Read more
Osho kính yêu,
Tâm phân biệt và trí huệ.
Tính toán thường xuyên và làm các kế hoạch,
chảy theo sinh và tử, trở nên sợ và náo động - mọi điều này là tình cảm của tâm
phân biệt. Vậy mà những người học đạo những ngày này không nhận ra bệnh này, và
chỉ xuất hiện và biến mất ở chỗ giữa của nó. Trong giáo lí nó được gọi là hành
động theo tâm phân biệt, không tương ứng với trí huệ. Do đó chúng che khuất cảnh
tượng của nền tảng cơ bản, mặt nguyên thuỷ của họ.
Nhưng nếu ông có thể bỏ nó bất thình lình,
vậy ông không nghĩ, không tính toán, thì chính những tình cảm này của tâm phân
biệt là trí huệ tinh tế của trống rỗng thực - không có trí huệ khác mà có thể
được đạt tới. Nếu như có cái gì đó được đạt tới và cái gì đó được nhận ra bên cạnh,
thì nó sẽ không đúng. Điều đó giống như một người khi người đó bị lừa gọi phía
đông, phía tây, và khi người đó tới chứng ngộ, tây là đông - không có đông
khác.
Trí huệ tinh tế này của trống rỗng thực là
cùng thời với trống rỗng lớn: trống rỗng không phải là chủ thể để bị cản trở bởi
vật, nó cũng không cản trở việc tới và đi của mọi thứ bên trong nó.
Trong lời kinh tối nay, Đại Huệ
đang nêu ra những câu hỏi nền tảng về thiền.
Vài điều cần được hiểu trước
khi chúng ta có thể thảo luận về kinh này. Thứ nhất là về quá trình suy nghĩ của
bạn, điều Đại Huệ gọi là tâm thức phân biệt - nói cách khác, tâm trí bạn.
Tâm trí thường xuyên được tham
gia vào trong suy nghĩ, trong phán xét, trong đánh giá. Toàn thể chức năng của
nó dường như là giữ cho bạn được tham gia vào trong ý nghĩ, điều không là gì
ngoài bong bóng xà phòng - hay có lẽ bong bóng xà phòng có thực chất của chúng
hơn là ý nghĩ của bạn.
Ý nghĩ của bạn gần giống như viết
trên nước... không ý nghĩ nào để lại bất kì dấu vết nào trên tâm trí bạn. Tâm bạn
gần giống như bầu trời: chim bay, nhưng chúng không để lại bất kì dấu chân nào
trên trời. Bầu trời vẫn còn như nó vậy trước khi chim đến và sau khi chim đã
đi.
Trở nên nhận biết về điều này
là đi vào trong chiều hướng khác của tâm thức của bạn, bên ngoài tâm phân biệt.
Tâm phân biệt chỉ bao gồm các ý nghĩ. Bên ngoài nó là tâm thức mà chỉ bao gồm quan
sát - không suy nghĩ mà chỉ chứng kiến, chỉ nhìn... không ủng hộ, không chống đối,
không ca ngợi, không kết án - đơn giản nhìn, hệt như cách đứa trẻ mới sinh
nhìn.
Trong một khoảnh khắc nhìn vào
đứa trẻ mới sinh: nó có mắt, nó có tâm thức. Nó nhìn khắp xung quanh, nó thấy mọi
mầu sắc, hoa, ánh sáng, người, mặt của họ, nhưng bạn có cho rằng đứa trẻ nhận
ra mầu lục là mầu lục không? Bạn có cho rằng nó phân biệt được giữa đàn bà và
đàn ông không? Hay cái này là đẹp và cái kia là xấu?
Nó có nhận biết không phân biệt.
Nó đơn giản nhìn mọi thứ có đó, nhưng nó không phán xét thứ đó. Nó không thể có
- nó còn chưa được giới thiệu cho mầu có tên là lục, mầu có tên là đỏ. Nó sẽ cần
chút thời gian để học phân biệt.
Thực ra, toàn thể giáo dục của
chúng ta không là gì ngoài việc tạo ra tâm phân biệt trong mọi người. Mọi người
được sinh ra với tâm không phân biệt - đó là tâm chứng kiến. Người đó được sinh
ra với điều mà hiền nhân chung cuộc đạt tới. Nó là hiện tượng rất bí ẩn rằng điều
hiền nhân đạt tới tối thượng, đứa trẻ đã có từ chính lúc bắt đầu.
