Read more
Thiền - Sét Kim cương - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 7. Cuộc sống không là từ điển
Osho kính yêu
Khi Nham Đầu từ biệt
Đức Sơn, Đức Sơn nói, "Đi về đâu?"
Nham Đầu nói,
"Tạm từ hoà thượng hạ sơn, thưa thầy."
Đức Sơn nói,
"Sau đó làm gì?"
Nham Đầu nói,
"Chẳng quên thầy, thưa thầy."
"Nương vào đâu
mà ông nói lời này?" Đức Sơn hỏi. Nham Đầu nó, "Đâu chẳng nghe: ‘Trí
vượt hơn thầy mới kham truyền trao, trí ngang bằng thầy, kém thầy nửa đức.’"
Đức Sơn nói, "Đúng thế! Đúng thế! Phải khéo hộ trì."
Maneesha,
trước khi tôi thảo luận về giai thoại này được đặt trước tôi, tôi có vài điều
khẩn thiết cần nói.
Thứ
nhất: một trong những kẻ thù rất thân thiết và cổ đại của tôi, cựu thủ tướng
Morarji Desai, đã bị Toà thượng thẩm tống ra khỏi nhà ông ấy ở Bombay. Vào tuổi
của ông ấy - ông ấy phải hơn chín mươi... Ông ấy đã chiếm ngôi nhà này, Oceana,
trên đường Marine Drive, trong hai mươi hai năm một cách bất hợp pháp. Khi ông ấy
còn đương quyền, người chủ của ngôi nhà đã không thể làm được bất kì cái gì,
nhưng bây giờ ông ấy không còn quyền lực nữa. Ông ấy khóc trước phương tiện
thông tin đại chúng, nói, "Tôi đã bị làm thành vô gia cư."
Tôi
muốn mời ông ấy tới là một phần của đạo tràng của tôi ở đây, với hai điều kiện.
Thứ nhất, ông ấy phải trải qua phép thử AIDS và tạo ra chứng nhận âm tính. Thứ
hai, ông ấy phải bỏ thói quen cũ bẩn thỉu về uống nước đái - điều đó bị cấm ở
đây. Ông ấy có thể mang bánh xe quay, nó là hồn nhiên; và chúng tôi sẽ không
yêu cầu ông ấy làm bất kì cái gì khác - ông ấy có thể cứ quay bánh xe cả ngày lẫn
đêm. Chúng tôi sẽ cung cấp cho ông ấy mọi tiện nghi có thể được, cho dù khi ông
ấy còn đương quyền ông ấy đã thường xuyên cố gắng phá huỷ đạo tràng này, mà
không biết rằng đến cuối cùng duy nhất đạo tràng này sẽ cung cấp nhà cho ông ấy.
Cuộc
sống lấy bước ngoặt lạ kì.
Thứ
hai: trên khắp Ấn Độ, các báo chí và tạp chí tiến bộ và thông minh đã hỗ trợ
cho phát biểu của tôi chống lại ông Shankaracharya ở Puri. Nhưng vài kẻ hống
hách Hindu đã phê bình tôi và tôi phải trả lời họ.
Một
phê bình đã xuất hiện trong nhiều tờ báo của một người tên là Sharma. Điều buồn
cười là thấy rằng mọi người thậm chí không hiểu nghĩa của họ của họ.
Sharma
bắt nguồn từ sharman, tên của đẳng cấp brahmin thấp nhất, những người thường giết
bò trong nghi lễ tôn giáo của họ. ‘Sharman' nghĩa là ‘đồ tể'. Dầu vậy, mọi người
liên tục viết dưới cái tên Sharma, mà không biết rằng họ đang tuyên bố tính chất
đồ tể của họ và sự bạo hành xấu xa của tổ tiên họ.
Ông
ấy đã viết chống lại tôi, rằng tôi đáng phải không yêu cầu phép thử AIDS âm
tính cho ông Shankaracharya vì ông này là vô dục. Làm sao ông ấy biết? Chỉ bởi
vì ông này là người đứng đầu tôn giáo, điều đó không có nghĩa là ông này không
thể có AIDS. Thực ra, có nhiều khả năng về việc ông này có AIDS vì ông ấy là vô
dục và người lãnh đạo tôn giáo hơn bất kì nghề nghiệp nào khác.
