Read more
Osho kính yêu,
Sáng tỏ sâu sắc
Kẻ quê mùa này lấy hai chữ Trạm Nhiên đặt
làm danh hiệu cho ông, như nước trạm nhiên (lắng trong). Tổ Sư nói: "Hễ có
tâm phân biệt so đo cái tự tâm hiện lượng thì thảy đều là mộng." Nếu tâm
thức tịch diệt, chẳng có chút động niệm, gọi là chính giác."
Ngày nay có một bọn tà sư "đặt điều",
sự ngộ của họ chẳng thật cứ dạy người nhiếp tâm tĩnh tọa, ngồi đến bặt hơi thở.
Bọn này thật đáng thương xót! Ông hãy thực hiện công phu như lời tôi chỉ dạy. Kẻ
quê mùa này có dạy ông như thế cũng chỉ là chuyện bất đắc dĩ...
Bệnh của người mới bắt đầu.
Có một Phật tử tên Trần Thuần biết thân là
vọng, biết pháp là huyễn, ở nơi mộng huyễn khán công án "con chó không Phật
tính," đã viết đến kiến giải về thiền. Chỗ kiến giải của ông ấy tuy còn gợi
dính mắc nhưng cơ bản đã chính, dù đại pháp chưa rõ, cũng chỉ là cái bệnh của
người mới nhập đạo mà thôi.
Phật Thích Ca già nói: "Như thế cũng
được, chẳng như thế cũng được, như thế chẳng như thế đều được." Hễ được gốc
chớ lo ngọn, huân tập lâu ngày thuần thục khỏi lo công phu chẳng thành khối. Gắng
tham đi!
Tôi có thể thấy khó khăn mà Đại
Huệ đang trải qua. Về mặt trí tuệ ông ấy có thể hiểu con đường của nhận biết, về
mặt trí tuệ ông ấy cũng có thể giải thích nó cho người khác - nhưng bản thân
ông ấy vẫn chỉ là một triết gia. Ông ấy đã không biến đổi bản thân mình thành
nhà huyền bí.
Triết gia nói về chân lí.
Nhà huyền bí là chân lí.
Và có khác biệt sâu sắc giữa việc
nói về nó và việc là nó.
Chắc chắn những người đã đạt tới
điểm là bản thân chân lí, có thể nói, nhưng lời của họ rung động trên mức độ
khác toàn bộ, và điều có thể được thấy rất rõ ràng là chúng không tới từ tâm
trí.
Chúng tới từ hư không tuyệt đối.
Chúng mang cái gì đó của hư
không cùng chúng.
Bạn không thể hiểu thấu được nó
nhưng bạn có thể cảm thấy nó... hương thơm rất tinh tế... bạn không thể thấy được
nó, nhưng bạn có thể ngửi thấy nó. Bạn có thể không có khả năng chứng minh nó,
nhưng bản thân bạn biết, điều đó là tuyệt đối chắc chắn.
Vấn đề của Đại Huệ là ở chỗ từ
chính lúc bắt đầu ông ấy đã lấy quan điểm của người trí thức. Nếu ông ấy chỉ là
người trí thức bình thường, được thoả mãn với trí tuệ của ông ấy và cách quan
niệm hoá của ông ấy, chắc đã không có khó khăn gì. Nhưng có một số phần của ông
ấy không đơn giản muốn sống với tri thức vay mượn. Một phần của ông ấy khao
khát nhận ra và trải nghiệm và biết điều huyền bí một cách trực tiếp.
Đây là thế khó xử của ông ấy,
và ông ấy liên tục di chuyển từ phần này sang phần khác. Khi chúng ta đi xa hơn
vào trong lời kinh của ông ấy, tôi cảm thấy hi vọng rằng phần huyền bí của ông ấy
đang chiếm đất. Trí tuệ của ông ấy đang tụt lại sau - mặc dầu nó chưa bị thất bại.
Lời kinh thứ nhất:
Kẻ quê mùa này lấy hai chữ Trạm
Nhiên đặt làm danh hiệu cho ông, như nước trạm nhiên (lắng trong). Tổ Sư nói:
"Hễ có tâm phân biệt so đo cái tự tâm hiện lượng thì thảy đều là mộng."
Nếu tâm thức tịch diệt, chẳng có chút động niệm, gọi là chính giác."
Điều đầu tiên: sáng tỏ bao giờ
cũng sâu sắc. Không có cách khác cho sáng tỏ hiện hữu. Sáng tỏ sâu sắc không tạo
ra nghĩa.
Nó cũng giống như ai đó nói với
bạn, "Anh yêu em rất, rất nhiều." Thực ra, bạn không thể yêu ít, và bạn
không thể yêu nhiều. Yêu không thuộc vào thế giới của số lượng; do đó 'ít' và
'nhiều' là không liên quan. Bạn có thể hoặc yêu, hoặc không yêu. Làm sao bạn có
thể yêu ít, và làm sao bạn có thể yêu nhiều được?
Dầu vậy mọi người liên tục nói,
"Anh yêu em rất nhiều," không thấy cái nguỵ biện vô cùng rằng yêu là
phẩm chất chứ không là số lượng. Phẩm chất thì hoặc hiện diện hoặc không hiện
diện. Nhiều hay ít thuộc vào thế giới số lượng.
Từ tiếng Anh 'matter-vật chất'
và từ tiếng Pháp 'meter' bắt nguồn từ từ tiếng Phạn matra, và matra nghĩa là số
lượng. Cái mà có thể được đo là vật chất - vật chất đơn giản nghĩa là đo được -
và cái không thể được đo, cái không ở bên trong lãnh thổ của số lượng, là tâm
thức.
Ông ấy đang nói, Kẻ quê mùa này
lấy hai chữ Trạm Nhiên đặt làm danh hiệu cho ông. Ông ấy phải khai tâm cho ai
đó vào tính chất sannyas và cho người đó cái tên Trạm Nhiên (lắng trong), điều
có nghĩa là sáng tỏ sâu sắc. Nhưng ông ấy không hiểu rằng sáng tỏ bao giờ cũng
sâu sắc; nó không bao giờ ít hơn và không bao giờ nhiều hơn. Không cái gì có thể
được thêm vào cho nó, và không cái gì có thể được lấy ra khỏi nó.
Đây là vấn đề với hiểu biết trí
tuệ. Bạn dường như hiểu, và dầu vậy bạn vẫn liên tục bỏ lỡ vấn đề ở đâu đó. Người
trí thức cố theo mọi cách để là sâu sắc như nhà huyền bí, nhưng tính sâu sắc của
họ là vui nhộn.