Không phải là ngẫu nhiên mà các
hiền nhân khác nhau, các nhà huyền bí khác nhau của các thời đại khác nhau, đã
trở nên nhận biết về sự kiện là việc chiếu sáng chung cuộc, chứng ngộ, không là
gì ngoài việc giành lại thời thơ ấu của bạn. Cùng tâm thức mà bạn đã có khoảnh
khắc đầu tiên bạn được sinh ra phải được đạt tới lần nữa. Nó không phải là cái
gì đó mới mà bạn đạt tới; nó là cái gì đó cổ đại, vĩnh hằng, mà bạn khám phá lại.
Bạn bị lạc trong thế giới... có
mọi cơ hội cho bạn bị lạc, vì thế giới cần mọi loại phân biệt, phán xét, đánh
giá, ý tưởng về tốt và xấu, ý tưởng về đúng và sai - mọi loại cái phải và phải
không. Thế giới cần chúng, và nó huấn luyện mọi đứa trẻ về điều đó. Đứa trẻ
liên tục ngày càng mất hút trong ngôn ngữ, trong lời, trong ý nghĩ, và chung cuộc
đi tới điểm từ đó nó không thể tìm được cách về nhà.
Jesus nói, "Chừng nào ông
chưa được sinh ra lần nữa ông sẽ không hiểu vương quốc của Thượng đế." Ông
ấy ngụ ý cái gì khi ông ấy nói, "Chừng nào ông chưa được sinh ra lần nữa..."?
Nó là hiển nhiên, nghĩa là rõ ràng:
chừng nào bạn chưa nhìn vào thế
giới và sự tồn tại như đứa trẻ....
Và đó là nghĩa bản chất của thiền:
giúp bạn thoát ra khỏi tâm trí, giúp bạn thoát ra khỏi tâm phân biệt và làm ra
con đường để cho bạn có thể đi vào trong tâm chứng kiến.
Hai điều này là khả năng duy nhất
trong tâm bạn: hoặc bạn có thể là bầu trời thuần khiết hoặc bạn có thể là bầu
trời có mây; hoặc bạn có thể là tâm không ý nghĩ nào hoặc bạn có thể là tâm đầy
lưu thông của ý nghĩ, cảm giác, tình cảm, xúc động.
Khi bạn đầy lưu thông của tâm
trí, bạn không thể biết được bạn là ai; bạn quá bị dính líu, bạn quá bận rộn.
Khi không có lưu thông bạn thoải mái, thảnh thơi tới mức không thể nào tránh được
việc biết bản thân bạn. Không cái gì bị bỏ lại để biết, cho nên việc biết quay
lên bản thân nó. Người biết và cái được biết không còn tách rời.
Trạng thái này - nơi người biết
và cái được biết trở thành một và tâm chỉ là nhân chứng thuần khiết - Đại Huệ gọi
nó là "wisdom-trí huệ." Để hiểu ông ấy, nhớ rằng ông ấy không dùng từ
"wisdom" theo nghĩa bình thường (khôn ngoan).
Có hai nghĩa trong đó từ này được
dùng bởi ngôn ngữ bình thường: một nghĩa là người đã trải nghiệm mọi loại thất
bại, thành công, nghèo, giầu, kinh nghiệm thế gian - người đó được gọi là trí
huệ. Một cách tự nhiên, điều này có nghĩa là người này phải là già.
Kinh nghiệm cần thời gian. Do
đó, trong mọi nền văn hoá và mọi xã hội người già được kính trọng và tôn vinh
vì trí huệ của họ. Đây là một nghĩa của wisdom, điều đã trở nên tuyệt đối không
được dùng và không hợp thời.
Trong quá khứ nó đã là cần thiết
vậy: người già biết nhiều hơn người trẻ, vì chỉ có một cách biết và đó là từ
kinh nghiệm thực tại. Nếu bố bạn là thợ mộc ông ấy chắc chắn biết nhiều hơn bạn.
Bạn chắc phải học từ người già hơn bạn. Tri thức được truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Người già bao giờ cũng thông thái hơn người trẻ; đó là lí do tại
sao trong quá khứ không có kẽ hở thế hệ.
