Chương 9. Người có kinh nghiệm quên ham muốn kết án

Chương 9. Người có kinh nghiệm quên ham muốn kết án

Price:

Read more

Thiền - Sét Kim cương - Osho
Chương 9. Người có kinh nghiệm quên ham muốn kết án


Osho kính yêu,
Hiệp Sơn cùng Ðịnh Sơn đồng đi đường cùng nói chuyện với nhau, Định Sơn nói, "Trong sinh tử, không có Phật tức phi sinh tử." Hiệp Sơn nói, "Trong sinh tử, có Phật tức chẳng mê sinh tử."
Họ tranh cãi tới lui, và không có kết thúc cho việc đó. Chung cuộc, họ quyết định tới hỏi Đại Mai. Hiệp Sơn đem câu nói của hai người thuật lại cho sư và hỏi sư, "Chưa biết chỗ thấy của hai người ai được thân hơn?"
Đại Mai nói, "Một thân một sơ."
"Ai được thân?" Hiệp Sơn nói.
"Đi đi sáng mai hỏi lại," Đại Mai đáp.
Sáng hôm sau Hiệp Sơn lại tới và hỏi.
Đại Mai nói, "Người thân chẳng hỏi. Người hỏi chẳng thân."
Hiệp Sơn sau đó nói, "Vào lúc đó, khi tôi ở cùng Đại Mai, tôi đánh mất mắt phật."
Một dịp khác, Pháp Nhãn hỏi Hakuyo, "Chỗ cư ngụ của Phật ở đâu?"
Hakuyo trả lời, "Không chỗ cố định."
Pháp Nhãn phản đối, "Nếu đây là phật tuyệt đối, làm sao nó có thể không cố định, không chỗ đặc biệt?"
Hakuyo nói, "Nếu như nó ở chỗ đặc biệt, nó sẽ không là phật tuyệt đối."
Pháp Nhãn đồng ý.
Vào lúc khác, một sư nói với Cảnh Thanh, "Nghĩa của ‘Bhagavat trong mười hướng là một đường dẫn tới niết bàn' sao?"
Cảnh Thanh nói, "Trong một nhà, không có hai chủ."
Maneesha, trong một thế giới đầy những mất trí, vài người trong các bạn là may mắn được thảo luận về việc trọng đại của cuộc hành trình bên trong. Những giai thoại này chứa nhiều thế, mặc dầu chúng là nhỏ thế. Nó gần giống như giọt sương chứa toàn thể đại dương. Thực ra, nó chứa toàn thể đại dương, vì vị là một.
Những giai thoại này không chỉ để được nghe, mà phải được sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Khi tôi đi vào trong, bạn cũng đi vào trong bản thân bạn. Đây là những chiến lược của Thiền để mang người vô nhận biết tới nhận biết.
Hiệp Sơn cùng Ðịnh Sơn đồng đi đường cùng nói chuyện với nhau, Định Sơn nói, "Trong sinh tử, không có Phật tức phi sinh tử."
Một phát biểu hoàn hảo. Nếu trong sinh tử không có tâm thức, không phật tính, sẽ không có sinh tử. Điều đó là đúng tuyệt đối và dứt khoát. Việc sinh của chúng ta là việc sinh của phật và cuộc sống của chúng ta là cuộc sống của phật, dù chúng ta nhớ điều đó hay không. Và chết của chúng ta sẽ là chết của phật. Nhưng nhớ: mặc dầu trên màn ảnh dường như là có bắt đầu và có kết thúc, sự tồn tại không có khung nào; nó không phải là cửa sổ, nó không bị đóng bởi chết và sống. Vị phật bên trong bạn chỉ tới như làn gió thoảng từ vĩnh hằng và đi qua tâm bạn, lại đi vào trong vĩnh hằng. Từ bên ngoài có thể dường như là ai đó được sinh ra, ai đó chết đi. Từ bên trong, nếu bạn nhận biết, không cái gì được sinh ra, không ai chết. Chỉ hình tướng thay đổi, nhưng trung tâm của mọi hoạt động của chúng ta vẫn còn là một mãi mãi.