Tôi nhớ tới một chuyện ngụ ngôn
cổ đại: Một cung thủ lớn - ông ấy cũng là vua của một nước - đi qua một làng
trong chiếc xe vàng, và ông ấy ngạc nhiên khi thấy rằng trên mọi cây đều có một
bia bắn, và một mũi tên hay nhiều mũi tên xuyên trúng hồng tâm. Có một vòng
tròn, và mũi tên đích xác xuyên vào giữa; không có một mũi tên nào trượt, và
trên hầu hết các cây đều có vài mũi tên. Ông ấy không thể tin được rằng trong
làng nhỏ này có cung thủ vĩ đại thế.
Ông ấy dừng xe, và ông ấy hỏi về
cung thủ này. Người ông ấy hỏi bắt đầu cười. Anh ta nói, "Ông ngốc thế! Đừng
lo nghĩ về anh ta."
Nhưng nhà vua nói, "Ông
không hiểu. Anh ta có thể là kẻ ngốc - ta không bận tâm với điều đó - nhưng anh
ta là cung thủ vĩ đại hơn ta, điều đó là chắc chắn. Ta muốn gặp anh ta."
Một đám đông tụ tập lại, khi thấy
nhà vua, và tất cả họ đều cười và nói, "Điều đó là vô nghĩa. Anh ta thực sự
là kẻ ngu."
Nhưng nhà vua không thể hiểu được
làm sao kẻ ngốc có thể xoay xở bắn tốt thế, tuyệt đối hoàn hảo, không chê vào
đâu được. Ông ấy nói, "Thôi cười và gọi người này tới đi!" Một thanh
niên được mang tới cho ông ấy; anh ta có vẻ ngu xuẩn, trì trệ. Nhà vua cũng
phân vân. Ông ấy hỏi anh thanh niên, "Bí mật của anh là gì?"
Anh than niên nói, "Bí mật
gì?"
Nhà vua chỉ cho anh ta rằng mọi
mũi tên đều đích xác vào giữa vòng tròn.
Anh thanh niên bắt đầu cười.
Anh ta nói, "Tôi không thể nói dối ông. Sự thực là, đầu tiên tôi bắn mũi
tên đi và thế rồi tôi vẽ vòng tròn. Một cách tự nhiên, một trăm phần trăm... Chẳng
thành vấn đề mũi tên bay đi đâu; bất kì chỗ nào nó đi, tôi làm vòng tròn về
sau. Mọi người đi qua làng này đều bị ấn tượng bởi nghệ thuật lớn. Tôi vẫn còn
yên tĩnh, tôi không bao giờ nói sự thật này cho bất kì ai, nhưng ông là vua và
tôi không thể nói dối ông."
Đây thực sự là tình huống của
người trí thức. Họ là những cung thủ sâu sắc - nhưng đầu tiên họ bắn mũi tên và
thế rồi họ vẽ mục tiêu! Công việc của họ, với những người không biết cách thức
và chiến lược của họ, là hoàn hảo.
Bây giờ, cho đệ tử này cái tên
Trạm Nhiên, "sáng tỏ sâu sắc," ông ấy thậm chí không thể nghĩ được rằng
ông ấy đang làm cái gì đó sai. Ông ấy không biết sáng tỏ là gì, như kinh nghiệm;
bằng không ông ấy chắc không bao giờ cho cái tên này, "sáng tỏ sâu sắc."
Sáng tỏ là đủ lên bản thân nó.
Tổ Sư nói: "Hễ có tâm phân
biệt so đo cái tự tâm hiện lượng thì thảy đều là mộng." Nếu tâm thức tịch
diệt, chẳng có chút động niệm, gọi là chính giác."
Bất kì khi nào ông ấy trích dẫn,
gần như bao giờ ông áy cũng đúng, nhưng chỉ khi nó là trích dẫn. Đây không phải
là lời của ông ấy. Tôi đang đi tới lời của ông ấy, và thế thì bạn sẽ thấy cách
trí tuệ tụt xuống xa bên dưới nhà huyền bí và kinh nghiệm của ông ấy. Đây là lời
của ông ấy:
Ngày nay có một bọn tà sư
"đặt điều", sự ngộ của họ chẳng thật cứ dạy người nhiếp tâm tĩnh tọa,
ngồi đến bặt hơi thở. Bọn này thật đáng thương xót! Và, Ông hãy thực hiện công
phu như lời tôi chỉ dạy - điều ông ấy gọi là đáng thương xót. Kẻ quê mùa này có
dạy ông như thế cũng chỉ là chuyện bất đắc dĩ...
Bạn có thể thấy cái ngu xuẩn của
nỗ lực trí tuệ để hiểu cái ở bên ngoài không? Ông ấy đang dạy cùng loại thiền
cho mọi người - thế thì nó là đúng. Và khi người khác dạy cùng loại thiền nó là
"đáng thương xót"; những người này là "rởm" - tà sư.
Khó cứu ông ấy thế. Ngay chỗ đầu
tiên, nếu đây là cùng cách thiền mà bản thân ông ấy đang cho người khác, trên nền
tảng nào ông ấy gọi người khác là tà sư, người đang cho cùng cách thiền? Ông ấy
đã không làm nó thành rõ ràng theo bất kì cách nào tại sao họ là tà, tại sao họ
không là chính cống - vì giáo huấn thiền của họ là một với giáo huấn của ông ấy.
Và thứ hai, ông ấy nói,
"Ta phải dạy điều này vì kẻ quê mùa này có dạy ông như thế cũng chỉ là
chuyện bất đắc dĩ." Điều đó nữa là tuyệt đối sai; có hàng trăm phương pháp
thiền - nhưng ông ấy không bao giờ thiền. Nhưng bao giờ cũng có một loại đối thủ
giữa những người trí thức, một loại ganh đua, một loại ghen tị.
Bạn phải đã thấy chó sủa lẫn
nhau chẳng bởi lí do gì cả; chúng chỉ không thể cưỡng lại được cám dỗ. Một khi một
con chó thấy con chó khác, thế thì ngay lập tức cả hai bắt đầu sủa.
Tôi đã nghe một câu chuyện về một
con chó... Nó thường sống ở Varanasi, chỗ linh thiêng của người Hindus. Nhưng mọi
người đang đi tới New Delhi, cho nên nó hỏi, "Có chuyện gì thế nhỉ? Sao mọi
người đi tới New Delhi?" Và nó thấy rằng những người là đại diện cho mọi
người đã đi tới Delhi để là thành viên nghị viện. Cho nên nó tập hợp một đám
đông lớn các con chó - và nó là con chó rất lớn, và có thể sủa tốt hơn bất kì
con chó nào khác - và một cách tự nhiên nó được chọn làm kẻ lãnh đạo. Nó thông
báo cho các con chó ở Delhi trước đó, "Tôi đã được chọn từ Varanasi, và
tôi đang tới. Sẽ phải mất gần một tháng vì tôi sẽ đi bộ từ Varanasi tới New
Delhi" - nhưng nó đã tới đó trong ba ngày.
Các con chó ở New Delhi đơn giản
sửng sốt. Chúng không thể tin được rằng một cuộc hành trình một tháng...