Nhưng ngày nay tình huống đã trở
nên khác. Khi giáo dục đã trở thành ngày càng phổ cập, nó có thể biết nhiều hơn
người cao tuổi của bạn. Thực ra, điều đó không chỉ là có thể, nó bao giờ cũng
là hoàn cảnh. Người bố là bác sĩ gửi con trai mình tới đại học để trở thành bác
sĩ. Khi người con quay lại... người bố được trải nghiệm trong nghề của ông ấy,
nhưng người con biết nhiều hơn người bố, vì anh ta biết nghiên cứu mới nhất, những
phát triển mới nhất mà người bố tuyệt đối không nhận biết. Người bố đã trở
thành người tốt nghiệp y học có lẽ từ ba mươi năm trước. Trong ba mươi năm gần
như mọi thứ đã thay đổi. Điều có liên quan tới ba mươi năm trước không còn liên
quan nữa; điều đã được coi là khoa học đã trở thành ngớ ngẩn và phi khoa học.
Đây là tình huống mới mà nhân
loại đang đối diện - rằng người trẻ biết nhiều hơn người già. Không phải là ngẫu
nhiên mà kính trọng với người già đã biến mất. Người già cực kì quan ngại về tại
sao điều đó đang xảy ra - nhưng họ không thấy rằng tình thế đã thay đổi.
Đã có thời người trẻ không thể
nào biết được nhiều hơn người già; bây giờ người già không thể nào giữ được nhịp
cùng người trẻ. Người trẻ sẽ biết những phát triển mới nhất và kẽ hở giữa hai
người này sẽ là ít nhất hai mươi hay ba mươi năm. Tiến bộ trong khoa học sẽ đi
với tốc độ mà nhà khoa học nói họ không thể viết được tập sách lớn về bất kì
môn nào vì đến lúc sách của họ sẵn sàng cho xuất bản nó sẽ lạc hậu - nó sẽ
không thể xuất bản được chút nào.
Cho nên bây giờ trong khoa học
thay vì viết những cuốn sách lớn, mọi người viết bài báo. Họ lập tức hoặc đọc
những bài báo đó trong các hội nghị hay họ công bố chúng trong các tạp chí đều
kì. Họ không thể chờ đợi lâu được, vì nếu họ đợi, ai đó khác, ở đâu đó khác, sẽ
tìm ra cái gì đó tốt hơn.
Khi Albert Einstein được hỏi,
"Nếu như ông mà không khám phá ra lí thuyết tương đối" - dựa trên đó
toàn thể năng lượng nguyên tử và mọi phát triển của vũ khí hạt nhân tuỳ thuộc
vào - "ông có nghĩ có khả năng ai đó khác có thể khám phá ra nó không? Và
nếu ai đó khác đã khám phá ra nó, điều đó sẽ mất bao lâu?"
Albert Einstein cười và nói,
"Không quá ba tuần. Nếu tôi không đủ nhanh, thế thì anh chàng khác nào đó
chắc đã công bố nghiên cứu của anh ta." Và hoá ra là một nhà khoa học Đức
đã khám phá ra lí thuyết tương đối - ông ấy chỉ là anh chàng lười biếng. Ông ấy
đã khám phá ra nó trước Albert Einstein, nhưng ông ấy đã không công bố nó. Đã
có ít nhất mười hai người trên thế giới đang làm việc theo cùng tuyến, và tất cả
họ chắc đã đạt tới, trong vòng hai hay ba tháng, cùng điểm mà Albert Einstein
đã đạt tới.
Trong lĩnh vực khoa học, điều
bây giờ là lĩnh vực tri thức hợp thức duy nhất, mọi thứ chuyển động cực kì
nhanh tới mức kẽ hở giữa thế hệ mới và thế hệ cũ đang trở nên ngày càng lớn
hơn. Họ sẽ sớm không có khả năng hiểu ngôn ngữ của nhau. Điều đó đã xảy ra: bố
và con không ngồi cùng nhau và thảo luận nữa, vì bố nghĩ con của họ có ý tưởng
kì lạ, và con nghĩ, "Ông già đáng thương! Ông ấy vẫn còn lặp lại những thứ
lạc hậu từ lâu trước đây."