Chính
bây giờ một sự kiện đã được chứng minh trên khắp thế giới là các tu sĩ đã được
thấy là đồng dục, và nhiều tu sĩ đang bị AIDS. Chúng ta không thể làm bất kì
ngoại lệ nào cho bất kì ai. Thực ra, ông Shankaracharya ở Puri đã tuyên bố bản
thân ông ấy là người harijan. Theo kinh sách của ông ấy, ông ấy không nên vào bất
kì đền nào - kể cả đền riêng của ông ấy. Và nếu ông ấy vào trong bất kì đền
này, điều đó có nghĩa là người harijans có thể vào bất kì đền nào trên khắp nước.
Mọi
người đã từng lừa dối... rằng chỉ bằng đổi tên... Mọi kinh sách Hindu đều gọi họ
là sudras - tiện dân - nhưng bây giờ đột nhiên họ đã trở thành ‘harijans' -
‘người được Thượng đế yêu'. Và nếu họ là những người được Thượng đế yêu, ai là
tất cả những kẻ đáng khinh khác này - năm tỉ người - trên thế giới sao? Và duy
nhất chỉ những người được Thượng đế yêu là không được phép đi vào trong đền, và
mọi người khác là được phép sao?
Tôn
giáo và chính trị cùng nhau đã từng là tai hoạ lớn nhất cho nhân loại. Không một
chính khách nào đã nói chống lại các phát biểu của ông Shankaracharya vì họ sợ
rằng nếu người harijans tách ra khỏi người Hindus - mặc dầu người Hindus trong
nhiều nghìn năm đã giữ họ tách rời... Không có nhu cầu giữ họ tách rời - họ
đang tách rời. Chính khách lo nghĩ, không về đền, không về kinh sách - mà vì
người harijans chiếm một phần tư phiếu bầu của người Hindu. Nếu họ đi ra khỏi
toán Hindu, các chính khách này sẽ ra khỏi quyền lực.
Họ
hoàn toàn im lặng về vấn đề quan trọng như vậy, và thay vì bắt các tu sĩ đã
ngăn cản người harijans vào Nath Dwara, người harijans đã bị bắt. Và dầu vậy những
chính khách và tu sĩ này vẫn muốn người harijans vẫn còn là một phần của xã hội
Hindu.
Có
giới hạn cho mọi thứ. Điều này là quá đáng - quá vô nhân! Họ không thể đọc kinh
sách Hindu. Họ không thể chạm vào người Hindus - thậm chí không chạm vào cái
bóng của họ. Họ không thể vẫn còn ở trong thành phố - họ phải sống bên ngoài
nó. Họ không thể đi vào trong bất kì đền nào. Trên nền tảng nào họ được gọi là
người Hindus?
Và
anh chàng này, Sharma, đang đổ lỗi cho tôi, rằng tôi đang cố tạo ra tách rời.
Tôi không tạo ra tách rời, Sharma; chính bạn và tổ tiên bạn những người đã giữ
cho người harijans tách rời. Tôi đang cố đem họ vào trong đền. Và nếu bạn muốn
họ là một phần của chính trị của bạn, thế thì quên kinh sách của bạn đi và để
cho họ vào đền.
Ngay
cả một người như Mahatma Gandhi đã nói dối. Mặc dầu ông ấy đã viết cuốn tự tiểu
sử mang tựa đề Thực nghiệm của tôi với chân lí, ông ấy hiển nhiên không biết
chân lí; ông ấy vẫn đang thực nghiệm. Và trong khi đó ông ấy đang dùng nhiều dối
trá thế. Ông ấy đã hứa rằng tổng thống đầu tiên của Ấn Độ sau khi người Anh ra
đi sẽ là người harijan - và không chỉ là người harijan, mà là một đàn bà
harijan. Và khi Đế quốc Anh biến mất, người trở thành tổng thống chẳng phải là
người harijan cũng không là đàn bà. Người trở thành thủ tướng... Toàn thể quyền
lực vào trong tay của cùng những kẻ bóc lột đã từng áp bức đất nước này trong
nhiều thế kỉ. Từ Anh, nó chuyển vào trong tay của những kẻ bóc lột cũ, và Ấn Độ
vẫn còn trong nô lệ.
