Chương 1. Một nốt ngắn

Chương 1. Một nốt ngắn

Price:

Read more

Trở về Cội nguồn - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 1. Một nốt ngắn


Quách Am là người Nhật đầu tiên học Thiền ở Trung Quốc, và trong khi ông ấy ở đó, ông ấy đã chấp nhận giáo huấn chân chính.
Khi ông ấy ở Trung Quốc ông ấy đã không đi du hành. Ông ấy sống ở một chỗ hẻo lánh trên núi và thiền thường xuyên.
Bất kì khi nào mọi người thấy ông ấy và đề nghị ông ấy giảng, ông ấy sẽ nói vài lời, và thế rồi chuyển sang chỗ khác trên núi nơi ông ấy không thể được tìm thấy dễ dàng.
Khi Quách Am trở về Nhật Bản, hoàng đế nghe nói về ông ấy và mời ông ấy tới triều đình để giảng Thiền vừa là giáo dục bản thân hoàng đế và các thần dân.
Quách Am đứng im lặng trước hoàng đế. Thế rồi ông ấy rút chiếc sáo từ ống tay áo ra, thổi một nốt ngắn, cúi mình lễ phép, và biến mất. Không người nào đã bao giờ biết cái gì đã xảy đến với ông ấy.
Giáo huấn thực không thể được dạy, nhưng dầu vậy nó vẫn được gọi là giáo huấn. Nó không thể được dạy, nhưng nó có thể được chỉ ra, được chỉ dẫn. Không có cách để nói trực tiếp nó, nhưng có hàng triệu cách để chỉ ra nó một cách gián tiếp.
Lão Tử nói rằng Chân lí không thể được nói ra, và khoảnh khắc bạn nói nó, bạn đã làm sai nó đi. Lời, ngôn ngữ, tâm trí là hoàn toàn bất lực. Chân lí không tuân theo lí trí; nó không tuân theo nhân cách hướng theo cái đầu; nó không tuân theo bản ngã. Nó không thể bị thao túng. Lí trí hoàn toàn không thể nào đương đầu được với nó.
Đây là điều đầu tiên cần được hiểu, và bạn càng hiểu sâu nó, khả năng càng sẵn có cho tôi, chỉ dẫn hướng tới nó. Bất kì điều gì tôi đang nói đều không là Chân lí. Nó không thể vậy. Qua lời, chỉ tình huống có thể được tạo ra, qua đó Chân lí có thể trở thành có khả năng. Nhưng cả điều đó nữa, người ta không bao giờ có tính xác định được. Nó là không thể dự đoán được. Không nguyên nhân nào có thể được tạo ra cho nó xảy ra - nó xảy ra khi nó xảy ra. Điều duy nhất có thể được làm là trở thành sẵn có cho nó. Các cửa của bạn nên để mở. Khi nó gõ cửa, bạn phải hiện diện ở đó. Nếu bạn hiện diện, sẵn có, cảm nhận, nó có thể xảy ra. Nhưng nhớ, qua kinh sách, qua lời của Người chứng ngộ, bạn không thể đạt tới nó được.
Cho nên điều thứ nhất là ở chỗ nó không thể được nói ra. Và mọi thầy phải tạo ra những tình huống gián tiếp, phải đẩy bạn hướng tới cái Không biết. Mọi điều thầy nói chỉ là đẩy bạn hướng tới cái không thể được nói ra.
Điều thứ hai, trước khi chúng ta có thể hiểu Quách Am và câu chuyện Thiền hay này: giáo huấn thực thách thức lời nhưng nó không thể thách thức tim. Nếu như có ngôn ngữ của tim, nó có thể được nói qua ngôn ngữ đó. Nhưng tim không có ngôn ngữ, im lặng là ngôn ngữ duy nhất của tim.

Khi tim im lặng, nó nói cái gì đó; khi tâm trí im lặng, nó chẳng nói gì. Lời là phương tiện của tâm trí. Vô lời, im lặng, là phương tiện của tim. Im lặng là ngôn ngữ không lời, nhưng người ta phải học nó. Cũng như người ta phải học ngôn ngữ của tâm trí, người ta phải học ngôn ngữ của tim: cách im lặng, cách vô lời, cách hiện hữu không có tâm trí, cách là vô trí.
Khi tâm trí dừng vận hành, ngay lập tức toàn thể năng lượng chuyển về tim. Khi tâm trí không vận hành tim vận hành; khi tim vận hành, chỉ thế thì cái gì đó mới có thể được dạy cho bạn. Việc dạy thực có thể được dạy qua tim. Bạn phải ở gần tim. Bạn càng ở gần, bạn càng có năng lực trở nên hiểu im lặng.
Nhớ, im lặng không phải là trống rỗng. Với lí trí, dường như im lặng là trống rỗng - nó không vậy. Im lặng là khoảnh khắc được hoàn thành nhất có thể được. Nó không chỉ được hoàn thành, nó tràn ngập. Nhưng nó có ý nghĩa được cảm thấy. Tim không trống rỗng; nó là thứ duy nhất đầy tràn. Tâm trí chỉ là trống rỗng vì tâm trí không có gì ngoài lời. Và lời là gì? - gợn sóng trong trống rỗng. Và im lặng là gì? - im lặng là cái Toàn bộ.
Khi bạn nghĩ, bạn tách rời khỏi sự Tồn tại. Khi bạn không nghĩ, bạn là một. Trong khoảnh khắc không suy nghĩ bạn mất mọi biên giới; đột nhiên bạn biến mất, và dầu vậy bạn hiện hữu. Và khoảnh khắc được cảm này của vô ngã, của vô trí, của vô ý nghĩ là tình huống trong đó việc Chân lí giáng xuống bạn trở thành có thể. Khi bạn là trống rỗng bản thân bạn, bạn sẽ được rót đầy bởi Chân lí. Cho nên mọi điều thầy phải làm là giết bạn hoàn toàn và đầy đủ; là phá huỷ bản ngã của bạn hoàn toàn và đầy đủ; là chặt đầu bạn để cho bạn có thể trở thành tim. Và thế thì toàn thể năng lượng chuyển vào trong tim.
Bạn có thể vô đầu được không? Nếu bạn có thể vậy, chỉ thế thì bạn có thể là đệ tử. Nếu bạn bám lấy đầu, thế thì bạn không thể là đệ tử. Bạn có thể sống không có đầu được không? Nếu bạn không thể sống mà không có đầu, thế thì bạn bị đóng với Chân lí. Đầu là rào chắn, và tim là lối mở.
Cho nên làm sao giáo huấn thực có thể được dạy? Nó không thể được dạy, nó không phải là việc học. Bạn không thể học được nó từ ai đó; nó là kỉ luật bên trong. Bạn phải trở thành phương tiện cảm nhận, trung gian. Nó không phải là cái gì đó mà bạn có thể học và vẫn còn là bạn như vậy. Nó không thể là việc tích luỹ. Bạn phải trải qua biến đổi, bạn phải khác đi. Bạn phải mang phẩm chất khác cho bản thân bạn.
Chỉ thế thì trao đổi mới trở thành có thể - không đích xác là trao đổi mà thay vì thế, giao cảm. Qua đầu có trao đổi; qua tim có giao cảm - nó không phải là đối thoại. Thực ra, nó là gặp gỡ của thầy với đệ tử. Nó ít là đối thoại, nhiều là hội nhập, tan chảy, nơi thầy và đệ tử hội nhập vào nhau cũng như những người yêu hội nhập. Nhưng người yêu hội nhập trong thân thể, nhiều nhất những người yêu có thể hội nhập trong tâm trí, nhưng đệ tử và thầy là chuyện tình lớn lao nhất trên thế giới. Họ hội nhập trong tâm linh - họ trở thành một.
