Read more
Tùng tùng cắc
tùng - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 7. Là ánh sáng lên bản
thân ông
Chương 7. Là
ánh sáng lên bản thân ông
Lâu trước đây, ở Nhật Bản, một người mù tới
thăm một người bạn vào một đêm, được người bạn cho chiếc đèn bằng giấy và tre để
mang về nhà cùng người đó.
'Tôi không cần đèn đâu,' ông ấy nói, 'tối
hay sáng tất cả đều như nhau với tôi.'
'Tôi biết ông không cần đèn để tìm đường
đi,’ bạn ông ấy đáp, 'nhưng ông phải mang nó vì nếu ông không có đèn ai đó khác
có thể va vào ông.'
Người mù lên đường với chiếc đèn và ông ấy
chưa đi được bao xa thì ai đó chạy đâm sầm vào ông ấy.
'Cẩn thận lối ông đi chứ!' người mù kêu lên
với người lạ. 'Ông không thấy chiếc đèn này sao?'
'Nến trong đèn của ông đã cháy hết rồi, ông
bạn ơi,' người lạ đáp.
Tri thức là không đủ, dựa vào
nó là nguy hiểm. Tri thức được vay mượn, nó không phải là việc biết. Việc biết
lớn lên trong bạn, việc biết là sự trưởng thành, tiến hoá, tri thức được cấy
vào bên trong bạn từ tôi ở bên ngoài, tri thức được vay mượn, nó là đồ giả. Nó
có vẻ như việc biết, nó không phải vậy. Nó lừa dối, nó cho bạn cảm giác rằng bạn
biết mà bạn không biết.
Trên con đường của Thiền điều đầu
tiên cần nhận biết là tri thức: truyền thống, kinh sách, cái đã từng được trao
cho bạn từ người khác. Những đôi mắt đó không phải là của bạn, ánh sáng đó
không phải là của bạn, và vẫn còn dốt nát là tốt hơn trở nên thông thái - vì ít
nhất dốt nát là của bạn. Ít nhất nó là đích thực, ít nhất nó là thực, ít nhất
nó thuộc về bạn.
Từ sự thực về dốt nát, việc biết
có thể tăng trưởng, nhưng từ cái giả của tri thức, bạn sẽ bị lạc. Không cái gì
có thể lớn lên từ nó. Tri thức là việc tích luỹ các sự kiện chết và thông tin.
Nó không có cuộc sống trong nó. Nó giống như đá được chất lên, cái nọ trên cái
kia. Nó có thể vươn tới chính chiều cao lớn, nhưng nó không có tăng trưởng vì
nó không có nhựa sống trong nó.
Cây là khác toàn bộ. Nó đi lên
ngày càng cao hơn nhưng nó có sự trưởng thành hữu cơ, nhựa sống, chạy qua nó.
Nó tăng trưởng theo cách riêng của nó. Nó được bắt rễ trong sự sống. Nó là quá
trình sống. Bạn có thể để cây nhựa và nó sẽ có vẻ giống như bất kì cây nào
khác: nó thậm chí có thể xanh hơn, nó thậm chí có thể lừa dối hơn, đẹp hơn -
nhưng nó sẽ chết. Nó sẽ không có rễ nào ở bất kì đâu, nó sẽ không được bắt đất
trong sự tồn tại, nó sẽ không thoải mái và ở nhà, nó sẽ không là người bên
trong. Nó sẽ là người nước ngoài, nó sẽ là người lạ...
Đây là điều đầu tiên cần hiểu -
chỉ thế thì bạn có thể hiểu thái độ triệt để của Thiền. Rất dễ vay mượn tri thức.
Đó là điều các trường học, cao đẳng, đại học đang làm. Họ liên tục truyền thông
tin từ thế hệ này sang thế hệ khác. Họ là phương tiện truyền qua. Và những người
thu thập tri thức từ họ bắt đầu cảm thấy rằng họ biết. Nhưng làm sao bạn có thể
biết được nếu bạn đã không biết nó?
Tôi có thể nói về yêu cho bạn,
bạn có thể lắng nghe tôi, bạn thậm chí có thể đồng ý với tôi, nhưng việc đồng ý
của bạn không phải là vấn đề. Tôi có thể đủ logic và láu lỉnh để thuyết phục bạn
đồng ý với tôi nhưng điều đó sẽ không cho bạn bất kì hương vị nào của yêu. Để
biết yêu, bạn sẽ phải rơi vào yêu. Để biết yêu, bạn sẽ phải du hành con đường của
yêu. Để biết yêu, bạn sẽ phải nhận cuộc hành trình nguy hiểm.
Tri thức là nhiều chắc chắn
hơn; việc biết là nhiều bất định hơn. Đó là lí do tại sao mọi người chọn tri thức.
Tri thức được đảm bảo hơn, nó có thẩm quyền, nhiều thế kỉ đứng đằng sau nó. Đó
là lí do tại sao mọi tôn giáo cố chứng minh rằng nó là tôn giáo cổ nhất trên thế
giới. Tại sao? Vì tôn giáo càng cổ, nó càng có thẩm quyền lớn hơn. Người Hindus
nói rằng Vedas là kinh sách cổ nhất trên thế giới; - Kinh Thánh và Korans và
Guru Nankers chỉ tới rất muộn. Vedas là rất, rất cổ. Tại sao nhấn mạnh nhiều thế?
Vì kinh sách càng cổ, nó càng đứng lâu hơn qua phép thử thời gian, nó càng thu
thập được thẩm quyền lớn hơn quanh nó. Hàng triệu người thấy là nhân chứng cho
nó.
Thiền nói chân lí chẳng liên
quan gì tới thẩm quyền, chân lí chẳng liên quan gì tới truyền thống, chân lí chẳng
liên quan gì gì tới quá khứ - chân lí là việc nhận ra cá nhân, triệt để. Bạn phải
đi tới nó.
Tri thức là chắc chắn; việc tìm
việc biết cá nhân là rất, rất nguy hiểm. Không ai có thể đảm bảo nó. Nếu bạn hỏi
tôi liệu tôi có thể đảm bảo cho bạn cái gì không, tôi nói tôi không thể đảm bảo
được cho bạn bất kì cái gì. Tôi chỉ có thể đảm bảo nguy hiểm hơn, chừng ấy là
chắc chắn. Tôi chỉ có thể đảm bảo với bạn cuộc phiêu lưu lâu dài với mọi khả
năng của việc đi lạc lối và không bao giờ đạt tới mục đích. Nhưng một điều là
chắc chắn: chính việc tìm kiếm sẽ giúp bạn trưởng thành. Tôi chỉ có thể đảm bảo
việc trưởng thành. Nguy hiểm sẽ có đó, hi sinh sẽ có đó; bạn sẽ đi mọi ngày vào
cái không biết, vào chỗ không được thăm dò, và sẽ không có bản đồ để đi theo,
không hướng dẫn để đi theo. Vâng, có hàng triệu nguy hiểm và bạn có thể đi lạc
lối và bạn có thể bị lạc, nhưng đó là cách duy nhất người ta trưởng thành. Bất
an ninh là cách duy nhất để trưởng thành, đối diện với nguy hiểm là cách duy nhất
để trưởng thành, chấp nhận thách thức của cái không biết là cách duy nhất để
trưởng thành. Cho nên tôi có thể bảo đảm chỉ việc trưởng thành.
Tri thức đảm bảo mọi thứ. Sẽ
không có nguy hiểm nếu bạn theo Veda, nếu bạn theo Kinh Thánh - thế thì bạn
không cần lo nghĩ. Bây giờ chính Christ phải lo nghĩ về điều đó, và ông ấy biết.
Bạn đơn giản phải bắt chước ông ấy. Và người thấy của Vedas biết và Mohammed biết,
cho nên không có nhu cầu cho bạn làm nỗ lực cá nhân riêng của bạn. Nó đã được
biết rồi, bạn đơn giản tin. Mọi điều được yêu cầu từ bạn bởi tôn giáo bình thường
là niềm tin.
Thiền nói niềm tin là đồ giả,
được vay mượn.
Bạn phải trưởng thành và bạn phải
nhận rủi ro. Tôi có thể đảm bảo với bạn về rủi ro. Trong bầu trời mở của chân
lí người ta tìm kiếm, bằng thử và sai; nhiều lần đi lạc lối, và quay đi quay lại
đường đúng. Đó là cách duy nhất.
