Chương 19. Sáng chói

Chương 19. Sáng chói

Price:

Read more

Thiền sư lớn Đại Huệ - Tập 2 - Osho
Suy nghĩ về biến đổi từ trí thức sang chứng ngộ
Chương 19. Sáng chói
Osho kính yêu,
Nhận biết hiện tại và nhận biết so sánh
Nham Đầu nói, "Trong tương lai, nếu ông muốn truyền bá giáo huấn vĩ đại, nó phải chảy ra qua từng điểm một từ bên trong ngực riêng của ông tới bao phủ cả trời và đất: Chỉ thế thì nó sẽ là hành động của con người của sức mạnh." Cái chảy ra từ ngực riêng của người ta, như ông ấy gọi nó, là nhận biết hiện tại vô thuỷ riêng của người ta, về nền tảng đầy đủ của bản thân nó. Ngay khi ông phát sinh ý nghĩ thứ hai, ông rơi vào trong suy nghĩ. Nhận biết là cái gì đó từ trước khi bố mẹ ông được sinh ra.
Chuyện này không phải là vấn đề về thông minh hay sắc bén. Thực tại, nó chỉ là bùng nổ bất ngờ buột ra đó là tiêu chí. Ngay khi ông đạt tới cảnh này, thì bất kì lời nào ông nói, chúng là vững chắc.
Khi chỗ chúng vững chắc là thực, đây là cái gọi là "chảy ra từ bên trong ngực riêng của người ta để bao phủ trời và đất."
Chân lí không bao giờ có thể là việc truyền giáo, mà chỉ là thông điệp tâm qua tâm - không truyền đạt cho người kia, nhưng chỉ chia sẻ sự dư thừa của bạn về yêu, từ bi, phúc lạc.
Điều này phải được nhớ: người truyền giáo là một trong những người xấu nhất trên thế giới. Bản thân người đó chẳng biết gì; tâm người đó trống rỗng, nhưng đầu người đó đầy phè. Người đó đã đọc, người đó đã học... nhưng toàn những lời được viết, dù ý nghĩa thế nào, đều là các xác chết. Học giả là kẻ đào mồ. Ông ta mang ra những bộ xương, và ông ta sống giữa các bộ xương.
Có vấn đề tâm lí: người không biết tới chân lí muốn thuyết phục bản thân người đó rằng người đó biết nó, và cách duy nhất để thuyết phục bản thân người đó rằng người đó biết nó là bắt đầu đi cải đạo cho mọi người. Nó là hệ thống phản hồi. Khi ngày càng nhiều người trở nên bị ấn tượng bởi lời của người đó, bởi triết lí của người đó, kết quả tối thượng là ở chỗ người đó trở nên bị thuyết phục rằng người đó phải có chân lí, vì nhiều người thế không thể là kẻ ngốc được.
Tôi đã nghe... Có lần chuyện xảy ra - nó rất hãn hữu mới xảy ra, chỉ một lần trong cả tỉ năm - rằng một nhà báo lên tới cổng trời. Nhà báo, bởi chính nghề nghiệp của người đó, đã được đặt chỗ ở địa ngục, nhưng bao giờ cũng có sự tình cờ....
Nhà báo gõ cửa cổng trời, và Thánh Peter mở cửa ra. Nhưng thấy nhà báo ông ấy nói, "Tôi xin lỗi, chúng tôi có hạn ngạch chỉ mười hai nhà báo, và nó đã đầy từ vĩnh hằng rồi. Cho dù họ tuyệt đối vô dụng ở đây, bởi vì không cái gì xảy ra trên trời - không giết người, không hiếp dâm, không cướp bóc, không tự tử. Cho nên vấn đề đầu tiên của báo chí của chúng tôi mà đã từng được xuất bản, điều đó còn lại mãi mãi"... vì người tốt không có câu chuyện nào. Để có câu chuyện ông cần người xấu. Điều đó là không may, nhưng đó là cách nó vậy.
Các thánh nhân liên tục ngồi trong im lặng. Bây giờ, im lặng không là tin tức; chừng nào chưa có nổi loạn, tàn sát, chiến tranh, vũ khí hạt nhân, Ronald Reagan, không có tin tức. Bernard Shaw đã định nghĩa tin tức: khi chó cắn người điều đó không phải là tin tức, nhưng khi người cắn chó, đó là tin tức. Mọi chính khách đều là tin tức - họ là người cắn chó.
Nhưng trên trời không có chỗ cho chính khách. Thánh Peter nói với nhà báo, "Vậy nên tha thứ cho ta, ông sẽ phải đi sang cổng kia, chính cái đối lập. Chỉ có hai chỗ, không nhiều phương án để chọn lựa từ..."
Nhưng bạn biết đấy, nhà báo là những người rất ương ngạnh. Ông ta khăng khăng, "Ít nhất thì cứ cho tôi hai mươi bốn giờ, chỉ để nhìn quanh. Và sau hai mươi bốn giờ, nếu ông có chỗ trống nào đó, ông có thể cho phép tôi ở lại. Bằng không tôi sẽ bị phải đi."
Điều đó không phải là đòi hỏi quá đáng, cho nên Thánh Peter nói, "Trong hai mươi bốn giờ ông có thể ở trên trời." Và ngay lập tức nhà báo bắt đầu phao tin rằng ở địa ngục một tờ nhật báo mới sắp bắt đầu, và họ cần một tổng biên tập, họ cần ban biên tập, họ cần các biên tập viên trợ giúp, họ cần mọi loại nhà báo. Tin đồn cho nhà báo này cũng giống như nước cho cá: ông ấy sống trong tin đồn, trong dối trá, trong mọi thứ không thực theo bất kì cách nào, nhưng có phẩm chất giật gân.
Đã có chấn động lớn, đặc biệt trong mười hai nhà báo. Họ mệt mỏi với trời, họ mệt mỏi với các thánh nhân chết... Thánh nhân không thể có bất kì sự sống nào, vì mọi tôn giáo đã kết án sự sống. Để là thánh nhân, bạn phải chặt gốc rễ của bạn khỏi đất, bạn phải trở thành bộ xương khô không hăng hái nào trong bạn. Bạn càng chết, càng là thánh nhân lớn hơn. Bất kì mảnh nhỏ sự sống nào cũng đủ cho sa ngã của bạn.
