, bất kì mối quan hệ nào. Khoảnh khắc bạn cố gắng làm cho mọi thứ thành thường hằng, bạn lâm vào vũng rắc rối một cách không cần thiết, bởi vì nó đi ngược lại tự nhiên. Tự nhiên là một luồng. Chuyển động, và liên tục chuyển động là chính bản chất của nó. Chỉ một điều không chuyển động, và đó là chính trung tâm của bạn.

Cho nên trước hết bắt rễ sâu sắc vào trung tâm của bạn, và cuộc sống của bạn sẽ nở hoa trong hàng nghìn bông hoa. Cuộc sống có thể là vui sướng thế nếu bạn không đòi hỏi điều gì ngược lại với tự nhiên. Ở trong buông bỏ đi. Mọi sự đều thay đổi - thì cứ để cho chúng thay đổi đi. Cho phép chúng, giúp chúng thay đổi. Nhưng nhớ: một điều không bao giờ thay đổi và đó là thực tại nguyên thuỷ của bạn. Cái đó là đủ. Bạn an toàn, an ninh; bạn không cần bảo hiểm gì khác.

Maneesha đã hỏi:

Osho ơi,

Chúng tôi được bảo rằng việc tham dự toàn bộ của chúng tôi vào trong Yaa-Hoo là cần cho công việc của Thầy với chúng tôi. Có phải là đỉnh cao của âm thanh trong Yaa-Hoo, và kinh nghiệm mạnh mẽ về im lặng trong giai đoạn cuối của thiền, đưa tới đích xác cùng chỗ - "biển tâm thức" không?

Đúng đấy, Maneesha, Yaa-Hoo thậm chí có thể đưa tới sâu hơn bởi vì Yaa-Hoo có thể trở nên mãnh liệt hơn, thành một điểm. Nó có thể đập vào, sâu bên dưới. Bạn quan sát khi bạn tạo ra âm thanh Yaa-Hoo mà xem. Nó không phải là một từ, nó không có nghĩa gì cả. Nó đơn giản là phát hiện của tôi, trong số nhiều âm thanh đã được các nhà huyền môn khác nhau sử dụng vào các thời khác nhau. Tôi đã thấy rằng Yaa-Hoo đi sâu nhất.

Nó chưa bao giờ được sử dụng cả. Hoo thì đã được dùng; nó đã được dùng như một phần của Allah-Hoo. Nếu bạn lặp lại "Allah," vốn là tên mà người Sufi đặt cho Thượng đế - nếu bạn lặp lại nó liên tục, Allah, Allah, Allah, thì chẳng mấy chốc bạn sẽ thấy nó trở thành "Allah-hoo, Allah-hoo, Allah-hoo Allah-hoo." Thế rồi người Sufis vứt bỏ "Allah." Không có nhu cầu, bạn có thể chỉ hô lên "Hoo" và nó đập vào chính trung tâm của con người bạn.

Nhưng phát hiện của tôi là ở chỗ "Hoo" chỉ chạm tới con người bạn và ngay lập tức quay lại. Nó không đi sâu, như mũi tên, xuyên thấu. Bởi điều đó, kinh nghiệm của tôi với Yaa-Hoo đã làm cho tôi tuyệt đối chắc chắn rằng nó đi sâu nhất vào trong bạn. Nó đi như lưỡi kiếm. Điều đó tất cả tuỳ thuộc vào việc thực hiện nó với sự mãnh liệt, khẩn thiết, toàn bộ thế nào.

Nó không phải là mật chú. Nó đơn giản dùng âm thanh để đạt tới cái im lặng vô âm. Sau Yaa-Hoo bạn được bỏ lại trong im lặng sâu sắc. Cho nên đó là phần công việc của tôi lên bạn, và khi bạn đi sâu hơn vào trong nó, bạn sẽ thấy thay đổi xảy ra cho bạn.

Bây giờ là lúc cho Sardar Gurudayal Singh. Nếu Sardar Gurudayal Singh rời bỏ thân thể vật chất của mình, anh ấy sẽ tới như mọt linh hồn, linh hồn thiêng liêng, chỉ để giúp tất cả những người này với tiếng cười toàn bộ.

Bạn đừng cười hời hợt, bởi vì điều đó làm phí thời gian. Cười một cách toàn bộ nhất có thể được, đem toàn bộ tâm thức của bạn vào trong nó. Chuyện đùa chỉ là để lẩy cò cho bạn.

Chẳng mấy chốc tôi sẽ phải vứt bỏ chuyện cười, bởi vì tôi phải đã kể nhiều chuyện cười hơn bất kì ai khác trong toàn bộ lịch sử con người. Trong thực tế, tôi đã kể nhiều chuyện cười hơn là chúng đang có! Cho nên chẳng chóng thì chầy chúng ta phải thay đổi kĩ thuật này, từ chuyện cười sang tiếng cười tự phát.

Sao phí thời gian không cần thiết với chuyện đùa khi mà chúng ta có thể cười mà không có nó? Chính là để dành cho Sardar Gurudayal Singh mà tôi đang trì hoãn, ngày nọ tiếp ngày kia, bởi vì anh ấy già rồi và bất kì lúc nào anh ấy cũng có thể chết. Ít nhất trong thời gian sống của anh ấy, tôi nghĩ cứ tiếp tục chuyện đùa đi. Dầu sao đi chăng nữa, khi anh ấy không ở đây thì cũng sẽ có lúng túng để kể chuyện đùa mà thiếu anh ấy.

Đó là ngày nghỉ cuối tuần lễ tạ ơn, ngày nghỉ toàn quốc lớn ở Mĩ, và tại cuộc đi chơi dã ngoại hàng năm của Sons of Columbus, ông Risotto đứng dậy và đưa ra một thông báo.