Trải nghiệm trung tâm này là toàn thể nỗ lực của mọi cách thiền, vì một khi bạn biết nó bạn được thảnh thơi; bạn không thể khổ được. Cho dù bạn cố, bạn không thể bị căng thẳng, bạn không thể giận, bạn không thể tham, bạn không thể có thèm khát quyền lực. Một khi bạn biết trung tâm riêng của bạn, bạn đạt tới những chiều cao từ đó ngay cả mây cũng còn xa bên dưới. Bạn đã chạm tới mầu xanh của không gian trống rỗng. Hành khách này được Hiệp Sơn và Định Sơn gọi là ‘Phật'.
Hiệp Sơn nói, "Trong sinh tử, có Phật tức chẳng mê sinh tử."
Đúng, nhưng không hoàn hảo. Không có gì sai trong nó, nhưng ngay cả nói chẳng mê sinh tử, là không cần thiết. Thức tỉnh tới phật tính của bạn, mọi cái là giả biến mất, cũng giống khi bạn mang đèn vào trong phòng tối - bóng tối biến mất. Bạn không nói rằng bóng tối đã đi mất, vì không cái gì đi cả. Thực ra bóng tối không bao giờ có đó; đã chỉ có việc thiếu vắng - thiếu ánh sáng. Khoảnh khắc bạn mang ánh sáng vào, tất nhiên, việc thiếu ánh sáng không thể vẫn còn lại. Không cái gì đã đi ra, chỉ ánh sáng đi đã đi vào. Khi vị phật được thức tỉnh bên trong bạn, không phải là mê mờ hay bóng tối hay ảo giác biến mất. Vị phật của bạn thức, và mọi thứ xung quanh, từ vô hạn tới vô hạn, chỉ có tâm thức và không cái gì khác.
Họ tranh cãi tới lui, và không có kết thúc cho việc đó. Chung cuộc, họ quyết định tới hỏi Đại Mai, một thầy lớn. Hiệp Sơn đem câu nói của hai người thuật lại cho sư và hỏi sư, "Chưa biết chỗ thấy của hai người ai được thân hơn?" - gần hơn, thân mật hơn, xấp xỉ tới kinh nghiệm vô lời hơn?
Đại Mai nói, "Một thân một sơ."
"Ai được thân?" Hiệp Sơn nói.
"Đi đi sáng mai hỏi lại," Đại Mai đáp.
Sáng hôm sau Hiệp Sơn lại tới và hỏi.
Đại Mai nói, "Người thân chẳng hỏi. Người hỏi chẳng thân."
Phát biểu lớn lao làm sao. "Ông hỏi bởi vì ông không biết. Ông hỏi chỉ bởi vì đó không phải là kinh nghiệm của ông. Người hỏi là không thân quen với chân lí. Nó không phải là kinh nghiệm của người đó, người đó chỉ lặp lại kinh sách. Người kia đâu, người mà ông đã thảo luận? Ông ấy đã không tới hỏi, vì ông ấy biết.
"Việc biết mang tới im lặng nơi không câu hỏi nào nảy sinh, vì câu hỏi là cái tên khác cho hoài nghi. Người biết đơn giản biết nó là vậy. Người kia đã không quay lại để hỏi - người kia phải thân quen. Người kia biết, cho nên phỏng có ích gì mà làm phiền thầy? Vì ông đã tới, điều đó chỉ ra rằng ông không biết; ông ở rất xa."
Hiệp Sơn sau đó nói, "Vào lúc đó, khi tôi ở cùng Đại Mai, tôi đánh mất mắt Phật."
Điều ông ấy ngụ ý bởi việc này là ở chỗ ở cùng Đại Mai, thầy, ông ấy làm mất mọi tri thức, mọi thông minh, mọi tâm trí - ông ấy làm mất mọi thứ, kể cả mắt Phật. Ông ấy thường nghĩ rằng ông ấy biết. Ông ấy thường nghĩ rằng ông ấy đã có mắt Phật.
Mắt Phật ngụ ý cùng cách diễn đạt ‘con mắt thứ ba'; nó chỉ là biểu tượng cho việc nhìn vào trong. Hai mắt của bạn mở ra bên ngoài; ngay giữa chúng có một điểm tại đó bạn nhìn vào bên trong. Điểm đó được gọi một cách biểu tượng là ‘con mắt thứ ba’. Nhớ lấy, nó chỉ là biểu dụ.