"Mày xoay xở thế nào để làm điều đó trong ba ngày?"
Nó nói, "Các ông không biết
người của chúng tôi! Chó sẽ không để tôi nghỉ ngơi ở bất kì chỗ nào. Ba ngày
này tôi đã chạy không dừng. Chó từ làng này sẽ chạy theo tôi mà sủa, và đến lúc
tôi sang làng khác, nhóm chó khác sẽ chạy theo tôi. Không có thời gian cho bất
kì cái gì - nghỉ ngơi hay ngủ hay ăn hay uống. Suốt con đường tôi đã phải chạy
và chạy."
Con chó nói, "Đây là một
trong những phẩm chất lớn của chúng tôi. Điều được nói trong kinh sách linh
thiêng của chúng tôi là những người trí thức được sinh ra như chó." Chính
thói quen cũ của họ là sủa lẫn nhau... Mọi thứ họ đã quên đi, nhưng việc sủa đã
là chính linh hồn của họ.
Bây giờ, như bạn có thể thấy,
người này đang gọi người khác là rởm, tà. Tôi không biết từ nào đã được dịch
thành phony - rởm. Một điều là chắc chắn, vào thời của Đại Huệ, Trung Quốc
không có điện thoại... Từ 'phony' bắt nguồn từ telephone - điện thoại, vì tiếng
nói trên điện thoại trở thành không thực. Nó mất phẩm chất sống; do đó mới có từ
phony - rởm. Từ này không phải là từ của Trung Quốc; từ này là từ Mĩ - và ở Mĩ,
mọi thứ đều là phony - rởm.
Từ nào đã được dịch thành rởm
phony? Nó phải đã là cái gì đó như không đích thực, không thành thực. Nhưng gọi
người khác là không đích thực, không thành thực, không chính cống, mà không đưa
ra bất kì lí do gì, bởi vì họ đang dạy người nhiếp tâm tĩnh tọa, ngồi đến bặt
hơi thở. Bọn này thật đáng thương xót! Ông hãy thực hiện công phu như lời tôi
chỉ dạy. Kẻ quê mùa này có dạy ông như thế cũng chỉ là chuyện bất đắc dĩ...
Nếu không có chọn lựa khác thế
thì tại sao bạn gọi những người đó là người tà đáng thương? Họ không có bất kì
chọn lựa khác nào, cũng là chuyện bất đắc dĩ.
Cho nên điều đầu tiên: người
trí thức có thái độ rất bản ngã, hay sinh sự, bao giờ cũng sẵn sàng bắt đầu đấu
khẩu. Điều đó là không đúng cho nhà huyền môn.
Thứ hai, phương pháp mà những
người bị ông ấy gọi là tà đang dạy cho mọi người, không phải là phương pháp
đúng, nhưng bởi vì bản thân ông ấy không bao giờ thiền, ông ấy không biết cái
gì là đúng và cái gì là sai. Phương pháp những người này đang dạy - và bản thân
ông ấy đang dạy - là kiểm soát tâm trí bạn.
Thiền không liên quan gì tới kiểm
soát tâm trí - vì mọi kiểm soát đều là một loại kìm nén và cái bị kìm nén sẽ
báo thù. Bất kì khi nào bạn thảnh thơi một chút, tâm trí đã trong kiểm soát sẽ
lập tức trỗi dậy và bắt đầu, với báo thù, khuấy động bên trong bạn.
Thiền không phải là kiểm soát,
bởi vì kiểm soát tạo ra căng thẳng và thiền dựa trên thảnh thơi. Thiền có vài
điều bản chất trong nó, dù bất kì phương pháp nào. Nhưng vài điều bản chất đó
là cần trong mọi phương pháp.
Thứ nhất là trạng thái thảnh
thơi: không tranh đấu với tâm trí, không kiểm soát tâm trí, không tập trung.
Thứ hai, chỉ quan sát với nhận
biết thảnh thơi bất kì cái gì đang diễn ra, không có bất kì can thiệp nào... chỉ
quan sát tâm trí, một cách im lặng, không có bất kì phán xét nào, bất kì đánh
giá nào. Đây là ba điều: thảnh thơi, quan sát, không phán xét.
Dần dần, dần dần im lặng lớn
giáng xuống bạn. Mọi chuyển động bên trong bạn dừng lại. Bạn hiệu hữu, nhưng
không có cảm giác về "tôi đây.".. chỉ không gian thuần khiết.
Có một trăm mười hai phương
pháp thiền; tôi đã nói về tất cả những phương pháp đó. Chúng khác biệt trong
thành tố của chúng, nhưng những điều nền tảng vẫn còn như nhau: thảnh thơi,
quan sát, thái độ không phán xét.
Cho nên ngay chỗ đầu tiên
phương pháp này là sai. Ông ấy đang dạy cùng phương pháp, ông ấy nói, "chỉ
là chuyện bất đắc dĩ." Ông ấy không nhận biết về chọn lựa phong phú: một
trăm mười hai phương pháp mà cổ đến mười nghìn năm, ít nhất.
Người đầu tiên thu thập mọi
phương pháp này là Shiva, và tượng của ông ấy đã được tìm thấy ở Harappa và
Mohenjo Daro. Những thành phố này đã nở hoa từ bẩy nghìn năm trước. Họ phải đã
là những thành phố văn hoá nhất của thời đó, vì các con đường của họ rộng thế;
họ có phòng tắm gắn kèm, họ có nước nóng và lạnh chảy trong phòng tắm của họ,
và họ có bể bơi lớn như bể bơi Olympic.
Trong những thành phố đó điều
duy nhất chúng ta có thể nhận ra mà vẫn còn bền vững là tượng của Shiva
-Shivalinga, biểu tượng dương vật của Shiva. Đó là thứ duy nhất kết nối chúng
ta với Harappa và Mohenjo Daro. Vì điều này các nhà lịch sử đã kết luận rằng
Shiva không phải là người Aryan, vì những thành phố đó đã tồn tại trước khi người
Aryans tới Ấn Độ.
Nhưng Shiva có, trong cuốn sách
của ông ấy Vigyan Bhairav Tantra, một trăm mười hai phương pháp thiền. Nhiều
phương pháp có thể được tạo ra - tôi đã tạo ra thêm nhiều phương pháp nữa - chỉ
chất liệu bản chất phải có đó.
Bạn có thể thay đổi phương cách
tương ứng theo thời đại, tương ứng theo cá nhân, nhưng bạn không thể loại ra ba
điều này - thảnh thơi, quan sát và thái độ không phán xét.
Cho nên, thực ra, chỉ ba điều
này là phương pháp thiền duy nhất; mọi phương pháp khác đều là biến thể của
cùng một chủ đề. Bất kì cái gì Đại Huệ đã từng dạy đều sai. Người khác phải đã
là những người trí thức khác, các thầy giáo khác, những người ông ấy gọi là tà,
và ông ấy không thể thấy được một điều đơn giản: làm sao bạn có thể gọi họ là
tà và đáng thương nếu giáo lí của bạn cũng là cùng một phương pháp?