Vì
tôi đang nói sự thực, điều đó gây tổn thương.
Mahatma
Gandhi thường cầu nguyện mọi tối và sáng, "Thượng đế là một. Bạn gọi ngài
là Ram, bạn có thể gọi ngài là Allah." Nhưng điều đó chỉ để giữ người
Hindus và người Mô ha mét giáo ở cùng nhau bởi lí do chính trị. Ông ấy không
bao giờ nhắc tới Koran; ông ấy bao giờ cũng nhắc tới Gita và gọi Gita là mẹ của
ông ấy. Mặc dầu ông ấy chết rồi, tôi muốn điều cần ghi lại là Koran do đó phải
là bố của ông ấy.
Con
trai cả của ông ấy, Haridas, đã lấy một người đàn bà Mô ha mét giáo, và đã cải
đạo sang Mô ha mét giáo. Đó là phép thử thực cho sự chân thực, chính trực của
Mahatma Gandhi - và ông ấy đã thất bại trong việc đó. Ông ấy nói với vợ ông ấy,
"Haridas không được vào nhà tôi lần nữa. Và tôi không muốn thấy nó ngay cả
khi tôi chết." Truyền thống ở Ấn Độ là ở chỗ khi một người chết, con trai
cả đốt lửa cho dàn hoả thiêu. Giận của Gandhi nhiều tới mức ông ấy viết di chúc
rằng Haridas sẽ không được phép thậm chí tới gần dàn hoả thiêu của ông ấy. Ông ấy
sẽ chết, nhưng giận của ông ấy... và toàn thế giới vẫn nghĩ ông ấy là con người
của an bình; toàn thế giới vẫn nghĩ ông ấy là một mahatma, một ‘linh hồn lớn' -
không thể tin được!
Ông
ấy đã nói rằng đất nước này sẽ bị phân chia thành Ấn Độ và Pakistan chỉ trên
xác chết của ông ấy. Nhưng đất nước đã bị phân chia với sự đồng thuận của ông ấy,
và ông ấy đã hoàn toàn quên mất rằng ông ấy đã từng nói liên tục: "Trong
khi tôi còn sống, đất nước không thể bị phân chia." Ông ấy là một người chịu
trách nhiệm cho việc phân chia đất nước.
Ông
ấy cũng là người cho tiện dân cái tên ‘harijans'. Nhưng bản thân ông ấy không
bao giờ cố cho phép người harijans có chân giá trị của họ như con người, vì ông
ấy không thể bảo vệ được các đẳng cấp Hindu cao hơn. Người harijans có lẽ là
nhóm người bị bóc lột lâu nhất trên thế giới - họ bị nghiền nát hoàn toàn.
Nhưng ngay cả thủ tướng của Ấn Độ, Rajiv Gandhi, đã không nói chống lại ông
Shankaracharya. Thực ra, ông ấy sẽ đi và chạm chân ông này chỉ để thu được phiếu
bầu của người Hindu đẳng cấp cao. Hai trăm người harijans kia có thể không bị bắt
nếu không có việc biết của Rajiv. Sẽ là điều tốt khi ông Shankaracharya thu lấy
dũng cảm tới đây. Rajiv cũng được mời - vì các chính khách và tu sĩ cùng nhau
là nguyên nhân cho nghèo nàn và nô lệ của đất nước này. Nhưng họ chỉ quan tâm tới
quyền lực của họ. Tôi không phải là chính khách, nhưng họ dường như sợ tôi lắm.
Đó
là câu chuyện lạ kì nhưng ngay cả người Ấn Độ tới đạo tràng này cũng bị cảnh
sát phiền nhiễu; và đây là những cảnh sát được phái tới từ Delhi, bởi chính phủ
trung ương. Và người Ấn Độ đang bị hỏi về hộ chiếu - trong nước riêng của họ.
Điều đó là chống lại chính hiến pháp; điều đó là chống lại tự do di chuyển -
trong nước riêng của bạn mà bạn phải mang hộ chiếu! Tôi chưa bao giờ nghe nói
điều ngu xuẩn thế xảy ra ở bất kì đâu trên thế giới; nhưng Ấn Độ thực sự là
thiên tài trong việc là ngu xuẩn.