Ở cùng thầy điều tuyệt đối cần thiết là làm mất tâm trí bạn; là hồn nhiên tới mức không câu hỏi nào nảy sinh; là được chất đầy với ngạc nhiên, nhưng không với tri thức; chỉ là tin cậy và yêu, không là bảng hỏi.
Một dịp khác, Pháp Nhãn hỏi Hakuyo, "Chỗ cư ngụ của Phật ở đâu?"
Hakuyo trả lời, "Không chỗ cố định."
Pháp Nhãn phải đã là người rất trí tuệ. Ông ấy nói, "Nếu đây là phật tuyệt đối, làm sao nó có thể không cố định, không chỗ đặc biệt?"
Hakuyo nói, "Nếu như nó ở chỗ đặc biệt, nó sẽ không là phật tuyệt đối."
Ở chỗ đặc biệt là bị cầm tù. Có địa chỉ là bị giới hạn. Có tên tuổi là bị giam hãm. Và chính từ ‘phật’ ngụ ý vô giới hạn, không giam hãm, tràn ngập, toàn thể vũ trụ. Nó không thể có chỗ đặc biệt được.
Nhưng Pháp Nhãn đã không chỉ là nhà trí thức, vì về sau bản thân ông ấy đã trở thành thầy lớn.
Nghe điều này, Pháp Nhãn đồng ý. Nhưng nó vẫn là đồng ý, nó không là nhận ra. Đồng ý với tôi là một điều, trải nghiệm cùng tôi là điều khác. Đồng ý là của tâm trí, trải nghiệm là của cõi bên kia, nơi tôi không còn nữa và bạn không còn nữa - chỉ im lặng thuần khiết nở hoa.
Hai người thức tỉnh không thể ở trong cùng một phòng bởi lí do đơn giản là hai tâm thức chứng ngộ sẽ lập tức hội nhập vào trong nhau.
Vào lúc khác, một sư nói với Cảnh Thanh, "Nghĩa của ‘Bhagavat trong mười hướng là một đường dẫn tới niết bàn' sao?"
Cảnh Thanh nói, "Trong một nhà, không có hai chủ."
Trước hết bạn phải hiểu nghĩa của Bhagavat. Bạn đã gọi tôi là Bhagwan. Từ ‘Bhagwan' bắt nguồn từ ‘Bhagavat'. Bhagavat nghĩa là ‘người được ân huệ', ‘người phúc lạc'; và khi ai đó đạt tới phúc lạc này, phẩm chất thuần khiết của việc là Bhagavat lấy hình dạng. Hình dạng đó chúng ta đã gọi, ở phương Đông, là Bhagwan. Nó không liên quan gì tới Thượng đế. Bất kì người nào đã dịch Bhagwan là Thượng đế đều tuyệt đối sai. Bhagwan có liên quan tới Bhagavat - tâm thức vô hạn.
Khi bạn mở ra điều tối thượng, ngay lập tức nó rót vào trong bạn. Bạn không còn là con người bình thường - bạn đã siêu việt lên. Sáng suốt của bạn đã trở thành sáng suốt của toàn thể sự tồn tại. Bây giờ bạn không còn tách rời - bạn đã tìm thấy rễ của bạn. Ngoài ra, bình thường, mọi người đang di chuyển không có rễ, không biết tâm của họ nhận được năng lượng từ đâu, không biết ai liên tục thở trong họ, không biết nước cam lồ cuộc sống đang chảy bên trong họ. Và khoảnh khắc nước cam lồ cuộc sống này chảy ra, bạn sẽ bị bỏ lại là cái vỏ trống rỗng, cái xác.
Nó không phải là thân thể, nó không phải là tâm trí - nó là cái gì đó siêu việt lên trên mọi nhị nguyên, cái được gọi là Bhagavat - Bhagavat trong mười hướng.