Mười hai nhà báo đó đã đi lang thang trong nhiều thế kỉ giữa những người chết đó - nhưng họ không thể có được bất kì tin tức gì, không cái gì xảy ra. Khi họ nghe thấy tin đồn này, tất cả họ trở nên háo hức thế. Sau hai mươi bốn giờ, khi nhà báo của chúng ta ra tới cổng, Thánh Peter không mở cổng. Ông ấy nói, "Nghe đây, anh bạn, bây giờ anh không thể đi ra được. Tất cả mười hai người đã đi rồi."
"Dường như là trong địa ngục họ sắp sửa bắt đầu một tờ báo rất lớn trên qui mô lớn," nhà báo này nói, "và mình không muốn lưu lại đây." Mặc dầu anh ta biết anh ta đã tạo ra tin đồn này, bây giờ hoài nghi nảy sinh rằng nếu nhiều người thế tin vào nó - và ngay cả Thánh Peter cũng tin vào nó - phải có chân lí nào đó trong nó.
Nhà truyền giáo đang trong việc tìm người cải đạo, để cho ông ta có thể được thuyết phục rằng ông ta có chân lí. Việc tìm người cải đạo của ông ấy thực sự là nhu cầu tâm lí của riêng ông ấy. Ông ấy cảm thấy trống rỗng và hổng hoác, nhưng nếu ông ấy có thể điều khiển được vài người... điều bao giờ cũng là có thể.
Có những người cần có nhân vật bố; bản thân họ cảm thấy sợ trong cuộc sống, bất lực. Cuộc sống dường như quá lớn, không thể điều khiển được, đó là lí do tại sao họ đã tạo ra người bố trên trời. Nhưng nó xa xôi thế... và dầu vậy không kết nối điện thoại nào là sẵn có, ngoại trừ với vài người rất tinh ranh như giáo hoàng, Ayatollah Khomeini, Shankaracharya của Ấn Độ - những người này có đường dây trực tiếp, vô hình. Nhưng với người bình thường, không có cách nào để liên lạc; người đó cần một người thấy được nhiều hơn, sờ mó được hơn, người có thể thay thế chỗ của người bố.
Chỉ rất ít người trên thế giới trưởng thành và chín chắn; phần lớn vẫn còn là trẻ con, và họ cần người bố để bảo vệ họ. Không phải là ngẫu nhiên mà các linh mục Cơ đốc giáo được gọi là cha. Nhưng họ không có vợ, họ không có con - tôi bao giờ cũng tự hỏi làm sao họ đã trở thành cha.
Những người Cơ đốc giáo này là người kì lạ: họ tin vào Mary Đồng trinh, người cho sinh ra Jesus Christ mà không có bất kì tiếp xúc nào với bất kì người nào, và trở thành mẹ không có người bố. Có hàng triệu cha Cơ đốc giáo này, và họ không có vợ, họ không có con. Cơ đốc giáo thực sự là bí ẩn.
Nhưng gọi họ là "cha" chỉ ra rằng bên trong, bạn cần một nhân vật bảo vệ. Bạn đã được nuôi lớn bởi bố bạn: ông ấy bao giờ cũng là sự bảo vệ, cái kho tri thức và khôn ngoan. Trong mắt bạn ông ấy là người vĩ đại nhất trên thế giới, và bạn có thể thảnh thơi và phụ thuộc vào ông ấy. Bây giờ người bố có thể chết.
Về mặt vật lí bạn đã lớn lên già đi, nhưng về mặt tâm lí con người trung bình còn ít hơn mười ba tuổi, và đứa trẻ đó khao khát bảo vệ. Không có bảo vệ trong vũ trụ bao la này - không biết, không dự đoán được, đầy những loại bệnh tật, ốm yếu, và chung cuộc là chết - con người nhất định sợ hãi sâu sắc.
Tôi thường ở trong một nhà, và người đàn bà của ngôi nhà đó nói với tôi, "Chúng tôi có vấn đề với con chúng tôi." Họ không có phòng tắm gắn với phòng ngủ của họ; họ là những người kiểu cổ, và họ có nhà xí ở xa khỏi ngôi nhà, ở đằng sau. Đứa trẻ tuyệt đối đòi rằng khi nó đi vệ sinh trong đêm, mẹ hay bố phải đi theo nó, cửa phải để mở, và họ phải đứng đó, bằng không nó sẽ cảm thấy rất sợ.
Tôi nói với nó, "Sao cháu không làm một điều: cháu quấy rầy mẹ và bố cháu, và một giải pháp đơn giản là có thể."
Nó nói, "Cháu sẵn lòng chứ. Bác cứ nói cho cháu, gỉai pháp là gì?"
Tôi nói, "Cháu có thể mang chiếc đèn cùng cháu, hay chiếc đuốc." Nó cười to. Tôi nói, "Sao cháu cười?"
Nó nói, "Trong bóng tối bằng cách nào đó cháu có thể xoay xở trốn khỏi mọi ma, nhưng với đèn chúng sẽ lập tức thấy cháu đang ở đâu. Bác gợi ý ý tưởng hay đấy, nhưng cháu sẽ bị bắt ngay lập tức. Cháu không thể theo được ý tưởng này. Cho dù cháu phải đi vào trong bóng tối, cháu sẵn lòng, vì trong bóng tối cháu có thể lẩn tránh chúng. Nhưng với đèn tất cả chúng sẽ có khả năng thấy cháu ở đâu, và tất cả chúng sẽ nhảy lên cháu."
Người bố được cần tới. Nhà truyền giáo đáp ứng cho nhu cầu ốm yếu tâm lí nào đó của nhân loại. Ông ấy không quan tâm tới việc cho bạn chân lí; ông ấy không có nó ngay chỗ đầu tiên.