Điều
kì lạ là mặc dầu Ấn Độ đang nghèo thế, nó đang phung phí 190 triệu đô la một
năm vào quảng cáo ở các nước khác cho các khách du lịch tới Ấn Độ. Và mặt khác,
khi người của tôi tới đây họ bị làm phiền nhiễu theo mọi cách có thể. Và người
của tôi đang rót mười triệu rupees mỗi ngày vào nền kinh tế của Poona. Nếu
chính phủ còn chút thông minh, thay vì có bẩy nghìn người ở đây, có thể có một
trăm nghìn sannyasins từ khắp thế giới. Tôi muốn Poona là thủ đô của thế giới.
Nhưng bởi vì những kẻ ngốc này...
Rajiv
hoàn toàn nhận biết rằng chính tôi đã đề nghị với Indira Gandhi để huấn luyện
anh ấy là thủ tướng. Anh ấy trả thù tôi vì anh ấy biết tôi là con người. Và anh
ấy sợ và Indira nói với tôi, "Tôi có thể làm gì được? Ông thử thuyết phục
nó xem. Nó không muốn bỏ việc của nó như phi công trong Hàng không Ấn Độ."
Và
bây giờ anh ấy là thủ tướng... Khi anh ấy chỉ là phi công, anh ấy đã hỏi đi hỏi
lại để tới đây gặp tôi, để hỏi lời khuyên của tôi. Và giờ anh ấy là người đương
quyền, người cố gắng trên khắp thế giới, qua các toà đại sứ Ấn Độ, để từ chối cấp
vi sa cho bất kì người nào tới Poona. Poona đã trở thành tài sản riêng cá nhân
tôi!
Tôi
muốn toàn thế giới biết rằng nếu mọi người bị làm phiền nhiễu vì họ tới Poona,
thế thì không khách du lịch nào nên tới Ấn Độ. Thế thì để họ chịu tổn thất toàn
thể, và dẹp Bộ Du lịch đi - toàn thể bộ này là vô nghĩa. Họ đang làm những điều
mâu thuẫn: họ mời mọi người tới xem các di tích của Ajanta và Ellora và giờ họ
đang quảng cáo rất mạnh ở Nhật Bản cho các Phật tử tới Bodhgaya nơi Phật đã trở
nên chứng ngộ. Nhưng họ đang ngăn cản mọi người không cho tới đây nơi Phật vẫn
còn sống! Phật không chỉ sống - ông ấy sẵn sàng truyền đạt cùng tâm thức cho bất
kì ai có tính cảm nhận. Bodhgaya có thể không có nghĩa chút nào, nó chỉ là nấm
mồ.
Tôi
muốn các sannyasins của tôi nhận biết rằng họ không nên có tính phòng thủ theo
bất kì cách nào ở các toà sứ quán Ấn Độ. Làm cho họ nhận biết: "Chính phủ
các ông đang mời chúng tôi - mọi tấm áp phích và quảng cáo trên tivi, trên radio,
trên báo chí - và ông là ai mà ngăn cản chúng tôi?"
Hàng
trăm người đã bị cho về từ sân bay Ấn Độ, chỉ vì nghi ngờ rằng họ có thể là
sannyasins của tôi. Có lẽ nhiều người thậm chí không biết tới tên tôi. Vài
sannyasins người đã tới đã phải phủ nhận rằng họ chẳng biết tôi chút nào.
"Ông muốn chúng tôi phải biết cái gì đó về Osho trước khi chúng tôi có thể
vào Ấn Độ sao?" Họ phải hứa rằng họ sẽ không tới gặp Osho. Đây là loại sợ
hãi gì vậy? Nó là sợ chân lí; vì chính trị là nghề của dối trá, cũng như tăng lữ
vậy.
Chúng
ta phải tranh đấu trên khắp thế giới chống lại đủ mọi loại tu sĩ và đủ mọi loại
chính khách. Đó là vấn đề của chính sự sống còn của tự do trên trái đất.
Maneesha đã mang tới:
Osho kính yêu
Khi Nham Đầu từ biệt
Đức Sơn, Đức Sơn nói, "Đi về đâu?"
Nham Đầu nói,
"Tạm từ hoà thượng hạ sơn, thưa thầy."
