Read more
Thiền - Sét Kim cương - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 8. Để tên tôi là hành khách
Osho kính yêu,
Khi còn là sư, Minh
Tông ghé thăm thầy Huệ Minh, tại Saijo, và hỏi, "Lối vào cho học trò là
gì?"
Huệ Minh nói,
"Lại đây!"
Khoảnh khắc Minh
Tông lại gần ông ấy, Huệ Minh tóm lấy sư này và đẩy ông ấy ra, vừa nói,
"Không có lối vào cho ông ở đây!"
Khi Minh Tông đứng dậy,
cảm thấy hoài nghi bất thần nảy sinh; và cả ngày lẫn đêm anh ta không thể vứt bỏ
nó được.
Huệ Minh bí mật biết
rằng Minh Tông là pháp khí, và rồi sau đó đuổi anh ta ra khỏi đền với cái cớ là
anh ta đã vi phạm qui tắc.
Minh Tông không cảm
thấy oán giận, nhưng không để bất kì ai khác biết, thuê một phòng gần tu viện
và ẩn ở đó. Trong sáu năm anh ta không bao giờ được tha thứ, và chỉ ngồi đối diện
với tường suốt ngày đêm. Công việc thiền của anh ta tinh tiến dần, cho tới khi
anh ta đạt tới điểm quên ngủ hay ăn.
Một hôm khi anh ta đứng
bên cạnh chỗ quây bò, anh ta đột nhiên có sáng suốt; anh ta lập tức đi tới khu
của chủ toà đầy tự nhiên.
Huệ Minh quát anh
ta, "Ai cho phép anh vào bên trong đền?"
Minh Tông nói,
"Ở đây, lối vào rộng mở."
Huệ Minh cười và
nói, "Kẻ cắp đã phá vỡ cửa của ta!" và thầy cúi mình.
Từ đó trở đi, Minh
Tông làm việc như người hầu cá nhân của Huệ Minh, đi sâu hơn vào trong điều huyền
bí mọi ngày.
Về sau trong cuộc đời
mình, Minh Tông bắt đầu dạy, từ lâu trước khi tên tuổi của ông ấy lan xa và rộng,
và dẫu sao cũng phải nói đã có cả nghìn người vây quanh chỗ dạy của ông ấy.
Một hôm, khi ông ấy
hơi bị ốm ông ấy đánh trống để gọi cộng đồng. Khi mọi người đã tụ hội, thầy
nói, "Giáo huấn của ta đang đi tới kết thúc, ta đang làm chúc thư để lại
cho các ông." Thế rồi ông ấy giơ phất tử lên; hét lên một tiếng và chết đứng.
Maneesha,
những giai thoại này thuộc về một chiều hướng khác mà thế giới này đã hoàn toàn
quên lãng. Nó là một ngôn ngữ khác toàn bộ, một hiểu biết khác, một loại mở
khác của những điều huyền bí của sự tồn tại. Trong những giai thoại đơn giản
này bạn sẽ thấy thế giới mà chúng ta đã đánh mất, và thế giới mà chúng ta muốn
tạo lại. Đây là người đã đạt tới những đỉnh tối thượng của tâm thức vào thời xa
xưa trong quá khứ, và đây là người lại được cần tới để cho toàn thể cái ngu xuẩn
của thế giới này - các chính khách của nó, các tu sĩ của nó - tất cả có thể bị
tan biến đi và thế giới lại có thể nhảy múa với niềm vui và hân hoan trong yêu.
Tôi
may mắn có một hội chúng đúng; bằng không những giai thoại này sẽ không có bất
kì nghĩa nào - vì bạn cũng đang tìm cùng cánh cửa, tất cả các bạn đều là người
trong việc tìm kiếm này, bị tan biến vào trong im lặng sâu sắc. Chỉ im lặng này
mới có thể hiểu, vì từ im lặng này những giai thoại này đã nảy sinh - im lặng
này là cội nguồn của chúng. Mây là nhân chứng; tre là nhân chứng; bạn trong im
lặng của bạn là nhân chứng. Đây là những câu chuyện của bạn. Cho nên tôi nghĩ rằng
các bạn không đọc hư cấu nào đó. Nó đơn giản là hướng dẫn để chỉ cho bạn con đường
đi vào trong bản thể riêng của bạn.
Con
người là hoàn toàn vô dụng, cuộc sống của người đó không có nghĩa, yêu của người
đó là vô tích sự, nếu bản thân người đó không nhận biết về ai đang cư ngụ bên
trong. Tất nhiên, thân thể không là bạn, tâm trí cũng không; có cái gì khác
đang chứng kiến cả tâm trí và thân thể. Khơi gợi nhân chứng đó là toàn thể nghệ
thuật của bất kì thầy nào, và những giai thoại này là về các thầy vĩ đại.
Khi
còn là sư, Minh Tông ghé thăm thầy Huệ Minh, tại Saijo, nơi là tu viện của thầy,
và hỏi, "Lối vào cho học trò là gì?"
