Read more
Osho kính yêu,
Không cái gì được cho
Cổ Đức nói: "Từ xưa nay vốn chẳng có
pháp để cho người, chỉ vì người chỉ đường mà thôi." Cổ Đức nói: "Hễ
có sở đắc là chó sói kêu, vô sở đắc là sư tử rống."
Phật là người thông suốt, trong bốn mươi
chín năm thuyết pháp hơn ba trăm sáu mươi hội, tùy căn tính chúng sinh mà dẫn dắt
họ, nên ở trong mười pháp giới giảng thuyết một âm, chúng sinh tùy loại mỗi mỗi
đều được lợi ích. Ví như gió đông thổi qua một cái thì muôn ngàn bông hoa cùng
rộ nở, Phật thuyết pháp cũng như thế.
Nếu có ý nơi mười pháp giới để làm lợi ích
cho là có ta thuyết pháp, cho là có chúng sinh được độ, vậy thành có ngã chấp rồi.
Như Xá Lợi Phất trên hội Bát Nhã hỏi Văn
Thù rằng: Chư Phật có giác ngộ pháp giới chăng?
Văn Thù đáp: Không. Xá Lợi Phất! Chư Phật
còn bất khả đắc thì làm sao có Phật mà giác ngộ pháp giới! Pháp giới cũng bất
khả đắc thì làm sao có pháp giới cho chư Phật giác ngộ!
Xem qua sự vấn đáp khích bác của hai ngài
thì đâu từng trụ vào chỗ nào. Từ xưa chư Phật chư Tổ thuyết pháp đều có thể
cách như thế, chỉ vì con cháu sau này thất lạc tông chỉ, mỗi mỗi tự lập môn
phái, tác yêu tác quái mà thôi.
Điều hay là khi Đại Huệ đơn giản
trích dẫn lời của người đã thức tỉnh. Nhưng khoảnh khắc ông ấy đem bản thân ông
ấy vào, toàn thể vinh quang và huy hoàng bị mất. Ông ấy đang cố gắng vất vả để
giả vờ rằng ông ấy chứng ngộ, nhưng ông ấy không thể che giấu điều đó được -
ông ấy không thể che giấu nó từ con mắt có thể nhìn sâu vào chính cái ngã của
ông ấy. Sẽ là biến cố lớn khi ông ấy nhận ra việc giả vờ của mình.
Sẽ không khó cho ông ấy trở nên
chứng ngộ. Mọi điều ông ấy phải biết là ở chỗ ông ấy không biết, và điều đó sẽ
là biến đổi tức khắc. Ông ấy biết quá nhiều và kinh nghiệm của ông ấy tuyệt đối
là không. Nhưng tôi hi vọng rằng dần dần, dần dần ông ấy đang tới gần hơn để nhận
ra điều này, vì bây giờ ông ấy không thêm các phát biểu riêng của ông ấy, ông ấy
chỉ trích dẫn chư phật.
Kinh đầu tiên là kinh rất cổ đại,
nó thậm chí đã không bắt nguồn với Phật Gautam. Có lẽ mọi người thức tỉnh đã nhấn
mạnh vào sự kiện này - họ phải nhấn mạnh vì nó thực thế và có ý nghĩa thế, nó
phải được nói cho mọi người - rằng thầy không thể trao cho bạn bất kì cái gì. Nếu
thầy có thể trao, thầy chắc đã trao cho bạn mọi thứ. Nhưng khi có liên quan tới
chứng ngộ nó tuyệt đối là lãnh thổ riêng tư, cá nhân của bạn. Không ai có thể
can thiệp được vào nó.
Thế thì chủ định của thầy là
gì? Chủ định của thầy là để lấy đi khỏi bạn những thứ bạn nghĩ bạn là vậy. Chủ
định của thầy có tính phủ định - thầy đơn giản lấy đi các quan niệm giả của bạn.
Và một khi mọi quan niệm giả bị lấy đi khỏi bạn, cái là thực chiếu sáng trong mọi
vẻ đẹp của nó. Thầy đã không trao cho bạn bất kì cái gì, nhưng thầy đã loại bỏ
đi mọi chướng ngại, mọi cản trở mà bạn đã níu bám vào.
Khoảnh khắc bạn trở nên chứng
ngộ, bạn sẽ biết rằng kinh nghiệm này bao giờ cũng ở cùng bạn - chỉ mắt bạn nhắm
thôi. Thầy cố gắng theo mọi cách, với các phương cách tuỳ tiện, đánh thức bạn dậy.
Một khi bạn thức dậy không cái gì phải được nói, vì bạn đang thấy bản thân bạn.
Và kinh nghiệm về chứng ngộ là đích xác như nhau.
Đại Huệ đang trích dẫn lời kinh
cổ:
Từ xưa nay vốn chẳng có pháp để
cho người, chỉ vì người chỉ đường mà thôi.
Lời thực tại của Phật là:
"Ta có thể chỉ cho ông con đường, nhưng ông sẽ phải đi nó. Ta không thể đi
nó hộ ông được. Không phải là ta không muốn đi, nhưng nó đơn giản không trong bản
tính của mọi sự."
...chỉ vì người chỉ đường mà
thôi." Cổ Đức nói: "Hễ có sở đắc là chó sói kêu, vô sở đắc là sư tử rống."
Trên con đường có nhiều khoảnh
khắc mà bạn sẽ cảm thấy, "Mình đã đạt tới nó, mình đã có nó." Nhớ một
tiêu chí: bất kì khi nào ý tưởng nảy sinh trong bạn, "Mình đã có nó,"
không hoài nghi gì bạn sai rồi. Chính ý tưởng, "Mình đã có nó," có
nghĩa là thành tựu của bản ngã. Bạn có đó và mục đích nào đó đã được đạt tới.
Nó có thể là kinh nghiệm đẹp nào đó, nhưng dầu vậy vẫn là ảo tưởng; do đó, Cổ Đức
nói: "Hễ có sở đắc là chó sói kêu, vô sở đắc là sư tử rống."