"Và-a từ bây giờ," ông ta nói, "là dành cho người đoạt giải thưởng lớn-a! Cái bánh táo đẹp này do bà Alucchi làm ra!"

Ông Piesta đang đứng cuối của cuộc đi chơi dã ngoại có hơi say, nói to lên, "Đéo bà Alucchi!"

"Ah!" Ông Risotto nói. "Đó là giải thưởng thứ hai-a!"

Một người Anh, một người Italia và một người Đức đi thám hiểm rừng rậm Amazon ở Brazil, thì họ bị những kẻ ăn thịt người bắt. Họ bị trói vào cọc tre và được mang tới "Spoon-em-out," đầu bếp của làng.

"Hừ!" Spoon-em-out nói, vừa chọc vào các thân thể trần trụi đó một cách thành thạo. "Tôi nghĩ rằng chúng ta không thể nấu cả bọn họ được cùng lúc trong món súp được. Nhưng gã này," anh ta nói, vừa thọc vào người Italia, "chúng ta có thể ăn cho bữa tối nay. Anh ta vừa đủ mỡ để chiên lên ngay lập tức.

"Còn gã này," Spoon-em-out tiếp tục, thọc mạnh vào người Anh, "chúng ta có thể luộc lên cho người ốm. Gã ta không có muối và gần như không có vị gì, giống như đậu phụ!

"Còn gã này," Spoon-em-out nhăn nhó, nhìn trừng trừng vào người Đức, "chúng ta sẽ ngâm trong nước một tuần. Thế thì gã ta có thể đỡ dai và dễ tiêu hoá hơn!"

Sidney Silicon, một thanh niên San Francisco có nhiều hoài bão, đang chạy chậm trên con đường mờ sương buổi sáng quanh vịnh.

Anh ta lạc đường trong sương mù, tới quá gần bờ vực, trượt chân và ngã khỏi mỏm đá. Anh ta xoay xở tóm được một cành cây nhỏ, còn bám lơ lửng, và anh ta bị treo ở đó, lơ lửng trong không trung.

"Cứu tôi với!" Sidney la lên. "Có ai ở đó không đấy?"

Chỉ có im lặng kéo dài, và thế rồi một tiếng nói to oang oang phía trên, "Có đây, con ta, ta đang ở đây. Ta là Thượng đế! Cứ buông nhành cây đó đi và các thiên thần của ta sẽ đón lấy con và đưa con lên thiên đường."

Vài giây trôi qua, và thế rồi Sidney lại hét lên, "Có ai ở đó không đấy?"

"Con ta," tiếng nói từ phía trên lại oang oang, "Ta đã bảo con rồi, ta là Thượng đế và ta đang ở đây! Tin vào ta đi!"

"Tôi biết rồi," Sidney nói, "rằng ngài đang ở đó. Những chẳng lẽ không còn ai khác ở đó sao?"

Nivedano...

(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

Nivedano...

(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại, cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng. Bây giờ nhìn vào bên trong, với toàn bộ tâm thức của bạn, với thôi thúc lớn lao, dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng của bạn. Giống như mũi giáo, cứ xuyên thấu vào trung tâm.

Khoảnh khắc mà bạn ở trung tâm, bạn là phật. Bản tính phật này là điều duy nhất còn lại mãi mãi. Việc chứng kiến là cái tên khác của bản tính phật. Vẫn còn không dao động tại trung tâm và chứng kiến bất kì cái gì tới trước tấm gương. Để làm cho điều đó rõ ràng hơn,

Nivedano...

(tiếng trống)

Thảnh thơi đi. Chỉ chứng kiến: bạn không là thân thể, bạn không là tâm trí. Bạn chỉ là nhân chứng. Kinh nghiệm này về việc chỉ là nhân chứng là điều chúng ta gọi một cách biểu dụ là phật. Khi im lặng trở thành sâu sắc hơn, khi sự tách biệt của bạn với sự tồn tại biến mất... khi Thính phòng Phật này chỉ chứa tâm thức như một đại dương, buổi tối nay trở nên đẹp cực kì. Nó trở thành lễ hội.

Hàng nghìn bông hoa sẽ mưa rào lên bạn. Bạn thu lấy thật nhiều hương thơm, thật nhiều hoa nhất có thể được, để đem lại. Dần dần, bạn phải đem phật quay trở lại chu vi của bạn. Trong mọi hoạt động của bạn, trong mọi cử chỉ của bạn, mọi lời nói, mọi im lặng, bạn phải biểu lộ ra phật. Đây là thành tựu cao nhất trong sự tồn tại. Đem thật nhiều nhất tự tính của bạn.

Nivedano...

(tiếng trống)

Quay lại, nhưng nhớ: chuyển động của việc ngồi dậy phải là chuyển động của phật - an bình, duyên dáng, cái đẹp của chính nó. Phúc lạc, duyên dáng, ngồi vài khoảnh khắc chỉ để hồi tưởng lại nơi bạn đã từng ở, chỉ để hồi tưởng con đường vàng bạn đã du hành qua để tới trung tâm và quay lại. Việc thiền của bạn phải trở thành chính nhịp tim của bạn. Hai mươi bốn giờ một ngày bạn phải tự nhắc nhở: không cái gì xảy ra qua bạn mà lại không phù hợp với phật. Và chẳng mấy chốc bạn sẽ thấy biến đổi lớn xảy ra.

Được chứ, Maneesha?

Vâng, thưa Thầy kính yêu.

Xem Tiếp Chương 8Quay Về Mục Lục


Đọc Miễn Phí Sách Osho - Download Sách Osho PDF

Nghe Miễn Phí Sách Nói Osho Hoặc Download ê

0 Đánh giá

Ads Belove Post