Và ông ấy không nhận biết rằng
có nhiều phương án - ông ấy không bao giờ thiền. Người ta không phải biết về
Vigyan Bhairav Tantra của Shiva. Nếu người ta thiền chỉ với ba điều bản chất
này, người ta có thể tạo ra nhiều phương pháp cho những tình huống khác nhau,
những người khác nhau, tuỳ người đó thích. Nhưng người ta phải có kinh nghiệm
riêng của mình. Và kết án người khác, những người đang làm cùng điều, ông ấy phải
hoàn toàn mù quáng. Ông ấy không thể thấy được điều ông ấy đang nói.
Có một Phật tử tên Trần Thuần
biết thân là vọng, biết pháp là huyễn, ở nơi mộng huyễn khán công án "con
chó không Phật tính," đã viết đến kiến giải về thiền. Chỗ kiến giải của
ông ấy tuy còn gợi dính mắc nhưng cơ bản đã chính, dù đại pháp chưa rõ, cũng chỉ
là cái bệnh của người mới nhập đạo mà thôi.
Đây là phát biểu cổ của Lâm Tế
và các Thiền sư khác, và có khả năng nó có thể là từ thời của bản thân Phật
Gautam. Nó đã được hỏi qua các thời đại bởi các đệ tử... vì Phật giáo nói rằng
mọi sinh linh đều có phật tính; mọi sinh linh đều có thể trở thành phật. Một
cách tự nhiên, câu hỏi này nảy sinh, chó có phật tính không? Mọi thầy lớn đều
đã nói có, và những người đã nói không, không hiểu chút nào.
Nó là cái gì đó cần được nghiền
ngẫm. Tại sao chó phải không có bản tính phật? Nếu mọi sinh linh đều có bản
tính phật, tại sao chó phải là sinh linh ngoại lệ thế? Chỉ bởi vì trong tâm trí
bạn chính từ 'chó' bị kết án, bạn không thể nghĩ được rằng chó có thể có bản
tính phật - "Trời, thế thì phỏng có ích gì mà có bản tính phật? Ngay cả
chó cũng có thể có nó. Nó không đáng băn khoăn! Nhiều năm thiền, những cuộc
hành hương dài, và chung cuộc điều bạn đạt tới chỉ là bản tính của chó." Một
cách tự nhiên những người không hiểu lập tức nói không - và Đại Huệ đồng ý với
những người nói không.
Nhưng thực ra chó (dog) chỉ là
thượng đế (god) bị viết sai chính tả. Tôi là người ủng hộ tuyệt đối sẵn sàng
nói có, chó có nhiều tiềm năng là phật như bản thân Phật Gautam. Không có vấn đề
tại sao con chó đáng thương phải bị bỏ ra, khi mọi sinh linh - lừa và khỉ và
ngay cả Yankees - tất cả đều được bao hàm. Chó là con vật đáng thương, hồn
nhiên. Không có gì sai trong chó. Có lẽ nó phải đi chặng đường dài để trở thành
phật, nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian. Một ngày nào đó chó cũng sẽ trở nên chứng
ngộ. Trong việc sinh nào đó, ở đâu đó trong tương lai....
Bạn nên hiểu điều đó rõ ràng rằng
trong tính vĩnh hằng của thời gian không thành vấn đề liệu bạn trở nên chứng ngộ
hôm nay, hay ngày mai, hay ngày kia, trong kiếp này hay trong kiếp khác. Trong
vĩnh hằng của thời gian điều đó không thành vấn đề chút nào. Trong vĩnh hằng của
thời gian không ai đi trước và không ai đi sau, vì không có bắt đầu trong thời
gian và không có kết thúc trong thời gian.
Cho nên bất kì khi nào bạn trở
nên chứng ngộ bạn bao giờ cũng là đương đại với mọi chư phật. Họ có thể đã trở
nên chứng ngộ cả nghìn năm trước. Nếu bạn trở nên chứng ngộ hôm nay, đột nhiên
bạn sẽ thấy bạn được nâng lên theo qui mô thời gian khác, nơi bạn là đương đại
của mọi chư phật, quá khứ, hiện tại, và tương lai. Cho nên một người đã nếm trải
thức tỉnh sẽ không phủ nhận chó là kho báu cố hữu của họ. Chúng là các sinh
linh.
Phật Thích Ca già nói:
"Như thế cũng được, chẳng như thế cũng được, như thế chẳng như thế đều được."
Hễ được gốc chớ lo ngọn, huân tập lâu ngày thuần thục khỏi lo công phu chẳng
thành khối. Gắng tham đi!
Ông ấy gọi loại câu hỏi này -
liệu chó có bản tính phật hay không - là bệnh của người mới bắt đầu vào đạo. Đó
chính là tò mò tự nhiên của con người. Nhưng ít nhất ai đó đã đi vào đạo. Câu hỏi
như thế không ngụ ý bất kì cái gì cho những người đã không đi vào đạo chút nào.
Nó không phải là bệnh; nó đơn giản là tò mò.
Nếu mọi sinh linh cố hữu đều có
khả năng thức tỉnh như người, điều đó đơn giản làm cho sự tồn tại thành cộng sản
thực sự. Khi có liên quan tới tôi, tôi nghĩ chủ nghĩa cộng sản là đúng chỉ khi
nó có liên quan tới bản tính tối thượng của con người. Chỉ trong giai đoạn tối
thượng đó mới có bình đẳng. Trước điều đó, chủ nghĩa cộng sản là không tưởng và
không bao giờ được hoàn thành.
Chỉ hai chư phật là bình đẳng,
nhưng người dốt nát không thể bình đẳng được. Người dốt nát là bất bình đẳng về
tâm lí; do đó toàn thể ý tưởng của Karl Marx và những người theo ông ấy rằng
con người là bình đẳng là sai về tâm lí.
Không hai người nào là bình đẳng.
Họ có tất cả những khác biệt mà bạn có thể quan niệm, và ép buộc họ vào trong
bình đẳng bạn sẽ phải phá huỷ dân chủ, bạn sẽ phải phá huỷ tự do, bạn sẽ phải
phá huỷ tự do diễn đạt, bạn sẽ phải phá huỷ tính cá nhân của mọi người, chân
giá trị về là người của họ, chính lòng tự hào của họ. Đó là một loại bình đẳng
rất kì lạ. Mọi người đều bị san bằng, và mọi người trở thành bình đẳng!