Trên con đường khoảnh khắc tới
khi người tìm kiếm bị mất, và ham muốn đạt tới bất kì cái gì rời bỏ bạn. Khi bạn
không có đó, ai sẽ đạt tới? Khi bạn đơn giản và hồn nhiên tới mức bạn không thể
xoay xở để nói "tôi," không có vấn đề đạt tới - vì không có tâm trí đạt
tới. Nhưng đây là đạt tới: mất đi mọi thứ, ngay cả người tìm kiếm. Bạn đã tìm
ra điều người tìm kiếm đã tìm, nhưng bây giờ không có ai để công bố điều đó.
Thế rồi tới tiếng sư tử rống:
việc nhận ra đơn giản không lời. Bạn bùng nổ trong hân hoan, trong điệu vũ - tất
cả mất đi. Và khi bạn đang đứng trong trạng thái hư không hoàn toàn, từ phía
bên kia mọi thứ lại thu được.
Nhưng những lời đó không áp dụng
thêm nữa, và bạn không thể nói, "Tôi đã đạt tới nó." Nó là việc nhận
ra đơn giản rằng nó bao giờ cũng cùng với bạn; do đó có tiếng sư tử rống.
Phật là người thông suốt, trong
bốn mươi chín năm thuyết pháp hơn ba trăm sáu mươi hội, tùy căn tính chúng sinh
mà dẫn dắt họ,
Phát biểu của Đại Huệ là đúng.
Phật không tin vào tâm trí tập thể, ông ấy tin vào tâm thức cá nhân. Có lẽ ông ấy
là người đầu tiên tuyên bố rằng chính sự tồn tại của Thượng đế tước đi tính cá
nhân của con người. Lí do của ông ấy về việc phủ nhận Thượng đế không phải là
thượng đế học - ông ấy không phải là người vô thần. Việc phủ nhận Thượng đế của
ông ấy là để tuyên bố rằng tâm thức cá nhân là sự trưởng thành cao nhất trong sự
tồn tại: không ai ở trên nó.
Mọi tôn giáo nghĩ rằng Thượng đế
đã tạo ra thế giới - ngài đã tạo ra đàn ông, ngài đã tạo ra đàn bà và mọi thứ
có trong thế giới. Với Phật điều đó là ý tưởng rất sỉ nhục, làm mất mặt. Nếu
Thượng đế có thể tạo ra, ngài có thể huỷ tạo ra vào bất kì khoảnh khắc nào; bạn
chỉ là con rối trong tay của người điều khiển con rối. Thế thì mọi việc nói về
tính cá nhân và tự do và chứng ngộ chỉ là vô tích sự. Thượng đế phải bị loại bỏ
như một giả thuyết vì ngài là cản trở lớn nhất cho tính cá nhân của bạn.
Nietzsche đã nhận ra điều đó,
sau hai mươi nhăm thế kỉ, trong một hoàn cảnh khác, nhưng việc nhận ra là như
nhau. Ông ấy nói, "Thượng đế chết và bây giờ con người là tự do!" Nếu
Thượng đế vẫn còn sống con người không thể tự do được - làm sao bạn có thể tự
do được?
Chính ý tưởng của mọi tôn giáo
rằng thượng đế đã tạo ra đàn ông từ bùn... đó là nghĩa của từ 'humus', từ đó dẫn
tới từ 'human-con người'. Đó cũng là nghĩa của Adam - Adam nghĩa là bùn. Thượng
đế đã làm ra Adam từ bùn và thế rồi thổi sự sống vào anh ta. Nó gần giống như tạo
ra đồ chơi. Tự do gì, tính cá nhân gì, giải thoát gì tồn tại cho con rối?
Phật đã vứt bỏ giả thuyết về
Thượng đế từ hai mươi nhăm thế kỉ trước khi nó là ý tưởng nổi dậy, lớn.
Nietzsche đã chỉ là nhà tư tưởng, ông ấy có thể không ảnh hưởng tới nhiều người.
Nhưng Phật đã vứt bỏ Thượng đế để ủng hộ cho tâm thức con người, để cho nó có
thể trưởng thành không bị cản trở, để cho tính riêng tư của con người là linh
thiêng và không ai có thể đi vào trong nó. Các tôn giáo nói Thượng đế đang quan
sát bạn mọi khoảnh khắc. Trong cái nhìn của Thượng đế bạn không có tính riêng
tư nào.
Tôi đã nghe về một ni thường tắm
trong phòng tắm với cửa đóng kín, nhưng bao giờ cũng vẫn mặc quần áo. Các ni
khác trở nên hơi chút nghi ngờ, "Cô ấy điên hay cái gì?" Thế là họ hỏi
cô ấy, "Có chuyện gì vậy? Cửa đóng kín rồi, cô có thể cởi quần áo ra chứ."
Cô ấy nói, "Nhưng, Thượng
đế là đấng toàn năng. Ngài nhìn mọi khoảnh khắc vào mọi chỗ. Các ni có gợi ý
cho tôi cởi truồng trước Thượng đế không?" Nhưng người đàn bà đáng thương
này không hiểu rằng nếu mắt của Thượng đế có thể xuyên thấu tường thì chúng có
thể xuyên thấu quần áo chứ, chúng có thể xuyên thấu xương của bạn.
Chính ý tưởng về Thượng đế là
vô nhân tính, và Phật là người đầu tiên nhận ra sự kiện là chừng nào Thượng đế
còn tồn tại, con người sẽ vẫn còn là nô lệ. Thượng đế phải bị bỏ đi hoàn toàn
như một giả thuyết vô dụng. Thế thì con người là tuyệt đối tự do, cá nhân, có
thế giới tâm thức riêng tư riêng của mình và việc nhận ra. Bất kì thầy nào xứng
đáng gọi là thầy bao giờ cũng nhận từng cá nhân và dạy người đó tương ứng với
tiềm năng của người đó, tương ứng với giai đoạn người đó đang vậy. Điều này đôi
khi tạo ra sự không nhất quán, mâu thuẫn, nhưng chúng không thể tránh được, vì
không thể nào nói cho từng cá nhân.