Chỉ khi họ là một Chân lí mới có thể được phơi ra; nó không thể được dạy, nó không thể được học, không ai có thể dạy cho bạn. Bạn không thể có được nó từ bất kì ai. Toàn thể nỗ lực để có nó từ ai đó, dù sống hay chết, từ kinh sách hay từ giáo huấn, là vô tích sự. Và bạn càng sớm hiểu điều đó thì càng tốt hơn, vì thời gian bị phí hoài sẽ đơn giản là bị phí hoài. Không cái gì có thể được đạt tới bởi điều đó.
Bạn phải trải qua biến đổi. Bạn phải chết đi và được tái sinh. Bạn phải là hoàn toàn mới, toàn bộ mới. Với cái 'mới' đó - khi cái cũ đã đi rồi, khi bạn đã biến mất và sinh linh mới đã thế chỗ - thế thì có giao cảm.
Câu chuyện Thiền hay này nói nhiều điều. Cố hiểu từng lời vì từng lời đều có ý nghĩa.
Quách Am là người Nhật đầu tiên học Thiền ở Trung Quốc.
Thiền là giáo huấn tinh tế nhất. Từ Zen-Thiền bắt nguồn từ dhyana. Giáo huấn được sinh ra cùng Phật ở Ấn Độ, nhưng thế rồi không may Ấn Độ trở thành không tiếp nhận, và các đệ tử của Phật phải tìm ở Trung Quốc những người nhiều tính chấp nhận hơn cho nó.
Phật nói nhiều điều, nhưng ông ấy không baog giờ nói một lời về Chân lí. Ông ấy đã nói cả đời ông ấy; trong bốn mươi năm sau chứng ngộ của mình ông ấy đã nói mọi ngày liên tục, nhưng ông ấy không bao giờ nói một lời về Chân lí. Bất kì khi nào ai đó hỏi: Chân lí là gì? Ông sẽ vẫn còn im lặng.
Thế rồi một hôm chuyện xảy ra. Ông ấy ngồi dưới cây; nhiều người đã tụ tập. Mọi đệ tử của ông ấy đều có mặt và họ chờ đợi ông ấy nói cái gì đó. Nhưng ông ấy chẳng nói gì, ông ấy đơn giản ngồi đó. Ông ấy có một đoá hoa trong tay, hoa sen.
Nó rất có ý nghĩa, vì ở phương Đông hoa sen là biểu tượng của việc nở hoa tối thượng. Ở phương Đông, đỉnh cao nhất của bản thân bạn được coi là giống hoa sen - nó là vậy. Khi đỉnh chung cuộc của bạn tới, bên trong bản thân bạn hoa bắt đầu nở. Và thế rồi nó liên tục nở và nở và nở, từ hoàn hảo tới hoàn hảo hơn và lại hoàn hảo hơn; không có tận cùng cho nó. Hoa sen này được gọi là sahasrar, hoa sen một nghìn cánh.
Phật tới với hoa sen; ông ấy ngồi dưới cây và ông ấy nhìn đoá hoa dường như ông ấy đã quên mất mười nghìn người đã tụ tập ở đó - những người đã ở đó. Và họ bồn chồn chờ đợi. Nhiều khoảnh khắc trôi qua, thế rồi nhiều giờ bắt đầu trôi qua và mọi người trở nên rất không thoải mái. Phật đã quên hoàn toàn về họ.
Ông ấy ở đó, hoa ở đó và ông ấy chăm chú vào đoá hoa tới mức dường như ngay cả biên giới giữa Phật và đoá hoa này đã mất đi. Thế rồi đột nhiên một đệ tử, tên ông ấy là Ma ha ca diếp, bắt đầu cười to. Điều đó không thể nào tin được vì Ma ha ca diếp này là người im lặng thế, không ai đã bao giờ thấy ông ấy cười; và tiếng cười to thế, dường như ông ấy đã phát điên. Mọi người nhìn ông ấy. Phật gọi ông ấy lại gần, Ma ha ca diếp tới. Phật đưa đoá hoa cho Ma ha ca diếp và nói với hội chúng: 'Bất kì cái gì có thể được nói ta đã nói cho các ông, và bất kì cái gì không thể được nói ta đã trao cho Ma ha ca diếp' - và đây là giáo huấn thực.
Trong hàng nghìn năm tới giờ Phật tử trên khắp thế giới đã từng hỏi: 'Cái gì đã được trao cho Ma ha ca diếp? Nó là cái gì?' Nó đã trở thành một trong những câu hỏi xuyên thấu nhất. Phật đã bảo Ma ha ca diếp tìm một người có thể nhận đoá hoa đó. Ma ha ca diếp đã tìm thấy một người. Trong vài trăm năm những người khác cũng có thể được tìm thấy, thế rồi những người khác, nhưng thầy thứ sáu, Bồ đề đạt ma, không thể tìm ra được một người trong cả Ấn Độ. Ông ấy đã lang thang khắp nơi với hoa sen. Ông ấy đã đi tới mọi làng, ông ấy đã gõ mọi cửa; ông ấy đã không thể tìm ra một người để giao cảm, để nói điều không thể được nói. Không ai sẵn sàng nhận giáo huấn thực.
Ở Ấn Độ đã có hàng triệu học giả, những người chất đầy với tri thức - các bác học lớn. Đó đã là những ngày đỉnh cao của tâm trí Ấn Độ. Ấn Độ đã không bao giờ đạt lại tới đỉnh cao học thức đó. Nhưng Bồ đề đạt ma không thể tìm được ra một người có khả năng nhận hoa sen của Phật. Cho nên Bồ đề đạt ma phải đi sang Trung Quốc để tìm một người ở đó. Ngay cả ở đó, ông ấy đã phải tìm trong chín năm liên tục trước khi ông ấy tìm ra một người.
Thiền là dhyana; trong tiếng Trung Quốc nó trở thành ch'an. Và thế rồi từ Trung Quốc nó phải được mang sang Nhật Bản, vì ở Trung Quốc sự việc cũng sớm trở thành không thể nào tìm ra người sẵn sàng nhận nó. Quách Am này đã mang nó từ Trung Quốc sang Nhật Bản. Cũng như Bồ đề đạt ma đã mang nó từ Ấn Độ sang Trung Quốc, Quách Am đã mang nó từ Trung Quốc sang Nhật Bản.
Người này Quách Am là rất có ý nghĩa và rất hiếm hoi. Không ai biết bất kì cái gì về ông ấy - chỉ mỗi câu chuyện này tồn tại. Ông ấy đích xác giống Ma ha ca diếp - không ai biết bất kì cái gì về Ma ha ca diếp, chỉ mỗi câu chuyện này tôi kể cho bạn về việc trao hoa sen - chỉ mỗi câu chuyện này được biết tới. Không ai đã bao giờ biết cái gì xảy ra cho ông ấy. Người trở thành im lặng toàn bộ mất đi các biên giới, mất đi các định nghĩa, mất đi tự tiểu sử. Không có gì để nói tới. Không có người nào để nói tới.
Paramahansa Yogananda là nhà yogi đầu tiên trong toàn thể lịch sử của yoga người đã viết tự tiểu sử. Điều này là ngu xuẩn vì người yogi, bởi chính bản chất của bản thân ông ấy, không có tự tiểu sử. Tự tiểu sử tồn tại quanh bản ngã. Người yogi, bởi chính bản chất của bản thân ông ấy, là không ai cả; đó là toàn thể tự tiểu sử của ông ấy.
Không ai biết bất kì cái gì về Quách Am ngoại trừ giai thoại nhỏ này, nhưng điều này là đủ. Vì giai thoại này chứa mọi Vedas, mọi Korans, và mọi Kinh Thánh - mọi Vedas đã tồn tại và cái sẽ tồn tại trong tương lai - giai thoại nhỏ này chứa tất cả chúng. Cho nên lắng nghe cẩn thận vào.
Quách Am là người Nhật đầu tiên học Thiền ở Trung Quốc, và trong khi ông ấy ở đó ông ấy đã chấp nhận giáo huấn chân chính.