Đức Sơn nói,
"Sau đó làm gì?"
Nham Đầu nói,
"Chẳng quên thầy, thưa thầy."
"Nương vào đâu
mà ông nói lời này?" Đức Sơn hỏi. Nham Đầu nó, "Đâu chẳng nghe: ‘Trí
vượt hơn thầy mới kham truyền trao, trí ngang bằng thầy, kém thầy nửa đức.’"
Đức Sơn nói, "Đúng thế! Đúng thế! Phải khéo hộ trì."
Trong
dịch thuật, phần có ý nghĩa nhất bao giờ cũng bị mất. Đức Sơn là thầy lớn. Nham
Đầu là học trò, thậm chí không là đệ tử, vì đệ tử không bao giờ bỏ thầy. Đệ tử trở
thành gần như một phần của chính bản thể của thầy. Có nảy sinh kết nối vô hình
giữa hai trái tim. Họ nhảy múa cùng nhau.
Nhưng
Nham Đầu phải đã chỉ là một học trò, thu thập tri thức từ thầy này, từ thầy
kia. Anh ta thậm chí không nhận biết về khác biệt giữa thầy giáo và thầy, cũng
không nhận biết về khác biệt giữa đệ tử và học trò. Học trò quan tâm tới tri thức,
đệ tử quan tâm tới hiện hữu; đệ tử chỉ muốn ở đỉnh cao nhất của tiềm năng riêng
của mình. Anh ta không muốn mang kinh sách không cần thiết trên lưng mình, anh
ta muốn hoa sen nở bên trong bản thể riêng của mình. Đệ tử không phải là học
trò. Đệ tử là người yêu. Học trò chỉ thu thập tri thức.
Đức
Sơn nói, "Đi về đâu? Nếu ông thực sự là đệ tử, không có đi, không có đến
gì nữa, vì ông đã tìm thấy tác nhân xúc tác, điều sẽ làm biến đổi bản thể ông.
Nhưng nếu ông đi, ít nhất ta có thể hỏi ông đi đâu." Chính là từ từ bi mà
Đức Sơn đang nói cho Nham Đầu, "Xin hãy hiểu cho: đi xa khỏi đây là đi xa
khỏi bản thân ông. Bởi ngẫu nhiên, ông đã tới rất gần tới việc bùng nổ, cho nên
giờ ông định đi đâu? Khi mùa xuân sắp tới, ông đi sao? Khi hoa sắp nở trong mọi
mầu sắc của chúng, ông đi sao? Ông đi đâu?"
Nham
Đầu không thể hiểu được. Học trò là rất nghèo nàn khi có liên quan tới kinh
nghiệm tồn tại.
Nham
Đầu nói, "Tạm từ hoà thượng hạ sơn, thưa thầy."
Anh
ta không biết khác biệt giữa thầy và thầy giáo; anh ta không có quyền gọi Đức
Sơn là ‘thầy'. Trong từ điển nó ngụ ý cùng điều, nhưng cuộc sống không là từ điển.
Thầy là người có thể truyền bản thể mình cho bạn, người có thể - chỉ bằng việc
hiện diện - tạo ra tình huống trong đó bạn trở thành lửa. Thầy giáo chỉ có thể
nói về điều kinh sách nói. Thầy là sự hiện diện, là im lặng. Ngay cả trong lời
thầy, thầy cũng đang cố giúp bạn đi hướng tới vô lời.
Nhưng
Nham Đầu đã trong lẫn lộn vô cùng. Anh ta nói, "Tạm từ hoà thượng, thưa thầy..."
Nếu
như tôi ở vị trí của Đức Sơn, tôi sẽ ra lệnh cho Sardar Gurudayal Singh chăm
nom anh chàng Nham Đầu này, đánh anh ta ba lần. Anh ta không thể dùng từ ‘thầy'
được, anh ta đang làm cho nó đồng nghĩa với ‘thầy giáo'.
"...
hạ sơn." Đức Sơn nói, “Sau đó làm gì? Ông sẽ làm gì dưới núi? Từ đó, ông
đi về đâu?” Nham Đầu nói, "Chẳng quên thầy, thưa thầy." Không có vấn
đề quên thầy. Đệ tử mang thầy trong tim mình, không trong kí ức. Anh ta mang cùng
ngọn lửa bên trong anh ta, không trong ý nghĩ của anh ta.
