Read more
Thiền - Bước nhảy lượng tử từ Tâm trí sang Vô trí - Osho
Bài nói về Thiền
Chương
10. Bắt đầu việc sống trong thơ
Osho kính yêu,
Nam Tuyền sống ở một lều nhỏ trên núi, một
hôm một sư lạ tới thăm ông ấy lúc ông ấy chuẩn bị ra đồng đi làm.
Nam Tuyền đón chào ông ấy, nói, "Ông cứ
coi như ở nhà ông đi. Nấu bất kì cái gì ông thích mà ăn trưa, thế rồi đem chút
thức ăn còn lại cho tôi theo đường đi tới chỗ làm việc của tôi."
Nam Tuyền làm việc chăm chỉ mãi tới tối, và
về nhà rất đói. Sư lạ đã nấu cơm và tự mình ăn bữa trưa ngon lành, thế rồi đổ mọi
thức ăn thừa đi và đập vỡ mọi đồ nấu bếp. Nam Tuyền thấy sư này đang ngủ an
bình trong lều trống, nhưng khi ông ấy duỗi người mệt mỏi nằm bên cạnh người lạ
này, người này đứng dậy và đi mất.
Nhiều năm sau, Nam Tuyền kể lại giai thoại
này cho đệ tử của mình, với lời bình, "Ông ta là sư tốt thế - thậm chí tới
giờ ta vẫn còn nhớ ông ta."
Maneesha, Thiền là bất kì cái
gì trừ cái không tốt, cái không duyên dáng. Nó là từ bi thuần khiết. Và từ bi
được kiểm nghiệm trong hoàn cảnh chỉ khi bạn nghĩ gần như không thể nào là từ
bi được.
Giai thoại nhỏ này về Thiền sư
lớn, Nam Tuyền, có tác động vô cùng cho tất cả các bạn hiểu - không chỉ về mặt
trí tuệ, mà với toàn thể bản thể bạn. Cảm thấy nghĩa này trong mọi tế bào của
thân thể, tâm trí và linh hồn bạn. Rất khó tìm được câu chuyện như vậy trong lịch
sử của bất kì tôn giáo nào khác.
Nam Tuyền sống ở một lều nhỏ
trên núi, một hôm một sư lạ tới thăm ông ấy lúc ông ấy chuẩn bị ra đồng đi làm.
Từng và mọi lời đều phải được
hiểu rõ ràng. Người lạ không được mọi người chấp nhận. Chính việc là người lạ tạo
ra sợ trong bạn, vì người đó là không thể dự đoán được. Rời khỏi lều để đi làm
trên đồng, bảo người lạ này nghỉ lại, cần tin cậy mênh mông, tin cậy mà cho dù
bị phản bội, vẫn không thể bị phá huỷ.
Ông ấy thậm chí đã không hỏi
tên của sư này, không hỏi sư này từ đâu tới, không hỏi chủ định của sư này là
gì, sư này muốn gì từ ông ấy. Không câu hỏi chút nào... Như thế là cách tiếp cận
của Thiền - không câu hỏi chút nào, nhưng chấp nhận sâu sắc tính lạ của mọi thứ.
Mọi điều này là biểu tượng. Bạn
có biết tre bên ngoài Phòng Phật không? Bạn có biết những người này và mây bay
qua và mưa không? Mọi thứ đều là lạ và đó là cái đẹp của nó. Cũng như tre và
hoa và hoa hồng và mây và sao được chấp nhận mà không có tên tuổi, đẳng cấp, đất
nước, giống nòi, cùng điều đó đáng phải là cách tiếp cận tới con người chứ. Tại
sao bạn phân biệt? Tại sao bạn hỏi một người về tên của người đó, chủ định của
người đó? Bạn làm điều đó để cho bạn có thể bỏ nỗi sợ về người lạ.
Thực ra, mọi người đều là người
lạ, ngay cả vợ bạn hay chồng bạn hay con bạn. Bạn có biết con bạn không? Chúng
là người lạ cũng như tre hay có lẽ thậm chí còn hơn, vì chúng tới từ bạn nhưng
chúng không là từ bạn - chúng tới từ cõi bên kia. Vậy mà bạn đã không hỏi đứa
trẻ, "Tại sao con đã tới?"