Chân lí không rẻ; niềm tin rất
rẻ. Chân lí rất đắt - bạn sẽ phải trả bằng cuộc sống của bạn. Chân lí yêu cầu
hi sinh toàn bộ, không cái gì kém hơn sẽ có tác dụng.
Thiền nói rằng nếu bạn đang tin
vào kinh sách, truyền thống, các thứ khác... Liệu chúng là sai hay đúng là
không liên quan, đó không phải là vấn đề. Nhớ, Thiền không nói rằng Kinh Thánh
là sai, Thiền không nói rằng Veda là sai - Thiền nói chúng là không liên quan.
Nó chẳng liên quan gì tới đúng và sai. Chúng có thể đúng, chúng có thể sai,
nhưng đó không phải là vấn đề được xem xét tới chút nào. Qua chúng trưởng thành
là không thể được. Những người đã viết ra chúng đều là những người đã trưởng
thành, chín chắn. Họ đã khẳng định cái gì đó mà họ đã biết - nhưng với họ đó là
việc biết, với bạn nó sẽ là tri thức.
Việc biết ngụ ý rằng bạn đã thấy
nó bằng mắt riêng của bạn; tri thức ngụ ý bạn đã nghe nó từ người khác. Nó rất
nghèo nàn, và người vẫn còn với tri thức vẫn còn nghèo. Bác học, cái gọi là người
có học, là người nghèo nhất trên thế giới. Người đó chỉ có tiền giả và người đó
liên tục đếm nó.
Chúng ta là những người hổng
hoác, chúng ta là những người được nhồi nhét nghiêng về đầu óc được chất đầy bằng
rơm. Hỡi ôi! Những tiếng nói khô khan của chúng ta, khi chúng ta thì thào cùng
nhau là yên tĩnh và vô nghĩa như gió thổi cỏ khô hay chân chuột trên cốc thuỷ
tinh vỡ trong hầm khô của chúng ta.
Những dòng hay này từ T. S.
Eliotđã mô tả đích xác tình huống của con người, của tâm trí, người vẫn còn với
tri thức. Được chất đầy bằng rơm và tiếng nói của chúng ta... như chân chuột trên
cốc thuỷ tinh vỡ.
Nhìn vào đầu bạn - nó gần như
là rác rưởi. Một tuyển tập, những tích luỹ, nhưng không biết chút nào. Và chừng
nào bạn chưa tự do khỏi rác rưởi này mắt bạn sẽ không có sự sáng tỏ, bạn sẽ vẫn
còn mù. Tôi có thể cho bạn chiếc đèn của tôi trong tay bạn, nó sẽ không giúp
ích. Sớm hay muộn ngọn lửa sẽ mất đi. Thực ra, ngọn lửa mất ngay lập tức, khoảnh
khắc tôi trao đèn của tôi cho bạn. Trong chính việc trao này ngọn lửa mất đi vì
ngọn lửa không thể được trao. Bạn sẽ phải trở thành ngọn lửa theo cách riêng của
bạn.
Bạn có thể học cách nhen nhóm
ngọn lửa của bạn nhưng bạn không thể vay mượn nó, nó không phải là thứ có thể
được trao. Nhiều nhất tôi có thể cho bạn cơn khát để tìm kiếm nó, tôi có thể
cho bạn gần như sự điên khùng đi tìm nó. Tôi có thể lái bạn tới đủ rồ dại để đi
theo nó, nhưng tôi không thể trao nó cho bạn. Không ai đã bao giờ trao nó cho bất
kì ai khác, nó là không thể trao được.
Wittgenstein nói: 'Triết lí để
mọi thứ như nó vậy.' Bạn có thể trở thành một triết gia lớn, bạn có thể biết
nhiều, nhưng triết lí để mọi thứ như nó vậy. Không cái gì thay đổi qua nó, nó
không có cách mạng trong nó.
Niềm tin có tính công cộng, tri
thức cũng có tính công cộng; việc biết có tính cá nhân, tin cậy có tính cá
nhân. Bạn phải có quan hệ với Thượng đế hay với chân lí một cách trực tiếp, tức
khắc. Bạn phải đi tới chân lí. Và điều đó sẽ là gian nan vì từng bước sẽ yêu cầu
thay đổi vô cùng trong bạn. Bạn không thể đi tới chân lí như bạn vậy, bạn sẽ phải
bỏ nhiều thứ - và điều đầu tiên, Thiền nói, là bỏ tri thức vay mượn.
Nếu bạn hỏi người Ki tô giáo
cái gì được bỏ trước hết, họ sẽ nói tội lỗi. Nhưng họ đã quên tội lỗi nguyên
thuỷ là gì. Tội nguyên thuỷ là ở chỗ Adam và Eve đã ăn từ Cây Tri thức. Câu
chuyện đó tới gần Thiền hơn. Họ đã ăn quả của Cây Tri thức - điều đó trở thành
sa ngã. Điều đó là tội lỗi thực, tội lỗi nguyên thuỷ. Tội lỗi không liên quan
gì tới hành động của bạn - đạo đức, vô đạo đức - tội lỗi có cái gì đó liên quan
tới tri thức. Chuyện ngụ ngôn này là rõ ràng thế nhưng dầu vậy các nhà thượng đế
học Ki tô giáo đã diễn giải sai nó hàng thế kỉ.
Cho nên tội lỗi nguyên thuỷ là
trở nên thông thái, ăn từ Cây Tri thức.
Thế thì cái gì sẽ là buông
xuôi? Thế thì cái gì sẽ là đức hạnh? Đức hạnh sẽ là buông xuôi tri thức, nôn ra
tri thức, lau sạch đầu bạn hoàn toàn, ném mọi tri thức ra. Quả táo mà Adam đã
nuốt đang mắc trong cổ mọi người.
Và, tất nhiên, với Adam, tri thức
chỉ là bắt đầu. Chúng ta đã tích luỹ nhiều hơn Adam vì trong hàng thế kỉ chúng
ta đã từng ăn từ cùng một cây này. Chúng ta đã hoàn toàn đánh mất không gian
này, sự thuần khiết bên trong, hồn nhiên bên trong, cái tới khi người ta ném
ra, từ bỏ tri thức của người ta. Từ bỏ tri thức của bạn đi.
Trong Kinh Thánh có chuyện ngụ
ngôn hay khác - chuyện ngụ ngôn về ba người trí huệ.
Jesus được sinh ra trong chuồng
ngựa trong tình huống nghèo nhất của mọi tình huống nghèo. Thế rồi ba người trí
huệ từ phương Đông đi tìm và tìm ông ấy vì theo phân tích chiêm tinh học của họ,
họ đã đi tới cảm thấy rằng cái gì đó của cõi bên kia đã đi vào trong thời gian.
Họ là những người rất trí huệ - có học, có học tới mức vua của nhiều nước hỏi ý
kiến họ và chạm chân họ. Nhưng dầu vậy họ đi tìm cậu bé này để chạm chân cậu.
Kiến thức của họ không là gì khi so với sự hồn nhiên của cậu bé này, vừa mới được
sinh ra.
Đứa bé này chưa ăn quả tri thức
và đứa bé này là tới mức nó sẽ không ăn quả tri thức. Nó sẽ khăng khăng vẫn còn
thuần khiết tri thức, nó sẽ không làm ô nhiễm hiện hữu của nó, không làm ô uế
hiện hữu của nó. Cái gì đó từ cõi bên kia, cái gì đó của điều Thiêng liêng đã
đi vào trong thế giới của thời gian.
Ba người trí huệ đó du hành. Điều
đó là gian truân, cuộc hành trình là dài, và ba người trí huệ rất, rất già, rất
từng trải, đã biết nhiều nghệ thuật. Họ biết mọi điều có thể được biết nhưng họ
không biết cách hiện hữu trong trạng thái của việc biết. Và họ đang đi tìm cậu
bé này, cậu bé nhỏ này, để nhìn vào đôi mắt thanh tịnh của cậu, để nhìn vào đôi
mắt trong trắng của cậu, để tìm ra cách người ta có thể đơn giản ở đó mà không
có tri thức nào.
Họ rất già và không ai biết
Jesus được sinh ra ở đâu - nhưng câu chuyện này hay. Chuyện kể: nhìn lên trời để
tìm đường trên đất. Điều này là kì lạ. Để tìm đường trên đất, bạn phải nhìn vào
đất, nhưng họ nhìn lên trời. Và ngôi sao hướng dẫn họ.