Chẳng hạn tôi phải nói với tất
cả các bạn. Và tôi không chỉ nói cho bạn; điều tôi đang nói cho bạn sẽ đi vòng
quanh thế giới tới mọi người của tôi. Khi tôi nói cho bạn tôi cũng đang nói cho
họ. Khi có liên quan tới tôi họ hiện diện với tôi nhiều như tất cả các bạn.
Nhưng điều đó tạo ra vấn đề: tôi đang nói cái gì đó mà có thể áp dụng được cho
cá nhân nào đó và có thể không áp dụng được cho ai đó khác. Trong các kiếp sống
quá khứ của họ, họ đã trưởng thành qua các tính cá nhân khác nhau, và họ đã đi
tới các điểm khác nhau.
Mới đêm hôm qua chúng ta đã thấy
cách Di Lặc không nói gì với Thiện Tài nhưng chỉ búng ngón tay, điều tuyệt đối
ngớ ngẩn, không liên quan tới bất kì cái gì... nhưng ông ấy đã búng ngón tay và
cái gì đó đã xảy ra qua cử chỉ nhỏ bé đó: Thiện Tài đã trở nên chứng ngộ. Anh
ta đã sẵn sàng, đang đứng ngay đường biên, và cử chỉ đơn giản này đã đẩy anh
ta.
Nhưng có những cái sọ đần độn!
Bạn liên tục nện búa vào họ, và họ nghĩ một loại thông điệp nào đó đang... Bạn
liên tục bảo họ chân lí sâu lắng nhất, và họ nghĩ nó là việc giải trí lớn. Chứng
ngộ với họ chẳng là gì ngoài sự tò mò. Họ không muốn trở nên chứng ngộ, nhưng họ
muốn hiểu - có lẽ đôi khi điều đó có thể là chiều hướng tốt để thăm dò.
Một thầy lớn từ Sri Lanka sắp
chết. Ông ấy gọi mọi đệ tử lại, và lời cuối cùng của ông ấy là, "Các ông
đã từng nghe gần nửa thế kỉ, nhưng các ông liên tục nghe, tích luỹ tri thức, và
không cái gì dường như thay đổi trong bản thể các ông. Cho nên là cố gắng cuối
cùng ta đã quyết định rằng những người muốn trở nên chứng ngộ ta sẽ đem đi cùng
ta. Ta sắp chết; họ sẽ phải chết đi cùng ta. Vậy nếu ai thực sự quan tâm, đứng
dậy!"
Cả nghìn sư... và họ bắt đầu
nhìn nhau - "Ông thuộc hàng cao cấp, ông phải đứng lên. Ông, người biết nổi
tiếng, phải đứng lên. Ông là uyên thâm thế trong kinh sách, ông cho những bài
giảng hay thế, bây giờ là lúc rồi - đứng dậy đi!" Nhưng không ai đứng dậy.
Ông già nói, "Ta không có
nhiều thời gian đâu." Thế rồi một người giơ tay lên, nhưng anh ta không đứng
dậy. Ông già nói, "Chỉ giơ tay lên không có tác dụng. Đứng dậy đi."
Người này nói, "Xin thứ lỗi
cho tôi, nhưng tôi có nhiều thứ khác phải làm trước hết. Tôi giơ tay để hỏi, vì
thầy sẽ ra đi và tôi không biết bất kì người nào khác có thể chỉ cho tôi con đường.
Nói tóm lại, xin nói cho tôi! Nếu một ngày nào đó công việc của tôi kết thúc,
các chuyện kinh doanh phức tạp được giải quyết, tôi có thể đi theo nhưng ngay
bây giờ... xin thứ lỗi cho tôi. Đừng hiểu lầm tay tôi - đó là lí do tại sao tôi
không đứng, chỉ tay giơ lên. Tôi không muốn trở nên chứng ngộ ngay bây giờ,
nhưng tôi muốn biết con đường đúng."
Ông già nói, "Trong nửa thế
kỉ ta đã từng nói về con đường đúng, và ông đã không hiểu nó. Làm sao ông có thể
hiểu trong vài phút được? - vì thời gian của ta đã đến. Nhưng điều này đã cho
ta sáng suốt lớn rằng tò mò của ông, truy hỏi của ông, không phải về chứng ngộ.
Nó đã là một loại giải trí tâm linh."
Cho nên có những người khác
nhau... Có những người đã sẵn sàng; họ cần sự giúp đỡ nhỏ, chỉ cái bóng của
roi. Và có những người không động đậy từ trạng thái công việc của họ, cho dù mọi
chư phật của quá khứ và hiện tại và tương lai đã cố gắng làm cho họ chứng ngộ.
Không ai có thể làm cho bạn được chứng ngộ trừ phi nó đã trở thành niềm khao
khát bên trong nhất riêng của bạn.
Các cá nhân khác nhau, do đó Phật
Gautam bao giờ cũng cho những chỉ dẫn với cá nhân. Ông ấy đang nói trong các hội
chúng lớn hàng nghìn sư nhưng ông ấy đã trả lời các cá nhân đặc thù cùng câu hỏi
của người đó. Hay ông ấy nói cái gì đó cho người mà thậm chí không nhận biết rằng
nó được nói cho người đó. Nhưng người sẵn sàng sẽ bắt lấy nó ngay lập tức, dù
người đó hiểu rằng nó đặc biệt dành cho mình... Nó sẽ bắt đầu làm việc trong bản
thể người đó.