Đó
là câu hỏi sai để hỏi thầy. Thầy không phí thời gian cho bất kì học trò nào. Cuộc
sống của thầy là cuộc sống cuối cùng; thầy sẽ không quay lại lần nữa. Thời gian
của thầy quí giá hơn thời gian của bất kì người nào khác. Những người mù sẽ được
sinh ra nữa, những người vô ý thức sẽ đi vào bụng mẹ khác - sự tồn tại rất nhân
từ, nó cho bạn vô hạn cơ hội để trở thành phật - nhưng với những người trở nên
được thức tỉnh, không có nhu cầu về kiếp sống khác, không có nhu cầu đi vào
trong thân thể khác. Họ có thể bồng bềnh như mây trắng.
Nhớ
Ba Tiêu:
Mây
trên sen...
Và
im lặng...
Điệu
vũ này của mưa quanh bạn, và tim bạn hân hoan... im lặng, mát mẻ.
Bạn
không là học trò; học trò chỉ quan tâm tới tích luỹ thông tin. Nhớ hai từ này:
thông tin và biến đổi. Học trò tìm kiếm nhiều thông tin hơn, thu thập nhiều tri
thức hơn. Thế giới cho kính trọn lớn với người có học thức.
Đệ
tử đã lấy một hướng tuyệt đối ngược lại; người đó không muốn biết, người đó muốn
hiện hữu. Người đó không muốn thu thập tri thức; người đó muốn có mắt có thể thấy
và tai có thể nghe - người đó muốn sự nhạy cảm tuyệt đối. Nói cách khác, người
đó muốn toàn thể bản thể người đó trở thành ngọn lửa của nhận biết. Trong ngọn
lửa đó mọi thứ là rác rưởi sẽ bị thiêu cháy và bạn sẽ đi ra là vàng hai mươi tư
ca ra. Đó là chính bản tính của bạn trong sự thuần khiết hoàn toàn của nó.
Minh
Tông đã hỏi câu hỏi sai từ chính lúc ban đầu: "Lối vào cho học trò là
gì?" Không có lối vào cho bất kì học trò nào. Không có khả năng nào cho việc
gặp gỡ giữa thầy và học trò. Thầy sẽ nói từ chiều cao của Himalayas và học trò
sẽ lang thang đâu đó quanh đường M.G. Road. Khác biệt này thậm chí còn lớn hơn,
vì ngôn ngữ của chiều cao là khác toàn bộ.
Huệ
Minh nói... Trông đó, đây là cách ngôn ngữ là khác. Đây không phải là câu trả lời
cho câu hỏi khi có liên quan tới giáo dục hiện đại, logic, hay trí tuệ, nhưng
Thiền không lo nghĩ chút nào về logic, về Aristotles.
Huệ
Minh nói, "Lại đây! - đừng hỏi câu hỏi ngu xuẩn - Lại đây! Đây là cửa. Đừng
hỏi bất kì lối vào nào; cửa bao giờ cũng mở - thực ra, không có cửa."
Tôi
đã kể cho bạn về người đàn bà huyền bí Sufi, Rabiya al-Adabiya. Bà ấy là người
đàn bà hiếm hoi, theo nghĩa là rất ít đàn bà đã đạt tới chiều cao đó. Bà ấy thuộc
vào loại chư phật. Một cách tự nhiên, bà ấy bị coi là hơi chút gàn dở, hơi chút
điên khùng, hơi chút mất trí.
Bà
ấy thường đi qua trên đường và bà ấy thấy, mọi ngày, một người Sufi mà về sau
đã trở thành một thầy lớn - Hassan - đang cầu nguyện bên ngoài nhà thờ hồi giáo
gần bậc cửa. Một hôm, Rabiya đứng lại một chốc để nhìn người này đang làm gì ở
đó. Và bà ấy nghe thấy Hassan đang nói, "Thượng đế ơi, con phải đợi bao
lâu nữa - khi nào ngài sẽ mở cửa?"
Rabiya
đánh vào đầu Hassan và nói, "Ông ngốc! Cửa bao giờ cũng mở; thực ra, không
có cửa - cứ vào đi! Đừng phí thời gian ở đây ngồi trên đường... và mọi người bắt
đầu nghĩ rằng ông là thánh nhân lớn. Cứ vào đi!"
Người
đàn bà và thẩm quyền của bà ấy là tới mức Hassan nhắm mắt lại và dừng lời cầu
nguyện của mình; ông ấy đi vào. Rabiya vỗ lưng ông ấy, và nói, "Đây là
cách đúng; cứ đi vào đi. Ta không thể đứng ở đây, ta có việc khác cần
làm."
Đến
tối, Hassan tới Rabiya để chạm chân bà ấy, nói, "Nếu bà mà không bảo tôi rằng
không có cổng, không có cửa, tôi chắc đã vẫn còn cầu nguyện hàng thế kỉ, ‘Mở cửa
ra!'"
Huệ
Minh đã không đáp lại câu hỏi một cách liên quan, nhưng về mặt tồn tại ông ấy
đã đáp lại. Điều đó chỉ dành cho những người có thể gạt tâm trí sang bên. Ông ấy
nói, "Lại đây!"
Khoảnh
khắc Minh Tông lại gần ông ấy...
Minh
Tông đã không hiểu nghĩa của ‘lại đây'. Anh ta tưởng thầy muốn anh ta tới gần
hơn. Thầy đang dùng từ ‘đây’ cho ‘khoảnh khắc này' - "Chỉ hiện hữu ở
đây!" Nhưng anh ta nghĩ, "Có lẽ thầy đang bảo mình tới gần hơn."