Bình thường, mọi người nói về bốn hướng. Nhưng một số người trở nên nhận biết rằng cứ giữa hai hướng, cũng có khả năng về một hướng khác. Cho nên - bắc, nam, đông, tây: những hướng này là chuyện thường, được chấp nhận và đồng ý. Thế rồi có bốn hướng nữa, mỗi hướng ở giữa hai hướng. Tám hướng đã được chấp nhận bởi mọi người, nhưng mười hướng bao gồm cái gì đó nhiều hơn, vì một hướng phải đi sâu hơn, mà không nam không bắc, mà không phải là bất kì cái gì của tám hướng. Và một hướng phải đi lên, chiều đứng; cái đó nữa cũng không được chứa trong tám hướng. Hai hướng này - chiều cao đứng của Everest và chiều sâu của Thái bình dương - thực ra là chiều hướng tâm linh. Tám hướng kia là về địa lí.
Hai hướng này chẳng liên quan gì tới địa lí. Chúng là kinh nghiệm bên trong về chiều cao và chiều sâu, và chúng tới cùng nhau. Bên cạnh từng núi lớn, có thung lũng lớn. Thung lũng và núi bao giờ cũng cùng nhau. Bản thể bên trong của bạn, khi nó mở ra, đầu tiên trải nghiệm hai hướng: chiều cao, chiều sâu. Và thế rồi dần dần, dần dần, khi điều này trở thành tính huống được thiết lập của bạn, bạn bắt đầu nhìn quanh, lan rộng theo tất cả tám hướng. Bhagavat là mười hướng... dầu vậy, người ta nói rằng "là một đường dẫn tới niết bàn."
Dường như với Cảnh Thanh có mâu thuẫn: một đường và mười hướng sao? Hiển nhiên nó là mâu thuẫn, nhưng chỉ với những người chỉ nghĩ về nó. Những người đang trải nghiệm, họ biết rằng con đường là một - rằng nó là của chiều cao và chiều sâu. Và một khi bạn đã đạt tới điểm mà chiều cao và chiều sâu của bạn gặp gỡ, thế thì bạn có thể nhìn quanh tới chính chu vi của vũ trụ. Thế thì tâm thức bạn bắt đầu làm lộ ra theo mười hướng, nhưng con đường đã là một.
Cảnh Thanh nói, "Trong một nhà, không có hai chủ."
Không thể có hai được. Bạn mang hai hư không và chúng sẽ trở thành một, vì cái gì sẽ phân chia chúng? Không thể có bất kì hàng rào nào giữa hai hư không. Giữa hai số không... làm sao bạn có thể làm chúng thành hai được? Chúng sẽ nhảy vào nhau và trở thành một. Khoảnh khắc ai đó trở nên chứng ngộ - trong lịch sử chứng ngộ, không phải là một người chứng ngộ nữa được thêm vào - người đó đơn giản biến mất trong đại dương. Chứng ngộ đơn giản có nghĩa là mất đi nhóm của bạn, nhân cách của bạn, bản ngã của bạn, cái “tôi đây’ của bạn, và chỉ trở thành một phần của sự hiện hữu vô cùng.
Hiệp Sơn nói với sư của ông ấy:
Tìm ta trong đầu
Hàng trăm ngọn cỏ.
Nhận ra hoàng tử
trong chợ ồn ào!
Đây là những lời cuối cùng của Hiệp Sơn trước khi ông ấy chết: "Giờ các ông sẽ không có khả năng tìm thấy ta ở đây, trong thân thể này, nhưng đừng buồn - tìm ta ở đầu hàng trăm ngọn cỏ."
Cứ nhìn sâu và im lặng và bạn sẽ thấy thầy của bạn ở mọi nơi. Toàn thể sự tồn tại sẽ trở nên được thấm đẫm bởi thầy bạn. Và tất nhiên khoảnh khắc thầy chết, thầy làm cho toàn thể sự tồn tại thành linh thiêng cho các đệ tử của mình. Trong đá họ sẽ chạm vào thầy, trong hoa họ sẽ thấy mầu sắc của thầy, trong cầu vồng họ sẽ thấy cái đẹp của thầy. Đệ tử trở nên được nhận chìm sâu sắc vào trong tâm thức của thầy, tới mức khi tâm thức của thầy lan toả khắp sự tồn tại, đệ tử ít nhất cũng có thể thấy nó. Đó là lí do tại sao khi thầy chết đệ tử nhảy múa; họ làm ra lễ hội từ nó, vì thầy của họ được tự do khỏi mọi biên giới của thân thể và tâm trí. Tự do này của thầy của họ là chỉ dẫn về tự do riêng của họ. Tự do này phải được kính trọng, được nhận ra, qua lễ hội của họ, qua bài ca và điệu vũ của họ.