Đã có một ông vua ở Hi Lạp, người
hơi chút gàn gàn dở hơi. Ông ấy đã làm một chiếc giường vàng lớn trong một nhà
khách đặc biệt, một lâu đài lớn. Chỉ vài người khách đã ở lại trong nhà khách của
ông ấy, và họ không bao giờ bước ra mà còn sống vì rắc rối với nhà vua là ở chỗ
khách phải khớp với giường. Nếu khách dài hơn một chút, thì chân hay đầu phải bị
chặt đi cho vừa giường. Hay nếu khách ngắn hơn một chút, thì bị kéo giãn ra -
người đó phải bị kéo ra từ cả hai đầu; nhà vua có bốn lực sĩ thực hành kéo
giãn. Nhưng đằng nào thì khách cũng bị chết. Trong kéo giãn đầu khách sẽ bị kéo
ra, vì họ kéo đầu khách để làm cho khách vừa với kích cỡ giường, hay chân khách
phải bị kéo ra.
Nhà vua tin vào kinh sách linh
thiêng của toàn thế giới: tất cả chúng đều gợi ý rằng người được làm cho họ,
không phải là họ được làm cho người. Giường của ông ấy không được làm ra cho
người, mọi khách đều phải khớp với giường. Khi tin đồn lan tới những người bạn
khác, các vua khác, không ai nhận lời mời của ông ấy. Ông ấy liên tục mời
khách, nhưng không ai sẵn sàng tới vì bất kì ai đã bao giờ tới cũng không bao
giờ trở lại: cái gì đã xảy ra cho khách? Thực ra nhà vua đang thực hành một loại
chủ nghĩa cộng sản, làm cho mọi người có kích cỡ như nhau. Và đó là điều đã xảy
ra ở Liên Xô trong bẩy mươi năm.
Mới bẩy mươi năm trước, trước
cách mạng, Liên Xô đã là một trong những nước khổng lồ; nó đã sinh thành một
dòng lớn các thiên tài. Trong bẩy mươi năm họ đã không có khả năng tạo ra một
thiên tài có phẩm chất của Leo Tolstoy, Maxim Gorky, Anton Chekhov, Fyodor
Dostoevsky, Turgenev, không một người nào trong bẩy mươi năm. Tất cả năm người
này đã tồn tại trước cách mạng, và ngay cả Maxim Gorky vẫn còn sống sau cách mạng
vài năm.
Nếu bạn muốn chọn những cái tên
của mười tiểu thuyết gia vĩ đại của toàn thế giới, của mọi ngôn ngữ, năm người
này sẽ tuyệt đối có đó. Bạn không thể bỏ một người nào trong họ ra khỏi danh
sách mười người: phần còn lại của thế giới sẽ chỉ có năm chỗ, và năm chỗ sẽ được
trao cho người Nga. Dầu vậy năm người đó từ phần còn lại của thế giới sẽ không
thực sự so sánh được với những vĩ đại của các tiểu thuyết gia Nga. Cái gì đã xảy
ra?
Sau cách mạng, mọi người đều bị
cắt cho cùng kích cỡ. Tâm trí không còn tự do. Bạn không thể nói bất kì cái gì
mà không được chính phủ chấp nhận, bạn không thể viết bất kì cái gì mà không được
chính phủ chấp nhận. Không có tự do tư tưởng. Không có cách diễn đạt cá nhân
trong bất kì cái gì. Mọi thứ phải trở thành đồng đều - mọi người đã biến mất.
Chỉ đám đông tồn tại, chỉ con số, không cá nhân.
Khi Khrushchev lên nắm quyền và
phát biểu trong cuộc họp đảng cộng sản đầu tiên của ông ấy, ông ấy đã vạch trần
Joseph Stalin, nói rằng ông này đã giết gần một triệu người sau cách mạng. Bất
kì ai đang cố gắng là bản thân mình và không sẵn lòng trở thành mấu răng trong
bánh xe đều lập tức bị giết...
Ở Nga bạn không được phép có bất
kì ý kiến nào của riêng bạn. Với mọi thứ bạn phải phụ thuộc vào chính phủ, và cả
nước đã trở thành trại tập trung, không dân chủ. Báo chí, radio, truyền hình, mọi
thứ đều thuộc về chính phủ. Bạn không thể có được thông tin mà chính phủ không
đưa ra. Liên Xô sống gần như trong bóng tối về toàn thế giới, điều đang diễn ra
trên thế giới. Và Liên Xô không phải là nước nhỏ; nó chiếm một phần sáu đất của
toàn thế giới.
Khrushchev phát biểu cho cuộc họp
đầu tiên và vạch trần Joseph Stalin đã từng tàn bạo, sát hại thế nào. Nhân danh
chủ nghĩa cộng sản ông ấy đã giết mọi thiên tài của nhân dân, ông ấy đã thu mọi
người về nghèo nàn ngang nhau. Chắc chắn đã đi tới bình đằng nào đó: mọi người
nghèo bình đẳng. Mọi người bị đàn áp bình đẳng. Mọi người bị làm nô lệ bình đẳng.
Mọi người run rẩy bình đẳng với sợ. Bất kì khoảnh khắc nào và cái chết có thể
gõ cửa.... Ở Nga, tên cái chết là KGB.
Khi Khrushchev đang nói điều
này cho đảng Cộng sản, một người từ hàng ghế sau nói, "Đồng chí đã là đồng
nghiệp của Joseph Stalin trong cả đời ông ấy. Sao đồng chí không phản đối?"
Đã có im lặng lớn. Trong một
khoảnh khắc Khrushchev nhìn vào chỗ từ đó tiếng nói cất lên, và ông ấy nói,
"Đồng chí, xin đứng dậy để tôi có thể nhìn đồng chí rõ hơn." Không ai
đứng dậy. Ông ấy lại nói, "Cứ đứng dậy để tôi có thể thấy ai đang hỏi câu
hỏi này."
Ba lần ông ấy hỏi. Không ai đứng
dậy, và không ai hỏi câu hỏi này lần nữa. Ông ấy nói, "Bây giờ đồng chí hiểu
tại sao tôi im lặng rồi chứ? Tại sao đồng chí im lặng? - vì nếu đồng chí đứng dậy,
đồng chí được kết thúc. Tôi vẫn còn im lặng vì tôi muốn sống." Để tạo ra
bình đẳng, mọi giá trị con người phải bị phá huỷ.
Không... khi có liên quan tới
con người, con người cần tự do để là không bình đẳng, cơ hội bình đẳng để không
bình đẳng. Cơ hội nên được trao một cách bình đẳng cho mọi người, nhưng cơ hội
để trưởng thành trong tính duy nhất của họ, trong tính cá nhân riêng của họ:
tóm lại, cơ hội để không bình đẳng, nhưng các cơ hội bình đẳng.
Chỉ khi mọi người trở nên chứng
ngộ, khi không có gì ngoài tâm thức thuần khiết, chủ nghĩa cộng sản mới là có
thể; bằng không ngày đó chỉ là không tưởng.