Nham
Đầu nói, "Chẳng quên thầy, thưa thầy."
Lặp
đi lặp lại, điều đang trở nên rõ ràng hơn là anh ta đơn giản là một học trò.
Đức
Sơn hỏi anh ta, "Nương vào đâu mà ông nói lời này" Ông ấy đang nói,
"Ông thậm chí còn chưa biết ta. Trên nền tảng nào mà ông nói rằng ông sẽ
không quên ta? Làm sao ông có thể quên được ai đó mà ông đã không biết? Trước
khi ông có thể quên, yêu cầu cơ bản là ít nhất phải biết. Dựa vào đâu mà ông
nói điều này?"
Nham
Đầu nói, - và đây là trích dẫn từ kinh sách Phật giáo cổ đại - "Đâu chẳng
nghe: ‘Trí vượt hơn thầy mới kham truyền trao, trí ngang bằng thầy, kém thầy nửa
đức."
Anh
ta không hiểu điều anh ta đang nói tới. Phát biểu này trong kinh sách Phật giáo
chẳng liên quan gì tới tri thức; nó có cái gì đó liên quan với việc biết. Đó là
cách mọi thứ đổi mầu của chúng trong việc dịch. Việc biết là điều có tính tồn tại,
tri thức chỉ là kí ức. Ngay cả máy tính cũng có tri thức bởi vì nó có bộ nhớ. Bằng
việc ghi nhớ kinh sách, bạn không chứng tỏ thông minh của bạn, bạn chỉ chứng tỏ
rằng bạn là cái máy tính tốt.
Kinh
sách chắc chắn nói điều này, "Nếu việc biết của đệ tử thậm chí là một nửa
việc biết của thầy anh ta, anh ta cũng có một nửa đức hạnh mà thầy anh ta có.
Nhưng nếu việc biết của anh ta vượt quá việc biết của thầy, chỉ thế thì anh ta
mới đủ phẩm chất cho việc truyền trao."
Trong
bản dịch này, mọi thứ đã trở thành đảo lộn. Bạn không thể vượt qua được việc biết
của thầy bởi vì thầy chẳng biết gì theo nghĩa tối thượng. Làm sao bạn có thể vượt
qua hư không - bạn có nghĩ có khả năng nào không? Cái gì đó có thể bị vượt qua,
nhưng hư không thì không thể bị vượt qua. Hư không là bao la và vô giới hạn,
làm sao bạn có thể vượt qua được nó?
Nhưng
Đức Sơn là một trong những thầy giáo từ bi lớn. Thay vì đánh Nham Đầu, từ từ bi
ông ấy đơn giản nói, "Vâng. Đúng thế! Đúng thế! Phải khéo hộ trì. Ta rút lại
trách nhiệm của ta với ông, giờ ông là theo cách riêng của ông, cảnh giác
vào." Thực ra điều ông ấy đang nói là, "Giờ ta không còn quan tâm tới
ông. Ông đang phá bỏ mọi cây cầu giữa ông và ta. Bất kì điều gì ông nghĩ, bất
kì cái gì ông đã hiểu, giữ nó cho chắc và cứ theo cách riêng của ông."
Không
thầy nào có thể ép buộc bất kì người nào được chứng ngộ. Không thầy nào có thể
tạo ra xiềng xích cho đệ tử. Không thầy nào sẽ nói, "Ở lại với ta."
Chính trái tim của đệ tử mới muốn còn ở lại. Nó không phải là mệnh lệnh từ phía
thầy, nó là yêu từ phía đệ tử. Nó là chuyện tình lớn, ‘việc trọng đại'. Bạn có
thể hiểu điều đó vì bạn không phải là học sinh và đây không phải là đại học.
Đây đơn giản là việc tụ tập của những người tìm kiếm người đã rơi vào yêu thầy,
người đã nhận ra trong trái tim sâu thẳm nhất của họ rằng đây là chỗ họ thuộc
vào.