Nếu bạn muốn tìm đường trên đất
bạn phải nhìn lên trời. Nếu bạn muốn chân bạn đi đúng bạn sẽ phải nhìn lên đỉnh
cao nhất của cuộc sống. Bạn sẽ phải nhìn lên các vì sao. Nếu mắt bạn hướng tới
chiều cao này chân bạn sẽ đi theo đường đúng. Đó là cách duy nhất. Nếu bạn bò
trên đất và nhìn vào đất, bạn sẽ bỏ lỡ mọi con đường.
Ngôi sao hướng dẫn họ. Họ tới
thị trấn, họ tới chuồng ngựa và ngôi sao dừng ở đó. Khi họ tới nhà mọi thứ dừng
lại vì nhà đơn giản ngụ ý rằng bây giờ không đâu mà đi. Bạn đã đi tới điểm từ
đó người ta không có chỗ nào mà đi. Điều tối thượng đã tới.
Ba người trí huệ này cúi mình
dưới chân của cậu bé này. Đây là tri thức cúi mình trước việc biết, kinh nghiệm
cúi mình trước hồn nhiên, Adam cúi mình trước Jesus, kính trọng cúi mình trước
cách mạng.
Và họ tặng nhiều quà cho Jesus:
vàng họ tặng, hương họ tăng, nhựa thơm họ tặng. Đấy là việc cúng dường tượng
trưng. Ở phương Đông, vàng được tặng cho các vua và người nghèo nhất này trong
những người nghèo là vua của các vua. Cho nên họ tặng vàng. Hương được tặng cho
các tu sĩ và cậu bé này không phải là tu sĩ vậy mà cậu sẽ là tu sĩ cao nhất có
thể có. Họ tặng hương. Và ở phương Đông, nhựa thơm được tặng cho ai đó đang
trên giường chết. Tại sao họ tặng nhựa thơm cho cậu bé này vừa mới được sinh
ra? Họ biết, họ cảm thấy, rằng cậu bé này sẽ chết trên cây thập tự - được định
mệnh. Vì chừng nào ai đó chưa chết một cách toàn bộ, không có phục sinh.
Họ tặng bất kì cái gì họ có và
họ quay về. Câu chuyện này nói rằng họ quay về nhà họ... nhà họ ở Iran. Cho nên
họ quay về nhà và họ đem thông điệp rằng họ đã nhìn và đã thấy trong mắt của
Jesus cái gì đó của cái không biết.
Họ đem thông điệp này nhưng
Iran không bao giờ trở thành nước Ki tô giáo, không bao giờ. Điều đó nữa là rất
biểu tượng. Ba người trí huệ này đã là những người đầu tiên bắt gặp Jesus nhưng
dầu vậy họ đã không thể mang được thông điệp về nhà. Kinh nghiệm này là sâu sắc
và sâu lắng tới mức nó không thể được diễn đạt. Họ có thể đã trở thành câm, họ
có thể đã vẫn còn im lặng trong cả phần còn lại của cuộc đời họ, họ có thể đã
không nói cho bất kì ai, họ có thể đã không nói bất kì cái gì cho bất kì ai.
Không ai biết cái gì đã xảy ra cho ba người trí huệ đó. Vì họ đã tới chính cội
nguồn, họ có thể đã trở nên im lặng.
Đây là chuyện ngụ ngôn Thiền. Điều
đầu tiên cần bị bỏ đi là tri thức. Một khi bạn bỏ tri thức bạn đạt tới sáng tỏ.
Nhìn trẻ nhỏ mà xem - để điều đó là lí tưởng của bạn và trở lại thành đứa trẻ lần
nữa. Chỉ trẻ con có mắt để thấy. Mắt chúng ta quá đầy các ý tưởng.
Chúng ta liên tục thu thập tri
thức, ý kiến, nhưng sâu bên dưới chúng ta vẫn còn là người cũ, không cái gì
thay đổi. Chúng ta liên tục sơn vẽ nhân cách của mình trên bề mặt.
Tôi đã nghe.
Cohen và Goldberg là các đối
tác trong kinh doanh trang phục. Và kinh doanh này thật khủng khiếp.
Cohen chán nản công bố với đối
tác của anh ta rằng anh ta sẽ đổi tên để có vận may.
'Từ giờ trở đi,' anh ta nói,
'Tôi là O'Brian.'
Đêm đó Goldberg quyết định anh
ta đổi tên anh ta nữa.
Cả hai người chỉ thị cho thao
tác viên chuyển mạch điện thoại trả lời các cú điện thoại, 'O'Brian và
O'Brian.'
Mọi thứ diễn ra tốt đẹp cho tới
khi người gọi yêu cầu nói chuyện với ông O'Brian. 'Ông muốn nói với O'Brian
nào?' thao tác viên hỏi. 'Cohen hay Goldberg?'
Mọi thứ mà chúng ta liên tục
làm trên bề mặt sẽ chỉ giống như đổi tên. Bên trong bạn sẽ vẫn còn là người cũ.
Mặt nạ của bạn không bao giờ có thể trở thành sâu hơn làn da - tri thức của bạn,
căn cước của bạn trên thế giới không là gì ngoài mặt nạ, bộ trang phục.
Thiền nói bạn đang phí hoài cuộc
sống của bạn. Đi sâu, đi ra ngoài tri thức của bạn, đi ra ngoài cái tên của bạn
và hình tướng của bạn, đi ra ngoài căn cước đó mà xã hội đã trao nó cho bạn.
Các Thiền sư cho các đệ tử của họ những công án để nhìn vào mặt nguyên thuỷ của
họ - mặt mà bạn đã có trước khi bạn được sinh ra. Bây giờ bạn có mặt giả; nó đã
được xã hội trao cho bạn, nó chỉ là hình thức. Và nếu bạn nghĩ nó là bạn, bạn
đang trong hình tướng rất tệ.
Ai đó là người Ki tô giáo, ai
đó là người Hindu, ai đó là người Mô ha mét giáo, ai đó là Phật tử - tất cả những
điều này chỉ là những thứ bề ngoài, ngẫu nhiên của việc sinh. Bạn không là người
Ki tô giáo, vì Christ chưa chạm tới con tim bạn. Bạn là người Ki tô giáo vì bạn
được sinh ra trong gia đình Ki tô giáo. Bạn là Phật tử vì đó chỉ là ngẫu nhiên
của việc sinh, sự trùng khớp ngẫu nhiên. Điều đã xảy ra là bố bạn và mẹ bạn đã
là Phật tử - do đó bạn là Phật tử. Nhưng Phật chưa xảy ra cho bạn.
Nhớ, điều này là rất rẻ. Bỏ Ki
tô giáo, bỏ Hồi giáo, bỏ Phật giáo, bỏ cái đã được trao cho bạn bởi xã hội, bởi
việc sinh, bởi hiệp hội, bởi văn hoá, bởi đất nước. Bỏ mọi thứ để cho bạn có thể
tìm ra bạn thực sự là ai.
Những điều này sẽ bị lấy đi bởi
chết; chết sẽ thiêu cháy mặt nạ của bạn. Và thế thì bạn sẽ tới mặt đối mặt với
bản thân bạn và bạn thậm chí sẽ không có khả năng nhận ra nó, vì bạn không bao
giờ biết rằng đây là mặt của bạn. Chúng ta sống cuộc sống rất bề ngoài.
Tôi đã nghe.
Một người ăn xin bám chặt lấy
găng tay của một người qua đường có vẻ nhân từ.
'Năm xu, thưa ông, để có một cốc
cà phê,' anh ta rền rĩ.
Người kia quay lại và nhìn kĩ
anh ta.
'Tại sao,' người kia hỏi, 'tôi
phải cho anh tiền? Cái gì đưa anh vào cảnh ngộ buồn này?'
'Một tại hoạ kinh khủng, thưa
ông,' người ăn xin đáp. 'Hai năm trước tôi đã là người kinh doanh phát đạt như
ông, tôi đã việc cần cù. Trên bàn của tôi có khẩu hiệu 'Nghĩ xây dựng, Hành động
quyết định'. Tiền rót vào và thế rồi, và thế rồi'... thân hình người ăn xin run
lên dữ dội... 'bà quét dọn đã đốt mất khẩu hiệu của tôi!'