Từ 'utopia-không tưởng' là rất
hay. Nó có nghĩa 'cái không bao giờ tới'. Chỉ trong chứng ngộ mới có khả năng của
bình đẳng, và với người chứng ngộ mọi sinh linh - họ có thể không chứng ngộ bây
giờ - đang sắp trở nên chứng ngộ một ngày nào đó. Cho nên, về thực chất mọi người
- mọi sinh linh, kể cả cây cối - bất kì chỗ nào có sự sống dưới bất kì dạng
nào, chúng tất cả đều đang trên đường, di chuyển, tiến hoá, đi lên cao hơn. Và
mục đích là như nhau: trở nên thức tỉnh, trở nên tuyệt đối thuần khiết, tâm thức,
phúc lạc, cực lạc. Cho nên hỏi câu hỏi như vậy không phải là bệnh. Nó tuyệt đối
là tò mò tự nhiên.
Tôi là người cộng sản khi có
liên quan tới bản chất của con người, và tôi không là người cộng sản khi có
liên quan tới thực tại của con người. Con người phải được trao cho mọi hỗ trợ,
mọi cơ hội để trưởng thành theo cách riêng của người đó. Bình đẳng bị áp đặt có
tính phá huỷ, phá huỷ mọi cái có giá trị. Nên có cây lớn, cây cao vươn tới các
ngôi sao, và nên có những bụi cây nhỏ; cả hai chúng làm giầu cho sự tồn tại.
Nên có hoa sen và nên có hoa hồng và nên có hoa cúc vạn thọ. Tính đa dạng, sự
khác biệt, sự bất bình đẳng làm cho cuộc sống giầu có hơn, làm cho cuộc sống
đáng sống hơn, đáng yêu hơn.
Nghĩ mà xem, nếu mọi người trải
qua giải phẫu nhựa và có cùng một loại mũi - mũi bình đẳng - có cùng loại mắt, có
cùng loại mặt, nó sẽ chán tới mức mọi người sẽ bắt đầu bước đi với mắt nhắm, mệt
mỏi khi thấy cùng mũi và cùng mắt và cùng mặt. Nó sẽ là thế giới địa ngục nhất
có thể có. Điều hay là có mũi dài và mũi tẹt, và chúng tới theo đủ mọi kích cỡ
và mọi hình dáng.
Bất bình đẳng trong nhân loại
là chân lí tâm lí.
Bình đẳng là chân lí tâm linh.
Người ta không nên nhầm lẫn.
Chó có bản tính phật, hệt như bất
kì người nào khác có. Nó không là bệnh của người bắt đầu đi vào đạo. Nó thuần
tuý là tính tò mò con người, liệu mọi sinh linh có cùng tiềm năng nở hoa trong
cực lạc tối thượng không, điều chỉ rất ít người - một Phật Gautam, một Lão Tử,
một Zarathustra - đã đạt tới. Tôi coi nó là tuyệt đối bình thường, không là bệnh.
Đại Huệ trích dẫn Phật Gautam,
điều cần giải thích nào đó vì bạn sẽ không hiểu nó. Và tôi không nghĩ Đại Huệ
hiểu nó, vì ông ấy không cho giải thích nào về nó.
Phật Thích Ca già nói:
"Như thế cũng được, chẳng như thế cũng được, như thế chẳng như thế đều được."
Ông ấy không giải thích vì sao
ông ấy trích dẫn phát biểu này. Ông ấy đơn giản ném ra cái tên, trích dẫn, điều
là một trong những chiến lược của người trí thức để chỉ ra tính thông thái của
họ. Nhưng tôi không nghĩ ông ấy hiểu ngay cả nghĩa của nó, vì nó là một trong
những điều khó hiểu nhất.
Aristotle được gọi là cha đẻ của
logic phương Tây. Logic của ông ấy là logic đơn giản: Đen là đen, trắng là trắng;
có nghĩa là có, không nghĩa là không - phân chia rõ ràng. Nó được gọi là logic
hai ngả. Phật Gautam tin - và tôi nghĩ ông ấy có sáng suốt lớn hơn Aristotle
nhiều - vào logic ba ngả. Và nếu bạn có thể hiểu logic ba ngả của ông ấy, chỉ
thế thì phát biểu này mới trở thành rõ ràng cho bạn.
Chẳng hạn, nếu ai đó hỏi Phật
Gautam, "Thượng đế có tồn tại không?", theo logic ba ngả của ông ấy,
ông ấy sẽ trả lời, "Có, Thượng đế tồn tại. Không, Thượng đế không tồn tại.
Có và không cả hai: Thượng đế tồn tại, Thượng đế không tồn tại." Logic của
Aristotle là hai ngả: hoặc Thượng đế tồn tại, hoặc Thượng đế không tồn tại.
Không có vấn đề về khả năng thứ ba, rằng cả hai có thể đúng.
Theo nghĩa nào đó, từ góc độ
nào đó, điều có thể được nói với tính chân lí tuyệt đối là Thượng đế tồn tại,
chẳng hạn nếu bạn ngụ ý rằng sự tồn tại là thông minh, rằng sự tồn tại không là
vật chất, rằng sự tồn tại về căn bản được tạo ra từ tâm thức và ngay cả vật chất
cũng chỉ là một dạng của tâm thức ngủ - tâm thức trong cơn mê. Nếu bạn có thể
ngụ ý bởi Thượng đế, là "tâm thức vũ trụ," ngài tồn tại. Nhưng bạn có
thể ngụ ý bởi Thượng đế là "người tạo ra thế giới"; thế thì Thượng đế
không tồn tại.
Nhưng có thể quan niệm Thượng đế
như tâm thức, và cũng không như đấng sáng tạo, mà như chính tính sáng tạo của sự
tồn tại. Tất cả đều tuỳ thuộc vào chúng ta và điều chúng ta ngụ ý bởi Thượng đế,
vì Thượng đế chỉ là một giả thuyết, một từ; nghĩa phải được chúng ta trao cho.
Nếu Thượng đế không phải là đấng sáng tạo và người mà là chính hiện tượng về
tính sáng tạo và tâm thức, thế thì cả hai là đúng: Thượng đế tồn tại và Thượng
đế không tồn tại.
Đây là logic ba ngả. Và Phật
Gautam sẽ thắng với thế giới tương lai qua logic ba ngả. Aristotle đã lỗi thời
rồi. Nhưng người đương đại của Phật Gautam, Mahavira, có logic bẩy ngả, và ông ấy
sẽ là người chiến thắng tối thượng khi có liên quan tới logic vì ông ấy đã đi tới
mọi phương án có thể. Ba phương án này không phải là mọi khả năng. Chẳng hạn,
phương án thứ tư của Mahavira là: có lẽ Thượng đế không có. Và phương án thứ
năm: có lẽ Thượng đế tồn tại và không xác định được; ông ấy mang tính không xác
định được vào như phương án thứ năm. Và phương án thứ sáu: có lẽ Thượng đế
không có, và vẫn không định nghĩa được. Và phương án thứ bẩy: có lẽ không cái
gì có thể được nói, duy nhất cái là không định nghĩa được. Ông ấy đã bao quát mọi
khả năng và mọi diễn giải. Ngay cả Phật Gautam đã tránh đi xa tới đó; ông ấy vẫn
còn bên trong những giới hạn hiểu được. Bây giờ, xem phát biểu của ông ấy, bạn
có thể hiểu nó.