Đó là cách tiếp cận của Thiền.
Nam Tuyền đã không hỏi sư lạ này. Ngược lại, ông ấy đón chào ông này, nói,
"Ông cứ coi như ở nhà ông đi.”
Trong một giai thoại nhỏ, trong
vài lời chính điều bản chất có thể được diễn đạt. "Ông cứ coi như ở nhà
ông đi."
Một người như Nam Tuyền không sở
hữu bất kì cái gì: toàn thể sự tồn tại là nhà của ông ấy; chiếc lều nhỏ này
không thể giới hạn được ông ấy, không thể trở thành đồ sở hữu của ông ấy.
Ông ấy nói với người lạ,
"Ông cứ coi như ở nhà ông đi. Nấu bất kì cái gì ông thích mà ăn trưa, thế
rồi đem chút thức ăn còn lại cho tôi theo đường đi tới chỗ làm việc của
tôi."
Bạn có thấy không? Ông ấy không
nói, "Chuẩn bị bữa trưa cho tôi." Ông ấy nói, "Chuẩn bị bữa trưa
cho ông và nếu cái gì đó còn sót lại, đem nó cho tôi ở cánh đồng nơi tôi đang
làm việc."
Nam Tuyền làm việc chăm chỉ mãi
tới tối, và về nhà rất đói. Sư lạ đã nấu cơm và tự mình ăn bữa trưa ngon lành,
thế rồi đổ mọi thức ăn thừa đi và đập vỡ mọi đồ nấu bếp. Nam Tuyền thấy sư này
đang ngủ an bình trong lều trống, nhưng khi ông ấy duỗi người mệt mỏi nằm bên cạnh
người lạ này, người này đứng dậy và đi mất.
Ngay cả vậy, Nam Tuyền đã không
hỏi cái gì đã xảy ra cho đồ ăn thừa. Ông ấy đã không hỏi, "Mọi đồ ăn thừa
đâu rồi? Và ông đi đâu?" Thái độ không hỏi hướng tới sự tồn tại, sự chấp
nhận hồn nhiên thuần khiết rằng người lạ phải đang làm bất kì cái gì người đó cảm
thấy đúng cần làm.
Nhiều năm sau, Nam Tuyền kể lại
giai thoại này cho đệ tử của mình, với lời bình, "Ông ta là sư tốt thế -
thậm chí tới giờ ta vẫn còn nhớ ông ta."
Đây là điều rất bản chất của từ
bi, của yêu, của tin cậy. Bạn không thể phản bội lại nó: bằng việc phản bội nó,
bạn đang phản bội bản thân bạn. Sư lạ đó đã làm mọi thứ để phá huỷ tin cậy của
Nam Tuyền vào nhân tính. Nhưng ngược lại, tin cậy của Nam Tuyền đã trải qua thử
lửa.
Nhiều năm sau, ông ấy nói,
"Ông ta là sư tốt thế - thậm chí tới giờ ta vẫn còn nhớ ông ta."
Nếu bạn có thể hiểu cách tiếp cận
của không điều kiện, không phán xét... Có mọi khả năng rằng Nam Tuyền chắc đã
phán xét rằng, "Cha này đã chứng tỏ là tuyệt đối vô giá trị với tin cậy của
mình." Thế thì tin cậy là rất nhỏ; tin cậy của Nam Tuyền là lớn như toàn
thể bầu trời. Ông này làm hại gì? Tất nhiên Nam Tuyền mất bữa ăn, đồ nấu bếp của
ông ấy bị đập vỡ, nhưng đây là những thứ nhỏ bé. Chỉ tâm trí tầm thường mới
quan tâm tới những thứ này. Những người giầu có bên trong, người biết tới vương
quốc Thượng đế của họ, sẽ không bận tâm tới những điều như thế. "Anh chàng
đó phải có lí do riêng của ông ta; mình là ai mà phán xét? Ít nhất ông ta đã
không giết mình. Ông ta đã không đốt lều. Ông ta đã là anh chàng tốt thế,"
Nam Tuyền nói. "Thậm chí tới giờ ta vẫn còn nhớ ông ta - sự hào phóng của
ông ta, an bình của ông ta, việc đi im lặng của ông ta không làm phiền tới
ta."