Maneesha đã hỏi một câu hỏi:
Osho kính yêu,
Các kiếp sống của chúng tôi ở đây, quanh thầy, và kiếp sống của mọi người bên ngoài trên thế giới, khó có thể là khác hẳn nhau hơn - im lặng của chúng tôi, mất trí của họ.
Kết nối gì giữa điều đang xảy ra ở đây và ở ngoài kia?
Maneesha, khác biệt là rất nhỏ, gần như có thể bỏ qua được. Những người ở bên ngoài là chư phật ngủ. Những người ở bên trong mới thức tỉnh. Bên ngoài đó là đêm và mọi người đang ngủ say, ngáy.
Ở đây, trong khoảnh khắc này của chiều sâu, của im lặng, bạn thức - đây là khác biệt duy nhất. Khác biệt gì ở giữa khi bạn đi ngủ ban đêm và khi bạn thức dậy buổi sáng? Nó đích xác là cùng khác biệt - họ không thấp kém, người ở ngoài, và bạn không cao siêu vì bạn ở trong. Họ mới quyết định ngủ thêm chút ít; còn bạn chán ngủ rồi và bạn muốn thức dậy. Đó là chọn lựa của mọi người.
Khi có liên quan tới phật, ông ấy sẽ đợi bạn tới vĩnh hằng. Bất kì khi nào bạn chọn mở mắt bên trong ra, bạn sẽ thấy ông ấy. Ông ấy có đó - trong giấc ngủ của bạn, trong mơ của bạn, trong lành mạnh của bạn, trong mất trí của bạn. Ông ấy là chính cuộc sống của bạn. Cho nên ngay cả trong người mất trí, vẫn có nhiều phật tính như trong người đã thức tỉnh, đã chứng ngộ. Phẩm chất của cả hai là như nhau. Khác biệt nhỏ duy nhất là ở chỗ người này đã nhận ra bản thân mình, người kia đang trì hoãn.
Nhưng điều này không phải là để kết án người ngoài là tội nhân, như các tôn giáo bao giờ cũng làm. Kết án, trong bản thân nó, là thái độ phi tôn giáo. Con người không là tội nhân không là thánh nhân; đó chỉ là vài người đang ngủ và vài người thức. Những người đang ngủ có niềm vui của họ, giấc mơ của họ, ác mộng của họ. Những người thức có phúc lành của họ, cực lạc của họ. Người thức tỉnh không thể kết án người ngủ được, người đó chỉ có thể từ bi.
Vì chính quan điểm này, tôi nói với bạn rằng mọi tôn giáo của bạn đã từng phạm tội rất lớn trong việc kết án mọi người. Tôi không thể kết án bất kì người nào, vì tôi biết bạn là ai. Dù bạn đang ngủ hay thức, đó là việc của bạn; nhưng tôi biết rằng bất kì cái gì bên trong tôi, cùng là tâm thức đang rung động bên trong bạn.
Có thành vấn đề gì nếu bạn ngủ, uống trà, và hút thuốc lá? Những thứ ngu xuẩn này không thể phá huỷ được phật tính của bạn. Nhưng đó là điều các tôn giáo đã từng nói: "Không làm cái này, không làm cái kia." Và những người đang nói điều này đơn giản trích dẫn kinh sách; nó không phải là kinh nghiệm riêng của họ.
Con người của kinh nghiệm quên hoàn toàn ham muốn kết án. Từ bi của người đó là lớn. Tình yêu của người đó là vô hạn. Người đó biết rằng chúng ta là những sinh linh của vĩnh hằng, cho nên có thành vấn đề gì? Chỉ có bẩy ngày trong tuần. Ai đó quyết định thức dậy vào thứ hai, và ai đó quyết định thức dậy vào chủ nhật. Nhiều hơn điều đó, không có khác biệt. Theo cách nhìn của tôi, đây chỉ là hai lớp: vài người đang ngủ, vài người thức. Nhưng về căn bản họ được tạo thành từ cùng chất liệu, cái chúng ta gọi là phật tính, và mọi người được tự do tiếp tục ngủ hay thức dậy.