Phật Thích Ca già nói:
"Như thế cũng được, chẳng như thế cũng được, như thế chẳng như thế đều được."
Ba phát biểu... nó làm cho kinh
nghiệm thành huyền bí hơn. Aristotle giải huyền bí sự tồn tại. Chỉ chia nó thành
sống và chết, thành ngày và đêm, thành đúng và sai, thành tốt và xấu, thành Thượng
đế và Quỉ là hơi chút ngây thơ, hơi chút trì trệ. Cuộc sống là phức tạp hơn điều
đó. Ông ấy chỉ lấy hai cực đoan, và ông ấy quên điểm giữa.
Phật đã gọi đạo của ông ấy là
trung đạo, cho nên ông ấy phải tính tới điểm giữa nơi các đối lập gặp gỡ, nơi
các mâu thuẫn tan biến vào trong nhau và trở thành phần bù. Thế thì nó trở
thành logic ba ngả: hai cực đoan và cái một nơi các cực đoan hội nhập và tan chảy
thành cái một. Cách tiếp cận của ông ấy không chỉ huyền bí hơn, nó còn khoa học
hơn nữa.
Vật lí hiện đại đang tới gần
hơn với Phật Gautam và hoàn toàn bỏ Aristotle. Và cùng với Aristotle hình học
Euclid cũng bị bỏ đi, vì đó là sản phẩm phụ của logic Aristotle. Cho nên
Aristotle và Euclid đã trị vì trong hai nghìn năm ở phương Tây, nhưng vật lí hiện
đại thấy rằng mọi sự là phức tạp hơn Aristotle và Euclid nghĩ. Phật Gautam có lẽ
là gần thực tại hơn vì ông ấy lấy cách tiếp cận huyền bí hơn. Ông ấy mở rộng cảm
nhận của chúng ta về thực tại.
Cảm giác riêng của tôi là ở chỗ
chung cuộc vật lí hiện đại sẽ phải chấp nhận không chỉ Phật Gautam mà cả
Mahavira, vì logic bẩy ngả của ông ấy là tuyệt đối đầy đủ. Bạn không thể thêm bất
kì cái gì nữa. Không thể có logic tám ngả; với bẩy khả năng, mọi thứ đã được
bao quát. Không cái gì đã bị bỏ ra, mọi thứ đã được lấy vào; nó là bao hàm tất
cả. Mahavira đã từng được chấp nhận - không nhà khoa học nào thậm chí biết rằng
họ đang chấp nhận một người nào đó đã sống hai mươi nhăm thế kỉ trước, người
đương đại của Phật Gautam - vì ông ấy đã thuyết giảng lí thuyết tương đối.
Mahavira là người đầu tiên thuyết giảng lí thuyết tương đối.
Albert Einstein chắc đã cực kì
hạnh phúc nếu ai đó giới thiệu cho ông ấy lí thuyết của Mahavira về tương đối.
Nó không phải là về vật lí, nó là về tâm thức con người, nhưng nó là cùng quan
điểm. Và Albert Einstein chắc đã nhảy múa nếu như ông ấy đã nghe về logic bẩy
ngả của Mahavira vì ông ấy đã thấy nhiều khó khăn thế với Aristotle. Thực tại
là lớn, và logic là nhỏ hơn; nó không thể nào giúp được theo bất kì cách nào
cho nghiên cứu xa thêm đi sâu hơn vào trong vật chất và năng lượng. Nó là tốt
cho công việc hàng ngày ở bãi chợ, nhưng nó là không đủ tốt cho các cõi giới
sâu hơn.
Nhưng tôi nghĩ Đại Huệ chắc đã
không có ý tưởng nào tại sao ông ấy đã trích dẫn phát biểu này... có lẽ chỉ để
làm khó hiểu mọi người, chỉ để giả vờ rằng ông ấy hiểu logic kì lạ này của ba
ngả, vì ông ấy không nói bất kì cái gì về nó. Nó ở ngoài ngữ cảnh. Bất kì cái
gì được nói đều phải có nghĩa nào đó, quan hệ nào đó. Nó không có quan hệ tới
câu kinh trước, nó không có quan hệ với lời kinh kế sau. Ông ấy đã chỉ chèn nó
vào.
Cảm giác của tôi là: ông ấy đơn
giản muốn làm khó hiểu mọi người, giả vờ rằng ông ấy biết những điều lớn lao mà
họ không thể hiểu nổi. Chính một trong những điều có ý nghĩa nhất để hiểu về
con người là bất kì cái gì người đó không thể hiểu được, người đó nghĩ phải là
đúng. Vì điều này, các triết gia đã từng viết theo cách mà bạn sẽ liên tục đọc
những cụm từ lớn, cụm từ dài, câu dài, đoạn lớn - lớn tới mức đến lúc bạn đi tới
cuối đoạn, bạn đã quên mất chỗ bắt đầu.
Chẳng hạn, triết gia Đức Hegel
đã là thầy trong việc làm khó hiểu những điều vô nghĩa tuyệt đối, và toàn thể
chiến lược của ông ấy chỉ là để viết ra những từ đao to búa lớn, đại ngôn, khoa
trương. Một câu kéo dài cả trang giấy, và đến lúc bạn đi tới cuối của câu này bạn
không có ý tưởng nào chỗ bắt đầu là gì, chỗ giữa là gì....
Hegel được coi là triết gia vĩ
đại - mãi cho tới khi ông ấy được hiểu! Khi ông ấy được hiểu, ông ấy bị gạt
sang bên như anh chàng thủ đoạn, người chỉ cố làm cho mọi người khó hiểu. Và
ông ấy đã thành công. Ít nhất trong đời ông ấy, ông ấy đã tận hưởng ý tưởng về
việc là triết gia lớn. Chỉ sau cái chết của ông ấy, dần dần, dần dần các học giả
nhìn vào trong nó và thấy rằng ông ấy chẳng nói gì cả. Ông ấy nói nhiều thế,
nhưng nếu bạn cô đọng nó lại, tay bạn trống rỗng. Chẳng có gì trong nó.
Bất kì khi nào tôi nghĩ về
Hegel, tôi bao giờ cũng nhớ tới một người trong làng tôi. Ông ấy gần như là kẻ
dở hơi; ông ấy đã nhồi nhét toàn thể cuốn từ điển Oxford, và ông ấy thường viết
thư cho tổng thống, thủ tướng, cho thống đốc. Ông ấy sống ngay gần nhà tôi.