Đó phần nhiều là thông đồng lẫn nhau: bạn cảm thấy hài lòng rằng bạn có ai đó bảo vệ bạn, người trung gian giữa bạn và thượng đế vô hình, và nhà truyền giáo cảm thấy tốt là nhiều người thế tin vào chân lí của ông ấy - "Họ không thể sai được. Một mình mình có thể sai, nhưng nhiều người, toàn thể giáo đoàn của nhà thờ, không thể sai được. Điều đó phải là việc mình có chân lí." Cho nên đây là dàn xếp lẫn nhau, vô ý thức.
Đại Huệ đang nói cái gì đó cực kì quan trọng. Nếu bạn muốn trao thông điệp cho mọi người về chân lí lớn, chân lí về chứng ngộ, nhớ một điều: nó phải không tới từ đầu bạn, nó phải không là cách nói trí tuệ. Bạn sẽ có đầy nó trong tâm bạn tới mức nó bắt đầu tràn ra.
Thế thì bạn không là người cho, và bạn không phải ba hoa rằng bạn đã cải đạo nhiều người thế. Bạn không là người cải đổi; chính bản thân chân lí đang tạo ra phép thần biến đổi. Bạn đơn giản là phương tiện.
Nhưng điều đầu tiên với bạn là được tràn đầy với chân lí, với ánh sáng, tràn đầy với hương thơm, để cho bạn có thể chia sẻ nó. Thực ra, bạn phải trở thành mây mưa trĩu nặng hạt mưa và muốn mưa rào xuống. Bạn phải trở thành trĩu nặng với kinh nghiệm tự do tối thượng của bạn, với niềm vui, với phúc lạc, với chân lí, tới mức bạn muốn mưa xuống, hệt như mây mưa.
Đây là thông điệp rất có ý nghĩa và nó phải đã tới với Đại Huệ như một kinh nghiệm. Ông ấy là người trí thức, và chúng ta đang quan sát biến đổi lớn lao: người trí thức được biến đổi dần dần thành người chứng ngộ. Chúng ta đang quan sát việc sinh ra của vị phật lớn, người thức tỉnh lớn.
Lời kinh thứ nhất:
Nham Đầu nói, "Trong tương lai, nếu ông muốn truyền bá giáo huấn vĩ đại, nó phải chảy ra qua từng điểm một từ bên trong ngực riêng của ông tới bao phủ cả trời và đất: Chỉ thế thì nó sẽ là hành động của con người của sức mạnh."
Nham Đầu đang nói rằng không chỉ tim bạn đầy, nó sẽ đầy tới mức nó bắt đầu toả sáng theo mọi hướng; cả bầu trời trở nên được tràn đầy bằng hương vị của bạn, bằng uy tín của bạn, bằng sự hiện diện của bạn. Những người có mắt sẽ thấy nó, những người có tai sẽ nghe thấy nó, những người có tâm sẽ cảm thấy nó, những người có bản thể, tỉnh táo và nhận biết, sẽ lập tức trải nghiệm nó... và được biến đổi, được chuyển hoá, thành con người mới toàn bộ - ở bên ngoài khổ, ở bên ngoài đau khổ, ở bên ngoài đau đớn - trong thế giới của cực lạc.
Bạn sẽ tràn đầy tới mức đất và trời cả hai trở nên được rót đầy bằng kinh nghiệm của bạn, được rót đầy bằng ánh sáng của bạn, được rót đầy bằng năng lượng của bạn, được rót đầy bằng chói sáng của bạn.
Nham Đầu là đúng: Trong tương lai, nếu bạn muốn truyền bá, đừng trở thành người truyền giáo. Chính nhược điểm con người là giả vờ rằng bạn là thông thái. Đó là cách thức tinh vi để làm mất mặt mọi người: bạn biết, và họ không biết. Cho nên cho dù bạn đã nhận được chỉ chút ít hiểu biết trí tuệ, bạn lập tức bắt đầu truyền bá nó vì nó là nuôi dưỡng lớn cho bản ngã của bạn. Bạn bắt đầu trở thành người biết, và mọi người khác là người dốt.
Thực ra, bạn đang rơi vào rãnh lớn. Là người dốt nát còn tốt hơn là người bản ngã, vì dốt nát là tự nhiên và có thể được biến đổi thành hồn nhiên rất dễ dàng. Nhưng bản ngã là hư hỏng: rất khó cho người bản ngã hiểu bất kì cái gì yêu cầu phá huỷ bản ngã. Bản ngã là kho báu duy nhất của người đó; người đó không biết cái gì khác trên thế giới ngoại trừ danh tiếng, kính trọng, thông thái, tôn vinh.
Nếu ông muốn truyền bá... không nhất thiết là bạn truyền bá. Đã có hàng triệu nhà huyền bí khắp thế giới, suốt nhiều thời đại, người đã quyết định không truyền bá. Tôi không thể nói rằng họ là tuyệt đối sai; họ là chín mươi chín phần trăm đúng.
Họ đã quyết định không truyền bá vì không có cách nào để giải thích cho bạn cái gì đó mà bạn đã không trải nghiệm. Nếu bạn đã trải nghiệm nó, không có nhu cầu giải thích nó cho bạn. Logic của họ là rõ ràng. Ở phương Đông những nhà huyền bí này đã được gọi là a la hán. Họ đạt tới chứng ngộ tối thượng và vẫn còn im lặng. Nếu ai đó tới để uống từ giếng của họ, người đó được đón chào, nhưng họ không làm nỗ lực nào về phần riêng của họ để vươn tới mọi người.
Chỉ vài người đã quyết định thiên về một phần trăm khả năng: trong Phật giáo họ được gọi là bồ tát. Họ đã quyết định... Có thể là không có khả năng đạt tới tim mọi người; những người này khép kín thế, họ đã chọn rồi... ai đó là người Ki tô giáo, ai đó là người Hindu, ai đó là người Mô ha mét giáo, ai đó là Phật tử. Họ đã chọn mà không biết cái gì. Tâm trí họ bị định kiến và ô nhiễm, và những định kiến này đang vận hành như bức tường quanh họ. Chúng không cho phép bất kì cái gì mới đi vào.