Khoảnh
khắc Minh Tông lại gần ông ấy, Huệ Minh tóm lấy sư này và đẩy ông ấy ra, vừa
nói, "Không có lối vào cho ông ở đây!”
Điều
đó có vẻ khắc nghiệt, nhưng nó là từ yêu thuần khiết mà thầy đã đẩy anh ta ra,
vì thầy đã không gọi anh ta về mặt vật lí lại gần thầy; thầy đã gọi anh ta về mặt
tâm lí hiện diện ở đây; và anh ta đã hiểu lầm hoàn toàn. Với học trò như thế
không có lối vào.
Khi
Minh Tông đứng dậy, cảm thấy hoài nghi bất thần nảy sinh; và cả ngày lẫn đêm
anh ta không thể vứt bỏ nó được.
Huệ
Minh bí mật biết rằng Minh Tông là pháp khí…
Thầy,
trong chính việc đương đầu đầu tiên, biết liệu bạn có thể là phương tiện không,
liệu bạn có thể là sứ giả không, liệu bản thân bạn có thể trở thành thông điệp
không - có tiềm năng hay không? Thầy đã đẩy anh ta ra chỉ bởi vì thầy biết rằng
anh ta có tiềm năng. Nhưng nếu anh ta có tiềm năng, anh ta sẽ phải chứng minh điều
đó; anh ta sẽ phải trải qua thử lửa.
Huệ
Minh biết rằng người truy hỏi này là pháp khí, rằng anh ta có thể trở thành ngọn
lửa - bạn sẽ nghĩ vì lí do này thầy đáng phải chấp nhận anh ta, thầy đáng phải
đón chào anh ta. Nhưng bởi vì điều này, thầy đã đuổi anh ta ra khỏi đền với cái
cớ là anh ta đã vi phạm qui tắc. Những qui tắc mà mọi thầy quyết định, thầy là
trọng tài; chúng chỉ là phép thử liệu một người có xứng đáng với việc thầy trút
tình yêu và tin cậy của thầy lên anh ta không.
Minh
Tông không cảm thấy oán giận - đó là một dấu hiệu tuyệt đối rằng anh ta là người
đúng; bằng không bất kì ai cũng chắc đã cảm thấy oán giận. Nếu bạn bị đẩy ra và
tống ra ngoài đền và được bảo rằng bạn không thể được vào đó, chính ý thức của
người bình thường là cảm thấy phẫn uất. Nhưng Minh Tông không cảm thấy hối hận,
không oán giận. Ngược lại, trong chính việc đẩy của thầy anh ta đã hiểu rằng
đây là chỗ mà anh ta phải ở lại. Bất kì cái gì có thể xảy ra, bất kì hậu quả
nào, anh ta sẽ không rời bỏ chỗ này. Nếu không ở trong đền, anh ta sẽ sống ở
đâu đó bên ngoài và chờ đợi khoảnh khắc đúng. Có lẽ anh ta còn chưa chín.
Đây
là khác biệt giữa học trò và đệ tử. Học trò chắc đã cảm thấy oán trách, giận dữ;
anh ta chắc đã bỏ đi trong giận dữ, không bao giờ quay lại. Đệ tử không đổ
trách nhiệm cho thầy mà hiểu rằng có lẽ mình chưa trưởng thành; anh ta đã tới
trước thời của anh ta.
Minh
Tông không cảm thấy oán giận, nhưng không để bất kì ai khác biết, thuê một
phòng gần tu viện và ẩn ở đó. Trong sáu năm anh ta không bao giờ được tha thứ,
và chỉ ngồi đối diện với tường suốt ngày đêm. Công việc thiền của anh ta tinh
tiến dần, cho tới khi anh ta đạt tới điểm quên ngủ hay ăn.
Một
hôm khi anh ta đứng bên cạnh chỗ quây bò, anh ta đột nhiên có sáng suốt; anh ta
lập tức đi tới khu của chủ toà đầy tự nhiên.
Vừa
nhảy múa, anh ta vào đền.
Huệ
Minh quát anh ta, "Ai cho phép anh vào bên trong đền?"
Minh
Tông nói, "Ở đây, lối vào rộng mở."
Anh
ta đã mất sáu năm để hiểu từ ‘ở đây'. Việc truy hỏi thế, thành tâm thế, đã đơn
giản biến mất. Con người ngày nay là rất nghèo khi so sánh với những người như
Minh Tông. Trong sáu năm thiền liên tục, anh ta đã nở thành hoa. Bản thân anh
ta đã trở thành người có thẩm quyền.
Một
cách nhảy múa, một cách tự nhiên, anh ta đi vào đền. Thầy Huệ Minh quát anh ta,
"Ai cho phép anh vào bên trong đền?"
Minh
Tông nói, "Ở đây" - và đây là cùng điều mà sáu năm trước Huệ Minh đã
nói với anh ta: "Lại đây!" - "Ở đây, lối vào rộng mở."
Huệ
Minh cười và nói, "Kẻ cắp đã phá vỡ cửa của ta!" Một phát biểu rất
đáng yêu. Người ta nói rằng chừng nào đệ tử chưa dũng cảm được như kẻ cắp, anh
ta không thể vào được tim của thầy - điều đó gần như đánh cắp.