Ông ấy đã chấp nhận giáo huấn chân chính.... Nhìn vào các từ này. Giáo huấn chân chính bao giờ cũng sẵn có. Ai đó được cần để chấp nhận nó. Nó bao giờ cũng sẵn có nhưng bạn không sẵn sàng chấp nhận nó; bạn bác bỏ nó. Bất kì khi nào thầy gõ cửa bạn, bạn bác bỏ. Điều này đã từng là kinh nghiệm của tôi khi làm việc với nhiều người thế; hiếm khi mà tôi gõ cửa họ, họ chấp nhận tôi - rất hiếm khi. Họ bác bỏ theo cả triệu cách - chấp nhận là khó. Tại sao? Vì nếu bạn chấp nhận, bản ngã của bạn bị mất. Bản ngã quyết định liệu có chấp nhận hay không; lí trí nghĩ liệu điều này là đúng hay không. Lí trí không bao giờ mất kiểm soát.
Mới hôm nọ tôi đã nói chuyện với ai đó và tôi bảo anh ta: 'Bây giờ bạn sẵn sàng, lấy cú nhảy vào tính chất sannyas đi.' Người này nói: 'Tôi sẽ nghĩ về nó.' Làm sao bạn có thể nghĩ được về nó? Suy nghĩ là có thể chỉ nếu bạn đã biết nó trước đây, vì suy nghĩ đi vào trong cõi của cái đã biết. Nếu như bạn đã biết trong quá khứ tính chất sannyas là gì, nếu như bạn đã từng là sannyasin, thế thì bạn có thể nghĩ về nó. Nhưng một khi bạn đã là sannyasin, bạn không bao giờ có thể là khác được, vì là sannyasin là biến đổi thế. Bạn không biết tính chất sannyas là gì và bạn nói: 'Tôi sẽ nghĩ về nó.' Bạn sẽ nghĩ về nó thế nào? - Bạn sẽ nghĩ gì về nó?
Tính chất sannyas là việc đi vào vào cái không biết. Nó là tin cậy. Nó không phải là quyết định hợp lí của bạn, nó là bước nhảy phi lí. Nếu bạn đã chán với lí trí của bạn - chỉ thế thôi. Nhưng bạn nói: 'Tôi sẽ quyết định.' Ai sẽ quyết định - tâm trí bạn?
Bạn không chán với tâm trí bạn sao? Bạn đã không làm mọi thứ mà tâm trí nói bạn làm sao? Bạn đã tới đâu qua nó? Bạn đã đạt tới đâu? Cái gì đã xảy ra? Nhìn vào cuộc đời bạn đi; đây là chỗ tâm trí bạn đã làm cho bạn sống - nó là địa ngục. Dầu vậy bạn vẫn bám lấy nó và bạn nói: 'Tôi sẽ nghĩ về điều đó.' Và bạn là ai, và ai đang nói: 'Tôi sẽ nghĩ về nó?' Cái 'tôi' này là ai?
Tính chất sannyas là bỏ đi cái 'tôi', và nếu cái 'tôi' quyết định, thế thì không thể có việc bỏ được vì trong chính quyết định này, cái 'tôi' đã được cứu. Bạn không thể quyết định được, đó là lí do tại sao nó là tin cậy. Đó là lí do tại sao tôi nói nó là chuyện tình tối thượng. Nếu bạn tin cậy, bạn tin cậy thầy. Thế thì bạn không nói: 'Tôi sẽ quyết định.' Bạn đơn giản nói: 'Tôi chấp nhận; tôi ở đây sẵn có, thầy làm bất kì cái gì thầy muốn làm với tôi; đừng hỏi, cứ làm bất kì cái gì thầy muốn làm với tôi.' Đó là nghĩa của chấp nhận - nó là tin cậy, nó là shraddha, nó là đức tin; nó không phải là thuyết phục.
và trong khi ông ấy ở đó ông ấy đã chấp nhận giáo huấn chân chính.
Bạn không thể học được nó, nó không thể được dạy. Nhưng nó có thể được chấp nhận và nó có thể được cho. Bất kì khi nào bạn sẵn sàng chấp nhận nó, nó có thể được cho, cũng như đoá sen của Phật. Đừng nghĩ theo nghĩa đen của lời. Đừng nghĩ rằng Phật thực sự mang hoa sen trong tay ông ấy. Tay ông ấy là hoa sen đấy; ông ấy là đoá sen đấy. Có thể là chỉ Ma ha ca diếp mới có thể thấy điều đó, không ai khác.
Nhìn tay tôi đây - hoa sen có đó. Nếu bạn chấp nhận, tôi có thể trao nó cho bạn. Nhưng chấp nhận ngụ ý chết. Chấp nhận ngụ ý rằng bạn chết đi như bạn đang vậy. Cái gì đó mới được sinh ra, được gián đoạn, ngắt khỏi quá khứ. Khi bạn được tái sinh, bạn sẽ không có khả năng kết nối nó với người đã có trước đây, vì người cũ và người mới không bao giờ gặp gỡ. Người cũ đi ra - người mới đi vào, nhưng trong cốt lõi bên trong nhất của bản thân bạn họ không bao giờ gặp gỡ. Người cũ đi ra - chỉ thế thì cái bên trong mở ra để cái mới được nhận vào. Họ không bao giờ gặp gỡ.
Chứng ngộ là gián đoạn với quá khứ. Bạn sẽ không bao giờ trở nên được Chứng ngộ, nhớ lấy, bạn sẽ phải ra đi. Chỉ khi bạn ra đi, chỉ khi bạn không trên đường, cái mới xảy ra.
Quách Am đã chấp nhận giáo huấn chân chính.
Chấp nhận là một trong những từ hay nhất. Các Phật tử, nhưng người đi theo Phật, có thuật ngữ cho nó mà thậm chí còn sâu hơn từ tiếng Anh 'acceptance-chấp nhận'; nó là tathata. tathata ngụ ý nói 'có' một cách toàn bộ tới mức trong bản thân bạn không có phân chia. Bạn trở thành một trong cái có của bạn. Bạn nói 'có' một cách toàn bộ tới mức không tồn tại 'không' bên trong bạn, không phủ nhận.
Tathata, hay chấp nhận toàn bộ, không phải là quyết định theo đa số. Nó không có tính nghị viện, nó là toàn bộ. Không phải là phần đa số của tâm trí bạn, phần đa số của bản thân bạn quyết định, và phần thiểu số của tâm trí bạn, phần thiểu số của bản thân bạn liên tục nói 'không'. Thế thì nó là xung đột - thế thì ai biết? Bất kì ngày nào đa số có thể trở thành thiểu số, và thiểu số có thể trở thành đa số. Điều đó nhất định là vậy, vì sớm hay muộn đa số nói 'có' sẽ mệt mỏi và sẽ thảnh thơi ngày càng nhiều hơn, và thiểu số nói 'không' mà không làm gì sẽ thu lấy sức mạnh và đà. Dần dần đa số sẽ bị cạn kiệt và thiểu số sẽ thu lấy năng lượng. Không làm gì cả, sớm hay muộn nó sẽ trở thành đa số.
Có chính trị bên trong. Chấp nhận, chấp nhận toàn bộ, tathata, nghĩa là không có quyết định chính trị nào - toàn bộ. Không có người nào nói 'không' bên trong bạn, thậm chí không một mảnh, vì ngay cả một mảnh cũng có thể mang tính phá huỷ. Và cho dù một phần của bạn nói 'không', bạn không đón nhận được giáo huấn chân chính.