Vì các khác biệt trong các cá
nhân, giáo huấn không thể là hệ thống triết lí. Nó không thể là phi mâu thuẫn
logic. Nó phải đa chiều. Và Đại Huệ là đúng khi ông ấy nói... tùy căn tính
chúng sinh mà dẫn dắt họ. Ông ấy đang nói về Phật Gautam. Dường như ông ấy đã
đi tới chút ít thông minh. Ông ấy không còn gọi Phật là mặt vàng, lão mọi...
Nên ở trong mười pháp giới giảng
thuyết một âm, chúng sinh tùy loại mỗi mỗi đều được lợi ích. Ví như gió đông thổi
qua... Trích dẫn này là từ Phật Gautam nhưng hay thế và nên thơ thế... "Ví
như gió đông thổi qua một cái thì muôn ngàn bông hoa cùng rộ nở."
Cũng như khi tôi vào và tôi thấy
các bạn cúi chào tôi nhớ lại phát biểu của Phật Gautam: " Ví như gió đông
thổi qua một cái thì muôn ngàn bông hoa cùng rộ nở."
Con người của chứng ngộ không
là gì ngoài cơn gió đông. Chỉ sự hiện diện của ông ấy là đủ cho những người có
khả năng thông minh nào đó, người không định kiến, người mở và sẵn có như bầu
trời mở, và người là hồn nhiên như cây cối, như cỏ... không thể cưỡng lại được
việc không cúi mình xuống. Bạn không phải là tượng đá. Nhưng có những kẻ ngốc
trên thế giới...
Mới vài ngày trước đây đã có bẩy
mươi người từ nhóm báo chí Thời báo Ấn Độ. Đây là tổ chức báo chí lớn nhất, mạng
lớn nhất ở Ấn Độ - và cổ nhất. Những người sở hữu tất cả đều ở đây ngoại trừ một
người, bản thân người chủ, người đã trong tình yêu với tôi một thời gian dài, kể
từ khi anh ấy còn là đứa trẻ nhỏ và tôi thường ở nhà họ ở Calcutta.
Anh ấy muốn trở thành sannyasin
- anh ấy đã ở đây trong đạo tràng trước vài ngày để thiền, nhưng bố anh ấy rất
chống tôi. Hai lí do bố anh ấy chống lại tôi. Thứ nhất, cậu bé đó là đứa con
duy nhất của ông ấy, và họ là một trong những gia đình siêu giầu hàng đầu nhất ở
Ấn Độ. Ông ấy sợ rằng con trai mình trở thành sannyasin, thế thì ai sẽ tiếp quản
đế quốc lớn lao của ông ấy? Và nỗi sợ rằng anh ta có thể bắt đầu giúp cho phong
trào bằng tiền của ông ấy... Và thứ hai ông ấy giận tôi, mặc dầu chúng tôi thậm
chí đã không cãi nhau hay làm hại lẫn nhau. Ông ấy sợ tôi tới mức khi tôi thường
ở lại nhà họ - vì vợ ông ấy bao giờ cũng quan tâm tới tôi - ông ấy sẽ đi ra khỏi
thị trấn ngay lập tức. Chừng nào tôi chưa rời khỏi nhà họ, ông ấy sẽ không về
nhà lại. Chỉ việc giáp mặt bình thường và có thể có rắc rối nào đó...
Lí do thứ hai cho đối kháng của
ông ấy với tôi là ở chỗ vợ ông ấy đã hỏi tôi, "Khi người vợ dừng yêu chồng,
ngủ với chồng có đúng không?"
Tôi nói, "Điều đó là mãi
dâm! Người ta phải rất chân thành về điều đó. Nếu bạn không yêu anh ấy, bạn phải
nói điều đó. Đừng cố giả vờ - ít nhất trong các vấn đề như yêu."
Thế rồi cô ấy hỏi tôi, "Nếu
người vợ yêu ai đó khác...?"
Tôi nói, "Yêu là luật cao
nhất, và bạn phải không bị chi phối bởi bất kì luật đạo đức thấp hơn, của xã hội.
Khi bạn đi theo luật cao nhất, không cái gì đi sai."
Cô ấy đã hỏi những câu hỏi này
không chỉ từ tò mò hay vì ai đó khác; cô ấy đã hỏi vì bản thân cô ấy. Người chồng
giận rằng tôi đã hỗ trợ cho vợ ông ấy, và ông ấy lo nghĩ - người vợ đã có ấn tượng
với tôi, đứa con có ấn tượng và con gái có ấn tượng.
Cho nên ông ấy ngăn cản đứa
con, làm cho rõ ràng rằng, "Nếu con trở thành sannyasin ta sẽ từ con. Với
tiền của ta con không thể giúp cho phong trào mà ta không thích, người đã quấy
rối truyền thống cũ của chúng ta, tôn giáo của chúng, đạo đức của chúng ta và
người đã làm biến chất tâm trí của thanh niên." Bây giờ đứa con đã trở
thành giám đốc của nhóm báo chí Thời báo Ấn Độ, và cô con gái cũng vậy, phó
giám đốc.
Cho nên họ đã ở đây, người mẹ
đã ở đây, và bẩy mươi người từ các nhân viên. Họ nhấn mạnh rằng họ muốn các câu
hỏi của họ được trả lời. Tôi đã đồng ý, vì mối quan hệ lâu dài với gia đình họ.
Nhưng khi tôi bước vào tôi ngạc nhiên, bẩy mươi người đó đang ngồi như tượng
đá. Họ thậm chí không thể trả lời được lời chào mừng của tôi, với tay khoanh lại.
Tôi đã khởi đầu việc đón chào nhưng họ không thể giơ tay lên. Điều đó thật buồn
cười là vì bẩy mươi người đó... Người vợ, người bây giờ thực sự là người chủ của
toàn thể công việc vì người chồng tuyệt đối yếu và không thể làm được bất kì
cái gì mà người vợ không muốn làm, cô ấy bây giờ là nữ hoàng của toàn thể đế chế
mà họ đã tạo ra... ngay cả cô ấy cũng ngồi như tượng đá, lo nghĩ về bẩy mươi
người kia - điều gì xảy ra nếu họ thấy cô ấy? Và đón chào là thực hành thông
thường; ngay cả trên phố nếu bạn gặp người lạ, chỉ để chào người đó... Người
duy nhất đón chào tôi là Sameer, anh thanh niên muốn trở thành sannyasin.