Chỉ đốt khẩu hiệu! 'bà quét dọn
đã đốt mất khẩu hiệu của tôi!' - điều đó đã làm cho anh ta thành kẻ ăn xin.
Bạn có bất kì cái gì nhiều hơn
chỉ khẩu hiệu không? Bạn gọi tên bạn là gì? Bạn gọi căn cước của bạn là gì? Nó
có thể bị đốt; chết sẽ lấy nó đi. Chết không là gì ngoài bà quét dọn. Chết sẽ dọn
sạch nó và bạn sẽ khóc như mưa. Thế thì bạn sẽ nói, 'Chết đã giết tôi.'
Chết không bao giờ giết bất kì
người nào; chết không có sức mạnh để giết; chết là thứ bất lực nhất trên thế giới.
Bạn làm cho nó thành có lực bởi việc níu bám lấy cái bề ngoài. Sức mạnh của chết
không phải là cố hữu của chết, sức mạnh của chết được bạn trao cho. Chết được
làm mạnh bởi bạn vì bạn liên tục níu bám lấy cái bề ngoài. Chết chỉ có thể lấy
đi cái bề ngoài, nó không thể đi vào chiều sâu của bản thân của bạn.
Nhưng nếu bạn nghĩ tới quần áo
như là bạn, thân thể như là bạn, tâm trí như là bạn, thế thì bạn đã trao sức mạnh
vào tay của chết. Chết sẽ phá huỷ cái này và thế thì bạn sẽ khóc như mưa rằng
'Tôi đã bị giết' và với toàn thể cuộc sống của bạn, bạn sẽ sợ chết.
Thiền nói rằng nếu bạn bỏ tri
thức - và bên trong tri thức mọi thứ được bao hàm, tên bạn, căn cước của bạn, mọi
thứ, vì điều này đã được người khác trao cho bạn - nếu bạn bỏ mọi cái đã được
người khác trao cho bạn, bạn sẽ có phẩm chất khác toàn bộ cho bản thân bạn - hồn
nhiên. Đây sẽ là việc đóng đinh của mặt nạ, nhân cách, và sẽ có phục sinh của hồn
nhiên của bạn; bạn sẽ lại trở thành đứa trẻ lần nữa, được tái sinh.
Người Hindus gọi trạng thái này
là dwij, được sinh ra hai lần. Đây là việc sinh thứ hai. Một người thực sự trở
thành người Brahmin khi người đó đã trải qua cây thập tự - nhân cách bị thiêu
cháy và bị phá huỷ bởi chết. Hay bản thân người đó đã từ bỏ nó một cách tự nguyện,
thế thì hồn nhiên nảy sinh và người đó được tái sinh. Thế thì người đó là người
Brahmin vì chỉ thế thì người đó đi tới biết chân lí là gì.
Nhưng chúng ta đã quyết định đi
theo lối tắt, con đường của niềm tin. Chúng ta hi vọng ngược lại hi vọng rằng mắt
của ai đó khác sẽ làm công việc cho chúng ta.
Chuyện xảy ra.
Vào thời của Phật đã có một người
mù ở một làng nào đó. Ông ấy là một nhà logic lớn, nhà tư tưởng lớn, và không
ai có khả năng thuyết phục ông ấy rằng ánh sáng tồn tại vì ông ấy sẽ tranh cãi
chống lại điều đó.
Ông ấy sẽ nói, 'Nếu ánh sáng tồn
tại, tôi muốn chạm vào nó, vì bất kì cái gì tồn tại đều có thể được chạm. Nếu
ánh sáng tồn tại, tôi muốn nếm nó hay ít nhất tôi muốn ngửi nó. Hay, ông có thể
ném nó lên sàn - ít nhất tôi có thể nghe thấy âm thanh của nó.'
Ông ấy nói, 'Có bốn giác quan,
cho nên bất kì giác quan nào sẵn có cho tôi đều có thể trở thành bằng chứng cho
nó.'
Nhưng không có cách nào chạm
vào ánh sáng, không có cách nào ngửi nó - nó không có mùi. Và không có cách nào
ném nó lên sàn để tạo ra âm thanh. Không có cách nào để nếm nó. Chứng minh là
khó, rất khó.
Và thế rồi người mù đó sẽ cười
và ông ấy sẽ nói, 'Ông đang cố lừa tôi! Ông đơn giản muốn chứng minh rằng ánh
sáng là có, để cho ông có thể chứng minh rằng tôi là mù. Nhưng tôi không mù. Mọi
người mù - và không tồn tại cái gì như ánh sáng. Ông không cố lừa tôi được.'
Một hôm người mù này được mời tới
nhà một người bạn. Việc chuẩn bị sữa đang được thực hiện và ông ấy thích điều
đó lắm và ông ấy hỏi cái gì đang được làm. Họ nói, 'Sữa đấy.'
Ông ấy nói, 'Nói cho tôi cái gì
đó thêm về sữa đi. Nó trông thế nào?'
Họ nói, 'Nó trông mầu trắng.'
Ông ấy nói, 'Trắng sao? Ông sẽ
phải chứng minh vì tôi không tin rằng mầu tồn tại. Nó chỉ là tưởng tượng của
con người. Trắng là gì?'
Họ nói, 'Trắng - cũng giống như
bò trắng.'
Ông ấy nói, 'Bây giờ ông đang tạo
ra nhiều vấn đề hơn. Bò là gì? Nó trông giống cái gì?'
Không tìm được cách nào, người
này phát minh ra một phương pháp. Người đó đến gần ông già này, người đó để tay
mình trước ông ấy, làm cử chỉ như đây là đầu con bò. Và ông ấy nói, 'Chạm tay
tôi. Đầu bò cho cảm giác như thế này và hai ngón tay là hai sừng. Cảm đi.'
Ông ấy cố gắng cảm và ông ấy cười
và nói, 'Giờ tôi biết rồi. Sữa đó có vẻ giống như bàn tay khum.'
Tuyệt đối logic - vì câu hỏi cơ
bản của ông ấy là về sữa.
Thấy khó quá họ đem ông ấy tới
Phật - Phật đang ở khu lân cận - và họ nói với Phật, 'Chúng tôi đã cố gắng vất
vả nhưng chúng tôi không thể thuyết phục được người này rằng ánh sáng tồn tại
hay rằng mầu tồn tại. Ông ấy mù nhưng ông ấy rất biện luận.'
Phật nói, 'Ông ấy không sai,
các ông sai. Thay vì đưa ông ấy tới ta, đưa ông ấy tới lương y người có thể chữa
mắt của ông ấy. Ông ấy không cần bất kì thuyết phục khác nào, không thuyết phục
nào là có thể. Không thể chứng minh cho người mù rằng ánh sáng tồn tại và nếu
người mù đồng ý người đó có thể đồng ý chỉ để lịch sự. Làm sao người mù có thể
đồng ý được rằng ánh sáng tồn tại? Nếu người đó không thể cảm thấy sự tồn tại của
nó, thế thì không có cách nào để cảm nó. Ông đưa ông ấy tới lang y đi.'
Và Phật nói, 'Ta biết một lang
y lớn' - lang y riêng của Phật, Jeevika là tên ông ấy - 'Ông đi tới Jeevika đi.
Ông ấy có thể có khả năng tìm ra cách nào đó.'
Và chuyện xảy ra là người đó
không thực sư mù, ông ấy có bệnh nào đó trong mắt từ khi sinh. Sau sáu tháng chữa
trị ông ấy bắt đầu thấy. Ông ấy nhảy múa suốt đường tới chỗ Phật, ông ấy phủ phục
dưới chân Phật và ông ấy nói, 'Tôi xin lỗi, ánh sáng hiện hữu, nhưng đã không
có cách nào cho tôi nhận ra nó trước khi mắt tôi được mở ra.'
Cùng điều đó là đúng về Thượng
đế, cùng điều đó là đúng về chân lí. Không biện luận nào có thể chứng minh rằng
Thượng đế tồn tại, không chứng minh nào tồn tại mà có thể giúp đỡ chừng nào mắt
bạn chưa được mở ra.
Cho nên Thiền không bận tâm về
việc triết lí, về các khái niệm. Nó nói nỗ lực duy nhất đáng làm, điều duy nhất
đáng đưa toàn thể năng lượng của bạn vào là làm sao đạt tới mắt.
Lopos Pachio, một nhà thơ lớn,
có vài dòng hay:
Bỏ khỏi mắt tôi màn sương này của
nhiều thế kỉ. Tôi muốn thấy các thứ như đứa trẻ.