Huệ
Minh cười và nói, "Kẻ cắp đã phá vỡ cửa của ta!" - đây là cái đẹp của
những ngày xưa đó - và thầy cúi mình xuống trước phép màu này; rằng Minh Tông
đã hiểu nghĩa của ‘hiện hữu ở đây’ và cũng đã hiểu rằng không có lối vào, không
có cửa.
Từ
đó trở đi, Minh Tông làm việc như người hầu cá nhân của Huệ Minh, đi sâu hơn
vào trong điều huyền bí mọi ngày.
Về
sau trong cuộc đời mình, Minh Tông bắt đầu dạy, từ lâu trước khi tên tuổi của
ông ấy lan xa và rộng, và dẫu sao cũng phải nói đã có cả nghìn người vây quanh
chỗ dạy của ông ấy.
Một
hôm, khi ông ấy hơi bị ốm ông ấy đánh trống để gọi cộng đồng. Khi mọi người đã
tụ hội, thầy nói, "Giáo huấn của ta đang đi tới kết thúc, ta đang làm chúc
thư để lại cho các ông." Thế rồi ông ấy giơ phất tử lên; hét lên một tiếng
và chết đứng.
Người
hiểu sống tự động hiểu chết. Người sống cuộc sống tới tính toàn bộ của nó biết
rằng khoảnh khắc chết gõ cửa, người đó sẽ được chuẩn bị cho cuộc hành trình mới.
Cầm
phất tử trong tay, đang đứng, ông ấy chết. Có lẽ ông ấy là người duy nhất đã chết
theo cách đó, mang ý nghĩa rằng ông ấy đang đi trên cuộc hành trình khác.
Ba
Tiêu đã viết:
Để
tên ta
chỉ
là hành khách;
mưa
đầu tiên.
Cơn
mưa đầu tiên đã tới. Quên tên ta vì mọi tên của chúng ta không là gì ngoài việc
viết trên cát. Cơn mưa đầu tiên đã tới và những cái tên sẽ biến mất.
Ba
Tiêu nói, "Để tên ta chỉ là hành khách." Nhiều hơn điều đó là bị đồng
nhất với phương tiện mà trên đó bạn đang du hành. Bạn có thể ở trong ô tô, bạn
có thể ở trong xe bò kéo, bạn có thể ở trong xe bus, tầu hoả hay máy bay. Chẳng
thành vấn đề phương tiện nào - bạn là hành khách. Cả nghìn lần bạn đã đổi
phương tiện ở nhiều chỗ điểm nối. Trong nhiều hình dạng bạn đã xuất hiện trên
thế giới - khi thì như cây và khi thì như bụi hồng và khi thì như đại bàng.
Sáng
tỏ phương Đông nảy sinh từ chứng ngộ không tin vào tiến hoá theo nghĩa được hiểu
bởi Charles Darwin. Nó cho sự bình đẳng cho mọi sinh linh đang sống trong sự tồn
tại. Bạn không cao siêu hơn bụi hồng. Nhưng có những kẻ ngốc, như ông
Shankaracharya ở Puri, người nghĩ rằng brahmins là cao siêu. Đó không chỉ là vấn
đề của nhân loại, ai là cao siêu và ai là thấp kém.
Mới
hôm nọ tôi nhận được một bức thư từ một kẻ ngốc khác. Tôi hấp dẫn những kẻ ngốc.
Họ không bao giờ tới đây nhưng ít nhất họ liên tục viết thư; họ không dám tới
đây. Ông ta đã viết cho tôi... ông ta là một swami của truyền thống Hindu cổ.
Ông ta thuộc vào cùng ngôi đền như ông Shankaracharya ở Puri, và thường là thư
kí của ông ấy; ông ta được giáo dục rất tốt, là người học sau đại học và có bằng
tiến sĩ văn chương, nhưng điều đó chẳng tạo ra khác biệt gì.
Ông
ta viết cho tôi, "Ý kiến của ông rằng đàn ông và đàn bà là bình đẳng là
không tương ứng với kinh sách." Ai bận tâm tới kinh sách của ông? Ngay cả
trong mơ tôi cũng không nhắc tới kinh sách của ông. Mọi điều tôi muốn là ở chỗ
chúng tất cả đều phải được thiêu đi.
Ông
ta nói, theo kinh sách, rằng đàn bà là đất, và đất có bốn mươi phẩm chất; và rằng
đàn ông có một trăm tám mươi phẩm chất. Và tất nhiên, vì nó được viết trong
kinh sách, trong mắt ông ta không có vấn đề về bất kì thảo luận nào. Nhưng với
tôi điều đó có nghĩa là nếu điều này là vậy, thế thì tốt hơn cả là ông
Shankaracharya ở Puri tự tử đi để đem mưa tới Hyderabad - vì ông ấy có một trăm
tám mươi phẩm chất. Đàn bà đáng thương chỉ có bốn mươi phẩm chất - cô ấy chỉ là
đất. Vậy sao giết đàn bà, chỉ là đống đất nhỏ, và cho nó lên dàn hoả thiêu sao?
Đó
là điều người harijans ở Hyderabad đã làm; họ đã thiêu hình nộm của ông
Shankaracharya ở Puri. Nhưng mưa đã không tới. Thiêu hình nộm hay ảnh sẽ chẳng
giúp gì - bắt con dê già thực đi.