Mọi người tới tôi. Họ nói: 'Chúng tôi buông xuôi,' và họ không làm điều họ nói. Nếu tôi nói với họ: 'Được, đổi quần áo của bạn sang mầu nâu nhạt,' họ nói: 'Chuyện đó khó, tôi không sẵn sàng cho nó.' Chỉ mỗi quần áo thôi, và bạn không sẵn sàng đổi nó - và bạn đang nghĩ tới đổi linh hồn bạn, bản thân bạn! Và mới khoảnh khắc trước người này đã nói: 'Tôi buông xuôi theo thầy.' Người này không biết buông xuôi ngụ ý gì; người này không biết anh ta đang nói gì, anh ta đang ngủ say. Trong giấc ngủ của mình anh ta có thể đã dùng từ 'buông xuôi', nhưng khoảnh khắc tôi nói: 'Đổi cái gì đó, quần áo của bạn, tên bạn,' anh ta nói: 'Chuyện đó khó, tôi thích tên của tôi. Để tên tôi vẫn còn như vậy đi. Tên của tôi là hay, đừng đổi nó.' Ngay cả cái tên, cái chẳng là gì ngoài lời - và bạn không tới với một cái tên khi bạn được sinh ra, bạn tới không có tên, một sinh linh vô danh; tên này chỉ là cái nhãn được gắn vào bạn - và bạn thậm chí không thể đổi được cái nhãn. Bạn không sẵn sàng cho bất kì thay đổi chút nào.
Mọi người hỏi tôi: 'Sao thầy đổi tên và trang phục của mọi người?' Cái đó chỉ mới là bắt đầu thôi. Đó là cách tôi nắm giữ bạn. Đó là cách tôi cảm xem liệu bạn có sẵn sàng thay đổi bất kì cái gì hay không.
Bạn sẽ thích nhận giáo huấn chân chính mà không có thay đổi nào. Bạn sẽ thích nhận giáo huấn chân chính như bạn vậy. Điều đó là không thể được. Nó là không thể được vì chính bản chất của giáo huấn chân chính. Tôi không thể làm được bất kì cái gì về nó, không ai có thể làm được. Nó là trong bản chất của chính hiện tượng này; bạn nhận nó chỉ khi bạn chấp nhận nó.
Thượng đế là sẵn có, Chân lí là sẵn có, Ánh sáng là sẵn có, nhưng bạn là kẻ keo kiệt thế trong việc nhận. Bạn không chỉ là keo kiệt trong cho, bạn là keo kiệt trong nhận nữa. Người keo kiệt phải là người keo kiệt với bất kì cái gì người đó làm. Bạn không thể cho; bạn không thể nhận. Bạn đã có kiểu cuộc sống gì vậy? Cho và nhận là hai mặt của cùng một đồng tiền. Nếu bạn có thể cho, bạn cũng có thể nhận. Do đó, nhiều nhấn mạnh thế vào việc cho - cho mọi người bất kì cái gì bạn có thể cho - cho trong yêu. Có nhiều nhấn mạnh thế từ mọi tôn giáo vào cho; cho ngày càng nhiều hơn. Tại sao? - để cho bạn có thể trở nên có năng lực nhận ngày càng nhiều hơn.
Nhớ, nó cũng giống như hít vào và thở ra. Nếu bạn thở ra sâu, tự động bạn sẽ hít vào sâu. Nếu bạn muốn hít vào sâu, bạn sẽ phải thở ra sâu - không có cách khác. Và cuộc sống là cân bằng giữa thở ra và hít vào. Nếu bạn sợ thở ra việc thở của bạn sẽ thành nông. Thế thì việc hít vào của bạn không thể rất sâu, nó là không thể được. Thở ra là cho, cho bất kì cái gì bạn có thể cho. Và bạn càng cho, bạn càng trở nên có thể nhận. Và khi bạn cho hoàn toàn, tất thảy, toàn bộ, đó là khoảnh khắc của chấp nhận.
Quách Am phải đã cho thầy của ông ấy một cách toàn bộ tới mức ông ấy trở thành có khả năng chấp nhận, nhận. Ông ấy đã nhận giáo huấn chân chính.
Khi ông ấy ở Trung Quốc ông ấy đã không đi du hành. Ông ấy sống ở một chỗ hẻo lánh trên núi và thiền thường xuyên.
Đây là những lời biểu tượng: Khi ông ấy ở Trung Quốc ông ấy đã không đi du hành... Tâm trí thường xuyên du hành. Du hành bên ngoài của bạn chỉ là biểu lộ của rối loạn bên trong của bạn. Khi mọi người trở nên căng thẳng bên trong thế, nhiều chuyển động thế, ở bên ngoài họ cũng bắt đầu du hành. Do đó, các lữ khách Mĩ có trên khắp thế giới, khách du lịch Mĩ.
Trang Tử kể lại rằng ông ấy đã nghe nói rằng vào thời xưa, mọi người thậm chí không đi sang phía bên bờ kia sông. Trang Tử nói: Ta đã nghe ông cha nói rằng vào thời của họ, họ biết rằng có tồn tại một thành bên bờ kia sông, vì vào buổi chiều khói vươn lên trời, và vào ban đêm, trong im lặng của đêm, chó sủa từ làng bên kia. Họ biết, nhưng không ai thậm chí hỏi ai đã sống ở đó. Một phẩm chất khác của con người; họ phải đã sống trong im lặng toàn bộ: Tại sao truy vấn? Tại sao có tò mò này? Tại sao bận tâm? - ai đó phải sống ở đó, cho nên điều đó là được. Không ai đi sang bờ bên kia sông để xem ai đang sống ở đó.
Và chính điều đối lập đang xảy ra ở Mĩ. Tôi đã nghe một giai thoại: Gần một núi lửa Hi Lạp một khách du lịch Mĩ đang đứng cùng người hướng dẫn. Ông ta nhìn vào núi lửa và ông ta nói: 'Trông như địa ngục.' Người hướng dẫn nói: 'Ông người Mĩ! Ông đã ở mọi nơi!'
Quách Am đã không du hành chút nào, không xuống địa ngục không lên cõi trời. Đây chỉ là biểu tượng; người ta phải hiện hữu ở chỗ người ta hiện hữu. Không du hành ngụ ý không chỉ trong không gian, mà còn trong thời gian. Có hai kiểu du hành: kiểu này là du hành trong không gian - bạn đi từ New York tới London, từ London tới Poona, từ Poona tới Singapore - đây là du hành trong không gian; và thế rồi có việc du hành bên trong tâm trí, theo thời gian. Bạn đi vào trong quá khứ, bạn đi vào trong tương lai, và đó là việc du hành lớn lao. Ngay lập tức bạn có thể đi bất kì chỗ nào, không cần hộ chiếu, không có vấn đề visa. Bạn có thể đi vào trong quá khứ, bạn có thể đi vào trong tương lai - bạn có thể đi bất kì chỗ nào. Và tâm trí thường xuyên chuyển động.
Nhớ, tâm trí không bao giờ ở chỗ bạn đang hiện hữu; nó bao giờ cũng ở chỗ nào đó khác. Bạn không bao giờ ở trong khoảnh khắc hiện tại, vì ở trong khoảnh khắc hiện tại người ta phải học cách không du hành, không đi chỗ nào đó khác, không tới thăm quá khứ và không mơ tương lai. Quá khứ không còn nữa - tương lai chưa có. Bạn đang làm phí hoài cuộc sống của bạn, năng lượng của bạn. Bạn đang lãng phí khoảnh khắc quí giá của bạn; cái đang đấy. Nó là ở đây, bây giờ. Cửa mở trong hiện tại và bạn bỏ lỡ cánh cửa này. Đó là khổ đau và phiền não của bạn.
Tại sao bạn trong khổ thế? - vì bạn đã bỏ lỡ bản thân cuộc sống. Khổ của bạn chỉ là một chỉ báo rằng bạn đã bỏ lỡ cuộc sống là gì.
Cuộc sống là trong hiện tại và bạn liên tục, hoặc trong quá khứ hoặc trong tương lai. Bạn cũng giống như con lắc của chiếc đồng hồ to để đứng. Bạn đi từ bên này sang bên kia, phải, trái, phải, trái. Con lắc đung đưa liên tục; nó không bao giờ ở chỗ giữa. Nếu con lắc ở chỗ giữa ngay lập tức đồng hồ dừng lại.