Đó là điều toàn thể nỗ lực của
Thiền là gì - loại bỏ màn sương của nhiều thế kỉ, loại bỏ màn sương của quá khứ.
Đó là việc lớn lau sạch mắt, và một khi cảm nhận của bạn là rõ ràng và một khi
bạn đã đạt tới sự sáng tỏ để nhìn, chân lí hiện hữu, và không cái gì khác hiện
hữu. Chân lí không bị mất - bạn đã mất đôi mắt của bạn.
Mọi người tới tôi và họ nói,
'Thượng đế ở đâu?' Tôi nói, 'Bỏ hoàn toàn chủ đề đó đi. Điều đó không liên
quan. Bạn có mắt không? Đó là câu hỏi liên quan để hỏi. Nếu bạn không có mắt,
cho dù tôi xoay xở tạo ra Thượng đế trước bạn, bạn sẽ không có khả năng thấy.'
Bạn có thể thấy chỉ cái bạn có
thể thấy. Bạn sẽ cần sự sáng tỏ lớn hơn để đi vào những điều huyền bí tinh tế của
cuộc sống. Thượng đế là điều huyền bí tinh tế nhất. Để thấy điều đó, mắt rất
tinh tường được cần.
Cho nên Thiền nói rằng không cần
nói về Thượng đế; mọi việc nói về Thượng đế là vô dụng. Họ không nói về Thượng
đế; mọi việc nói về cõi trời và địa ngục là vô dụng. Họ không nói về điều đó, họ
không nói về chân lí, họ không nói về thực tại - họ không có siêu hình.
Phật rất ngần ngại nói về bất
kì vấn đề siêu hình nào. Ông ấy hoặc giữ yên tĩnh, ông ấy sẽ không trả lời, hoặc
ông ấy nói cái gì đó khác toàn bộ với điều người hỏi có trong tâm trí. Ông ấy gần
như im lặng về mọi câu hỏi lớn nhân loại đã từng thảo luận, tranh cãi, suy
nghĩ, suy tư, triết lí. Nếu Plato, Aristotle, Hegel, Kant, và những người như vậy
tới ông ấy, họ chắc đã nghĩ ông ấy điên. Ông ấy sẽ không trả lời một câu hỏi
nào của Hegel hay Kant hay Plato hay Aristotle. Nhiều nhất ông ấy sẽ cười vào
những câu hỏi ngu xuẩn của họ. Ông ấy sẽ nhấn mạnh chỉ vào một điều, 'Appo
deepo bhava - Là ánh sáng lên bản thân ông.' Nhen nhóm lên ánh sáng bên trong của
bạn để cho bạn có thể thấy. Chúng ta có thể thấy chỉ cái chúng ta có thể thấy.
Một cô gái nhỏ có lần tới tôi
và tôi hỏi cô ấy, 'Cháu muốn nói cái gì đó với bác sao?'
Cô bé nói, 'Cháu muốn hát một
bài hát nhỏ.'
Cô bé là bé gái rất nhỏ và nó
hát một bài hát và tôi thích bài này.
Bài hát là:
Mèo ơi, mèo ơi, mày ở đâu? Tao
đã ở London để nhìn Nữ hoàng. Mèo ơi, mèo ơi, mày thấy gì ở đó? Tao thấy chuột
dưới ghế.
Tất nhiên, mèo không thể thấy
được Nữ hoàng, điều đó là không thể được. Mèo chỉ có thể thấy chuột. Nữ hoàng ở
đó ngồi trên ghế, nhưng mèo không thể thấy được - nó thấy chuột dưới ghế.
Và điều đó là tuyệt đối logic.
Mèo có mắt nhìn chuột và với mèo, nó không có mắt nhìn Nữ hoàng. Chúng ta chỉ
thấy cái chúng ta có thể thấy.
Nếu bạn không thấy Thượng đế
trong sự tồn tại thế thì bạn phải nhớ một điều: bạn chưa có mắt dành cho Thượng
đế. Cho nên làm việc chăm chỉ để có mắt đi. Và đừng mượn mắt - mắt không như
kính. Bạn có thể mượn kính của ai đó và đôi khi chúng thậm chí có thể khớp,
nhưng mắt không như kính.
Và khi tôi hay Thiền nhân nói về
mắt, chúng không giống như mắt thường của bạn. Nó là cái nhìn bên trong. Ngay cả
những mắt thường này cũng có thể được chuyển giao - bạn có thể có mắt tôi, mắt
vật lí, tôi có thể có mắt vật lí của bạn, chúng có thể được cấy; nhưng cái nhìn
bên trong, mắt bên trong, con mắt thứ ba, thì không thể chuyển giao được.
Cho nên nhớ, dốt nát là tốt hơn
tri thức vay mượn. Ít nhất nó là thực. Nhận ra sự kiện là 'Tôi không biết' đi;
nhận ra nó sâu sắc tới mức toàn thể bản ngã của bạn biến mất. Vì bản ngã tồn tại
qua tri thức; tri thức là thức ăn sống còn nhất cho bản ngã. Đó là lí do tại
sao chúng ta liên tục giả vờ về những điều chúng ta không biết - chúng ta liên
tục giả vờ rằng chúng ta biết.
Chuyện xảy ra trong nhà thờ.
Linh mục già nhất của nhà thờ đã sẵn sàng cho buổi giảng lễ buổi sáng. Hôm đó
là chủ nhật, sáng sớm, và ông ấy đã chuẩn bị các lời chú giải.
Một linh mục trẻ chạy tới và
nói, 'Kìa! Cha đang làm gì vậy? Jesus đã tới và ông ấy đang tôn thờ ngoài ban
thờ.'
Linh mục già nói, 'Jesus à?' Đó
gần như là một cú sốc. Jesus không bao giờ tới và không ai đã bao giờ nghĩ rằng
ông ấy tới.
Ngay cả các linh mục người liên
tục nói rằng Jesus sẽ tới lần sau, rằng ông ấy sẽ lại tới, ngay cả họ cũng
không tin. Ai tin? Linh mục là những người không tin nhất vì họ biết chính bí mật
của thương mại. Họ nói các thứ cho người khác.
Ông ấy không thể tin được điều
đó nhưng ông ấy bắt đầu run. Ông ấy trở nên sợ. Cả hai đi ra cửa và nhìn vào
bên trong. Đúng, có một hình người đích xác như Jesus Christ và người đó đang
tôn thờ ở bàn thờ.
Linh mục trẻ nói, 'Giờ chúng ta
làm gì?'
Linh mục già nói, 'Ra vẻ bận rộn
đi. Chúng ta còn có thể làm cái gì khác?' Ra vẻ bận rộn! Đó là cách chúng ta
liên tục giả vờ. Chính phát biểu khó khăn nhất trên thế giới là nói ‘Tôi không
biết'.
Nếu ai đó hỏi, 'Có Thượng đế
không?' hoặc bạn nói, 'Có, có đấy' hoặc bạn nói, 'Không, không có Thượng đế
trên thế giới.' Cả hau câu trả lời đều ngu. Nếu bạn đã được nuôi lớn trong một
gia đình tôn giáo, bạn nói, 'Có, có đấy.' Nếu bạn đã được nuôi lớn ở nước Nga
xô viết hay ở Trung Quốc, bạn nói, 'Không, không có Thượng đế.' Nhưng đây là
các ước định của bạn nói, không phải bạn.
Đợi một phút, nghĩ hai lần đi -
bạn có biết không? Có và không cả hai đều chỉ ra tri thức của bạn. Người nói
không đang giả vờ tri thức tuyệt đối. Người đó đang nói rằng người đó đã tìm
toàn thể sự tồn tại và đã không tìm thấy ngài. Người nói có - người đó nói,
'Có, tôi đã nhìn vào Koran, vào Kinh Thánh, vào Vedas, và tất cả chúng đều nói
ngài hiện hữu, và tôi tin rằng ngài hiện hữu.' Nhưng chân lí là ở chỗ cả hai đều
khẳng định cái gì đó mà không có kinh nghiệm cá nhân đằng sau nó.
Người thực và đúng sẽ nói, 'Tôi
không biết.' Khoảnh khắc bạn nói 'Tôi không biết' bạn là sẵn có, các cửa của bạn
không bị đóng. Thế thì bạn có thể tìm và kiếm, thế thì toàn thể cuộc hành trình
dành cho bạn. Một khi bạn nói có hay không, các cánh cửa bị đón lại. Bạn trở
thành thiển cận trong tri thức của bạn.