Từ bi chỉ có thể là vô giới hạn.
Nếu bạn đặt giới hạn lên từ bi của bạn, bạn đang lừa bản thân bạn vì bên ngoài
giới hạn đó, hoài nghi đang chờ đợi. Bên ngoài giới hạn đó là bắt đầu của không
tin cậy. Người đó đã làm hại gì mà bạn phải làm mất kinh nghiệm quí giá về tin
cậy? Thực ra, người lạ này đã cho Nam Tuyền một cơ hội để nhìn bản thân ông ấy
rằng ông ấy không giận, rằng ông ấy không nghi ngờ, rằng từ bi của ông ấy là
không bị giới hạn. Ông ấy cám ơn người lạ này và về sau ông ấy nói, "Ông
ta là sư tốt thế - thậm chí tới giờ ta vẫn nhớ ông ta."
Nếu bạn có thể trải nghiệm điểm
này, toàn thể cuộc đời bạn sẽ được biến đổi. Thế thì toàn thể sự tồn tại này
không còn là lạ nữa, nó trở thành rất quen thuộc. Bạn ở nhà tại mọi chỗ. Không
người nào, thậm chí không con vật, chim chóc, con chim cúc cu này, những cây
tre đứng im lặng này... chúng tất cả đều trở thành bạn bè. Bạn bắt đầu sống
trong thơ ca, bạn bắt đầu sống trong điệu vũ mà không biết tới hoài nghi.
Tôn giáo đã từng trao đồng tiền
giả cho mọi người có tên là niềm tin. Nếu bạn nhìn vào từ điển, niềm tin và tin
cậy và đức tin dường như đồng nghĩa. Chúng không đồng nghĩa đâu: niềm tin bao
giờ cũng là niềm tin vào giả thuyết nào đó; đức tin bao giờ cũng từ sợ; tin cậy
có phẩm chất khác toàn bộ - nó là từ hiểu biết, từ yêu. Một khi bạn bắt đầu sống
từ yêu, chỉ thế thì bạn mới biết tôn giáo là gì. Thiền là dạng thuần khiết nhất
của tôn giáo.
Maneesha đã hỏi:
Osho kính yêu,
Đây có phải là câu chuyện về từ bi của thầy
và sự thanh thản trên nét mặt của sự tin cậy của thầy khi bị lạm dụng không?
Hay nó là minh hoạ đẹp cho việc được lợi từ việc ở cùng thầy mà không nghèo
túng và phụ thuộc? Chắc chắn, đó tiếng nói của thầy tôi nghe thấy khi tôi đọc lời
của Nam Tuyền: "Ông ta là sư tốt thế - thậm chí tới giờ ta vẫn nhớ ông
ta."
Maneesha, Nam Tuyền đã nhớ chỉ
một sư tốt. Tôi đã nhớ hàng nghìn người tôi đã yêu, người tôi đã tin cậy và người
đã không chỉ đập vỡ đồ nấu bếp của tôi và phá hỏng bữa ăn của tôi. Họ đã phá vỡ
mọi thứ họ có thể phá, họ đã thiêu trái tim tôi. Dầu vậy, tôi vẫn nhớ họ.
Mới hôm nay tôi nghe nói rằng một
trong các sannyasins của tôi đã viết một cuốn sách, kết án toàn thể thực nghiệm
ở đây. Cuốn sách đó đã được xuất bản hai năm rưỡi trước đây, và nó gây chú ý
cho tôi hôm nay vì sannyasin này, một người đàn bà, người đàn bà đẹp với trái
tim tốt lành, đã thông báo cho tôi rằng cô ấy sắp tới vào tháng chín.
Trong cuốn sách này, cô ấy đã
viết, "Tôi đã ngây thơ, ấu trĩ. Đó là lí do tại sao tôi đã trở thành đệ tử.