Bây giờ, nếu điều này đã trong
tâm trí họ, làm sao đối thoại là có thể được? Cả hai đang nghĩ xấu về nhau, họ
đã đi tới các kết luận mà không có thảo luận nào, không có hội thoại nào, không
có đối thoại nào. Và kẽ hở đang trở nên mỗi ngày một lớn hơn.
Vì kẽ hở này, truyền thống cổ một
nghìn năm về kính trọng người lớn tuổi đang biến mất, vì tình huống cơ bản, nền
tảng của nó không còn hợp thức nữa. Cùng điều này là tình huống giữa học sinh
và giáo sư: giáo sư biết ít hơn học sinh. Nếu học sinh đủ thông minh, thế thì họ
bao giờ cũng có khả năng biết nhiều hơn giáo sư. Chỉ học sinh ngu và tầm thường
vẫn biết ít hơn giáo sư. Nếu học sinh đi tới thư viện và thu thập kĩ những phát
triển mới trong bất kì lĩnh vực tri thức nào, họ sẽ đi trước giáo sư của họ hai
mươi hay ba mươi năm.
Cùng vấn đề này được cảm thấy
trong mọi thể chế giáo dục, trong mọi đại học. Học sinh không có cùng kính trọng
mà họ bao giờ cũng có trong quá khứ - họ không thể có nó được. Trong quá khứ nó
đã là tự nhiên: thầy giáo bao giờ cũng biết nhiều hơn. Ngày nay chỉ học sinh tầm
thường mới là người biết ít hơn thầy giáo. Học sinh thông minh chắc chắn biết
nhiều hơn thầy giáo có thể đảm đương.... Thầy giáo quen thuộc nhiều với các ý
tưởng cũ mà đã từng thịnh hành khi thầy còn là học sinh, điều có thể đã là nửa
thế kỉ trước.
Tôi nhớ tới ngày riêng của tôi ở
đại học. Giáo sư tâm lí học sẽ trích dẫn những cái tên là quan trọng năm mươi
năm trước. Bây giờ bạn có thể thấy những cái tên đó chỉ trong cuốn Bách khoa
toàn thư Brittannica như lịch sử; họ đã trở thành tuyệt đối không liên quan,
bao nhiêu nước đã trôi xuôi qua sông Hằng và bao nhiêu sáng suốt tươi tắn đã đi
vào hiện hữu. Tôi đơn giản đâm lúng túng. Dường như đến lúc một người tốt nghiệp
khỏi đại học người đó dừng đọc, vì mọi người chỉ đọc cho bài thi và bây giờ sẽ
không có kì thi nào nữa. Họ đã làm hết sức của họ. Và nếu họ đã trở thành người
được huy chương vàng và họ đã đạt tới nhất lớp, họ sẽ sớm là giáo sư ở cao đẳng
nào đó, trong đại học nào đó; bây giờ không có nhu cầu cho họ đọc.
Gợi ý riêng của tôi với Uỷ ban
giáo dục của Ấn Độ là ở chỗ mọi giáo sư phải được gửi đi hàng năm trong ít nhất
hai tháng tới các môn học làm tươi lại - bằng không người đó không thể giữ được
nhịp cùng với tri thức theo đường nó tăng trưởng. Đây là nghĩa khác của wisdom:
tri thức và số lượng của nó; bạn biết bao nhiêu; bạn được thông báo tốt không.
Nhưng cách Đại Huệ và các nhà
huyền bí dùng wisdom là điều khác toàn bộ. Nó không quá khứ, kiểu tri thức cũ
mà tới từ kinh nghiệm, nó không là tri thức tới từ giáo dục. Nó là tri thức tới
từ việc biến đổi xảy ra bên trong bản thân bạn, chuyển từ tâm phân biệt sang
tâm chứng kiến. Tâm chứng kiến là trí huệ, cho nên bạn sẽ không bị lẫn lộn về
nghĩa của từ này.
Đại Huệ nói,
Tính toán thường xuyên và làm
các kế hoạch, chảy theo sinh và tử, trở nên sợ và náo động - mọi điều này là
tình cảm của tâm phân biệt. Vậy mà những người học đạo những ngày này không nhận
ra bệnh này...