Và
tôi nói rằng ngay cả thế mây cũng chẳng nghe. Ở đây, chúng tới nghe mà không được
mời. Chúng biết rằng ở đây có những người sẽ yêu điệu vũ của chúng, bài ca của
chúng. Cần lưu ý rằng trong quá khứ mọi mùa đều tuyệt đối cố định. Vào ngày đặc
biệt mưa sẽ tới, và vào ngày đặc biệt mùa hè sẽ bắt đầu, và vào ngày đặc biệt
mùa đông sẽ bắt đầu. Ở Ấn Độ chỉ có ba mùa; đó là phân chia bình đẳng - bốn
tháng cho từng mùa. Và nó đã là vậy trong hàng nghìn năm không thay đổi gì.
Chắc
chắn, những người đã sống trên mảnh đất này đã có sự đồng bộ nào đó với tự
nhiên. Họ thường nhảy múa và ca hát khi cơn mưa đầu tiên tới. Cũng như công múa
trong bộ lông mầu sắc, con người thường múa khi cơn mưa đầu tiên tới, để đón
chào chúng - chúng là chất nuôi dưỡng của họ. Không có chúng, không có cuộc sống.
Mọi người quen đón chào mọi mùa; mọi lễ hội ở Ấn Độ đều được dành cho các mùa -
nó là toán học khác toàn bộ.
Ba
Tiêu đang nói đúng, "Để tôi được nhớ như hành khách. Tôi đã ở trong nhà trọ
của ông qua đêm. Cám ơn ông - nhưng đừng nhớ tên tôi." Những người này,
người không có ham muốn được nhớ, thuộc vào tâm thức khác.
Buson,
nhà thơ Thiền khác, viết:
Sét
loé sáng!
Tiếng
của sương
Nhỏ
giọt xuống tre.
Cuộc
sống không bị giới hạn cho bạn.
Nó
không phải là độc quyền của bạn.
Sét
loé sáng!
Tiếng
của sương... Bạn có thể nghe thấy ngay bây giờ tiếng của sương rơi xuống tre. Tất
cả điều này là một cuộc sống: thấy nó là có con mắt đích thực, cảm nó là có tâm
thực.
Nỗ
lực của tôi ở đây là để mang sự đồng bộ này giữa bạn và sét và giọt sương và
tre. Toàn thể sự tồn tại này đập rộn ràng với một trái tim; không có vấn đề thấp
kém hay cao siêu. Charles Darwin chắc đã không hiểu nó. Không cái gì đang tiến
hoá; chỉ có những hành khách đi từ nhà trọ này sang nhà trọ khác, chỉ tận hưởng
cuộc hành hương vĩnh hằng.
Maneesha đã hỏi,
Hầu hạ có nghĩa gì?
Chúng tôi có đang hầu hạ thầy không? Hay thực ra không phải là thầy hầu hạ đệ tử
- như Jesus đã biểu tượng hoá bằng việc rửa chân cho đệ tử của mình trước khi
ông ấy chết, và khi thầy tắm cho chúng tôi trong sự hiện diện của thầy trước
khi chúng tôi chết và phục sinh mỗi đêm?
Maneesha,
sẽ khó mà hiểu được từ ‘hầu hạ'. Đệ tử hầu hạ theo nghĩa là người đó ném đi mọi
phòng thủ của mình, theo nghĩa cuộc sống của thầy trở thành cuộc sống của riêng
người đó - người đó chăm nom thầy, người nó nấu thức ăn cho thầy. Nhưng phương
Tây không có hiểu biết về hầu hạ thầy. Phương Tây chỉ biết một điều, và đó là
trả tiền cho thầy giáo. Tiền là thứ duy nhất mà học sinh trao cho thầy giáo.
Trong
hoàn cảnh phương Đông tiền không có chỗ. Hầu hạ thầy đơn giản nghĩa là làm cho
thầy thoải mái nhất có thể được; vẫn còn gần gũi thầy, tỉnh táo, không làm thầy
bận tâm, chỉ là cái bóng không tạo ra bất kì tiếng động nào. Theo nghĩa này, thầy
giáo không thể mong đợi được hầu hạ. Thầy giáo là người hầu, thầy giáo phải được
trả tiền. Mọi thầy giáo trên thế giới - họ có thể là giáo sư lớn trong các đại
học - chỉ là người hầu.
Thầy
được hầu hạ bởi tình yêu của đệ tử, không bởi tiền của đệ tử; bằng sự chăm chú,
tỉnh táo, chăm sóc của đệ tử, bằng việc quan sát liên tục rằng thầy không trong
bất kì khó khăn nào. Và thầy chắc chắn hầu hạ đệ tử từ phía thầy - chia sẻ toàn
thể trái tim thầy, mở những cánh cửa của mọi điều huyền bí. Điều thầy đã tìm ra
thầy trao cho mà không đòi hỏi bất kì đền đáp nào. Đó là chuyện tình lẫn nhau.
Thầy yêu tất cả - thầy là yêu. Đệ tử phải học yêu cột trụ yêu này, người đang
toả tình yêu của mình đi mọi hướng.