Giờ tôi trưởng thành và tuyệt đối tự do khỏi tính chất sannyas." Tôi tự hỏi
tại sao cô ấy quay lại. Nhưng nếu cô ấy quay lại, không ai nên hỏi cô ấy một
câu hỏi nào về cuốn sách này, về những dối trá mà cô ấy đã nói trong nó. Nó tất
cả là quá khứ. Trong hai năm rưỡi, nhiều nước thế đã chảy xuôi sông Hằng. Ai bận
tâm? Cho dù bạn chỉ quay về nhà lúc buổi tối, đã đi lạc đường đây đó, bạn được
đón chào.
Hàng nghìn sannyasins đã phản bội
- không phải phản bội tôi, mà phản bội chính họ - về điều tầm thường. Chính phủ
Mĩ đã hối lộ vài người để nói những điều tuyệt đối không đúng vì trong ba năm
rưỡi tôi đã im lặng. Những người đó đã thú nhận với chính phủ rằng tôi đã thu xếp
hôn nhân cho họ. Tôi đã không có khả năng thu xếp hôn nhân của riêng tôi và tôi
không nghĩ bây giờ có bất kì khả năng nào. Tại sao tôi phải bận tâm thu xếp hôn
nhân cho bất kì ai khác? Và tôi đã không gặp những người đó, tôi không nhớ mặt
họ. Tôi thậm chí không bao giờ nói với họ, vì trong ba năm rưỡi tôi đã im lặng.
Và ngay cả khi tôi đang nói, tôi nói công khai: Tôi không gặp mọi người một
cách cá nhân.
Hôn nhân là chuyện cá nhân của
họ. Nếu có bất kì cái gì, tôi có thể thu xếp cho li dị, không cho hôn nhân. Đó
là toàn thể triết lí của tôi - li dị! Nhưng hai sannyasins đó được hối lộ đủ lớn
và đã sẵn sàng nói với toà án rằng tôi đã thu xếp cho hôn nhân của họ. Tôi đã
không nói bất kì cái gì. Cho dù họ quay lại, họ sẽ được hoan nghênh, mặc dầu vì
họ tôi đã bị lôi đi hết nhà tù nọ tới nhà tù kia, vì họ tôi bị đầu độc và bị phạt
nửa triệu đô la.
Và tôi không có một đồng đô la
nào; tôi thậm chí đã không nhìn thấy mặt của một đồng đô la. Tôi đã không chạm
tới tiền trong gần ba mươi năm. Tôi không biết ai trả tiền phạt. Tất nhiên, các
sannyasins đã bị tổn thương tới mức trong vòng mười phút nửa triệu đô la đã được
trả. Ngay cả quan toà cũng không thể tin được vào mắt ông ấy. Họ cứ tưởng rằng
ngần ấy tiền tôi sẽ không có khả năng.... tôi đã không có gì.
Và những người phản bội tôi
không phải là vài người đâu, mà nhiều người. Những người đó mà tôi đã cho sự
kính trọng và tình yêu - và dầu vậy tôi vẫn yêu họ - đã làm mọi thứ để gây hại
cho cách tiếp cận của tôi tới cuộc sống. Thậm chí họ sợ cả tới việc nhắc đến rằng
họ đã từng ở cùng với tôi.
Mới hôm nọ, tôi đã nhận được một
cuốn sách quảng cáo nhỏ từ Swami Anand Teertha mà mười hai sannyasins đã tham
gia cùng anh ấy để tạo ra tổ các nhà trị liệu. Anand Teertha, người đã sống
cùng tôi trong mười ba năm, viết trong lời giới thiệu của anh ấy rằng anh ấy đã
từng ở cùng một nhà huyền bí Ấn Độ trong mười ba năm. Anh ấy đã không có dũng cảm
ngay cả để nói nhà huyền bí Ấn Độ này là ai - bạn có nghe nói không? Ngay cả
con chim cúc cu cũng còn hiểu biết nhiều hơn - vợ của Teertha chắc chắn có dũng
cảm hơn Teertha; ít nhất cô ấy còn nhắc tới tên tôi, rằng cô ấy đã học theo tôi
như đệ tử của tôi trong mười ba năm.