Tri thức làm cho bạn mù. Nó
đóng mắt bạn lại. Nó rót vào mắt bạn cát bụi. Tri thức là một loại mù - bạn sẽ
phải thoát ra khỏi nó, bạn sẽ phải nhảy ra khỏi nó. Nếu bạn có thể biểu lộ ngần
ấy dũng cảm chỉ thế bạn mới có thể bước đi con đường của chân lí, bạn mới có thể
thiền, bạn mới có thể ngồi toạ thiền.
'Tôi không biết' là việc bắt đầu
của toạ thiền. 'Tôi không biết' việc nhận ra này là bước đầu tiên hướng tới tri
thức.
Bây giờ tới câu chuyện.
Lâu trước đây, ở Nhật Bản, một
người mù tới thăm một người bạn vào một đêm, được người bạn cho chiếc đèn bằng
giấy và tre để mang về nhà cùng người đó.
Bây giờ, điều ngớ ngẩn là cho
người mù chiếc đèn vì người đó không thể nhìn được. Tối và sáng, cả hai đều như
nhau với người đó. Điều đó là ngu xuẩn. Người đó sẽ làm gì với chiếc đèn? Nó sẽ
chỉ là gánh nặng. Đèn là hay và giúp ích và có ánh sáng trên con đường của bạn
- nếu bạn có mắt; bằng không đèn là gánh nặng.
Tri thức, nếu nó là của bạn, là
ánh sáng trên con đường của bạn. Tri thức, nếu nó chỉ được học từ người khác,
là gánh nặng. Thế thì đầu bạn trở nên nặng, thế thì bạn đang mang đá trong đầu
bạn. Thế thì bạn không thể bay được vì để bay bạn cần vô trọng lượng. Tri thức
trở thành trọng lượng treo vào bạn.
Tặng người mù chiếc đèn là ngu
xuẩn. Nhưng người đã tặng nó phải đã rất logic. Người đó có logic nào đó đằng
sau việc đó. Bất kì khi nào chúng ta làm cái gì đó ngu xuẩn chúng ta bao giờ
cũng hợp lí hoá nó - vì rất khó cho bản ngã làm điều đơn giản, ngu xuẩn. Chúng
ta hợp lí hoá nó, chúng ta tìm biện luận nào đó cho nó. Bất kì cái gì chúng ta
làm, chúng ta bao giờ cũng tìm biện luận nào đó để cho nó sự hỗ trợ, để ít nhất
cho nó một bộ mặt để cho nó không có vẻ ngu xuẩn.
'Tôi không cần đèn đâu,' ông ấy
nói, 'tối hay sáng tất cả đều như nhau với tôi.'
Người mù này là đơn giản và anh
ta biết đèn có thể làm gì cho anh ta. Anh ta không thể thấy được - ngày và đêm
là như nhau với anh ta.
'Tôi biết ông không cần đèn để
tìm đường đi,’ bạn ông ấy đáp, 'nhưng ông phải mang nó vì nếu ông không có đèn
ai đó khác có thể va vào ông.'
Bây giờ người đó đã tìm ra một
biện luận hay cho nó. Và ngay cả với người mù này nó cũng hấp dẫn. Nó có vẻ
đúng. Bạn có thể không có khả năng thấy, nhưng với chiếc đèn trong tay ít nhất
người khác sẽ có khả năng thấy bạn và họ sẽ không va vào bạn. Khó phủ nhận điều
này, logic là rõ ràng.
Đó là cách chúng ta chấp nhận
nhiều thứ: vì lí do nào đó, vì logic nào đó đằng sau chúng. Bạn không biết liệu
Thượng đế có hiện hữu không, thế rồi ai đó nói, 'Anh không thể nghĩ về chiếc đồng
hồ được làm ra mà không có người làm sao?' Tất nhiên bạn không thể nghĩ được.
Điều có vẻ gần như không thể được là chỉ bởi trùng hợp ngẫu nhiên, bởi tình cờ,
chiếc đồng hồ sẽ đi vào sự tồn tại. Không thể quan niệm được. Điều có vẻ logic
là nếu chiếc đồng hồ nhỏ, chiếc máy nhỏ, không thể tự nó đi vào sự tồn tại được,
thế thì làm sao toàn thể vũ trụ này, vô hạn thế và phức tạp thế vậy, có thể chạy
trong trật tự và kỉ luật sâu thế? Làm sao toàn thể sự tồn tại này đi vào hiện hữu
mà không có người làm ra? Điều đó hấp dẫn, nó có vẻ logic, khó mà phủ nhận nó.
Cho nên người mù này đồng ý; cho nên bạn nói, 'Vâng, phải có Thượng đế.'
Nhìn đấy! Bạn đang chấp nhận
cái gì đó mà bạn không thể thấy được, cái bạn chưa bao giờ cảm thấy. Nhưng luận
cứ này dường như có trọng lượng và dường như khó phủ nhận nó. Bạn đã chấp nhận
Thượng đế, bạn đã chấp nhận linh hồn, bạn đã chấp nhận cả nghìn lẻ một thứ chỉ
bởi vì chúng được hỗ trợ bởi luận cứ có trọng lượng.
Nhưng chúng không giúp đỡ. Cuộc
sống không phải là luận cứ. Bạn phải sống nó để biết nó. Và nguy hiểm là ở chỗ
vì luận cứ, một khi bạn chấp nhận Thượng đế - 'Vâng, Thượng đế hiện hữu, vì người
làm được cần, đấng sáng tạo được cần cho việc sáng tạo' - bạn có thể quên dần dần
rằng bạn không biết đấng sáng tạo này. Việc chấp nhận này có thể trở thành điều
nguy hiểm, điều định mệnh - thế thì bạn sẽ không tìm kiếm, bạn sẽ nghĩ bạn đã
biết rồi. Tri thức của bạn có thể lừa bạn và bạn có thể bắt đầu cảm thấy rằng bạn
đã biết. Hàng triệu người trên thế giới liên tục nghĩ rằng họ biết Thượng đế tồn
tại.
Đó là điều đã xảy ra cho người
mù đáng thương này.
Người mù lên đường với chiếc
đèn và ông ấy chưa đi được bao xa thì ai đó chạy đâm sầm vào ông ấy. 'Cẩn thận
lối ông đi chứ!' người mù kêu lên với người lạ. 'Ông không thấy chiếc đèn này
sao?'
'Nến trong đèn của ông đã tắt rồi,
ông bạn ơi,' người lạ đáp.
Bây giờ, mối nguy là ở chỗ người
mù này, nếu người đó không có đèn trong tay, chắc đã thận trọng bước đi. Anh ta
là người mù và anh ta bao giờ cũng bước đi. Anh ta biết anh ta bị mù cho nên
anh ta lấy mọi thận trọng. Hôm nay anh ta phải đã bỏ lại mọi thận trọng đằng
sau - anh ta có chiếc đèn trong tay. Anh ta tin vào chiếc đèn, cho nên không cần
phải thận trọng. Anh ta phải đã bước đi nhàn nhã, tưởng rằng chiếc đèn có đó và
không ai có thể va vào anh ta.
Trong cả đời mình anh ta đã từng
bước đi trên cùng con đường và không ai đã va vào anh ta vì anh ta thận trọng.
Hôm nay không có nhu cầu thận trọng - đó là nguy hiểm của tri thức vay mượn.
Nếu bạn dốt nát bạn thận trọng
hơn, bạn bước đi với nhiều tỉnh táo, nhận biết hơn, bạn hành xử thận trọng hơn.
Nếu bạn nghĩ bạn biết, thế thì bạn bắt đầu đi như robot: không có nhu cầu thận
trọng, không có nhu cầu tỉnh táo, bạn có thể rơi vào giấc ngủ, bạn có thể trở
nên vô ý thức.
Đó là điều đã xảy ra cho người
mù này. Anh ta phải đã bước đi, cứ tưởng người khác cũng nghĩ. Không có nhu cầu
nghĩ về con đường, về người khác, về bản thân anh ta. Anh ta tin cậy, anh ta
tin vào chiếc đèn.
Đó là cách hàng triệu người
đang bước đi trong cuộc sống - tin cậy vào Kinh Thánh, vào Vedas, vào Koran,
tin cậy vào người khác. Chính niềm tin của họ là nguy hiểm. Tốt hơn cả là nhận
biết và tỉnh táo và đi một cách thận trọng.