Nhưng có lẽ thỉnh thoảng bạn có thể tìm ra một vết nứt nhỏ trên tường, và nếu người này là người tìm kiếm, người đi tìm, người mở để đương đầu với bất kì chân lí nào, thế thì có khả năng rằng nếu bạn có chân lí, tim người đó sẽ lập tức bắt đầu đập cùng tim bạn. Nó là sự đồng bộ. Đột nhiên người đó sẽ trở nên nhận biết rằng người này đã tới, người mà người đó đã từng chờ đợi và chờ đợi trong nhiều kiếp.
Điều đó sẽ không là việc tin chắc về trí tuệ, vì bạn thậm chí đã không nói ra. Nó sẽ là việc truyền tinh tế, vô hình - việc truyền chiếc đèn. Người kia chỉ phải mở. Bạn không thể ép buộc bất kì ai là mở; bạn càng cố ép buộc, người kia sẽ càng trở nên đóng hơn. Điều tuyệt đối nằm trong tay riêng của người đó là việc để mở và mong manh, để sẵn có hệt như bụng mẹ và cho sinh ra tâm thức mới cho bản thân người đó trong không gian mới.
Con người của chân lí chỉ có thể là điểm lẩy cò. Đó là lí do tại sao Nham Đầu nói, Nếu ông muốn... Nếu bạn không muốn, câu hỏi này không nảy sinh. Nếu ông muốn truyền bá giáo huấn vĩ đại... Và tại sao ông ấy gọi nó là giáo huấn vĩ đại? Tại sao không chỉ là giáo huấn?
Đây là khác biệt được làm rất rõ ràng bởi Phật Gautam. Giáo huấn là từ tâm trí; nó là triết lí, thượng đế học, tôn giáo, nhưng nó là từ tâm trí. Tâm trí có khả năng mênh mông về các hệ thống bịa đặt ý nghĩ, rất logic, rất hợp lí - nhưng thiếu nền móng, nền móng của kinh nghiệm.
Giáo huấn vĩ đại là giáo huấn đã nảy sinh ra từ kinh nghiệm của bạn. Tính vĩ đại của nó là ở chỗ bạn không phải làm nỗ lực nào để truyền bá nó. Chính sự hiện diện của nó bắt đầu rung chuông trong tâm những người xứng đáng nhận nó, người đã thu được loại tính thiền nào đó, người đã thu được loại im lặng nào đó của tâm... mảnh đất của người đó sẵn sàng để cho hạt mầm của chứng ngộ có thể được gieo.
Giáo huấn chỉ là cách tiếp cận hợp lí tới sự tồn tại, còn giáo huấn vĩ đại là cách tiếp cận có tính tồn tại tới sự tồn tại.
"...truyền bá giáo huấn vĩ đại, nó phải chảy ra qua từng điểm một từ bên trong ngực riêng của ông tới bao phủ cả trời và đất: Chỉ thế thì nó sẽ là hành động của con người của sức mạnh."
Nhiều thứ thế được cô đọng trong trích dẫn nhỏ này từ Nham Đầu. Kinh sách có thể được làm ra từ lời bình luận này, và từ những ngụ ý của nó.
Nó phải chảy ra... Bạn phải không làm nỗ lực, vì nỗ lực của bạn sẽ phá huỷ cái đẹp của nó, sự thuần khiết của nó. Nỗ lực của bạn có nghĩa là bạn không tin cậy vào sự tồn tại và chân lí. Và tay bạn là rất nhỏ; nỗ lực của bạn không thể đủ lớn để truyền trao chân lí.
Nó phải là dòng chảy, từng điểm một. Bạn phải chỉ là nhân chứng, không là tác nhân chủ động; bạn phải chỉ nhìn dòng chảy từ tâm bạn, và hân hoan.
Và nếu nó đạt tới tâm vài người, họ trở nên được nối vào trong sự hợp nhất huyền bí nào đó. Đó là điều tâm xã đích thực là gì - nơi mọi người được nối lại bởi dòng chảy năng lượng vô hình, từ tâm sang tâm. Thế thì họ là tách biệt như những cá nhân, và vậy mà được kết nối sâu sắc với nhau... cũng như vòng hoa - từng đoá hoa là cá nhân, nhưng một sợi chỉ mỏng, mắt không thấy được, chạy xuyên qua tất cả chúng, và làm nó thành vòng hoa.
Việc tụ tập các đệ tử phải là một vòng hoa. Nhưng nó là có thể không phải bởi bất kì nỗ lực nào, không phải bởi bất kì hành động nào, mà chỉ bởi dòng chảy tự phát, và nó xảy ra theo cách riêng của nó. Cũng giống như khi nụ hồng mở ra... bạn có cho rằng nó làm bất kì nỗ lực nào để lan toả hương thơm của nó cho gió không? Nó xảy ra một cách tự phát. Nó là cái gì đó tuyệt đối tự nhiên.
Một khi tâm bạn đã trở thành đoá hồng và đã mở các nụ của nó ra, thế thì hương thơm bắt đầu vươn ra mọi hướng. Đây là cách đúng của việc gửi thông điệp tới những người xứng đáng nhận chúng, và chỉ thế nó sẽ là hành động của con người của sức mạnh. Điều này phải được hiểu.
Bình thường bạn nghĩ con người của sức mạnh phải là tổng thống của một nước, hay thủ tướng, hay tướng lĩnh lớn, hay người như Alexander Đại Đế. Ý tưởng của bạn về sức mạnh bao giờ cũng là sức mạnh trên người khác; nó là vô nhân và xấu từ chính lúc bắt đầu.
Không ai có quyền có sức mạnh trên bất kì người nào khác - không có sức mạnh của chồng trên vợ, không có sức mạnh của bố mẹ trên con cái, không có sức mạnh của bất kì chính khách nào lên mọi người. Tự do là quyền cơ bản nhất, để cho các loại sức mạnh phải biến mất khỏi thế giới.
Sức mạnh đó đã tạo ra hàng nghìn cuộc chiến tranh, và sức mạnh đó đã là sự hư hỏng của chúng ta. Con người đã không có khả năng dùng thời đại này cho tiến hoá của mình, cho thế gian tốt hơn, cho xã hội con người nhân bản hơn, không có phân ranh giới quốc gia, tôn giáo, ý thức hệ chính trị.