Teertha không thể ngăn cản được
cô ấy bởi vì cô ấy không còn sống cùng anh ấy. Anh ấy đang sống với người đàn
bà khác, bạn gái. Người bạn gái đó cũng ở đây. Cô ấy cũng không nhắc tới... lại
đi tới nhà huyền bí Ấn Độ. Nhưng nếu họ quay lại, họ sẽ nhận được cùng tình
yêu. Tôi không ghi chép về những nỗi sợ ngu xuẩn như thế. Sợ của họ là gì? Sợ của
họ là ở chỗ tên tôi làm cho họ bị các chính phủ làm phiền hà. Họ không thể làm
việc được ở Đức hay ở Ý nếu các chính phủ này biết rằng họ đã từng là người của
tôi.
Nhưng việc bán linh hồn của bạn
rẻ thế... Tôi chỉ có nước mắt cho họ. Và bây giờ, bản thân họ đang đóng lại
cánh cửa. Từ phía của tôi nó mở, nhưng mọi thứ họ đang nói cho các sannyasins
khác: "Bỏ tính chất sannyas đi. Nó là nguy hiểm. Hai mươi mốt nước đã thông
qua luật rằng Osho không thể vào được. Việc làm của bạn bị lâm nguy."
Và điều đó là đúng. Vài thầy
giáo đã mất việc làm của họ. Một giáo sư đã mất việc làm vì anh ấy đã chấp nhận
tôi làm thầy của anh ấy. Nhưng anh ấy là người dũng cảm. Anh ấy ra toà và hỏi,
"Có luật nào ngăn cản tôi là đệ tử của Osho? Theo bất kì cách nào điều đó
có phải là cản trở cho việc dạy của tôi trong đại học không? Tôi đã không dạy
triết lí của ông ấy; tôi thậm chí không có khả năng dạy điều đó. Nhưng liên kết
của tôi với ông ấy đã lấy đi việc làm của tôi."
Có gần hai triệu sannyasins
trên thế giới. Tôi đã bảo họ đừng mặc quần áo mầu cam, đừng đeo mala, vì tôi
không muốn bất kì ai bị khổ vì tôi. Nhưng bất kì ai cố thuyết phục các
sannyasins bỏ tính chất sannyas... Bây giờ cái gì còn lại khi có liên quan tới
tính chất sannyas? Tôi đã bảo họ quên về quần áo cam đi, vứt ma la vào đại
dương. Chỉ thiền là điều bản chất. Giữ lấy nó, không ai thậm chí có thể nghi ngờ
được bạn là thiền nhân. Nó là bên trong của bạn, trung tâm bên trong nhất.
Maneesha, nó là cả hai. Câu
chuyện là “từ bi của thầy và sự thanh thản trên nét mặt của sự tin cậy của thầy
khi bị lạm dụng." Và nó cũng là "minh hoạ đẹp cho việc được lợi từ việc
ở cùng thầy mà không nghèo túng và phụ thuộc."
Vâng, Maneesha, chắc chắn nó là
tiếng nói của tôi mà bạn đã nghe thấy trong lời của Nam Tuyền, "Ông ta là
sư tốt thế - thậm chí tới giờ ta vẫn nhớ ông ta." Bạn không biết đấy thôi,
có lẽ không người nào khác trên thế giới đã nhớ nhiều người như tôi đã nhớ. Tôi
đang mang những vết thương từ tay của những người riêng của tôi; nhưng tình yêu
của tôi là sống động như bao giờ, bởi vì nó không bao giờ phụ thuộc vào điều họ
làm. Nó không bao giờ có điều kiện; nó chỉ đơn giản là tôi yêu, tôi là yêu. Cho
nên bất kì ai tới gần tôi đều có thể uống nước cam lồ của yêu và im lặng và an
bình. Tôi không làm bất kì đòi hỏi nào mà bạn phải hoàn thành. Tôi chỉ giống
như bầu trời mở.
Maneesha đã hỏi câu hỏi khác nữa:
Osho kính yêu,
Đệ tử có cần phải cần tới thầy mình và có ý
thức về việc cần tới thầy không?