Người mù lên đường với chiếc
đèn và ông ấy chưa đi được bao xa thì ai đó chạy đâm sầm vào ông ấy. 'Cẩn thận
lối ông đi chứ!'.
Anh ta phải đã giận, bực mình.
Ai đó đi ngược lại logic, ai đó hành xử một cách không hợp lí. Anh ta đã có chiếc
đèn và người bạn đã nói, và nói rất thuyết phục, rằng không ai sẽ va vào anh ta
bây giờ. Mọi người sẽ có khả năng thấy anh ta. Và người này tới đây. 'Anh có mù
không?' anh ta phải nói với người đó. 'Anh không thể thấy được chiếc đèn này
trong tay tôi sao? Anh đang làm gì? Anh có điên không? Anh không hiểu logic đơn
giản à?'
Nhưng cuộc sống không tin vào
logic; cuộc sống là rất phi logic, nó rất bất hợp lí, nó gần như ngớ ngẩn. Và ở
đây ngớ ngẩn bước vào; cuộc sống bao giờ cũng có những điều ngạc nhiên cho bạn.
Người mù này cứ tưởng rằng chiếc đèn có đó và do vậy không có vấn đề gì.
'Ông không thể thấy chiếc đèn
này sao?'
'Nến trong đèn của ông đã tắt rồi,
ông bạn ơi,'
Bây giờ đây là điều ngạc nhiên.
Và làm sao người mù này có thể thấy được rằng chiếc nến đã cháy hết, rằng người
đó đang mang chiếc đèn chết, không có ánh sáng? Người đó đang mang chỉ trọng lượng
chết.
Mọi niềm tin của bạn đều giống
như chiếc đèn không có ánh sáng trong nó. Koran là chết, nó không có ánh sáng
nào mặc dầu nó có thể đã đầy cuộc sống và đầy ánh sáng trong tay của Mohammed.
Gita là chết, chiếc nến bị cháy hết. Nó có thể đã đầy ánh sáng trong tay của
Krishna vì ông ấy đã có mắt. Ông ấy có thể đã thay thế chiếc nến cháy hết vào bất
kì khoảnh khắc nào.
Trong nhiều thế kỉ bạn đã mang
kinh sách - những chiếc nến đã cháy hết. Và mọi người va vào mọi người khác. Bạn
không thể thấy được điều đó sao? Toàn thể xung đột của nhân loại - người Hindus
đánh nhau với người Ki tô giáo, người Ki tô giáo đánh nhau với người Mô ha mét
giáo, người Mô ha mét giáo đánh nhau với Phật tử, mọi người truy đuổi lẫn nhau
- bạn không thể thấy cái bi thảm này, xung đột này sao? Toàn thể nhân loại đang
vật lộn, đang trong chiến tranh. Lúc thì nó là nóng, lúc thì nó là lạnh, nhưng
mọi lúc nó là ấm. Lúc thì bạn đánh nhau, lúc thì bạn chuẩn bị cho đánh nhau,
nhưng mọi lúc nó là đánh nhau.
Và không chỉ các tôn giáo đang
đánh nhau - các quốc gia đang đánh nhau, mọi người... Mọi người đang đánh nhau:
chồng với vợ, vợ với chồng, bạn với bạn, anh em với anh em, con cái với bố mẹ,
bố mẹ với con cái. Mọi người, mọi nơi, đang va vào nhau.
Dường như chúng ta tất cả đều
mù và mọi người tưởng rằng mình đang mang chiếc đèn trong tay... Và chiếc nến bị
cháy hết.
Thực ra, khi có liên quan tới
cây nến của chân lí, khoảnh khắc nó được truyền từ tay này sang tay khác, nó chết.
Gita chết khi Krishna truyền nó sang Arjuna. Không phải là Arjuna sẽ mang ánh
sáng này ít nhất trong vài bước, điều đó là không thể được. Khi tôi nói điều gì
đó cho bạn, tôi có thể thấy nó đang chết liên tục giữa tôi và bạn. Khoảnh khắc
nó đạt tới bạn nó đã chết rồi.
Không có cách nào để truyền nó.
Thế thì tại sao tôi liên tục nói? Đôi khi mọi người tới và hỏi tôi, 'Tại sao thầy
liên tục nói nếu không có cách nào truyền nó?' Không có cách nào để truyền nó,
không bao giờ có cách để truyền nó. Nhưng dầu vậy tôi phải nói, chỉ để chỉ cho
bạn cái không thể được này. Bạn không thể hiểu được điều tôi đang nói nhưng nếu
tôi im lặng bạn sẽ không có khả năng nào hiểu. Nếu bạn không thể hiểu được lời
tôi, bạn sẽ không có khả năng hiểu im lặng của tôi. Nếu bạn hiểu nhầm lời tôi,
bạn sẽ hiểu nhầm im lặng của tôi. Nhưng dầu vậy tôi phải nói cho bạn vì đó là
cách duy nhất có thể để trao đổi rằng có cái gì đó bên trong tôi mà không thể
được trao đổi, rằng tôi đang mang cái gì đó, rằng tôi đang chứa cái gì đó mà
không thể trao đổi được. Hiện hữu cùng tôi, lắng nghe tôi lặp đi lặp lại, lặp
đi lặp lại, quan sát tôi, một ngày nào đó bạn có thể hiểu ra vấn đề. Tôi không
thể làm cho bạn hiểu được nó nhưng nếu bạn kiên trì đủ lâu bạn có thể có khả
năng hiểu nó.
Nhưng việc hiểu sẽ nảy sinh bên
trong bạn, nó sẽ không là việc truyền từ tôi. Tôi có thể đẩy bạn và kéo bạn đây
đó nhưng tôi sẽ phải đợi. Và nếu bạn cũng có thể đợi cùng tôi, một ngày nào đó
ngọn lửa bên trong của bạn sẽ nảy sinh. Nó cần kiên nhẫn, nó cần tiếp xúc với
Thầy, nhưng nó không thể được truyền. Thầy có thể hoạt động chỉ như tác nhân
xúc tác. Sự hiện diện của tôi sẽ làm cho bạn ngày một khát khao hơn; sự hiện diện
của tôi sẽ làm cho bạn ngày một điên hơn; một ham muốn lớn lao, mãnh liệt,
không thể được sẽ nảy sinh bên trong bạn - bạn sẽ trở thành việc tìm kiếm say
mê. Trong đam mê đó ngọn nến riêng của bạn sẽ bắt đầu bùng cháy. Bạn sẽ trở
thành chất đốt riêng của bạn.
Cho nên mọi điều tôi có thể làm
là không truyền chân lí mà chỉ hỗ trợ, giúp đỡ, để cho bạn không trở nên nóng vội,
để cho bạn không mất sự quan tâm của bạn vào chân lí, để cho bạn liên tục trong
ham muốn và bạn liên tục đưa ngày càng nhiều thứ vào đánh cược. Khoảnh khắc sẽ
tới - cũng như nó tới khi bạn đun nước. Bạn liên tục đun nóng nó và tại một
trăm độ nó nhảy và trở thành hơi, bay hơi. Mọi điều tôi đang làm là cố đun nóng
bạn nhiều nhất tôi có thể làm được. Cú nhảy sẽ là của bạn, bay hơi sẽ là của bạn.
Nếu bạn cho phép và nếu bạn có
khả năng kiên nhẫn chịu đựng cơn đau của chờ đợi và cơn đau mà việc đun nóng sẽ
đem tới và cơn đau mà ham muốn mãnh liệt của bạn sẽ tạo ra - nếu bạn sẵn sàng
chịu đựng một cách hạnh phúc, kiên nhẫn, thế thì một ngày nào đó chính ngọn lửa
của bạn sẽ nảy sinh bên trong bạn. Nó sẽ tuyệt đối là của bạn.
Và tôi cũng nói vì lí do này: bất
kì khi nào chân lí xảy ra, nó phải được chia sẻ. Không được chia sẻ, nó bắt đầu
chết; được chia sẻ, nó sống. Không phải là tôi có thể trao cho bạn chân lí,
nhưng chia sẻ nó với bạn, làm nỗ lực để chia sẻ với bạn, chân lí có thể vẫn còn
sống động. Tôi đang nói với cùng lí do như chim hót hay hoa nở hay sao sáng.