Mọi năng lượng của chúng ta đi vào trong những thứ ngu xuẩn thế! Giết lẫn nhau dường như là chủ định chính của hiện hữu của con người trên thế gian. Trong ba nghìn năm đã có năm nghìn cuộc chiến tranh. Bất kì người nào quan sát từ hành tinh khác sẽ nghĩ rằng nhân loại đã phát điên.
Có một nhà tư tưởng lớn của thời đại chúng ta, Arthur Koestler, người nghĩ đích xác điều đó - rằng cái gì đó trong sự trưởng thành của tâm trí con người đã đi sai: khía cạnh bản chất nhất là quá chặt hay quá lỏng. Mọi năng lượng của chúng ta được cống hiến cho huỷ diệt... cái gì có thể điên khủng hơn? Mọi năng lượng này có thể làm cho trái đất này là thiên đường, nhưng họ đang làm cho nó chỉ là chiến trường.
Nghĩa này của sức mạnh không phải là cùng nghĩa khi Nham Đầu dùng từ 'sức mạnh'. Ở phương Đông chúng ta đã dùng từ sức mạnh - không trên người khác, mà trên bản thân mình. Chinh phục các khu vực tâm thức chưa được chinh phục của riêng bạn, đem tiềm năng của bạn tới việc nở hoa của nó, sẽ làm cho bạn mạnh mẽ vô cùng - không trên bất kì người nào, mà chỉ là cội nguồn sức mạnh theo cách riêng của bạn.
Sức mạnh trên người khác là rất bất lực: cứ để tổng thống của bất kì nước nào xuống khỏi ghế của ông ta, và mọi quyền lực biến mất. Đây là loại thế giới gì vậy? - nơi chiếc ghế mang quyền lực, nơi chiếc ghế là quan trọng hơn con người, nơi chiếc ghế làm cho con người thành có quyền lực, không có điều ngược lại. Ronald Reagan sẽ là gì nếu không là tổng thống? - chỉ một cụ lão suy. Richard Nixon là gì? Ai chăm nom liệu ông ấy sống hay chết?
Chuyện xảy ra trước cuộc cách mạng Nga là một người có tên Kerensky đã là thủ tướng của nước Nga - một quyền lực lớn. Trong khi cách mạng xảy ra ông ấy đã trốn khỏi nước Nga, và mọi người vẫn còn quan tâm về điều gì đã xảy ra cho ông ấy. Có lẽ ông ấy đã bị giết - vì không dấu vết nào có thể được tìm thấy, không dấu hiệu về nơi ông ấy đã biết mất. Ông ấy đơn giản biến mất trong thinh không. Điều đó được tìm ra năm 1960 - gần nửa thế kỉ sau cách mạng - rằng ông ấy đã quản lí một cửa hiệu tạp hoá ở New York. Tất nhiên, dưới dạng trá hình; ông ấy đã không nói cho bất kì ai rằng ông ấy đã từng là một trong những người quyền lực nhất trên thế giới.
Kì lạ... nhưng các nhà huyền bí biết một loại sức mạnh khác. Bất kì chỗ nào nhà huyền bí ngồi, chỗ đó trở thành linh thiêng, chỗ đó trở thành đầy sức mạnh. Sức mạnh của nhà huyền bí không phụ thuộc vào bất kì phiếu bầu nào, nó không phụ thuộc vào bất kì ghế nào, nó không phụ thuộc vào bất kì chức vụ nào. Sức mạnh của nhà huyền bí là của riêng ông ấy, nó không được vay mượn.
Mọi tổng thống và mọi thủ tướng chỉ là kẻ ăn xin, ăn xin phiếu bầu. Tôi đã nghe nói về một chính khách Mĩ người đang mở chiến dịch vận động bầu cho mình. Ông ấy gõ cửa các nhà, và ông ấy bắt đầu hôn mọi đứa trẻ - và có ít nhất hai mươi đứa trẻ sổ mũi, nhưng người ta phải chịu đựng mọi thứ nếu người ta muốn quyền lực. Ông ấy cảm thấy rất ghê tởm với toàn thể chuyện này, nhưng ông ấy mỉm cười - giống hệt nụ cười của Jimmy Carter.
Bạn có nghe nói gì về nụ cười của Jimmy Carter không? Nó đã biến mất. Tôi đã thấy ảnh mới nhất của ông ấy, và chỉ một thứ bị thiếu - nụ cười đó. Nụ cười của ông ấy rộng ngoác từ tai sang tai... nhưng nó không phải là nụ cười của ông ấy, nó là chiếc ghế. Với chiếc ghế mất đi, nụ cười mất đi theo.
Chính khách đáng thương này đã hôn mọi đứa trẻ và người đàn bà đang đứng đó, thế rồi ông ấy nói với bà ấy, "Bà có những đứa con xinh đẹp đấy. Tôi đã tới để nói với bà rằng phiếu bầu của bà nên dành cho tôi."
Ông ấy đưa cho bà ấy tấm danh thiếp của mình và người đàn bà này cười to, nói, "Tôi sẽ nghĩ về nó. Nhưng đây không phải tất cả là con tôi đâu; tôi chỉ là người trông nom nhà cửa. Vì mọi đàn bà của hàng xóm có cuộc họp, họ để con họ ở đây, và tôi chỉ chăm nom chúng nó."
Ông ấy nói, "Trời đất, sao bà không bảo tôi điều này từ trước? Giờ tôi thậm chí cảm thấy buồn nôn!... những đứa trẻ bẩn thỉu này, với mũi chảy. Tôi đã hôn chúng, và nước mũi của chúng dính lên mặt tôi."
Nhưng người ta phải chịu đựng thôi...! Những kẻ xin ăn này trở thành rất quyền lực một khi họ ở trong chức vụ, nhưng quyền lực của họ là rất xấu, vô nhân, và tàn bạo.
Sức mạnh của nhà huyền bí có phẩm chất khác toàn bộ, và có chiều khác. Sức mạnh của ông ấy không phụ thuộc vào bất kì ai khác. Sức mạnh của ông ấy không phải là sức mạnh của người ăn xin; sức mạnh của ông ấy là sức mạnh của hoàng đế. Sức mạnh của ông ấy nảy sinh bên trong bản thể riêng của ông ấy. Ông ấy trở thành ngôi sao toả sáng.