Thầy, nhiều nhất, ở cạnh giường vận hành như đồng hồ báo thức. Đồng hồ không kết án bạn; nó chỉ nhắc nhở bạn rằng đến giờ rồi, đến sáng rồi. Nếu bạn muốn trở mình và kéo chăn lên che, điều đó là tuỳ bạn - đồng hồ hoàn toàn không quan tâm. Nó đã làm xong việc của nó, nó đã làm cho bạn nhận biết rằng giờ là sáng và là lúc dậy. Nhưng bạn là tự do; nếu bạn muốn dậy muộn hôm nay - có lẽ dư âm bữa tiệc đêm qua vẫn còn váng vất... vậy thì sao? Chỉ không ngáy thôi. Ngủ là được, nhưng ngáy tuyệt đối gây nhiễu cho những người ngủ khác.
Một biến cố kì lạ đã xảy ra: một đêm tôi ở trên tầu hoả và trong khoang có bốn ngăn ngủ. Tôi không thể nào tin được điều đó, rằng ba người trong ba ngăn có vẻ rất giống nhau. Về sau, tôi mới đi tới biết rằng họ là anh em sinh ba; và việc ngáy của họ... tôi đã cố gắng vất vả để nhớ rằng toàn thế giới là maya, ảo tưởng. Nhưng việc ngáy của họ lại tới mức không triết lí nào có thể giúp ích gì. Họ ngáy sao hài hoà thế... Người thứ nhất ngáy, và hai người kia im. Thế rồi người thứ hai sẽ trả lời, to hơn. Thế rồi người thứ ba bước vào... và cái vòng tròn này sẽ tiếp tục. Còn tôi bị mắc vào giữa.
Đến nửa đêm, khi tôi phát chán với âm nhạc đó, tôi phải làm cái gì đó. Tôi bắt đầu ngáy, vẫn tỉnh thức đầy đủ. Tôi đánh thức cả ba anh chàng này. Họ trèo xuống và nhìn tôi, và vì mắt tôi vẫn mở, họ trở nên sợ. Họ nói, "Chuyện gì thế? Ông thức và ông ngáy to thế."
Tôi nói, "Nếu các ông không dừng việc ngáy, tôi sẽ làm bài tập này cả đêm."
Họ nói, "Ít nhất, xin ông nhắm mắt lại, vì điều đó làm cho tim chúng tôi run."
Tôi nói, "Thế thì học bài học đi. Tôi đã đợi hàng giờ rồi. Dừng bản giao hưởng này lại!"
Họ nói, "Chúng tôi có thể làm được gì? Chúng tôi là anh em sinh ba, cho nên bất kì cái gì một người làm, những người kia cũng làm. Mọi thói quen của chúng tôi là tương tự - ngáy nữa! Chúng tôi bất lực."
Tôi nói, "Thế thì, nhớ lấy: tôi sẽ ngáy với mắt mở to tới mức các ông sẽ không có khả năng ngủ, bất kì ai trong khoang bên cạnh cũng sẽ không ngủ được."
Họ nói, "Tốt hơn cả chúng tôi sẽ thức và đọc cái gì đó. Ông làm bất kì cái gì ông muốn, nhưng xin ông, đừng làm hai điều cùng nhau: ngáy và mở mắt. Hoặc nhắm mắt lại và ngáy - chúng tôi quen với điều đó; hoặc nếu ông không muốn ngáy, ông có thể mở mắt và làm bất kì cái gì - bất kì cái gì ông muốn. Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để không ngáy, nhưng ông có hiểu sự bất lực của chúng tôi không? Trong khi ngủ người ta có xu hướng quên đi tất cả về quyết định của mình."
Tôi nói, "Tôi biết, nhưng tôi mệt rồi. Tôi đã từng du hành trong hai mươi bốn giờ; các ông chỉ mới bắt đầu. Cho nên ngồi xuống và đọc cái gì đó đi."