Không, Maneesha. Cần không phải
là ngôn ngữ của Thiền: yêu là ngôn ngữ. Bạn cần đồ vật nhưng - đó là một thế giới
kì lạ và mất trí - mọi người yêu đồ vật. Ai đó yêu xe hơi, ai đó yêu ngựa, ai
đó yêu xe đạp thuê. Trong thế giới mất trí này mọi người cần lẫn nhau và thu lẫn
nhau thành đồ vật. Khoảnh khắc bạn cần ai đó, bạn đã lấy đi chân giá trị của
người đó. Bạn đã thu người đó thành món hàng.
Ở Ấn Độ, đàn bà được gọi là
stridhan, của cải nữ. Và khi một cô gái lấy chồng, từ được dùng là dana, vật tặng.
Đây là những từ xấu xí; bạn không thể tặng người được, bạn không thể mua người
được. Chỉ trong lí thuyết mà chúng ta nghĩ sự nô lệ đã biến mất khỏi thế giới.
Nó tồn tại theo hàng nghìn cách, với các bộ mặt khác nhau.
Ít nhất đừng hỏi thầy để là được
cần tới, và bất kì người nào xứng đáng với vị mặn của thầy, nếu người đó là thầy,
đều không cần đệ tử. Người đó thích chia sẻ và người đó biết ơn những người có
tính đón nhận. Đệ tử không phải là nhu cầu mà thầy cũng không là nhu cầu. Nhu cầu
là từ áp dụng được cho đồ vật. Ở đây trong ngôi đền này, mọi người đều được
yêu; không ai được cần. Và khác biệt này phải được hiểu: cần trở thành nhà tù
và yêu là tự do; cần đặt xiềng xích lên bạn và yêu cho bạn đôi cánh.
Tre đang thì thào giữa chúng.
Chúng muốn có chút tiếng cười đây.
Bố mẹ của Bé Ernie đã mời linh
mục Tin lành địa phương và vợ ông ấy tới uống trà. Ernie đã được dặn phải cư xử
lễ độ nhất, và phải nói “thưa bác” và “cám ơn” mọi lúc. Nhưng Ernie đang có lộn
xộn, và đến cuối buổi chiều đã gần sẵn sàng bùng nổ.
"Con có muốn uống thêm trà
không, Ernest?" mẹ nó hỏi.
"Không!" Ernie nói.
"Không cái gì, con
yêu?" mẹ nó hỏi với cái nhìn đe doạ. Bà ấy lại nhắc lại cho nó,
"Không cái gì?"
Với điều này Ernie đáp,
"Đéo thêm chè nữa!"
Stanley Sharkskin, người bán dạo,
quá mệt không thể tiếp tục cuộc hành trình trong màn đêm miền quê. Anh ta thấy
một nhà ở nhỏ trong trang trại ven đường và quyết định tìm chỗ thoải mái và nghỉ
ngơi ở đó.
"Ông có thể cho tôi ở trọ
qua đêm được không?" Stanley hỏi người nông dân.
"Được chứ, nhưng ông sẽ phải
ngủ cùng con trai tôi," người nông dân nói.
"Lạy chúa!" Stanley
kêu lên, "Tôi đang trong trò đùa sai rồi!"
Lúc đó là buổi tối trong một
quán rượu ở New York. Một cậu thanh niên tóc dài với chiếc ghi ta và giọng mũi
cao, đang hát "Quê nhà California cũ của tôi." Một ông già trong góc
phòng cúi đầu và khóc thầm.
Một bà ngồi gần ông ấy nghiêng
người qua và nói, "Xin lỗi ông, người kì cựu, nhưng ông là người
California sao?"
"Không, thưa bà," ông
lão thổn thức. "Tôi là nhạc sĩ."
"Có đức tin và ông sẽ được
chữa lành," người thuyết giảng kêu lên tại cuộc họp gây lại niềm tin. Một
người đàn bà chống nạng và một người đàn ông tiến lên trước. Người thuyết giảng
hỏi, "Tên bà là gì, thưa bà?"