Tôi đào nó. Nếu bạn cũng bắt đầu đào nó cùng tôi, nếu bạn hợp tác với tôi, thế
thì khi nó xảy ra cho bạn, bạn sẽ biết rằng nó đã không được truyền mà rằng cái
gì đó đích thực của bạn đã nảy sinh. Nó có tính cá nhân. Chân lí được khải lộ
mang tính cá nhân.
Tôi muốn kể cho bạn vài giai
thoại.
Anh già là người gác tầu tại đường
giao tầu hoả, tầu hoả tốc hành đâm vào chiếc ô tô và những người đi trên xe.
Đương nhiên, ông ấy là nhân chứng chính và toàn thể sự việc xoay quanh sự hoạt
động tích cực của ông ấy khi phát tín hiệu cảnh báo.
Một cuộc kiểm tra chéo mệt mỏi
đã cho thấy ông ấy kiên định trong câu chuyện này: đêm thì tối và ông ấy đã
vung vẩy đèn một cách điên cuồng, nhưng người lái xe ô tô không chú ý tới nó.
Về sau, người quản lí bộ phận gọi
người cầm đèn báo tới văn phòng mình để khen ngợi ông ấy về sự kiên định mà ông
ấy đã mắc kẹt vào câu chuyện này.
'Ông đã làm thật tuyệt vời,'
ông ta nói. 'Tôi sợ ban đầu rằng ông có thể lưỡng lự trong việc làm chứng của
ông.'
'Không, thưa ngài,' anh già
nói, 'nhưng từng phút một tôi nơm nớp lo sợ rằng thằng cha luật sư chết tiệt cứ
định hỏi tôi liệu đèn có sáng không.'
Tự hỏi bản thân bạn lặp đi lặp
lại - đèn bạn đang mang có sáng không? Bằng không vung vẩy nó trong bóng tối là
việc phí hoài năng lượng vô cùng. Kinh Thánh của bạn có sáng không? Gita của bạn
có sáng không? Nếu không, thế thì bỏ chúng đi. Thế thì tốt hơn cả là không có
những ảo vọng này.
Giai thoại khác.
Khi một cảnh sát mới đi qua một
cửa hàng anh ta nghe thấy tiếng cãi nhau ầm ĩ. Anh ta dừng lại, lại lắng nghe,
thế rồi bước vào bên trong để điều tra. 'Cái gì đang diễn ra vậy?' anh ta hỏi.
'Mọi sự ồn ào này là gì?'
'Nó không là gì cả,' người chủ
cửa hàng nói. 'Không có cãi nhau. Tôi tất cả một mình thôi!'
'Đợi một phút đã, thưa ông,'
viên cảnh sát nói, 'tôi rõ ràng nghe thấy tiếng cãi nhau diễn ra.'
'Ông không hiểu, ông sĩ quan,'
người chủ hiệu nói. 'Tôi một mình trong cửa hàng. Kinh doanh là khủng khiếp.
Cho nên để thời gian trôi qua, tôi nói với bản thân tôi, và khi tôi nói với bản
thân tôi, nhất định có tranh cãi.'
'Làm sao ông có thể tranh cãi với
bản thân ông được?' viên cảnh sát hỏi.
'Chuyện dễ,' người chủ cửa hàng
nói, 'vì tôi ghét kẻ nói dối!'
Xem đấy, quan sát điều diễn ra
bên trong tâm trí bạn. Có huyên thuyên bên trong liên tục, tranh cãi thường
xuyên với bản thân bạn.
Chân lí là có thể chỉ khi việc
nói bên trong này dừng lại, khi bạn được bỏ lại trong trống rỗng sâu sắc, không
tranh cãi, không ủng hộ/phản đối, không thuận chống, không lời, không ý nghĩ.
Khi việc nói bên trong này đơn giản được dừng lại, trong khoảnh khắc đó của việc
nói bên trong dừng lại, một cửa sổ mở ra hướng tới bầu trời.
Giai thoại thứ ba.
Một người keo kiệt được một người
bạn tới chơi, người đã làm hết sức thuyết phục ông ấy ăn mặc cho xứng với độ tuổi
trong đời của ông ấy. 'Tôi lấy làm ngạc nhiên,' người bạn nói, 'rằng ông đã cho
phép bản thân ông trở nên ăn mặc xoàng xĩnh thế.'
'Nhưng tôi đâu có ăn mặc xoàng
xĩnh,' người keo kiệt nói.
'Vâng, ông có đấy,' bạn ông ta
khăng khăng. 'Lấy trường hợp ông của ông. Cụ bao giờ cũng ăn mặc gọn gàng. Quần
áo của cụ bao giờ cũng được may đo sít sao và với chất liệu tốt nhất.'
'Ông thấy đấy!' người kia kêu
lên một cách đắc thắng. 'Những bộ quần áo này tôi đang mặc là của cụ đấy.'
Quan sát, ý nghĩ bạn đang mang
có phải là của bạn không? Hay của người nào đó khác? Cũ hàng thế kỉ, chết từ
lâu trước đây và được chôn rồi và bạn liên tục mang những ý nghĩ chết đó. Thu lấy
dũng cảm đi, sự xoàng xĩnh này của tâm trí là bất kính lớn đối với bản thân bạn.
Những bộ quần áo đó bị bẩn. Mọi người không sẵn sàng dùng quần áo của ai đó
khác nhưng bạn rất dễ dàng dùng ý nghĩ của ai đó khác.
Tôi đã nghe.
Một triết gia đi tới thợ giầy.
Ông ấy muốn giầy của mình được chữa lại nhưng ông ấy chỉ có một đôi. Cho nên
ông ấy nói, 'Tôi sẽ đợi, ông chữa đi.'
Thợ giầy nói, 'Việc đó khó, đó
là thời gian đóng cửa rồi. Mai ông tới và tôi sẽ làm chúng sẵn sàng.'
Triết gia nói, 'Tôi chỉ có mỗi
một đôi giầy và khó mà đi bộ về không có giầy.'
Thợ giầy nói, 'Được, lấy đôi
này mà đi' - ông ấy đưa cho ông kia một đôi giầy - 'và ngày mai ông trả lại nó
và lấy đôi của ông.'
Triết gia rất bực. Ông ta nói,
'Cái gì! Dùng giầy đã sử dụng của ai đó khác sao? Ông nghĩ tôi là cái gì?'
Thợ giầy cười và ông ấy nói, 'Nếu
ông có thể mang ý nghĩ đã dùng của người khác trong đầu ông, thế thì cái gì sai
trong việc dùng giầy của ai đó khác? Chúng sẽ vừa chân ông. Đầu ông được vay mượn
rồi. Vậy cái gì sai trong việc đó?'
Chúng ta dễ dàng vay mượn linh
hồn của chúng ta, do đó chúng ta là kẻ ăn xin. Dừng việc vay mượn này lại. Nếu
bạn không có linh hồn riêng của bạn tốt hơn cả là đừng có bất kì linh hồn nào
chút nào. Và một khi bạn thu được dũng cảm đó bạn sẽ bắt đầu đạt tới linh hồn
riêng của bạn. Nó không rất xa xôi gì, nó được ẩn ngay đằng sau những bộ quần
áo, ý nghĩ, triết lí, học thuyết, giáo điều vay mượn này. Là bản thân bạn đi.
Bạn đã nghe nói câu ngạn ngữ Hi
Lạp nổi tiếng của Socrates: 'Biết bản thân ông.' Nhưng đó không phải là điều
chính. Điều chính hơn là: 'Là bản thân ông.' Chừng nào bạn chưa là bản thân bạn,
bạn định biết ai? Cho nên tôi muốn nói với bạn rằng điều nền tảng và cơ bản hơn
là câu ngạn ngữ: 'Là bản thân ông.' Thế thì có khả năng để: ‘Biết bản thân
ông.' Nếu bạn không hiện hữu, thế thì bạn định biết ai và ai định biết?
Người tôn giáo không phải là
người vay mượn, người tôn giáo không phải là người hổng hoác, người đó không phải
là người bị nhồi nhét. Người tôn giáo là tuyệt đối trống rỗng người khác - và
khoảnh khắc bạn trống rỗng người khác, bạn rót đầy không gian bên trong riêng của
bạn - đó là điều hoàn thành là gì, đó là điều niết bàn là gì, đó là điều giải
thoát là gì.
0 Đánh giá