Nhưng
đừng đem Jesus vào trong thảo luận này, vì ông ấy không bao giờ là thầy. Ông ấy
tuyên bố là con trai của Thượng đế. Mọi thầy ở phương Đông đơn giản cười - con
trai của Thượng đế sao? Ngay chỗ đầu tiên, Thượng đế không tồn tại. Chỗ thứ
hai, con trai này đã tới từ đâu?
Với
các thầy phương Đông chính ý tưởng về Thượng đế là hư cấu, và các hư cấu thì
không sinh sản; chúng tin vào kiểm soát sinh đẻ.
Jesus
đơn giản là trường hợp tâm lí, chịu khổ từ điều các nhà tâm lí gọi là hoang tưởng
tự đại - là quá lớn, quá vĩ đại, và độc quyền hoá cái toàn thể. Đứa con trai
duy nhất - thậm chí không có chị em khác!
Thực
ra, nếu bạn nhìn vào toàn thể câu chuyện mà người Ki tô giáo đã từng theo, Thượng
đế té ra chỉ là ông bác là nhiều nhất, không phải bố; vì chính thánh thần linh
thiêng đã làm cho Mary Đồng trinh mang thai. Và dầu vậy bạn liên tục gọi ông ta
là ‘linh thiêng’ - ông ta là tội phạm. Nếu ông ta là linh thiêng, thế thì nhiều
người chắc đã thích được là linh thiêng. Đó chắc là điều rất đơn giản: không cần
cầu nguyện, không cần đi tới nhà thờ - chỉ tìm cô gái đáng thương và làm cho cô
ấy mang thai và tên bạn sẽ được in trên mọi báo là ‘Ông này ông nọ Linh
thiêng'. Đây là cái loại linh thiêng gì vậy?
Và
ngu xuẩn chồng ngu xuẩn... Người Ki tô giáo nói rằng thánh thần linh thiêng là
không tách rời khỏi Thượng đế. Vậy ông ta là gì - cơ quan sinh sản của Thượng đế
chăng? Như tôi có thể hiểu câu chuyện này, thánh thần linh thiêng là cái máy dục
của Thượng đế - và từ chuyện thông dâm này mà Jesus được sinh ra.
Mọi
điều vô nghĩa này, Maneesha, bạn không nên đem vào. Ông ấy không phải là thầy,
ông ấy cũng chẳng có đệ tử nào. Mười hai anh chàng kia mà đã đi quanh ông ấy,
người mà người Ki tô giáo gọi là tông đồ... Mới hôm nọ một nghiên cứu của các
nhà truyền giáo Ki tô giáo đã đưa ra trên thị trường, nó nêu ra câu hỏi liệu
Jesus có là đồng dục không; bằng không, tại sao ông ấy được bao quanh chỉ bởi
mười hai đàn ông? Nó nêu ra câu hỏi, chắc chắn. Dường như là một toán đồng dục
nam.
Maneesha,
tôi sẽ đem Jesus ra thử thách một lúc nào đó, thật chi tiết. Đừng mang anh
chàng đáng thương này vào câu hỏi của bạn trong khi chúng ta đang thảo luận những
điều rất có ý nghĩa.
Công
trình nghiên cứu khác từ những người Ki tô giáo chỉ ra rằng Jesus chưa bao giờ
tồn tại, rằng đó chỉ là huyền thoại. George Gurdjieff thường nói rằng đó là một
vở kịch cổ - toàn thể câu chuyện này về Jesus - và vở kịch này dần dần, dần dần
trở thành thực tại. Không có Jesus, theo George Gurdjieff.
Và
bởi vì ngay cả các nhà truyền giáo Ki tô giáo đang được tìm ra là bị bệnh từ
AIDS, họ đang phơi bày Jesus, rằng ông ấy phải đã là đồng dục. Đó là một ý tưởng
kì lạ, rằng lời nguyện vô dục không bao gồm đồng dục trong nó, rằng vô dục đơn
giản nghĩa là bạn phải không trong mối quan hệ dị dục. Chính bây giờ các tổng
giám mục của những nhà truyền giáo Ki tô giáo đang nói công khai rằng vô dục
không cấm đồng dục. Và đồng dục dã trở thành lực lớn tới mức ngay cả các chính
khách bây giờ cũng sợ nói bất kì cái gì chống lại nó.
Bản
thân tôi đã từng bị đưa ra thảo luận liên tục trong hai năm ở nghị viện Hà Lan,
nơi họ phải xét có cho phép tôi vào Hà Lan hay không. Tôi thậm chí đã không nói
với những kẻ ngốc đó rằng tôi muốn tới Hà Lan. Và lí do cho sự khăng khăng của
họ rằng tôi không thể được phép, là ở chỗ tôi đã nói chống lại đồng dục. Bạn có
thể tin được rằng toàn thể nghị viện của Hà Lan dường như là đồng dục không?
Hay có lẽ họ sợ đại đa số những cử tri đồng dục; bằng không, vấn đề là gì? Tôi
chưa bao giờ nghĩ rằng trên nền tảng đồng dục, tôi phải bị ngăn cản không cho
vào.