Cô con gái Nandita đón chào tôi
trong tình huống rất kì lạ: một bên là Sameer, đón chào tôi chỉ như bất kì sannyasin
nào, ở giữa là mẹ cô ấy, người ngồi như xác chết, và sau họ là bẩy mươi xác. Cô
gái muốn đón chào tôi, nhưng cô ấy không thể đi toàn thể con đường. Cô ấy thoả
hiệp; cô ấy chỉ giơ tay lên chừng này. Cô ấy không thể đem chúng cùng nhau - sự
thoả hiệp. Nhưng khi tất cả ba người này gặp tôi ngày hôm sau, tất cả họ đều chạm
chân tôi. Mọi người có những bộ mặt công khai thế và những bộ mặt riêng tư thế!
Nhưng tôi thực sự cảm thấy buồn
cho bẩy mươi người đó. Họ đã tới chỉ để nghe tôi, nghe câu trả lời - cho các
câu hỏi... và tôi đã dành toàn thể buổi gặp gỡ cho các câu hỏi của họ. Nếu họ
thậm chí không đón chào tôi, bạn có nghĩ họ có thể hiểu tôi không?
Gió đông thổi tới - chỉ cây chết
còn tĩnh tại. Mọi cây sống sẽ bắt đầu cúi mình.
Đây là những nhà báo lỗi lạc nhất
của đất nước, nhưng với tâm trí định kiến thế! Tôi đã trả lời các câu hỏi của họ,
nhưng họ không có dũng cảm để công bố cuộc phỏng vấn riêng của họ trên báo chí
riêng của họ! Họ sợ chính phủ, họ sợ công chúng, và có lẽ họ sợ bản thân họ -
"Mọi người sẽ nói gì?... vì bạn đã nghe mọi việc nện búa này lên các nhà
báo và bạn không thể nói ra lời...
"Nhìn họ... chung cuộc tôi
quyết định không nhìn họ nữa, vì nhìn họ là cảnh tượng đáng thương thế. Tôi đơn
giản quên tất cả về họ. Tôi nhìn vào người của tôi những người không định kiến,
mở, sẵn có - và nếu gió đông tới với họ, họ sẽ hân hoan trong cái mát mẻ của
nó.
Ở Ấn Độ gió đông là biểu tượng
đặc biệt, nó có nghĩa cho nó... Từ phương đông gió mát tới, rất dịu dàng cho
trái tim. Rất tươi mát cho toàn thể bản thể bạn. Nhưng nó không thể làm được bất
kì cái gì cho cái xác, mà nó cũng không cho cái xác sự mát lành hay tươi tắn.
Ngược lại, cái xác sẽ cho gió mát mùi hôi ghê tởm của nó.
Phật nói, "Ví như gió đông
thổi qua một cái thì muôn ngàn bông hoa cùng rộ nở, Phật thuyết pháp cũng như
thế.
Nếu có ý nơi mười pháp giới để
làm lợi ích cho là có ta thuyết pháp, cho là có chúng sinh được độ, vậy thành
có ngã chấp rồi.
Phật thuyết giảng mà không có ý
định nào. Ông ấy thuyết giảng theo cách hoa toả ra hương thơm của chúng - không
có bất kì ý định nào. Ngay cả trong rừng đơn độc nhất nơi không ai đã bao giờ tới,
khi hoa mở cánh nó toả ra hương thơm. Không có vấn đề chờ đợi ai đó tới đánh
giá. Nó không có chủ định. Nó là tự phát.
Đại Huệ, ít nhất tại điểm này,
là đúng - và ông ấy đúng có lẽ vì bản thân ông ấy đang thuyết giảng với ý định
thay đổi mọi người, nếu có ý nơi mười pháp giới để làm lợi ích. Và ông ấy trở
nên nhận biết chút ít về sự kiện là bản thân ông ấy không biết nó; ông ấy đã
nghe về nó, và ông ấy đủ lanh lợi để xoay xở về mặt trí tuệ để cho nó hình dạng
- được hệ thống hoá và logic và hợp lí. Nhưng người ta không thể tự lừa bản
thân mình lâu được. Sớm hay muộn người ta đi tới biết: Điều mình đang nói không
phải là kinh nghiệm của mình, vì hành động của mình không chỉ ra rằng chúng
đang tới từ bản thể chứng ngộ.
giảng thuyết một âm, chúng sinh
tùy loại mỗi mỗi đều được lợi ích.
Như Xá Lợi Phất trên hội Bát
Nhã hỏi Văn Thù...
Hai người này là những đệ tử rất
thân cận của Phật Gautam, có lẽ là những người có học thức nhất. Nhưng họ bỏ mọi
học thức của họ. Đối thoại giữa họ phải được hiểu rất chi tiết và rất đáng yêu,
vì đây là cách những người chứng ngộ Phật giáo đã từng nói chuyện với nhau
trong nhiều thế kỉ. Đây là cái gì đó đặc biệt với Phật giáo, điều như thế không
xảy ra cho bất kì tôn giáo nào khác. Cả hai đều là những người đã chứng ngộ.
Xá Lợi Phất đã hỏi, Chư Phật có
giác ngộ pháp giới chăng? Ông ấy biết câu trả lời nhưng ông ấy đơn giản hỏi Văn
Thù, người vừa mới trở nên chứng ngộ.
Văn Thù nói: Không. Xá Lợi Phất!
Chư Phật còn bất khả đắc thì làm sao có Phật mà giác ngộ pháp giới!