"Tôi là bà Smith," bà
ấy đáp, "và tôi phải đi bằng nạng cả đời tôi."
"Dạ, thưa bà Smith,"
người thuyết giảng nói, "đi ra đằng sau bình phong kia và cầu nguyện
đi."
Quay sang người đàn ông, ông ấy
hỏi, "Tên ông là gì?"
"Tên tôi nà
Thamuelth," ông ấy đáp, "và tôi bao rờ cũng lói bằng môi."
"Được rồi, ông
Samuels," người thuyết giảng nói, "đi ra đằng sau tấm bình phong kia
cùng bà Smith, và cầu nguyện!"
Thế rồi người thuyết giảng giơ
hai cánh tay lên và nói, "Chứng kiến phép màu! Bà Smith, ném một nạng qua
tấm bình phong." Khán giả há hốc miệng khi nạng lao vút qua. "Bà
Smith," người thuyết giảng kêu lên. "Giờ vứt nạng kia nữa!" Đám
đông reo hò khi chiếc nạng thứ hai xuất hiện. Được khuyến khích, người thuyết
giảng chỉ đạo, "Ông Samuels, nói cái gì với giọng to, rõ ràng."
Samuels trả lời, "Pà
Thmith vừa ngã phịch trên mông rồi!"
Rupesh, cho tiếng trống đầu
tiên và mọi người phát rồ lên. Không cái gì kém hơn sẽ có tác dụng.
(Tiếng trống)
Rupesh...
(Tiếng trống)
Mọi người trở nên im lặng.
Nhắm mắt lại
và thu năng lượng của bạn vào
trong.
Không chuyển động. Chỉ hiện hữu.
Tâm thức thành một điểm
và bạn đã lấy bước nhảy lượng tử
từ tâm trí sang vô trí.
Sâu hơn, sâu hơn. Không có sợ,
đi sâu hơn.
Nó là đơn độc, nó là im lặng
nhưng nó là phúc lạc mênh mông.
Đây là hoa sen
chư phật đã từng nói tới.
Đây là bí mật có thể được chỉ
ra
nhưng không thể được giải
thích.
Vào khoảnh khác này
bạn ở chính nhịp tim đập của sự
tồn tại.
Để nó trở thành chính phong
cách sống của bạn.
Với nó mùa xuân vô cùng tới,
mùa xuân
của cuộc sống, của niềm vui, của
phúc lành, của tình yêu.
Nó là điệu vũ đa chiều.
Mọi sáng tạo đều tới từ không
gian này:
Thơ ca, âm nhạc, điêu khắc...
Mọi thứ là vĩ đại đều được sinh
ra qua bụng mẹ này,
Bụng mẹ của im lặng bên trong.
Làm cho nó sâu hơn.
Rupesh, cho tiếng trống khác để
mọi người chết.
(Tiếng trống)
Cứ để thân thể thở,
Nhưng bạn liên tục đi vào bên
trong.
Đây là ngôi đền thiêng của bản
thể bạn.
Từ nó nảy sinh mọi đức hạnh và
nếu bạn quên nó,
cuộc sống của bạn là vô nghĩa.
Cả nghìn lẻ một hoa hồng
nở ra trong im lặng này.
Nếu bạn quên điều đó, cuộc sống
của bạn chỉ là việc kéo lê
từ cái nôi tới nấm mồ.
Điều đó tất cả là tuỳ ở bạn
liệu bạn muốn sống trong sa mạc
hay trong vườn,
liệu bạn muốn chỉ là xương
và bộ xương
hay là tâm thức thiêng liêng.
Rupesh, cho tiếng trống để cho
tất cả những người đã chết có thể quay lại cuộc sống.
(Tiếng trống)
Phục sinh,
nhưng đừng quên khoảnh khắc bạn
đã ở vào
và đừng quên
không gian bạn đã đi qua.
Đừng quên rằng không cái gì là
quí hơn
bản thể riêng của bạn.
Việc nhớ lại này
làm cho từng người trong các bạn
thành phật.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội với nhiều
chư phật thế chứ?
Vâng!
Xem tiếp Chương 11 - Quay về Mục lục
0 Đánh giá