Thỉnh thoảng ông ấy tới tôi để
cho tôi xem thư của ông ấy - hai mươi trang, ba mươi trang, năm mươi trang giấy
được đánh máy, nhưng không một câu nào làm ra nghĩa gì. Ông ấy không biết gì về
ngôn ngữ; ông ấy biết mọi thứ về cuốn từ điển, và đó là rắc rối. Ông ấy đơn giản
cứ viết ra những từ đao to búa lớn; nó chẳng tạo ra nghĩa nào cả.
Ông ấy hành hạ tôi, cho nên tôi
nói, "Bác làm một điều này đi. Cháu không có nhiều thời gian và thư của
bác quá dài, và nó sẽ có ích nữa vì thư dài thế này Tổng thống sẽ không đọc
đâu. Cho nên với bức thư này bác nên viết một tóm tắt nhỏ, chỉ mười dòng, hai
mươi dòng là nhiều nhất."
Ông ấy nói, "Đó là ý hay.
Bác sẽ viết tóm tắt. Cái đó không thành vấn đề."
Thế là ông ấy đi viết tóm tắt,
nhưng ông ấy bỏ lại bức thư cho tôi. Tôi ngạc nhiên; đây là cái gì đó kì lạ,
làm sao ông ấy sẽ viết tóm tắt được? Không có vấn đề gì cho ông ấy; từ điển ở
cùng ông ấy... cho nên mười dòng nữa của điều ngớ ngẩn tuyệt đối. Tôi nói,
"Cái này là hoàn toàn tốt. Cái này giải thích mọi thứ! Và cháu có thể nói
với bác rằng ngần này tổng thống sẽ đọc. Hai mươi trang là quá nhiều. Bác viết
triết lí lớn thế."
Nhưng không ai trả lời thư của
ông ấy. Ông ấy sẽ tới tôi nói, "Bây giờ một tháng đã trôi qua rồi và không
có trả lời, thậm chí không có biên nhận rằng họ đã nhận được thư của bác! Và
bác đã làm việc vất vả thế."
Tôi nói với ông ấy, "Cháu
nghĩ các chính khách này không có đủ thông minh để hiểu triết lí lớn của
bác."
Ông ấy nói, "Điều đó đúng
đấy. Cháu là người duy nhất hiểu bác. Không ai dường như hiểu."
Mọi ngày ông ấy đều đi tới người
đưa thư với một bức thư mới và người đưa thư phát mệt. Một hôm người đưa thư gặp
tôi ở thư viện và ông ấy nói, "Cháu có thể dừng người này được không? Bác
không bao giờ đọc bất kì thư nào của ông ấy, nhưng ngay cả giữ chúng trên bàn
cũng thành tra tấn. Người ta cảm thấy bên trong dạ dầy mình cái gì đó rối loạn;
chỉ đọc hai hay ba dòng là đủ đưa bất kì ai tới phát điên."
Tôi nói, "Rất khó dừng ông
ấy lại, vì cháu là người duy nhất hiểu ông ấy. Nếu bác có khó khăn nào, cháu có
thể bảo ông ấy, và ông ấy có thể giải thích."
Ông ấy nói, "Bác không muốn
cháu nhắc điều đó cho ông ấy chút nào! Ông ấy sẽ tới với giải thích lớn
hơn."
Thỉnh thoảng tôi thường đi tới
thị trấn, và ông ấy thường đợi tôi. Tôi yêu người này. Ông ấy gàn dở, nhưng rất
tốt và rất dịu dàng và tuyệt đối vô hại. Tôi bảo ông ấy, "Bác đã làm mỗi một
điều sai."
Ông ấy nói, "Cái gì?"
Tôi nói, "Bác đáng phải được
sinh ra ở Đức, và bác chắc đã nổi tiếng trong lịch sử như một triết gia lớn.
Cháu đã nghiên cứu mọi triết gia Đức lớn đó; họ toàn hâm hâm gàn dở!"
Một người được coi là một trong
những triết gia Đức vĩ đại nhất của thế kỉ này, Martin Heidegger, bắt đầu nhiều
cuốn sách, nhưng ông ấy không bao giờ hoàn thành bất kì cuốn nào vì đến lúc ông
ấy làm được nửa chừng, ông ấy đã quên mất điều ông ấy đã viết. Cho nên tập thứ
nhất sẽ được xuất bản, và mọi người sẽ chờ đợi tập thứ hai; nó không bao giờ tới.
Điều này liên tục xảy ra cả đời
ông ấy; ông ấy không bao giờ hoàn thành bất kì cuốn sách nào. Khi được hỏi, ông
ấy nói, "Thực tại là, bản thân tôi quên mất điều tôi đã viết. Nó phức tạp
tới mức tốt hơn cả là bắt đầu cuốn sách mới thay vì đọc cuốn cũ. Để người khác
đọc... Tôi không muốn dính líu vào nó." Sẽ là giải trí lớn cho bạn nếu bạn
đọc cái gì đó của Martin Heidegger.
Và điều này chỉ ra "thông
minh" lớn của ông ấy: ông ấy là người đi theo Adolf Hitler, người chắc chắn
là người điên! Triết gia vĩ đại nhất đi theo kẻ ngốc... điều đó không chỉ ra
cái gì về Adolf Hitler, nhưng nó chỉ ra cái gì đó về Martin Heidegger! Tôi đã đọc
qua mọi công trình của ông ấy. Đến cuối tay bạn trống rỗng. Bạn không thu được
bất kì cái gì về điều ông ấy muốn nói, tại sao ông ấy muốn nói nó. Tại sao tất
cả quá trình thể dục dài này mà không có kết luận nào? Nhưng những người này đã
từng gây ấn tượng lên quần chúng thông thường.
Hiểu biết của tôi là ở chỗ bất
kì cái gì mọi người không thể hiểu được họ nghĩ nó phải lớn lao. Vì chúng ta
không thể hiểu được, một cách tự nhiên nó phải là cái gì đó rất huyền diệu, rất
bí ẩn. Nhưng chân lí bao giờ cũng đơn giản: nó là huyền bí vì nó đơn giản.
Chân lí bao giờ cũng hiển
nhiên.
Nó là huyền bí vì nó hiển
nhiên, không phải vì nó phức tạp, không phải vì nó xa xôi. Nó ở gần tới mức bạn
có xu hướng quên mất nó. Nó ở bên trong bạn, cho nên bạn thậm chí không bận tâm
nhìn vào nó.
Chân lí là đơn giản, hiển
nhiên, không phức tạp. Mọi điều nó cần chỉ là nhận biết im lặng, và hiểu biết lớn
giáng xuống bạn, hiểu biết không trở thành tri thức, hiểu biết làm sâu sắc cho
hồn nhiên của bạn và làm sâu sắc cho điều huyền bí của cuộc sống.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
0 Đánh giá