Câu hỏi này chỉ để kiểm tra Văn
Thù đã đạt tới sâu thế nào trong chứng ngộ của ông ấy. Và Văn Thù biểu lộ sáng
suốt vô cùng. Ông ấy nói, "Khi ông trở nên chứng ngộ ông không còn nữa.
Ông không tìm thấy phật. Ông không còn là người, ông chỉ là sự hiện diện. Và
khi không có phật, làm sao có thể có bất kì chân lí nào để được tìm thấy? Ai sẽ
tìm thấy nó? Người tìm kiếm, người tìm, người tìm thấy không còn nữa - ai sẽ
tìm chân lí?
"Pháp giới cũng bất khả đắc
thì làm sao có pháp giới cho chư Phật giác ngộ!" Cái mà không thể được tìm
thấy chắc chắn không thể được nhận ra.
Đại Huệ không hiểu ý định của đối
thoại nhỏ này. Ông ấy nghĩ, Xem qua sự vấn đáp khích bác của hai ngài. Họ đã đạt
tới bên ngoài cách thức; không có vấn đề về khích bác lẫn nhau! Xá Lợi Phất đơn
giản cố tìm ra xem chứng ngộ của Văn Thù sâu thế nào - và ông ấy được thoả mãn
hoàn toàn.
Chứng ngộ nghĩa là: bạn trở
thành chỉ sự hiện diện, và chính sự hiện diện đó là chân lí. Không có hai đối
thể - người tìm thấy và cái được thấy. Người tìm kiếm đã tan biến, và cái còn lại
chỉ là nhận biết thuần khiết không căn cước, không nhân cách, không bản ngã. Chính
sự hiện diện này là chân lí. Không có chân lí khác hơn nhận biết của bạn.
Nhưng Đại Huệ không nói rằng Xá
Lợi Phất được thoả mãn mênh mông rằng Văn Thù đã đạt tới chỗ này. Câu hỏi của
Xá Lợi Phất không phải là từ tò mò; câu hỏi của ông ấy là để thăm dò chiều sâu.
Văn Thù đã đi qua biến đổi, và đây là thực hành thông thường trong các đệ tử của
Phật: khi ai đó trở nên chứng ngộ, tất cả những người chứng ngộ khác sẽ hỏi người
đó những câu hỏi kì lạ - không phải là họ không biết câu trả lời, họ muốn nghe
câu trả lời từ người này, người vừa mới đi vào trong cội nguồn vĩnh hằng của cuộc
sống.
Nhưng Đại Huệ đã bỏ cuộc đối
thoại không đầy đủ. Xá Lợi Phất đã quá đỗi hân hoan, và ông ấy đã nói với Văn
Thù, "Vậy là ông đã đạt tới! Bây giờ không còn gì thêm nữa, không chỗ nào
khác mà đi. Ông đã tìm thấy thực tại đích thực của ông." Vì Đại Huệ không
nói điều đó, cảm giác của tôi là ông ấy đã không hiểu chủ định của đối thoại
này.
Xem qua sự vấn đáp khích bác của
hai ngài thì đâu từng trụ vào chỗ nào?
Ông ấy chưa thể nào quan niệm
được không gian của vô trí. Ông ấy vẫn còn trong tâm trí. Thỉnh thoảng ông ấy
đi tới chính biên giới của tâm trí, nhưng thế rồi ông ấy đi lui lại; ông ấy
không bước ra khỏi nó. Chẳng hạn, đối thoại này có thể đã giúp cho ông ấy bước
ra khỏi tâm trí.
Không có phật trong chứng ngộ;
không có việc nhận ra chân lí trong chứng ngộ, nhưng chỉ là sự hiện diện thuần
khiết, sự sống thuần khiết, tâm thức thuần khiết nhưng đó là cái chúng ta gọi
là phật, đó là cái chúng ta gọi là chân lí.
Nhưng cách tiếp cận của Đại Huệ
là qua trí tuệ và tâm trí, cho nên ông ấy kết thúc bằng bình luận: Xem qua sự vấn
đáp khích bác của hai ngài thì đâu từng trụ vào chỗ nào. Từ xưa chư Phật chư Tổ
thuyết pháp đều có thể cách như thế để giúp đỡ, chỉ vì con cháu sau này thất lạc
tông chỉ, mỗi mỗi tự lập môn phái, tác yêu tác quái mà thôi.
Họ không giúp đỡ. Đối thoại này
không phải vấn đề giúp đỡ, vì cả hai đều đã chứng ngộ. Có hàng triệu đối thoại...
hay thế. Đôi khi tôi đã từng nghĩ chỉ nói về những đối thoại đó mà đã xảy ra giữa
những người chứng ngộ.
Chẳng hạn, Lâm tế đang đứng
trên cầu cùng thầy ông ấy. Ông ấy nói, "Thưa thầy, có đúng là" - vì
Phật nói mọi thứ là một luồng - "chúng ta đang đứng trên cầu, cái là một
luồng không? - điều đó là nguy hiểm. Sông đang chuyển động, điều đó là đúng,
nhưng cầu không chuyển động."
Thầy đánh Lâm Tế và bảo ông ấy,
"Ông ngốc! Sông không chuyển động, cầu đang chuyển động. Thiền về điều đó
đi!" Và Lâm tế phải thiền về điều đó và đã nhận ra... trong im lặng nào đó
cầu cũng đang chuyển động, nhưng rất chậm. Nói rằng sông đang chuyển là vô
nghĩa vì chính nghĩa của từ 'sông' là chuyển động; nói "chuyển động là
chuyển động" là ngớ ngẩn. Nhưng cầu có vẻ ổn định và lâu bền đang chuyển động,
nó đang già đi. Một ngày nào đó nó sẽ sụp đổ. Nó không phải là kẻ chạy nhanh -
chuyển động rất chậm, chậm tới mức bạn không thể phát hiện ra điều đó.