Đồng
dục bây giờ gần như là tôn giáo. Và những người đồng dục nghĩ rằng họ là tiến bộ
hơn người dị dục vì họ đã đi ra ngoài bản tính tự nhiên, ra ngoài sinh học. Tiến
bộ lớn lao! Mọi loại chuối, nhưng họ đang tụ tập thành lực lượng ngày càng nhiều.
Bây
giờ bản thân họ đang nói rằng nếu bản thân Thượng đế mà không vô dục, tại sao
các linh mục Ki tô giáo phải bị yêu cầu là vô dục? Điều đó có liên quan. Đúng
là Thượng đế đã phá vỡ vô dục của ngài chỉ một lần, nhưng ít nhất một cơ hội
nên trao cho mọi linh mục.
Đừng
đem những thứ như thế vào, Maneesha. Tôi đã bị kết án trên khắp thế giới; tôi sẽ
bị kết án thêm nữa nếu bạn mang những điều này vào, vì tôi sẽ nói đích xác chân
lí.
Cô ấy có câu hỏi
khác:
Osho kính yêu,
Cũng như hoá chất
nào đó được tiết ra khi làm tình, có hoá chất khác nào đó được tiết ra trong
thiền không? - vì đó là điều nó cho cảm giác thích.
Không,
Maneesha - tuyệt đối không. Thiền đơn giản có nghĩa là đi ra ngoài hoá học và vật
lí, đi ra ngoài thân thể và tâm trí. Nó chẳng liên quan gì tới hoá chất. Ý tưởng
đó đã từng được duy trì bởi những người rất thông minh như Aldous Huxley, người
tưởng rằng bằng LSD, một hoá chất, bạn có thể đạt tới chứng ngộ.
Và
bây giờ trên thị trường thế giới, thị trường đen, có hoá chất sẵn có tên là ‘cực
lạc'. Bạn uống nó và ít nhất trong sáu giờ, bạn sẽ trong cực lạc. Nhưng những
người này đơn giản đang khai thác ham muốn lớn lao, khao khát lớn lao, ‘việc trọng
đại'.
Cực
lạc không phải là hoá chất - nó là hiểu biết sâu sắc, nhận biết; và nhận biết
không được làm bằng hoá chất. Bằng không mọi thứ chắc sẽ rất dễ dàng; bạn chỉ
đi tới bệnh viện, tiêm một phát và trở thành phật. Sao làm phiền tôi một cách
không cần thiết?
Ở
đây bạn có thể mất nhiều năm - mọi ngày bạn sẽ trở thành phật và mọi ngày bạn sẽ
rơi xuống. Tôi phải đánh thức bạn dậy vì bản thân tôi phải đi ngủ. Tôi có thể để
tất cả các bạn trong nghĩa địa nhưng điều đó là nguy hiểm. Ai đó có thể chết thực
và bạn có thể không biết phải làm gì.
Vài
người chết và hồn ma của họ bắt đầu đi quanh. Tôi phải hiện diện ở đây, và tôi
giữ Sardar Gurudayal Singh tỉnh táo và sống động, để cho không ma nào - linh
thiêng hay không linh thiêng - có thể vào đây. Gurudayal Singh đáng thương phải
đợi tại cửa để ngăn cản ma. Anh ấy không cho phép bất kì ma nào từ bên ngoài đi
vào; mà anh ấy cũng không cho phép bất kì ma nào từ bên trong đi ra - "chỉ
quay lại trong thân thể riêng của bạn!" Và ma cố đi vào thân thể của ai đó
khác. Cho nên tôi phải đợi cho tới khi Nivedano cho tôi tín hiệu rằng bây giờ mọi
ma đều ở trong vị trí của nó.
Trước
khi bạn đi vào trong chết của bạn... vì không đi vào trong chết, bạn không thể
nhận ra tương phản với việc sống động; bạn không thể thấy ngọn lửa chừng nào bạn
chưa được bao quanh bởi bóng tối. Ban ngày bạn không thể thấy được sao - bạn
nghĩ chúng biến mất sao?
Chúng
vẫn đó, nhưng bởi vì mặt trời chói sáng nên bạn không thể thấy được chúng. Tia
sáng mặt trời ngăn cản bạn không nhìn được các ngôi sao.
Và
tôi đã nghe... Nirvano đã nói rằng tôi đã bắt đầu đeo kính râm vì tương lai
tươi sáng ở phía trước.
Trước
khi tương lai tươi sáng đó tới, chúng ta hãy có vài tiếng cười.
Paddy
thức dậy trong bệnh viện, sau một ngày bất tỉnh, với thân thể bị băng kín mít.
Anh ta chỉ mơ hồ nhớ rằng anh ta ở trong quán rượu cùng Sean, và họ đã lâm vào
tranh luận. Nhưng phần còn lại thì trống hoác.
Sau
vài ngày, Paddy đã phục hồi đủ để loạng choạng trở lại quán rượu. Anh ta thấy
Sean, ngồi ở chỗ thường lệ của mình tại quán rượu. "Cái chết tiệt gì đã xảy
ra?" Paddy hỏi. "Tớ nhớ bắt đầu đánh nhau với cậu, nhưng việc tiếp đó
tớ biết, tớ ở bệnh viện!"
"À,"
Sean nói. "Cái đó gọi là karate. Nó là tiếng Nhật Bản."
Paddy
gật đầu có vẻ hiểu, và lảo đảo bước ra khỏi quán rượu.