Tôi cung cấp cho họ sách, vừa nói, "Đây là những sách các ông có thể đọc và để tôi ngủ. Và nhớ lấy, nếu bất kì ai ngáy, tôi sẽ làm thậm chí những điều khó chịu hơn. Đây chỉ là một việc mẫu."
Những anh chàng đáng thương đó, cả đêm phải đọc sách mà họ chẳng hiểu chút nào.
Đến sáng khi tôi thức dậy, tôi nó, "Giờ các ông có thể ngủ. Tôi sẽ vào phòng tắm. Ngáy thoải mái như các ông có thể ngáy - hết hạn ngạch đi. Cô đọng lại! Trong khi tôi đang tắm... tôi sẽ tắm lâu hết sức. Hân hoan trong việc ngáy của các ông!"
Nhưng không có kết án trong điều đó. Tôi tận hưởng điều đó vô cùng. Nó đã là mệt mỏi, nhưng nó cũng là buồn cười nữa.
Maneesha, đừng bao giờ rơi vào trong bẫy của cách tiếp cận tôn giáo cổ. Các tôn giáo bao giờ cũng kết án mọi người về những thứ nhỏ bé thế, và dầu vậy họ vẫn nói về từ bi! Nhưng những người đang làm những điều nhỏ bé chỉ làm chúng bởi vì họ vô ý thức về cái ta riêng của họ; và họ mệt mỏi, hoàn toàn chán. Từ chán, ai đó trở nên nghiện rượu; từ chán, ai đó bắt đầu dùng ma tuý; từ chán, mọi người tự tử. Nhưng tất cả họ đều cần từ bi của những người có nhận biết và tỉnh táo.
Đây là chỗ để có ý thức, và với có ý thức, từ bi tới, không bao giờ kết án. Từ bạn, toàn thế giới phải được trút đầy bằng yêu - mưa xuống khắp thế giới. Có lẽ niềm vui của bạn, điệu vũ của bạn, tâm thức của bạn có thể khơi gợi cùng điều đó trong người ngủ. Và việc đánh thức vị phật là niềm vui lớn lao.
Tôi có niềm vui mênh mông trong việc đánh thức bạn. Tới hơi thở cuối cùng của mình, tôi sẽ liên tục làm phiền bạn. Bạn nghĩ gì về tất cả những bài nói này? - Chỉ làm phiền cực kì!
Trước khi tôi bắt đầu làm phiền, có vài tiếng cười đã, để cho bất kì người nào đang ngủ sẽ thức dậy. Tiếng cười đơn giản là chiến lược, vì khi mọi người đang cười, bạn không thể ngủ được. Với bẩy nghìn người cười, nếu bạn có thể ngủ đó sẽ là phép màu.
Kowalski đang ngồi quanh bếp đọc báo. Vợ anh ta, Olga, đang rất chán và thất vọng.
"Này, anh Kowalski," Olga nói, "anh đưa em đi vườn bách thú chứ?"
"Không đâu, cưng," Kowalski đáp, "bất kì người náo muốn thấy em đều có thể tới đây."
Ông Smith không khoẻ chút nào, cho nên ông ấy đi tới bác sĩ Xương để làm xét nghiệm. Ngày hôm sau vợ ông ấy tới nhận kết quả, nhưng Xương có vẻ lo lắng.
"Tôi sợ là, bà Smith này, đã có sự lộn xộn," Xương nói. "Tôi có hai bệnh nhân là ông Smiths ở đây làm xét nghiệm hôm qua: một người đã mất toàn bộ kí ức, và một người bị AIDS - và tôi không biết xét nghiệm nào thuộc về chồng bà."
"Trời!" bà Smith kêu lên. "Làm sao tôi có thể tìm ra được?"
"Đơn giản," Xương nói, "cho chồng bà ra ngoài đi dạo, và nếu ông ấy quay lại, đừng đéo ông ấy!"
Olga Kowalski đi tới bác sĩ trong tuyệt vọng. "Ông phải giúp tôi với, bác sĩ ơi!" cô ấy kêu lên. "Tôi đã có mười hai đứa con và tôi không thể chịu đựng được ý nghĩ về chăm sóc thêm bất kì con quỉ nhỏ nào nữa. Tôi có thể làm gì?"