Ông ấy quay lại thầy và nói,
"Tôi xin lỗi. Sông không chuyển động, cầu đang chuyển động. Sông nghĩa là
chuyển động, cho nên phỏng có ích gì mà nói rằng nó đang chuyển động. Câu hỏi
thực là cầu."
Và thầy nói, "Ông đã xoay
xở thấy được rồi. Trong cảnh quan đúng, ngay cả núi đang chuyển động, ngay cả
sao đang chuyển động, vì mọi thứ là trong một luồng. Sông chuyển động nhanh tới
mức ông có thể thấy điều đó, nhưng cái mà ông có thể thấy không phải là việc nhận
ra lớn lao... chừng nào ông còn chưa bắt đầu thấy cái đang xảy ra mà ông không
nhận biết tới.”
chỉ vì con cháu sau này thất lạc
tông chỉ, mỗi mỗi tự lập môn phái ...
Bản thân ông ấy thuộc vào tông
phái cá nhân, và ông ấy đang nói, chỉ vì con cháu sau này thất lạc tông chỉ...
Ông ấy biết điều đó từ chính cảm
giác bên trong của ông ấy: ông ấy cũng đã đánh mất điều bản chất, và ông ấy
cũng đã trở thành một phần của tông phái... mỗi mỗi tự lập môn phái, tác yêu tác
quái mà thôi. Nhưng dường như ông ấy đang trở nên tỉnh táo chút ít về tình huống
này; có mọi khả năng, vì dù một người có thể ngủ thế nào, người đó sẽ thức sớm
hay muộn.
Tôi thích thấy Đại Huệ... trước
khi ông ấy kết thúc lời kinh của mình, tôi thích có khả năng nói với bạn rằng
ông ấy đã về tới nhà. Ông ấy đã lang thang nhiều; ông ấy đã đi lạc lối nhiều lần;
ông ấy đã phạm những sai lầm lớn, nhưng mọi điều đó có thể được tha thứ nếu ông
ấy trở về nhà. Nếu ông ấy nhận ra ngay cả trong lời kinh cuối điều bản chất của
chứng ngộ, thế thì mọi thứ khác có thể được tha thứ.
Con người rất mong manh, rất dễ
tổn thương. Đại Huệ không phải là ngoại lệ. Khi ông ấy gọi Phật Gautam là
"lão mọi" ông ấy đang ở điểm xa nhất với việc nhận ra - ông ấy bị lạc
trong rừng rậm. Gọi Phật là mọi nghĩa là không có hi vọng nào cho con người bao
giờ. Phật là hi vọng lớn theo nghĩa rằng ông ấy đã chỉ ra điều được giấu kín
trong bản thể con người, và ông ấy đã mang nó ra rõ ràng hơn bất kì người nào
khác trên thế giới.
Bertrand Russell nhớ lại... Ông
ấy đã sống cuộc sống dài, gần một thế kỉ và đã thấy nhiều điều xảy ra - cuộc sống
dài những thay đổi vô cùng, cách mạng, chiến tranh. Ông ấy đã được nuôi dưỡng lớn
lên với ước định Ki tô giáo rất cuồng tín, nhưng ông ấy là con người của thông
minh và dũng cảm vô cùng. Ông ấy bỏ mọi ước định đó vì ông ấy nhìn vào Kinh
Thánh với tâm trí mở - không như người Ki tô giáo - và ông ấy thấy nhiều phát
biểu ngu xuẩn tới mức ông ấy phải viết ra cuốn sách: Tại sao tôi không là người
Ki tô giáo.
Nhưng ông ấy nhận xét trong cuốn
tự tiểu sử của mình: "Mặc dầu tôi đã bỏ gần hết mọi ước định của mình, đó
là nhiệm vụ không thể được - cho dù việc ước định đã bị bỏ đi, dấu vết nào đó ở
đâu đó vẫn còn lại. Tôi trở nên nhận biết về những dấu vết đó vì khi tôi đọc Phật
Gautam tôi được thoả mãn mênh mông rằng đây là người, người vĩ đại nhất đã bước
đi trên thế gian. Nhưng thế rồi đột nhiên cái gì đó trong tôi cảm thấy không
thoải mái - làm sao người nào đó có thể là người vĩ đại hơn Jesus Christ. Và
tôi ngạc nhiên; tôi đã từng nghĩ rằng tôi không còn là người Ki tô giáo!"
Ông ấy đã phê bình Jesus trên
nhiều điểm, và với logic sáng tỏ tới mức không nhà thượng đế học nào của Ki tô
giáo đã có khả năng trả lời ông ấy - và tôi ngờ ngay cả Jesus có thể không có
khả năng trả lời ông ấy! Câu hỏi của ông ấy là rất rõ ràng.
Chẳng hạn ông ấy nói,
"Jesus liên tục nói về từ bi, yêu: 'Yêu kẻ thù của ông, yêu hàng xóm của
ông" - điều thậm chí là điều khó hơn vì kẻ thù sống ở xa xôi. Bạn không phải
bận tâm về họ mọi lúc, nhưng hàng xóm là kẻ thù rất gần gũi liên tục làm phiền
toái bạn theo cách này cách khác. Người Ki tô giáo gọi Jesus là hoàng tử an
bình, nhưng Bertrand Russell thấy trong Kinh Thánh những sự vụ chứng tỏ rằng
Jesus không phải là con người của an bình. Và ông ấy bị mắc vào những sự vụ ngu
xuẩn tới mức không có cách nào xoá sạch nó hay giải thích nó khác đi.
Một hôm họ đã đói - ông ấy và
những người đi theo ông ấy - vì mọi người trong thị trấn đã từ chối cho họ thức
ăn. Jesus đã giận tới mức khi ông ấy tới gần một cây vả... lúc đó không phải
mùa vụ cho vả và cây không có quả nào, nhưng ông ấy giận mù quáng tới mức ông ấy
đã nguyền rủa cây này, "Mày bao giờ cũng vẫn còn là cây xấu xí vì đứa con
duy nhất của Thượng đế đã tới mày, và mày không sẵn sàng với quả - không có đón
chào!"