Và tâm trí cũng giống như đồng hồ. Việc du hành này từ quá khứ tới tương lai là con lắc. Nếu bạn dừng trong khoảnh khắc này, chính khoảnh khắc này, nếu bạn ở đây, lắng nghe tôi - nghe gió luồn qua cây, nghe máy bay vừa bay qua, nghe chim, nghe tiếng ồn giao thông, nghe tất cả mọi thứ đang xảy ra ngay bây giờ, mở với nó, đón nhận nó, quá khứ bị rơi rụng đi, tương lai không có đó - thế thì bạn ở trong trạng thái không du hành của tâm trí. Và đây là mọi điều chính là thiền.
Quách Am đã không đi du hành. Ông ấy sống ở một chỗ hẻo lánh trên núi và thiền thường xuyên.
Có núi bên ngoài và có núi bên trong. Toàn thể thế giới song song tồn tại ở bên trong nữa. Đó là lí do tại sao mọi người thường đi lên núi, chỉ để tạo ra tình huống bên ngoài để đi vào bên trong - đi tới núi bên trong. Người Hindus thậm chí có tên cho núi bên trong; họ gọi nó là sumeru. Nếu bạn hỏi họ nó ở đây họ nói nó ở trên cõi trời. Nếu bạn nghĩ rằng có núi như sumeru trong cõi trời bạn bỏ lỡ vấn đề. Họ đang nói rằng bên trong bạn, có khoảnh khắc khi bạn ở trên đỉnh chóp như vậy của bản thân bạn; đỉnh chóp đó của bản thân bạnlà sumeru, núi tồn tại trong cõi trời. Vì vào khoảnh khắc đó bạn ở trong cõi trời.
Đây toàn là biểu tượng - Quách Am đã sống ở phần hẻo lánh trên núi... Ông ấy cũng có thể đã sống ở đó bên ngoài nhưng điều đó không phải là có ý nghĩa nhiều lắm. Bên trong bạn có vùng hẻo lánh. Bên trong bạn có vùng thuộc về chợ, có vùng thuộc về gia đình, có vùng thuộc về bề mặt. Và có vùng hẻo lánh bên trong bạn mà không thuộc vào chợ, vào gia đình hay vào bất kì ai. Những núi hẻo lánh đó nơi không ai đã bao giờ đi tới, chỉ mỗi bạn hiện hữu... bạn phải tìm kiếm. Bạn phải ngồi im lặng và tìm kiếm các vùng hẻo lánh bên trong bạn.
Nhớ, bạn là vũ trụ bao la. Điều bạn coi đương nhiên bạn là bề ngoài chỉ là sự bắt đầu, hành lang. Nếu chúng ta nói về hành lang chính là vì bạn. Có những góc hẻo lánh bên trong ngôi nhà. Nhiều người sống cả đời họ ở hành lang, chỉ ngay bên cạnh đường: chợ, gia đình mọi thứ, danh tiếng, chính trị. Bạn sống ở bề mặt. Quách Am đã đi vào bên trong tới cái bên trong, hẻo lánh, và dầu vậy vẫn có những chỗ hẻo lánh hơn. Làm sao bạn có thể đi vào bên trong được? - đầu tiên dừng việc du hành đã.
Có hai chuyển động năng lượng, chỉ hai thôi. Năng lượng chỉ có hai chiều: một chiều là chiều ngang, chiều kia là chiều đứng, cũng như cây thập tự Ki tô giáo. Và cây thập tự Ki tô giáo thực sự là biểu tượng cho hai chiều. Một chiều là chiều ngang: bạn đi từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác, từ A sang B, từ B sang C - chiều ngang. Thế rồi có chuyển động khác của năng lượng: bạn không đi từ A sang B, bạn đi sâu hơn vào trong A - từ A1 sang A2, từ A2 sang A3 - bạn đi sâu hơn, theo chiều đứng, hay cao hơn, vì tất cả chúng ngụ ý cùng một điều.
Nhìn vào cây thập tự trên đó Christ đã bị đóng đinh. Nó có hai cọc: một cọc để ngang trên đó tay bị đóng đinh - đó là thời gian bình thường, đó là sống gần vệ đường, sống ở chợ, sống ở ngã tư đường - và thế rồi, chiều sâu. Toàn thân ông ấy ở trên cọc đứng. Đó là đi sâu hơn, sâu hơn. Khi bạn đi bơi bạn bơi trên bề mặt; đó là chiều ngang. Thế rồi bạn lặn sâu; đó là chiều đứng. Thiền nhân lặn sâu - nhà tư tưởng đi trên bề mặt. Suy nghĩ giống như bơi. Thiền không như bơi, nó là lặn sâu; đi tới cùng điểm nhưng ở tầng sâu hơn và sâu hơn.
Dừng du hành lại đi, vì du hành là trên bề mặt. Tĩnh lặng, không du hành, vẫn còn trong khoảnh khắc; thế thì bạn bắt đầu rơi vào trong vực thẳm. Bạn có thể sợ và điều đó có thể là lí do tại sao bạn liên tục nghĩ về quá khứ và tương lai. Vì nếu bạn vẫn còn trong khoảnh khắc, bạn sẽ rơi vào trong vực thẳm không đáy. Chiều sâu mở ra và bạn bị hấp thu vào trong nó.
Bản ngã không thể tồn tại trên chiều đứng được, nó chỉ có thể tồn tại trên chiều ngang. Tâm trí không thể tồn tại trên chiều đứng, nó chỉ có thể tồn tại trên chiều ngang. Nhưng chiều ngang và chiều đứng gặp nhau; đó là gặp gỡ của hai cọc nơi chúng trở thành chữ thập. Chúng gặp gỡ, chúng gặp gỡ trong khoảnh khắc hiện tại - khoảnh khắc hiện tại trở thành điểm gặp gỡ. Tại đó, chiều ngang bắt qua chiều đứng. Từ khoảnh khắc hiện tại bạn có thể đi theo hai chiều, hoặc từ A tới B, hặc từ A1 tới A2. Quách Am đã du hành từ A1 tới A2, từ A2 tới A3; và nó là chiều sâu vô hạn - bạn không bao giờ có thể đạt tới chỗ cuối.
Khi ông ấy ở Trung Quốc ông ấy đã không đi du hành. Ông ấy sống ở một chỗ hẻo lánh trên núi.
Và bạn càng đi sâu hơn theo chiều đứng, bạn càng đi tới chỗ hẻo lánh hơn, thế thì bạn càng đi xa khỏi thế giới. Thế thì gia đình bị bỏ lại trên bề mặt; lo âu của sự tồn tại hàng ngày bị bỏ lại trên bề mặt. Chúng thuộc về con đường, giao thông, chợ. Bạn đơn giản đi vào bên trong và chúng biến mất.
Nhớ, có hai cách đương đầu với lo nghĩ: một là cố giải quyết chúng trên bề mặt - không ai đã bao giờ giải được - cách khác là bỏ bản thân bạn vào một góc hẻo lánh trên núi. Bạn càng đi xa hơn, khoảng cách càng nhiều hơn, bạn càng có thể thấy rõ hơn, vì khoảng cách cho cảnh quan. Và khi bạn có thể thấy rõ hơn, lo nghĩ bắt đầu tan biến. Bạn càng ra xa, lo nghĩ càng tự động tan biến. Vì bây giờ bạn không nuôi dưỡng chúng bằng việc thường xuyên ở gần chúng. Bây giờ bạn không trao chú ý của bạn cho chúng - chúng tàn lụi đi. Và một khi bạn đã đạt tới góc xa nhất của bản thân bạn, ngay cả bạn cũng không biết liệu có lo nghĩ hay không, liệu chúng đã bao giờ tồn tại không. Bạn đơn giản ngạc nhiên.