Nhưng
nó không phải là mệnh lệnh. Từ phía tôi, bạn là tuyệt đối tự do. Nếu không ai tới
đây, tôi sẽ vẫn tới mọi tối để nói cho tre. Chính quyết định của bạn là ở đây
hay không ở đây. Nhưng Đức Sơn từ bi, vẫn nói rằng, "Nếu ông bỏ đi, thế
thì phải cảnh giác. Ông có thể lạc lối rất dễ dàng. Ông đã không hiểu bất kì cái
gì."
Một
bài cú của Boryu:
Mây trên sen -
nó cũng
thành phật.
Tôi
thích bài cú này đặc biệt cho loạt bài này. Nó chuyên dành cho mây. Mây trên
sen - nó cũng thành phật. Là phật là quyền của mọi người. Nếu bạn không khẳng định
nó, đó chỉ là lỗi của bạn. Nhận ra nó và sống nó và bạn sẽ đột nhiên ngạc nhiên
rằng mọi thứ trong cuộc sống của bạn đang thay đổi - chỉ từ việc nhận ra rằng bản
thể bên trong của bạn đã là phật, đã thức tỉnh. Nhưng bạn đã không chăm nom.
Từ
tiếng Anh ‘ignorance-dốt nát' là hay, nhưng không theo nghĩa mà nó thường được
hiểu. Với tôi nó có nghĩa việc dốt nát là phật tính của bạn. Đó là dốt nát, dốt
nát duy nhất. Việc dốt nát về phật tính của bạn - dốt nát duy nhất; việc biết
phật tính của bạn - tri thức duy nhất.
Bài
kệ của Saigyo viết:
Nó là gì
tôi không biết;
nhưng với sự biết ơn
nước mắt tôi rơi.
Mới
hôm nay, Leela đã gửi một câu hỏi cho tôi: "Những người đang tập thiền Hoa
hồng huyền bí trong giai đoạn thứ ba, người quan sát trên đồi - có thể bắt đầu
cảm thấy nước mắt tới mà chẳng có lí do nào cả. Cái gì phải được làm về
nó?"
Leela,
không cái gì phải được làm về nó. Điều này đơn giản là đẹp. Những nước mắt này
không phải từ đau. Những nước mắt này của mọi người trong im lặng là từ biết
ơn. Đây chính là hoa, chúng đang rót vào chân của bản thân sự tồn tại. Hân hoan
trong nước mắt của họ đi.
Nhớ
lấy lời này của Saigyo - một thiền sư lớn - Nó là gì, tôi không biết; nhưng với
sự biết ơn nước mắt tôi rơi.
Maneesha đã hỏi:
Osho kính yêu, người
không thể vượt qua,
Thầy có đồng ý rằng
các đệ tử của thầy sẽ chỉ chứng tỏ bản thân họ khi họ vượt qua thầy không? Hay
chúng tôi cần chỉ vượt qua bản thân chúng tôi?
Khoảnh
khắc, Maneesha, bạn vượt qua bản thân bạn... thế thì không có bạn và không có
tôi. Khi đệ tử vượt qua bản thân mình, có gặp gỡ lớn của tâm thức; cũng như khi
những người yêu gặp gỡ, nó là trạng thái người yêu, gặp gỡ của các thân thể. Thầy
và đệ tử gặp gỡ ở chiều cao nhất - như tâm thức thuần kiết, như hai đám mây hội
nhập vào với nhau. Không có vấn đề vượt qua thầy, vì khi bạn đã vượt qua bản
thân bạn, bạn sẽ không tìm thấy bất kì thầy nào, bạn sẽ không tìm thấy bất kì đệ
tử nào. Bạn sẽ chỉ tìm thấy tâm thức thuần khiết mà là cái một.
Trước
khi chúng ta đi vào trong tâm thức một này, vài tiếng cười nhỏ, chỉ để làm cho
cuộc hành trình thêm chút ánh sáng.
Bà
già Bathead và bà Kooch gặp nhau vào ngày nghỉ và đang ngồi trên hiên của khách
sạn Catskill Mountain.
"Ồ
lạy trời!" bà Bathead kêu lên. "Nhìn thằng bé kia. Bà đã bao giờ thấy
cái mũi vẹo lớn thế không? Và cái mồm méo khổng lồ thế? Và nhìn đấy - nó còn mắt
lác nữa!"
"Điều
đó," bà Kooch nói, "xảy ra cho con tôi."
"Vậy
hả," bà Bathead nói, "về nó, điều đó có vẻ rất hợp."