Bertrand Russell nói, "Về
mặt trí tuệ tôi hiểu hoàn hảo rằng Phật Gautam có lẽ là cách diễn đạt cao nhất;
Jesus không so sánh được với ông ấy. Nhưng đâu đó sâu bên dưới tôi không thể
xoay xở được... nhiều nhất tôi có thể làm là nói rằng cả hai là tương đương.
Tôi không thể đặt Jesus Christ thấp hơn Phật Gautam vẫn biết hoàn toàn rõ rằng
Phật Gautam là cao hơn nhiều. Nhưng đó chỉ là hiểu biết trí tuệ. Ước định này
đi vào trong vô thức, và vô thức trở thành bất ổn chừng nào bạn chưa thoả mãn nó.
Khi ông ấy chấp nhận rằng có lẽ
họ cả hai đều có tình trạng ngang nhau, bất ổn này biến mất.
Và điều này là từ một người rất
thông minh, một thiên tài - không chỉ về thế giới mà về bản thân ông ấy nữa.
Ông ấy đang quan sát cách tâm trí ông ấy vận hành. Trí tuệ của ông ấy nói rằng
điều đó là tuyệt đối chắc chắn, nhưng vô thức của ông ấy cảm thấy bối rối. Vô
thức chín lần lớn hơn ý thức của bạn, và cảm thấy vô thức bị rối là một loại ốm,
buồn nôn. Để làm lắng đọng nó ông ấy đồng ý rằng cả Phật và Jesus là tương
đương, và ngay lập tức bất ổn biến mất.
Đại Huệ là người trí thức. Coi
Phật là mọi, sớm hay muộn ông ấy phải đã nhận ra rằng điều đó đã đi quá xa - và
nó quá xược.
Tôi hi vọng rằng ông ấy sẽ quay
lại. Cho dù ông ấy có thể quay lại vào khoảnh khắc cuối của cái chết của ông ấy,
mọi thứ khác có thể được tha thứ. Tha thứ là tính người... Lời cổ nhân là,
"Phạm sai lầm là tính người và tha thứ là thiêng liêng." Tôi muốn
thay đổi một chút trong nó: "Phạm sai lầm là tính người, tha thứ là tính
người nhiều hơn." Tại sao mang điều thiêng liêng vào một cách không cần
thiết? Tâm trí khoa học bao giờ cũng cố có ít giả thuyết nhất có thể được.
Maneesha đã hỏi đêm qua, khi thấy
rằng Đại Huệ đã không chứng tỏ là kho báu lớn về chứng ngộ, "Chúng ta có
thể kết thúc các bài nói về Đại Huệ đêm nay..."
Tôi nói, "Không, vì điều
đó sẽ là không công bằng. Tôi đã nện búa vào ông ấy. Nếu ông ấy có thể quay về
nhà tôi muốn ca ngợi ông ấy nữa; cho nên tôi sẽ đi qua mọi lời kinh.
Tôi không biết cái gì sẽ xảy ra
trong chúng. Nhưng một con người, cho dù ông ấy có thể là người trí thức... nếu
ông ấy tiếp tục, sớm hay muộn ông ấy sẽ nhận ra rằng ông ấy đang đi lòng vòng
trong vòng tròn. Có nhiều thứ hơn vòng tròn liên tục này, nhưng nhiều thứ hơn
đó có thể được thấy chỉ nếu bạn đứng ra ngoài vòng tròn như nhân chứng. Và tôi
nghĩ ông ấy có khả năng - vì mọi người đều có khả năng. Vấn đề chỉ là khi nào bạn
quay vào bên trong, chỉ là vấn đề khi nào bạn bỏ việc giả vờ và đạo đức giả.
Cho nên tôi sẽ đợi trong hai tuần
- cô ấy nói sẽ có lời kinh cho hai tuần nữa. Nếu ông ấy đi lạc lối, ông ấy sẽ bị
đánh. Nhưng cảm giác của tôi là, người quan tâm có thể nhận ra tại điểm nào đó
rằng điều mình đang làm chỉ là thể dục trí tuệ - và điều đó có thể chứng tỏ là
điểm rẽ trong đời người đó. Nếu điều đó xảy ra, thế thì toàn thể loạt bài về Đại
Huệ sẽ có ý nghĩa mênh mông, vì nó sẽ là câu chuyện của bất kì người nào - lang
thang, đi lạc lối, quay trở lại với con đường và thế rồi ngã đi ngã lại, nhưng
đến cuối, chung cuộc người đó trở thành ánh sáng lên bản thân người đó.
Tôi cũng sẽ cảm thấy thoải mái,
vì tôi không thích đánh bất kì ai. Nếu tôi có thể thấy người đó quay lại với
sáng suốt về chứng ngộ như kinh nghiệm riêng của người đó, tôi cũng sẽ cảm thấy
thoải mái: 'Người này đáng đánh. Bạn không đánh chỉ kẻ ngốc bình thường - người
đó là phi thường!"
Tôi không biết cái gì sẽ xảy ra
trong hai tuần này. Tất cả đều phụ thuộc vào Đại Huệ - bao nhiêu lần ông ấy đi
lạc lối, và liệu ông ấy có tiềm năng để nhận ra, hay ông ấy chết đi mà không nhận
ra.
Đó sẽ là chuyện buồn nếu ông ấy
chết đi mà không chứng ngộ. Tôi muốn nó là lễ hội... và hi vọng của tôi là ở chỗ
con người có năng lực.
Bất kì khoảnh khắc nào điểm rẽ
có thể tới, và bất kì khoảnh khắc nào ngọn lửa bên trong của ông ấy có thể cháy
sáng. Cho nên bạn sẽ phải dung thứ Đại Huệ trong ít nhất là hai tuần nữa.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
0 Đánh giá