Đây là cách thức phương Đông để giải quyết lo nghĩ: đi vào bên trong tới góc hẻo lánh. Cách thức phương Tây là đối diện với lo nghĩ và cố giải quyết chúng. Và phương Tây đã là thất bại. Không cái gì đã giúp đỡ - không phân tâm nào, không xu hướng khác nào trong tâm thần, không cái gì đã giúp đỡ - vì mọi người đều cố giải quyết chúng trên bề mặt. Họ có thể cho bạn chút ít an ủi, hay họ có thể làm cho bạn được điều chỉnh nhiều hơn theo xã hội; họ có thể cho bạn chút ít tự tin hơn, họ có thể làm cho bạn thành bình thường, có vậy thôi.
Nhưng 'bình thường' đơn giản ngụ ý bất thường một cách bình thường, không gì khác. Bình thường đơn giản ngụ ý như mọi người khác - nhưng mọi người khác là thế nào? Mọi người khác cũng thần kinh, thần kinh hờ hững. Tâm thần, phân tâm, và mọi xu hướng ở phương Tây có thể làm cho bạn được điều chỉnh hơn, được bình thường, có vậy thôi. Việc điều chỉnh sai biến mất; bạn trở nên được điều chỉnh. Nhưng bạn trở nên được điều chỉnh theo cái gì? Nếu toàn thể xã hội ốm, bạn trở nên được điều chính theo ốm đó. Nếu toàn xã hội thần kinh, bạn trở nên được điều chỉnh theo thần kinh.
Cách thức phương Đông là khác toàn bộ. Nó không trở nên được điều chỉnh hơn với xã hội - không, vì bản thân xã hội là dốt nát, ốm bệnh. Được điều chỉnh theo nó không phải là vấn đề. Vấn đề là đi xa hơn khỏi xã hội để cho bạn có thể tìm thấy rễ riêng của bạn, việc tiếp đất riêng của bạn. Một khi bạn tìm ra việc bắt rễ riêng của bạn, lo nghĩ sẽ tồn tại, chúng là một phần của cuộc sống, nhưng bạn không bị lo nghĩ bởi chúng. Chúng tồn tại và bạn giải quyết chúng trên bề mặt, nhưng bạn không được tham gia - bạn vẫn còn bên ngoài.
Thiền nhân thực trở thành người ngoài một cách đích thực. Ông ấy vẫn còn bên ngoài. Ông ấy vẫn còn ở khoảng cách xa xôi tới mức ông ấy có thể nhìn vào bản thân mình dường như ông ấy đang nhìn vào ai đó khác. Lo nghĩ sẽ có đó, chỉ giống như sóng sẽ có đó trên bề mặt đại dương. Nhưng trong các tầng sâu hơn của đại dương không có sóng. Nếu bạn bị đồng nhất với sóng, thế thì có rắc rối. Sự đồng nhất này là căn nguyên của mọi khổ. Bạn càng chuyển vào chỗ hẻo lánh hơn, sự đồng nhất càng tan biến hơn; nó vỡ ra, nó sụp đổ. Đột nhiên bạn đã siêu việt.
Chỉ có một cách siêu việt và siêu việt là cách duy nhất. Và siêu việt đó sẽ đi ngày càng sâu hơn bên trong bản thân bạn. Chứng kiến tâm trí bạn và bạn sẽ đi sâu hơn. Nhớ rằng bạn không là tâm trí và bạn sẽ đi sâu hơn. Cứ nhớ rằng bạn không rơi vào cái bẫy cũ của việc đi vào quá khứ hay tương lai. Cứ nhớ rằng bạn không ở đây để đi du hành, mà để hiện hữu. Bạn không ở đây để trở thành cái gì đó; bạn đã là cái mà bạn có thể trở thành. Nhưng chỉ để biết sự hiện hữu này, nó là gì....
Phương Tây đã từng làm nỗ lực mênh mông để trở thành cái gì đó. Và phương Đông đã từng làm chỉ một điều, thảnh thơi và biết họ là ai. Việc trở thành không phải là vấn đề vì trở thành là du hành; bạn phải trở thành cái gì đó. Vấn đề là đầu tiên phải biết bạn là ai. Bạn có thể đã là điều bạn muốn trở thành. Và những người đã biết, đều đã biết rằng nó đã là hoàn cảnh rồi. Bạn đã là cái bạn có thể trở thành. Bạn chỉ phải trở nên quen biết với sự kiện này.
Sự kiện này được ẩn kín sâu trong bạn. Những sự kiện nhiều ý nghĩa hơn bao giờ cũng bị ẩn kín sâu hơn. Chúng không trên bề mặt, chúng không trên làn da - chúng ở trong tim. Là nhân chứng cho tâm trí đi, và bạn sẽ tìm thấy những góc hẻo lánh của bản thân bạn, không quen thuộc, không được biết với bạn. Bạn không biết bản thân bạn. Bạn chỉ biết một phần, hành lang của nhà bạn. Bạn chỉ di chuyển ở bên ngoài.
Quách Am sống ở một chỗ hẻo lánh trên núi và thiền thường xuyên.
Điều này phải được nhớ - thiền không thể là một phần được. Hoặc nó là cái toàn thể hoặc không. Nó là thứ hai mươi bốn giờ. Bạn không thể làm nó và bỏ nó. Nó không phải là mảnh mẩu như việc bạn đi nhà thờ hay bạn đi đền chùa, thiền trong vài phút và được kết thúc với nó. Nó không phải là hành động mà bạn có thể làm và được kết thúc. Nó không phải là hành động, nó là bạn. Làm sao bạn có thể làm nó và được kết thúc? Nó là dành cho hai mươi bốn giờ. Thiền là cách sống. Nó không phải là hoạt động, nó là chính bản thân bạn. Nó phải là thường xuyên, nó phải là liên tục, nó phải là hiện hữu, dù bạn đang bước, đang ăn, hay thậm chí bạn đang ngủ, nó phải có đó. Nó phải trở thành sự liên tục được kết tinh. Chỉ thế thì Chứng ngộ xảy ra, không bao giờ trước điều đó.
Tất nhiên lúc ban đầu bạn phải bắt đầu. Bạn làm nó buổi sáng, đôi khi bạn làm nó buổi tối, thế rồi bạn quên nó và ngay cả điều đó cũng giúp đỡ. Nhưng nó chưa là thiền đâu, nó vẫn là hoạt động. Nó đã không trở thành một phần của bản thân bạn. Nó còn chưa giống như việc thở. Bạn có thể làm việc thở buổi sáng và thế rồi bỏ nó không? Thiền phải trở thành giống như thở, liên tục cùng bạn. Và một khoảnh khắc tới khi nó thậm chí trở nên sâu hơn thở, vì thở cũng không thường xuyên. Nó không thực sự là thường xuyên. Khi bạn thở vào có một khoảnh khắc việc thở dừng lại. Khi bạn thở ra có một khoảnh khắc, một phần của khoảnh khắc, việc thở dừng lại. Khi bạn rất rất im lặng, việc thở dừng lại - không có thở.
Thiền là sâu hơn thở vì thở thuộc vào thân thể. Thiền không thuộc vào thân thể. Thiền thuộc vào hạt mầm, thuộc vào chính trung tâm mà thân thể quay quanh. Thân thể giống như bánh xe. Việc thở là cần cho thân thể và thiền là cần, hệt như là cần, cho linh hồn. Không có thở bạn sẽ chết; điều đó ngụ ý thân thể sẽ chết. Không có thiền bạn sẽ chết; tức là, linh hồn sẽ chết.