"Được," bác sĩ nói, "cô đã thử thuốc ngừa thai chưa?"
"Tôi không thể làm được điều đó," Olga nói. "Chồng tôi là người Cơ đốc giáo nghiêm khắc. Nhưng nếu tôi có thêm bất kì đứa con nào để chăm sóc, tôi sẽ phát rồ!"
"Được rồi," bác sĩ nói. "Tôi đang làm một thực nghiệm bằng phương pháp mới. Nó không một trăm phần trăm an toàn, nhưng cô có thể thử nếu cô thích."
"Cái gì cũng được," Olga kêu. "Tôi sẽ làm bất kì cái gì!"
Thế là bác sĩ mổ lấy tử cung của Olga ra và cấy vào đó tử cung của khỉ.
Ca mổ thành công và bác sĩ bảo Olga trở lại để kiểm tra sau vài tháng.
Khi Olga quay lại, bác sĩ hỏi, "Mọi sự diễn ra thế nào?"
"Tuyệt," Olga đáp. "Chúng ra đời, nhảy lên cây, và chúng đi luôn!"
Bây giờ, đây là đúng lúc... Nivedano...
(Tiếng trống)
(Nói lắp bắp)
Nivedano...
(Tiếng trống)
Im lặng, nhắm mắt lại.
Cảm thấy thân thể bạn bị đông cứng,
Để cho bạn có thể tập trung sinh lực của bạn,
tâm thức của bạn, vào bên trong bản thân bạn.
Với im lặng này,
bạn đi vào một hướng khác:
hướng của bên trong bạn.
Nó là việc mở bao la vào trong bầu trời bên trong.
Giang đôi cánh của bạn mà không sợ gì,
vì bạn không thể gặp trên con đường này
bất kì người nào khác hơn bản thân bạn.
Tối nay được phúc lành.
Nhiều chư phật thế, và họ tất cả đã biến mất
trong một tâm thức.
Trong Phòng Phật này
Không có nhiều hơn bẩy nghìn người,
mà chỉ một im lặng, một phúc lạc, một phật tính.
Để làm cho nó rõ ràng hơn và sâu hơn, Nivedano...
(Tiếng trống)
Thảnh thơi. Buông bỏ thân thể, dường như bạn chết,
Để cho sinh lực có thể tập trung một cách toàn bộ
tại trung tâm.
Đây là cội nguồn; cái bắt đầu, và cái kết thúc.
Trong im lặng này, hàng nghìn hoa hồng đã nở.
Trong im lặng này, hàng nghìn hoa sen
đã mở cánh của chúng.
Đi sâu hơn vào bên trong,
bạn sẽ thấy phần tử bất tử cái chuyển
từ thân thể sang thân thể, hình dạng sang hình dạng,
nhưng là vĩnh hằng trong bản thân nó.
Nivedano...
(Tiếng trống)
Quay lại.
Ngồi xuống trong vài khoảnh khắc,
nhớ lại kinh nghiệm này,
vì kinh nghiệm này
phải trở thành dòng chảy ngầm
trong hai mươi bốn giờ - hết ngày nọ tới ngày kia.
Thế thì không có sinh và không có tử;
bạn đã tìm ra hành khách,
người hành hương vĩnh hằng.
Tôn giáo về căn bản quan tâm tới điều này;
không với bất kì nhà thờ nào,
hay đền chùa, hay đền thờ hồi giáo, hay giáo đường.
Nó liên quan tới việc thức tỉnh của bạn
tới tiềm năng tối thượng của bạn.
Nó làm cho bạn vui vẻ, từ bi, yêu thương,
thưởng thức tự do của bạn
và không bao giờ can thiệp
vào tự do của bất kì người nào khác.
Điều này sẽ cho bạn chân giá trị của bạn,
và điều này cũng sẽ cho bạn
cảm giác biết ơn vô cùng
hướng tới cái toàn thể.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, Osho.
Chúng ta có thể mở hội việc gặp gỡ của nhiều chư phật thế không?
Vâng, Osho.



0 Đánh giá

Ads Belove Post