Với những người của đạo, với những
người muốn thiền và đi vào trong bản thể bên trong nhất của họ, vào trong ngôi
đền thực của Thượng đế, loại tri thức này, loại tâm này là bệnh. Nó sẽ cản trở
bạn khỏi đi vào trong, nó sẽ trở thành rào chắn, và nó sẽ giữ bạn dính líu và
những điều không bản chất của cuộc sống, điều tầm thường. Nó sẽ giữ bạn vô nhận
biết về câu hỏi nền tảng nhất: "Tôi là ai?" Nó sẽ cho phép bạn biết mọi
thứ trong thế giới ngoại trừ bản thân bạn - và chủ định của việc biết toàn thế
giới là gì nếu bạn không biết bản thân bạn?
Vào lúc chết mọi tri thức về thế
giới của bạn sẽ mất đi trong thinh không. Chỉ một điều sẽ đi cùng bạn, và một
điều đó thường xuyên bị bỏ qua - đó là tri thức về cái ngã, việc tự nhận ra. Thực
ra, đây là dốt nát duy nhất - bỏ qua bản thân bạn.
Nhưng ngay cả nhà khoa học vĩ đại
nhất, triết gia vĩ đại nhất nghĩ về các ngôi sao xa xăm, nghĩ về những điều kì
lạ - như, "Tốc độ ánh sáng là gì?" - làm việc miệt mài ngày và đêm để
tìm ra cách chẻ nguyên tử ra, và không bao giờ nghĩ trong một khoảnh khắc,
"Ai là bản thể này bên trong mình? Cái gì tạo nên tâm?"
Chắc chắn tâm trí phân biệt,
tâm phân biệt, là bệnh lớn nhất, vì nó sẽ giữ bạn dốt nát mãi cho tới khoảnh khắc
chết. Thế thì chắc chắn bạn sẽ trở nên nhận biết rằng bạn đã từng dính líu vào
bài tập vô tích sự. Bạn biết nhiều thế và vậy mà bạn không biết bạn là ai. Đột
nhiên mọi tri thức của bạn thành vô dụng, mọi sức mạnh của bạn thành vô dụng, mọi
tiền của bạn thành vô dụng, mọi danh tiếng của bạn thành vô dụng. Điều duy nhất
có thể là hữu dụng thì bạn đã quên cả đời - và giờ không còn thời gian nữa.
Chết tới bất thần thế, thậm chí
không gõ cửa nhà bạn - nó không cho bạn lưu ý một khoảnh khắc. Nó bao giờ cũng
tới im lặng tới mức bạn không thể nghe thấy tiếng bước chân của nó, bạn bị mắc
vào vô nhận biết. Đó là cú choáng tới mức phần lớn mọi người trở thành vô ý thức
trước khi chết. Không nhất thiết là họ phải trở thành vô ý thức, nhưng cú
choáng là "Mình đã phí hoài cả đời mình...."
Ai đó làm việc cả đời trong việc
tìm ra có bao nhiêu loài sâu bọ tồn tại trên thế giới, bao nhiêu loại muỗi có
đó. Với họ dường như đây là những câu hỏi quan trọng. Những người này không có
thời gian để ngồi im lặng thậm chí trong vài phút và di chuyển ra xa khỏi tâm
phân biệt, đó là từ tâm trí, và trỏ thành chỉ là nhân chứng - đó là vô trí, im
lặng, an bình, chân thành, không gian thuần khiết, tĩnh lặng hoàn toàn, không
chuyển động.
Trong tĩnh lặng này trí huệ tới,
và trí huệ nghĩa là tự nhận ra. Không nghĩa nào khác của trí huệ có bất kì liên
quan nào trên con đường của người tìm kiếm.
Vậy mà những người học đạo những
ngày này không nhận ra bệnh này, và chỉ xuất hiện và biến mất ở chỗ giữa của
nó. Mọi người tới và đi. Mọi người được sinh ra và chết đi mà không biết ai đã
được sinh ra và ai đã chết đi. Bạn được sinh ra không có tên và bạn chết đi
không có tên, và mọi thứ tồn tại giữa sinh và chết biến mất hệt như việc viết
trên nước.