Gurdjieff thường nói: Đừng tin rằng bạn đã có linh hồn. Làm sao bạn có thể linh hồn chừng nào bạn không thiền? Và ông ấy là đúng. Khi bạn thiền, lần đầu tiên linh hồn sống lại trong bạn. Nó đã từng chờ đợi bạn. Và khi linh hồn bắt đầu thở bên trong bạn, cũng như thân thể, khi linh hồn bắt đầu đập bên trong bạn cũng như tim, thế thì bạn có phẩm chất khác; phẩm chất đó là tính tôn giáo. Nó chẳng liên quan gì tới các nghi lễ. Thế thì bạn là khác, một con người khác toàn bộ.
Ham muốn biến mất; thay cho ham muốn - mãn nguyện, mãn nguyện sâu sắc tới với bạn, bởi vì ham muốn là bất mãn. Giận biến mất và thay cho giận - từ bi; cùng năng lượng đó trở thành từ bi. Trong giận bạn sẽ muốn phá huỷ người khác. Trong từ bi, chính điều đối lập; bạn sẽ muốn sáng tạo, bạn sẽ không muốn phá huỷ. Ghét biến mất không còn dấu vết nào; bạn đơn giản không thể tìm thấy nó bên trong bạn. Bạn trở nên yêu thương, và thế thì yêu không phải là chuyện tình; nó không phải là rơi vào yêu người nào đó, nó đơn giản là cách bạn hiện hữu.
Nếu bạn chạm vào lá, có yêu. Nếu bạn khênh đá, có yêu. Nếu bạn nhìn mặt trời, có yêu. Bất kì cái gì bạn làm, nó trở thành hành động yêu.
Thiền không phải là một phần, nó là cái toàn thể, cho nên người ta phải thường xuyên nhớ, thường xuyên nhận biết. Bạn không thể đảm đương được thiền vào buổi sáng và thế rồi quên về nó.
Ông ấy sống ở một chỗ hẻo lánh trên núi và thiền thường xuyên.
Bất kì khi nào mọi người thấy ông ấy và đề nghị ông ấy giảng, ông ấy sẽ nói vài lời, và thế rồi chuyển sang chỗ khác trên núi nơi ông ấy không thể được tìm thấy dễ dàng.
Ông ấy di chuyển bên ngoài và cả bên trong nữa. Đôi khi, ngay cả bạn đi tới vùng hẻo lánh bên trong bản thân bạn, bạn sẽ thấy rằng một ý nghĩ tới và thăm bạn; đấy là những người bên trong. Và bên ngoài nữa, ngay cả bạn đi tới vùng rất hẻo lánh của Himalayas, ai đó, ngày nào đó; thợ săn, tiều phu, hay lữ khách đang đi tới Hồ Manasarover, hay ai đó đã quên mất đường, sẽ tới thăm bạn. Và cũng cùng điều đó xảy ra bên trong. Đôi khi một ý nghĩ lang thang đã quên mất đường sẽ tới thăm bạn.
Trong thiền sâu đột nhiên bạn sẽ thấy một ý nghĩ đứng đó: nhưng nó sẽ là một, nó sẽ không là đám đông. Và khi một ý nghĩ tới thăm điều đó là hay, vì bạn có thể thấy nó rõ ràng thế. Nó có nhân cách của riêng nó. Ý nghĩ là người, nhưng bạn sống trong đám đông ý nghĩ tới mức đám đông không có nhân cách. Bạn bị rót đầy bởi ý nghĩ tới mức bạn không thể thấy được cái đẹp, mặt của riêng một ý nghĩ. Đến lúc bạn trở nên nhận biết, ý nghĩ đó đã đi mất, ý nghĩ khác đang đi qua; nó là lưu thông thường xuyên.
Trong lưu thông, trong đám đông, bạn không nhìn vào mặt, bạn không cảm thấy người; bạn đơn giản cảm thấy sự lộn xộn quanh bạn. Trong đám đông các thứ khác là vật, không phải người. Bạn có quan sát nó không? Nếu bạn du hành trong tầu hoả đông chen chúc, nhiều người quanh bạn chạm khắp nơi; cho dù bạn là đàn bà và ai đó đang chạm vào thân thể bạn, bạn không cảm thấy bận tâm. Tại sao không? Vì anh ta không phải là người; họ không phải là người - nó chỉ là đám đông. Nếu bạn đứng một mình dưới cây và cùng người đó tới và cọ vào bạn thế thì bạn sẽ trở nên giận. Bây giờ anh ta là người.
Trong đám đông không ai có nhân cách. Nó chỉ là đám đông - bạn có thể giận ai? - và bạn co vào bản thân bạn. Trong xe bus đông chen chúc, trong tầu hoả đông chen chúc, bạn co lại bên trong; bạn không sẵn có ở bề mặt da, cho nên nếu ai đó chạm vào bạn điều đó là được. Nó không phải là cái chạm, nó là thứ chết. Nhưng một mình bạn với một người, thế thì nó là khác.
Và cùng điều đó xảy ra bên trong. Bạn đã sống trong đám đông các ý nghĩ, đám đông điên. Bạn không bao giờ nhìn vào riêng một ý nghĩ. Ý nghĩ là người, và chúng là đẹp. Khi bạn có thể nhìn riêng một ý nghĩ trên bầu trời, với nhân cách, bản thân riêng của nó, năng lượng riêng của nó, thế thì ý nghĩ đó sẽ hỏi bạn cái gì đó. Tâm trí không bao giờ hỏi bạn bất kì cái gì vì bạn bị đồng nhất thế. Khi sự đồng nhất vỡ ra, dần dần, ngay cả tâm trí bắt đầu hỏi bạn nhiều điều.
Mọi người sẽ hỏi và truy vấn về Quách Am. Ông ấy sẽ giảng, ông ấy sẽ nói vài lời, và thế rồi chuyển sang vùng núi khác, vì vùng này cũng đã trở nên đông đúc; mọi người đã tới. Và điều này sẽ xảy ra mọi lúc bạn lắng đọng bên trong với thiền của bạn. Mọi lúc bạn lắng đọng một ý nghĩ sẽ tới thăm. Điều đó chỉ ra rằng bạn vẫn còn sẵn có cho ý nghĩ; vẫn không thực sự đi tới nơi không ai có thể đạt tới. Bạn phải đổi, bạn vẫn phải đi sâu hơn. Và bạn sẽ cảm thấy biết ơn rất rất sâu sắc với ý nghĩ đã tới thăm bạn, vì nó đã chỉ ra cho bạn rằng bạn vẫn không thật xa hẳn khỏi bề mặt: một ý nghĩ có thể đạt tới, một con sóng có thể tới. Bạn sẽ nghĩ tới ý nghĩ, xách hành lí lên và đi.
Quách Am sẽ giảng vài lời, ông ấy chắc có trao đổi tốt với ý nghĩ này và đi xa hơn vào cõi bên trong, để cho không ai có thể đạt tới ông ấy. Người ta phải tìm ra chỗ tuyệt đối cá nhân, không ai đạt tới bạn - đó là linh hồn của bạn. Không ai đạt tới bạn, thậm chí không một ý nghĩ - nó là một mình toàn bộ.
Bạn không thể tưởng tượng được im lặng này, bạn không thể tưởng tượng được cái đẹp này, bạn không thể tưởng tượng được hương vị của nó; khi bạn tuyệt đối một mình, khi không ai có thể đạt tới bạn, khi không cái gì đạt tới. Bạn không thể hiểu được phúc lành, phúc lạc xảy ra.
Tiếp tục đi, tiếp tục đi vào bên trong bản thân bạn, và đạt tới điểm mà thậm chí không một ý nghĩ nào có thể tới và thăm bạn. Đạt tới điểm mà chỉ người chủ còn lại, và không khách nào đã bao giờ tới.
Chỉ thế thì khách thực sẽ gõ cửa bạn. Chỉ thế thì Thượng đế, chỉ thế thì niết bàn, Chứng ngộ, Ánh sáng tối cao, Chân lí, hay bất kì cái tên nào bạn muốn cho nó, gõ cửa bạn. Khi bạn không sẵn có cho thế giới bạn trở thành sẵn có cho Thượng đế. Cho tới khi điều đó xảy ra, sự một mình toàn bộ, bạn còn chưa phải là phương tiện đúng cho điều Thiêng liêng giáng xuống.