Mọi nhà huyền bí đều là người của sức mạnh lớn. Ở trong tiếp xúc với họ là đủ để được xúc động, được xúc động về những khả năng không biết của bản thể riêng của bạn. Chỉ ở trong sự hiện diện của con người của chân lí là đủ; không luận cứ nào được cần để thuyết phục bạn - sự hiện diện của ông ấy là luận cứ, và sức mạnh của ông ấy là lực thuyết phục.
Một nhà truyền giáo Ki tô giáo, Stanley Jones, thường ở cùng tôi bất kì khi nào ông ấy đi qua chỗ tôi sống. Ông ấy đã viết những cuốn sách hay và ông ấy thường cho những buổi giảng hay. Một lần tôi bảo ông ấy, "Ông nói hay thế! Ông đã dùng cùng lời như Jesus... nhưng tôi không thấy sức mạnh đằng sau chúng, chúng chỉ là đĩa ghi âm cổ. Lời là một, nhưng người đằng sau lời không là một. Ông dùng mọi nỗ lực để làm cho thông điệp của ông mạnh mẽ, nhưng ông không có sức mạnh."
Ông ấy là người rất chân thành, và ông ấy nói, "Có lẽ ông đúng."
Tôi nói, "Không có lẽ, tôi đúng chứ. Nếu ông mà có sức mạnh, điều Jesus có, ông chắc đã bị đóng đinh rồi. Điều khôi hài là ông đeo chữ thập vàng quanh cổ ông. Jesus đã không đeo chữ thập vàng quanh cổ ông ấy; cổ ông ấy bị treo trên cây chữ thập gỗ, cây chữ thập nặng tới mức mặc dầu ông ấy mới chỉ ba mươi ba tuổi - và là con thợ mộc người đã quen mang những súc gỗ lớn từ rừng về cho xưởng thợ của bố ông ấy - ông ấy đã ngã ba lần, trọng lượng của cây chữ thập lớn thế. Ông là ai mà cố lừa dối? Cổ ông phải ở trên cây chữ thập - không phải cây chữ thập treo lủng lẳng trên cổ ông, cây chữ thập nhỏ không thể giết chết ngay cả con chuột."
Đó là tội của Jesus... Toàn thể mảnh đấy của người Do Thái đã đầy những học giả lớn, những người trí thức, các giáo sĩ lớn, và riêng một người này đã xúc phạm tất cả họ. Ông ấy không nói chống lại họ, ông ấy đã không nói một lời chống lại bất kì người nào trong họ. Nhưng chỉ sự hiện diện của ông ấy, tính cá nhân mạnh mẽ của ông ấy, là đủ để thu họ thành người lùn - và mọi người lùn liên kết lại với nhau để tiêu diệt người này.
Người lùn là đa số trong thế giới, và họ đã từng làm cùng điều suốt nhiều thời đại. Họ đã đầu độc Socrates, vì ông ấy là người khổng lồ. Ngay cả ngày nay luận cứ của ông ấy vẫn còn tươi tắn thế, tươi như hoa hồng nở rộ sáng nay trong ánh mặt trời và nhảy múa trong không khí. Họ đã sát hại al-Hillaj Mansoor, mặc dầu điều ông ấy nói sẽ vẫn còn đúng vĩnh hằng. Ông ấy đã chỉ tuyên bố một sự kiện đơn giản: "Ta là Thượng đế, và các ông cũng là Thượng đế. Ta biết điều đó, các ông không biết điều đó. Bất kì khoảnh khắc nào các ông có thể nhận ra được điều đó..."
Nhưng người lùn cảm thấy rất không thoải mái và dễ chịu trong việc là người lùn. Họ không muốn nhận rủi ro trở thành người khổng lồ, vì họ đã thấy điều xảy ra cho người khổng lồ - đóng đinh, đầu độc, sát hại... Họ kinh hoàng với những ý tưởng này. Tốt hơn cả là vẫn là người Ki tô giáo, với tôn giáo một giờ mọi Chủ nhật; tốt hơn cả vẫn là người Hindu, tốt hơn cả vẫn là người Mô ha mét giáo. Cứ thuộc vào đám đông... vì bạn không có sức mạnh, và con người của sức mạnh đứng một mình như sư tử rống. Người đó không cần trộn lẫn với đám đông.
Cái chảy ra từ ngực riêng của người ta, như ông ấy gọi nó, là nhận biết hiện tại vô thuỷ riêng của người ta... Cái bắt đầu chảy ra, khoảnh khắc bạn trở nên nhận biết về nhận biết của bạn, cái là vô thuỷ và vô chung, cái là vĩnh hằng - khi bạn trở nên nhận biết về cội nguồn vĩnh hằng của tâm thức, không cạn, đột nhiên việc tuôn chảy tới với bạn mà không nỗ lực nào.
Bạn không phải là nhà truyền giáo; chính bản thể của bạn là việc truyền đạt. Bạn không cố thuyết phục bất kì ai bởi luận cứ của bạn; chính bản thể bạn là câu trả lời, bằng chứng hiển nhiên, không cần chứng minh, không luận cứ... về nền tảng đầy đủ của bản thân nó.
Người chứng ngộ, linh hồn thức tỉnh, là đầy đủ trong bản thân nó. Nó không cần bất kì cái gì từ bất kì chỗ nào. Điều này cho người thức tỉnh khả năng là tuyệt đối tự do khỏi mọi lệ thuộc, khỏi mọi xiềng xích, khỏi mọi gông cùm. Bạn có thể đẩy người đó vào trong tù, nhưng bạn không thể làm tâm thức người đó thành nô lệ. Bây giờ người đó không còn đồng nhất bản thân người đó với thân thể. Người đó đã tìm ra căn cước thực của người đó. Đồng nhất với thân thể là mang hộ chiếu giả.