Sau
mười phút, Sean kết thúc uống rượu và đứng dậy ra về. Anh ta mở cửa và bước một
bước ra khỏi quán rượu. Điều tiếp anh ta biết, anh ta ở trong bệnh viện, bị
băng kín mít, với nhiều gẫy xương.
Vài
tuần sau, anh ta tập tễnh trên nạng đi vào quán rượu. Chắc chắn, Paddy có đó,
đang ngồi trong quán rượu. "Cái gì đã xảy ra nhỉ?" Sean rền rĩ.
"Tới vừa bước ra khỏi quán rượu, và điều tiếp tớ biết, tớ ở trong bệnh viện!"
"Ồ,"
Paddy nói. "Đó cũng là Nhật Bản đấy. Toyota của tớ!"
Paddy
quyết định chọn đánh bốc, và đi tập huấn trong nhiều tuần. Nhưng trong vòng đầu
tiên của đấu tranh giải hạng nhất, anh ta bị đánh đo ván trên sàn bởi một đòn
trí mạng.
Trọng
tài bắt đầu đếm và Paddy lồm cồm bò dậy.
"Nằm
xuống cho tới tám!" người quản lí của anh ta la lên.
"Được,"
Paddy lẩm bẩm, trong ngây người, "giờ là mấy giờ?"
Jayajit
Samosa, người bán bao cao su ở Poona, lên xe bus kéo theo mười lăm đứa trẻ con
đằng sau anh ta. Lũ trẻ chạy lung tung, nhảy nhót trên ghế ngồi, lấy đồ của mọi
người, hỏi xin từng xu, và nói chung tạo ra hỗn loạn.
Chung
cuộc, ông già Brahmachapatti nghiêng người qua và hỏi anh ta, "Ông Samosa,
tất cả lũ quỉ này là của ông phải không?"
"Tất
nhiên là không," Samosa nói, "Tôi bán bao cao su, và đây toàn là những
lời phàn nàn!"
Polly
Pringle, con gái của một gia đình Anh rất giầu, sắp sửa hai mươi mốt tuổi. Hôm
trước ngày sinh của cô ấy, cô ấy đi qua bếp, thì cô ấy nghe đầu bếp nói,
"Ôi, đéo nó!" Polly không biết điều này nghĩa là gì, thế là cô ấy quyết
định hỏi bố.
"Bố
ơi," Polly nói, "Con vừa đi ngang qua nhà bếp thì con nghe đầu bếp
nói, ‘Đéo nó.' Điều đó nghĩa là gì?" Bố lặng người ngậm điếu xì gà, ậm à ậm
ừ đến cả phút, và thế rồi nói, "Đó là cách diễn đạt tiếng Anh cổ, con yêu.
Nó có nghĩa là ‘cắt lạng gà tây.'"
Ngày
hôm sau, tại bữa tiệc mừng ngày sinh thứ hai mươi mốt của Polly, theo truyền thống
gia đình, cô ấy đứng lên để phát biểu. Để kết thúc, với hi vọng gây ấn tượng
cho mọi người việc làm chủ ngôn ngữ của mình, Polly nói, "Và bây giờ, bố sẽ
đéo gà tây!"
Có
im lặng chết người, mãi tới khi một quí ông nhỏ bé ở cuối bàn cười khúc khích
và nói, "Úi chà, bữa tiệc ngon thú vị gớm. Tôi nghĩ tôi sẽ chọc vào món dồi
bằng chim của tôi!"
Nivedano,
đây là đúng lúc...
(Tiếng
trống)
(Nói
lắp bắp)
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Im
lặng.
Nhắm
mắt lại.
Cảm
thấy thân thể bạn đông cứng.
Chỉ
đi vào trong.
Không
có cổng - nó là không gian mở.
Sâu
hơn, sâu hơn,
không
sợ gì.
Nó
là không gian riêng của bạn, lãnh thổ riêng của bạn.
Bạn
sẽ không gặp bất kì ai trên đường
ngoại
trừ bản thân bạn.
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Thảnh
thơi. Buông bỏ. Chết.
Quên
toàn thể thế giới
Và
chỉ được định tâm bên trong.
Đây
là chỗ từ đó mọi chư phật được sinh ra.
Uống
nó sâu sắc hơn.
Uống
nó một cách toàn bộ.
Để
bản thân bạn được thấm đẫm bằng tâm thức.
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Quay
lại,
nhưng
không quên kinh nghiệm này.
Ngồi
xuống như chư phật
trong
ít nhất vài phút.
Chỉ
hân hoan trong im lặng này
và
điệu vũ của mưa.
Mang
tâm thức này hai mươi bốn giờ,
như
dòng chảy ngầm,
và
mọi hành động của bạn sẽ có duyên dáng,
niềm
vui mới, sự tự phát,
tình
yêu tràn ngập.
Bạn
không cần vẫn là giọt sương;
định
mệnh của bạn là thành đại dương.
Bạn
không cần vẫn còn trong bất kì thân thể nào;
định
mệnh của bạn là thành phật -
chỉ
là tâm thức thuần khiết.
Được chứ, Maneesha?
Vâng
Osho.
Chúng ta có thể mở hội
mọi chư phật cùng mưa chứ?
Vâng
Osho.
0 Đánh giá