Một khoảnh khắc tới trong cuộc đời của Quách Am khi ông ấy đạy tới, đạt tới tính một mình toàn bộ, và thế thì vị khách Tối cao gõ cửa. Thế rồi ông ấy trở về Nhật Bản.
Khi Quách Am trở về Nhật Bản, hoàng đế nghe nói về ông ấy và mời ông ấy tới triều đình để giảng Thiền vừa là giáo dục bản thân hoàng đế và các thần dân.
Quách Am đứng im lặng trước hoàng đế.
Nó phải đã là khoảnh khắc rất khó xử đối với hoàng đế. Quách Am đơn giản đứng đó trong im lặng. Ông ấy sẽ không nói gì cả. Ông ấy cố giao cảm, nhưng hoàng đế đã chờ đợi trao đổi. Trong thế giới đó ngay cả hoàng đế cũng là kẻ ăn xin, vì hoàng đế cũng sống nơi bạn sống. Họ có thể sống trong các cung điện lớn - nhưng họ sống trong lời cũng như bạn. Họ nghĩ giống bạn, họ tưởng tượng, họ ham muốn; họ đi tới quá khứ và tương lai giống bạn. Khi có liên quan tới thực tại Tối thượng, người ăn xin và hoàng đế là trong cùng thuyền. Không có chút khác biệt nào. Chỉ áo quần bên ngoài của họ là khác; con người bên trong của họ là như nhau.
Quách Am đứng im lặng, ông ấy sẽ không nói ra một lời. Hoàng đế chờ đợi, triều đình chờ đợi.... Thế rồi cảm thấy điều không thể được - im lặng đó sẽ không được hiểu, rằng không có người nào có thể cười như Ma ha ca diếp và có thể hiểu được im lặng của mình - Quách Am đã làm điều tốt nhất tiếp đó. Ông ấy đã làm gì?
Thế rồi ông ấy rút chiếc sáo từ ống tay áo ra, thổi một nốt ngắn, cúi mình lễ phép, và biến mất. Không người nào đã bao giờ biết cái gì đã xảy đến với ông ấy.
Đó là điều tốt nhất tiếp theo. Nếu im lặng không thể được hiểu, thế thì điều tốt nhất tiếp đó là âm nhạc.
Cái gì đó phải được hiểu về âm nhạc: âm nhạc không phải là ngôn ngữ, và vậy mà nó là ngôn ngữ; nó không nói bất kì cái gì và dầu vậy nó vẫn nói. Âm nhạc không phải là lời, nó chỉ là âm thanh; âm thanh ở ngay giữa vô lời và lời. Nếu vô lời không thể được hiểu - thế thì âm nhạc. Và nếu âm nhạc cũng không thể được hiểu, thế thì Quách Am đơn giản biến mất.
Tôi đang nói với bạn - thực ra việc đó không là gì ngoài âm nhạc. Sáo có thể không phải là rõ ràng nhưng tôi không thực sự nói đâu, tôi đang hát cái gì đó. Nó không phải là triết lí, nó là thơ ca - do đó có mọi mâu thuẫn của nhà thơ. Tôi nói cái gì đó hôm nay; tôi đã nói cái gì đó tuyệt đối khác hôm qua và bạn không thể dự đoán được tôi. Ngày mai tôi có thể nói cái gì đó khác nữa, vì điều tôi nói không phải là vấn đề. Điều tôi hát qua nó mới là vấn đề. Lời thay đổi; sáo có thể thay đổi, điều đó không phải là vấn đề - nhưng riêng một nốt...
Và tôi đã từng nói và nói, nhưng bạn đã quan sát riêng một nốt đó chưa? Riêng một nốt đó còn lại riêng biệt. Theo những cách khác nhau tôi hát cùng bài ca với những chiếc sáo khác nhau, với những lời khác nhau. Chúng có thể có vẻ mâu thuẫn, vì đôi khi tôi dùng sáo trúc và đôi khi dùng sáo vàng; đôi khi với vài lỗ, đôi khi với nhiều lỗ. Sáo là khác - ngay cả âm thanh có thể khác, nhưng nốt cơ bản vẫn còn là một. Mọi chư Phật đã từng hát cùng nốt này.
Người nghe liên tục thay đổi - chư Phật không bao giờ thay đổi. Tôi đang hát cùng bài ca mà Quách Am đã hát trước hoàng đế. 'Ông ấy rút chiếc sáo từ ống tay áo ra, thổi một nốt ngắn...' Cũng giống như một đoá hoa trong vườn lớn - một nốt đối lại cả bầu trời - một nốt đối lại toàn thể tâm trí, việc huyên thuyên của tâm trí.
...cúi mình lễ phép, và biến mất. Không người nào đã bao giờ biết cái gì đã xảy đến với ông ấy.
Ông ấy đã thử hết sức. Đầu tiên ông ấy đã thử im lặng. Tôi cũng đã thử im lặng đầu tiên, nhưng nó là khó; người nghe không thể nghe được cái gì. Bây giờ tôi đang thử một nốt bằng sáo. Và nếu bạn không nghe, nhớ câu chuyện này; Quách Am biến mất. Thế thì không ai đã bao giờ nghe thấy bất kì cái gì về ông ấy.
Và Quách Am đã cố gắng hết sức, với hoàng đế và triều đình của ông ta. Và khi ông ấy thấy rằng ngay cả hoàng đế và triều đình đều không thể hiểu được, thế thì hữu dụng là gì? - ai có thể hiểu? Ông ấy đơn giản không bận tâm nữa. Và điều này đã từng xảy ra nhiều, nhiều lần rồi, hàng triệu lần. Nhiều Quách Am thậm chí không bao giờ thử khi họ thấy toàn thể cái ngớ ngẩn. Họ đơn giản nhìn vào mặt bạn; họ thấy tường ở đó. Họ đơn giản không bao giờ thử. Nhưng những Quách Am nào đó lại rất dũng cảm - họ thử. Đó là đang hi vọng đối lại hi vọng.
Câu chuyện này là một chỉ báo rất hay. Bạn sẽ làm gì vì câu chuyện này? Đầu tiên thử im lặng; im lặng cùng tôi. Nếu bạn cảm thấy điều đó là không thể được, thế thì nghe nhạc; không nghe lời tôi đang nói với bạn, lời chỉ là cái cớ - lắng nghe nhạc đi. Và đừng tranh cãi, vì điều tôi đang nói không phải là phát biểu logic, nó là ngớ ngẩn. Nhưng điều đó không phải là vấn đề chút nào, logic của nó. Vấn đề là nhạc của nó.
Đầu tiên thử im lặng cùng tôi. Nếu điều đó xảy ra, nó là hay. Nếu nó không thể xảy ra được, thế thì thử âm nhạc. Hai điều này là những cách duy nhất, không có cách thứ ba. Đừng nghe điều tôi nói, chỉ lắng nghe nhịp điệu. Chỉ lắng nghe sự hài hoà, hài hoà của các cái đối lập. Và nó là riêng một nốt thôi, nhớ lấy. Tôi liên tục lặp lại cùng điều mọi ngày theo những cách khác nhau. Lúc thì chuyện Thiền là cái cớ, lúc thì chuyện Sufi là cái cớ, lúc thì Gita, lúc thì Jesus hay Mahavir; đây toàn là những cái cớ. Nhưng tôi liên tục lặp lại cùng một nốt. Tôi đi vòng quanh bạn thử từ mọi chỗ, mọi khả năng.
Lắng nghe âm nhạc đi! Đừng nghe logic. Nó không có logic trong nó - nó chỉ có giai điệu.

0 Đánh giá

Ads Belove Post