Nhưng Đại Huệ muốn bạn nhận biết không cho phép ý nghĩ thứ hai nảy sinh. Ý nghĩ thứ hai là gì? Khi lần đầu tiên bạn cảm thấy bản thân bạn trong thiền sâu, bạn nói, "Aha, nó đây rồi!" - và bạn đã bỏ lỡ. Câu này bạn phải nhớ không dùng ở bất kì điểm nào, vì khoảnh khắc bạn nói, "Nó đây rồi," tâm trí bạn đã bước vào. Tâm trí là lực làm biến chất nhất, độc hơn bất kì rắn mang bành nào. Nó đơn giản làm hỏng im lặng và tính thiền.
Có xu hướng trong mọi tâm trí để thử nó, cho nên người ta phải rất nhận biết không cho nảy sinh ý nghĩ thứ hai. Chỉ tỉnh táo, chỉ nhận biết, chỉ có ý thức, chỉ có tính thiền... nhưng không có nhu cầu suy nghĩ về nó, hay làm phát biểu về nó, hay thậm chí bên trong bản thân bạn nói, "Mình đã đạt tới."
Ngay khi ông phát sinh ý nghĩ thứ hai, ông rơi vào trong suy nghĩ. Nhận biết là cái gì đó từ trước khi bố mẹ ông được sinh ra.
Jesus được hỏi, "Ông nghĩ ông là ai? Ông chỉ là một thanh niên, và đất vùng Judea có các giáo sĩ già có học thức, người đã cống hiến cả đời họ để nhìn vào kinh sách. Ông nghĩ ông là ai? Ông thậm chí không có giáo dục nào, ông không biết đọc, ông không biết viết, và ông còn quá trẻ để khôn ngoan."
Và câu trả lời của Jesus là một trong những câu trả lời khác thường nhất đã từng được cho. Ông ấy nói, "Ta đã hiện hữu trước khi Abraham hiện hữu." Abraham là tên cổ nhất trong gia phả của người Do Thái. "Ta đã có trước khi Abraham có." Đây là phát biểu của sức mạnh và việc tự nhận ra. Ông ấy đang nói, "Ta là vô thuỷ. Đừng nhìn vào thân thể ta - nó có thể trẻ, nhưng ta là vĩnh hằng."
Chuyện này không phải là vấn đề về thông minh hay sắc bén. Thực tại, nó chỉ là bùng nổ bất ngờ buột ra, đó là tiêu chí.
Đại Huệ đã đi con đường dài, dài. Lúc bắt đầu, khi ông ấy chỉ là người trí thức, ông ấy đã cười vào chứng ngộ bất thần. Làm sao chứng ngộ có thể là bất thần được? Trong sự tồn tại mọi thứ đều dần dần.... Cây lớn dần, con người trưởng thành dần. Không phải là không có gì và đột nhiên bụi hồng xuất hiện - đầy đủ, với hoa và hương thơm. Sự tồn tại không tin vào tính bất thần. Nó là quá trình tiệm tiến. Về mặt trí tuệ, điều đó dường như là đúng hoàn hảo.
Nhưng bây giờ ông ấy đang nói rằng đây là tiêu chí liệu chứng ngộ của bạn là thực hay không: nó chỉ là bùng nổ bất ngờ buột ra, đó là tiêu chí - chói sáng bất ngờ, hệt như tia sét. Bây giờ ông ấy đang nói từ kinh nghiệm riêng của ông ấy. Khi có liên quan tới tâm trí, có thể quan sát rằng mọi thứ phát triển dần, cho nên tại sao phải có ngoại lệ này - rằng chứng ngộ là bất thần?
Lí do là rõ ràng: chứng ngộ không phải là cái gì đó trưởng thành trong bạn; nó là cái gì đó đã đầy đủ rồi, chỉ chờ đợi. Nó đã là đầy đủ mãi mãi, từ chính bắt đầu. Bạn chỉ phải nhìn vào nó - quay một trăm tám mươi độ.
Bạn sẽ không tìm ra một cây chứng ngộ nhỏ nào mọc dần lên, từng lá một, từng cành một. Không, bạn sẽ thấy toàn thể chói sáng đầy đủ - vì nó là bản tính của bạn, vì nó đã có đó rồi, vì nó đã từng ở đó mãi mãi. Chỉ mỗi việc bạn đã không nhìn vào nó; bạn đang đứng quay lưng lại nó.
Và nó không thể trưởng thành lên được - nó là đầy đỉ, nó là toàn bộ, nó là như nó đáng phải vậy. Điều mới duy nhất sẽ xảy ra không phải cho chứng ngộ, mà cho bạn. Bạn đã không nhận biết về nó; bây giờ bạn đã thấy nó, bây giờ bạn nhận biết về nó.
Và nhận biết này của bạn, cũng là bất thần. Bạn không thể thấy chứng ngộ của bản thể bạn một cách dần dần, từng mảnh một - một ngày nào đó bạn thấy chút ít chứng ngộ, và thế rồi ngày khác bạn thấy thêm chút ít, và nó cứ tiếp diễn mãi. Một khi bạn đã thấy chỉ một phần nhỏ của nó, bạn sẽ bị kéo đầy đủ vào bên trong để nhận ra tính toàn bộ của nó.
Nó là rất dễ dàng, khi có liên quan tới thức tỉnh, để biết khi nào một người chỉ đang nói về mặt trí tuệ hay đang nói có tính tồn tại. Bây giờ Đại Huệ đang nói có tính tồn tại. Đó đã không chỉ là cuộc hành hương lớn cho ông ấy, đó cũng đã là cuộc hành hương lớn cho tất cả các bạn. Thấy cách trí tuệ có năng lực biến thành chứng ngộ thế nào, cách tâm trí bình thường có thể thay đổi thành vô trí, cách người hữu tử có thể trở thành bất tử - đó là câu chuyện của bạn.
Đại Huệ đang đi tới chính tận cùng của cuộc hành hương của ông ấy. Bạn có thể còn xa xôi với đích đến, nhưng tiến bộ của Đại Huệ sẽ cho bạn dũng cảm vô cùng, dù bạn còn xa xôi thế nào. Ông ấy cũng ở rất xa xôi, và nếu ông ấy có thể xoay xở được, không có lí do gì tại sao bạn không thể xoay xở được!