Kowalski
và Nurdski lảo đảo ra khỏi quán rượu, loạng choạng qua cột đèn, kéo khoá quần,
lôi các thứ ra tay và bắt đầu tè.
Một
cảnh sát thấy họ đứng đó, bước tới và nói, "Này, hai anh! Cất các thứ đó
đi và dừng điều các anh đang làm. Các anh nghĩ các anh đang ở đâu, Ấn Độ
sao?"
Hai
người Polacks tuân lệnh đóng quần lại. Nhưng khi viên cảnh sát đã đi rồi,
Kowalski bắt đầu cười.
"Cái
gì vui thế?" Nurdski hỏi.
"Tớ
lừa thằng cảnh sát đó," Kowalski nói, "tớ cất nó đi, nhưng tớ không dừng!"
Jemima
và Beulah thò ra ngoài phía trước hiên.
"Cậu
có nghe nói về bà Berrypatch sinh tư không?" Jemima nói.
"Này
chúng là cái chết tiệt gì vậy?" Beulah kêu lên.
"Ngu
thế!" Jemima nói. "Đó là khi cậu có bốn con trong một lần sinh. Và tớ
nghe nói rằng điều đó chỉ xảy ra một lần trong sáu mươi nghìn lần!"
"Trời
cao đất dầy!" Beulah tru chéo. "Khi nào cái bà chết tiệt đó làm xong
việc nội trợ đây?"
Trong
thế giới điên khùng này, để vài phút lành mạnh bây giờ. Nivedano, cho tiếng trống
và mọi người phát rồ.
(Tiếng
trống)
(Nói
lắp bắp)
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Im
lặng.
Nhắm
mắt lại.
Để
thân thể bạn trở nên gần như đông cứng,
không
chuyển động.
Thu
tâm thức bạn vào bên trong.
Ngày
càng sâu hơn,
không
sợ gì,
vì
nó là bầu trời riêng của bạn
và
không có mây, không chướng ngại.
Cứ
đi như mũi tên, vào trong và vào trong.
Tại
khoảnh khắc này bạn là phật.
Nhớ
lấy nó, canh giữ nó,
vì
nó là kho báu tối thượng của bạn.
Đây
là chiều cao của bạn, đây là chiều sâu của bạn.
Đây
là bạn trong vĩnh hằng của bạn.
Để
làm cho điều đó rõ ràng hơn, Nivedano...
(Tiếng
trống)
Thảnh
thơi, buông bỏ.
Là
chết, để cho bạn có thể cảm thấy tương phản
giữa
thân thể và tâm thức.
Thân
thể chỉ là ngôi nhà tạm thời,
nhà
trọ, ở lại một đêm.
Đến
sáng chúng ta phải đi.
Nhưng
tâm thức là cuộc hành hương vĩnh hằng,
cuộc
hành trình không có bắt đầu
và
không có kết thúc nào.
Nó
là cuộc hành trình của nhảy múa
và
bài ca và âm nhạc và thơ ca,
cuộc
hành trình lễ hội,
lễ
hội không có lí do nào.
Chỉ
hiện hữu là đủ.
Tại
khoảnh khắc này, bạn làm chỗ này
thành
chỗ linh thiêng nhất trên thế giới.
Nhiều
chư phật thế,
nhiều
người thế
được
định tâm trong bản thể của họ,
toàn
thể khu vườn đầy hoa hồng.
Uống
nó thật sâu.
Nó
là chính nước cam lồ của tính bất tử của bạn.
Nivedano...
gọi mọi chư phật trở lại.
(Tiếng
trống)
Ngồi
xuống trong vài khoảnh khắc,
nhớ
lại,
hân
hoan,
hồi
tưởng lại chỗ bạn đã ở.
Canh
chừng hai mươi bốn giờ.
Vẫn
còn là vị phật,
tỉnh
táo, nhận biết, vui vẻ;
phúc
lạc tới mức ngay cả người khác
cũng
có thể bắt đầu cảm thấy phúc lạc của bạn.
Được
chứ, Maneesha?
Vâng,
Osho.
Chúng
ta có thể mở hội việc gặp gỡ của nhiều chư phật thế không?
Vâng,
Osho.
0 Đánh giá