Ngay khi ông đạt tới cảnh này... Nhìn các từ này, cách chúng thay đổi. Người trí thức không thể nói được điều này; nó chỉ bắt nguồn từ những khả năng của ông ấy. Ông ấy có thể nói về các khái niệm, ông ấy có thể nói về các giả thuyết, ông ấy có thể nói về các ý thức hệ, nhưng Đại Huệ đang nói, Ngay khi ông đạt tới cảnh này... Nó chỉ là quang cảnh: nó đã có đó rồi - bạn chỉ không nhìn thấy nó. Bây giờ bạn đã mở mắt ra và thấy nó.
Tôi đã nghe nói về một đứa nhỏ thấy một linh mục Cơ đốc giáo đang tới gần, và nó chạy ra với ông ấy và nói, "Thưa cha, con chó của con đã sinh ra sáu con chó con. Và tại sao con háo hức thế là vì chúng toàn là người Cơ đốc giáo."
Cha nói, "Điều đó là rất tốt."
Sau ba tuần, cha quay lại và ông ta thấy cậu bé đang ngồi trên bậc cửa khóc. Ông ta nói, "Có chuyện gì xảy ra? Cái gì đã xảy ra cho sáu người Cơ đốc giáo của con?"
Nó nói, "Đó là lí do tại sao con khóc. Mắt chúng bây giờ mở ra rồi, và chúng không còn là người Cơ đốc giáo nữa."
Là người Cơ đốc giáo hay là người Hindu hay là người Mô ha mét giáo, mắt bạn cần nhắm lại, nhưng là người chứng ngộ mắt bạn cần mở ra. Nó là cảnh tượng... cảnh đẹp nhất mà bạn đã bao giờ có thể thấy, hay có thể quan niệm được.
Ngay khi ông đạt tới cảnh này, thì bất kì lời nào ông nói, chúng là vững chắc. Từ tâm thức đã thức tỉnh, từng lời là lửa, từng lời là sống động, từng lời là vững chắc. Nó không cần bất kì hỗ trợ nào của kinh sách, và nó không cần bất kì hỗ trợ nào của bất kì người nào khác trên thế giới. Nó là thẩm quyền riêng của nó - đó là nghĩa của việc vững chắc.
Khi chỗ chúng vững chắc là thực, đây là cái gọi là "chảy ra từ bên trong ngực riêng của người ta để bao phủ trời và đất."
Khi bạn là vững chắc trong chân lí, bạn sẽ rót đầy toàn thể vũ trụ bằng chân lí của bạn, bằng cực lạc của bạn, bằng hương thơm của bạn. Và bất kì khi nào có những người nhạy cảm, họ sẽ bắt đầu tìm tới người đã đạt tới sức mạnh, người có lời đã trở nên vững chắc.
Bây giờ, các bạn ở đây từ gần như mọi nước trên thế giới. Mọi chính phủ chống lại tôi, mọi chính đang cố ngăn cản mọi người tới đây. Chính phủ Ấn Độ đang cố ngăn cản các nhà báo, học giả, giáo sư, đủ mọi phương tiện tin tức khác, khỏi tới đây. Họ đang hỏi mọi khách du lịch, "Anh tới Ấn Độ vì lí do gì?" Chỉ hơi chút nghi ngờ rằng họ tới để thiền, và đơn xin vào của họ bị bác.
Điều nó nên được tính là một trong những điều kì diệu nhất... vì thiền nhân bao giờ cũng tới Ấn Độ từ khắp thế giới, suốt các thời đại. Nó đã là mảnh đất của các nhà huyền bí và chư phật và người Jainas. Đóng góp duy nhất của nó cho thế giới là thiền. Nhưng đây không phải là đóng góp nhỏ; nó là đóng góp lớn nhất có thể được.
Bây giờ những người - cái gọi là nhà lãnh đạo chính trị - người không biết gì về thiền, sẵn sàng cấp visa tới thăm Taj Mahal, Khajuraho, Konarak, Ajanta, Ellora. Nhưng tôi đã nhận được các bức thư từ những người kêu cứu rằng "vì chúng tôi nói chúng tôi muốn học thiền, đơn xin visa của chúng tôi bị bác." Họ không cho phép những người này tới.
Khi mọi chính phủ của thế giới - kể cả chính phủ Ấn Độ - đang cố ngăn cản họ, dầu vậy mọi người đang tìm các cách thức để tới. Cái gì đó đang kéo họ. Cho dù toàn thế giới chống lại tôi, không thành vấn đề. Những người có chút ít nhạy cảm, xúc cảm, hướng tới những trạng thái cao hơn của tâm thức nhất định tới đây.
Đây là sức mạnh Đại Huệ đang nói tới.
Tôi không có sức mạnh nào theo nghĩa thông thường, nhưng tôi có sức mạnh bên trong bản thân tôi. Tôi đầy thức tỉnh riêng của tôi, và tôi sẵn lòng chia sẻ nó với bất kì người nào. Tôi không hỏi liệu bạn có đủ tư cách không - ai chăm nom về tư cách? Tôi đã đi tới cội nguồn không cạn, cho nên ngay cả người không đủ tư cách cũng có thể được lợi, không có hại gì. Tôi không mất cái gì.
Đủ tư cách, hay không đủ tư cách, xứng đáng hay không xứng đáng... Một điều là chắc chắn: họ đã tới từ nơi xa xôi, từ khắp nơi trên thế giới, và mọi chính phủ đang cố ngăn cản họ. Nhưng cái gì đó vô hình đang gọi họ, và lời gọi này là không thể cưỡng lại được.
Tôi không phải là người truyền giáo. Tôi không cải đạo bạn.
Tôi là việc truyền biến đổi.
Nếu bạn tới gần tôi, bạn sẽ được biến đổi.
Nó sẽ không là cải đạo - từ Hindu giáo sang Mô ha mét giáo, từ Mô ha mét giáo sang Ki tô giáo - điều đó đơn giản là thay đổi nhà tù.
Đại Huệ đã cho chúng ta một số lời kinh hay sáng nay. Cho phép chúng chìm sâu vào trong bản thể bạn đi. Chúng sẽ là sự giúp đỡ mênh mông trên con đường đạo.
Được chứ, Maneesha?

Vâng, thưa Osho.

0 Đánh giá

Ads Belove Post