Bao nhiêu người đã sống ở đây
trước chúng ta? - hàng tỉ và hàng tỉ người... và bạn không tìm ra bất kì dấu vết
nào rằng họ thậm chí đã tồn tại. Họ cũng đã có chuyện tình và họ đã nghĩ rằng
những điều lớn lao đã xảy ra cho họ. Họ cũng có kẻ thù, họ cũng có giận, họ
cũng có buồn, họ cũng có những khoảnh khắc của hạnh phúc. Họ cũng biết thất bại
và đau đớn của nó; họ cũng biết thành công và vui thú của nó. Họ biết mọi thứ
mà bạn biết... và trong khi bạn đã trải qua khoảnh khắc đó bạn nghĩ nó là quan
trọng thế.
Nghĩ về hàng tỉ người đó đi,
người bao giờ cũng nghĩ rằng khi họ rơi vào yêu nó là cái gì đó duy nhất mà
không bao giờ xảy ra trước đây và chắc sẽ không xảy ra lần nữa. Nhưng tất cả họ
đã biến mất không để lại bất kì dấu vết nào. Dù họ tồn tại hay không, dù họ
tranh đấu hay không, dù họ yêu hay không cũng chẳng tạo ra khác biệt gì. Mặt trời
vẫn cứ mọc lên, mặt trăng vẫn cứ di chuyển, các ngôi sao đi trên đường của
chúng. Sự tồn tại vẫn còn tuyệt đối không quan tâm, dường như bất kì cái gì bạn
nghĩ rất quan trọng thế cũng chẳng là gì ngoài vở kịch.
Nhưng một trong những điều có ý
nghĩa nhất cần nhớ: bất kì cái gì bạn trải nghiệm, đây đã là kinh nghiệm của
hàng triệu người - cho nên đừng quan tâm quá nhiều về nó, đừng làm ồn ào quá
nhiều về nó, đừng chú ý quá nhiều về nó. Đừng trở nên bị ám ảnh bởi nó - nó sẽ
biến mất và bạn sẽ biến mất, và mọi thứ sẽ là im lặng, dường như không cái gì
đã xảy ra.
Vì hiểu biết này các nhà huyền
bí đã từng nói cho bạn rằng thế giới và những kinh nghiệm của nó không là gì
ngoài mơ, cho nên đừng chú ý nhiều. Giữ khoảnh cách; không bị lạc trong mơ của
bạn.
Nếu bạn có thể giữ khoảnh cách
với mơ của bạn, bạn sẽ đi tới biết thực tại duy nhất vẫn còn mãi mãi, cái không
có sinh và không có tử: đó là tâm thức thuần khiết của bạn, đó là tâm thức
thiêng liêng của bạn. Bạn có thể cho nó bất kì cái tên nào, không thành vấn đề.
Nó là phật tính bên trong bạn, hay nó là thượng đế bên trong bạn.
Trong giáo lí nó được gọi là
hành động theo tâm phân biệt, không tương ứng với trí huệ. Những người đang vận
hành trong cuộc sống tương ứng theo tâm trí phân biệt là ốm yếu tâm linh; họ
đang chịu đựng bệnh lớn.
Chuyện xảy ra là Phật Gautam đã
đi tới Vaishali, một trong những thành phố lớn nhất của thời đó. Vua già của
Vaishali đã chết và con ông ấy đã tới nắm quyền; anh ta còn trẻ và ngu như mọi
thanh niên nhất định là vậy. Thừa tướng già của anh ta, người cũng là thừa tướng
của bố anh ta, bảo anh ta, "Phật Gautam đang tới thành phố, và bệ hạ phải
đi đón ông ấy ở cổng thành phố."
Anh thanh niên nói, "Để
làm gì? Ông ấy chỉ là kẻ ăn xin, và ta là vua lớn. Nếu ông ấy muốn gặp ta, ông ấy
có thể hỏi xin hẹn gặp. Nhưng ông đang cho ta lời khuyên kì lạ, rằng ta phải đi
và đón ông ấy - vua đi đón kẻ ăn xin sao?"
Thừa tướng nói, "Thế thì
xin chấp nhận việc từ chức của tôi."
Vua nói, "Ông đang làm việc
bé xé ra to từ một thứ nhỏ thế. Tại sao ông phải từ chức?"
Thừa tướng đáp, "Tôi không
thể làm việc dưới một người dốt nát thế và ốm yếu thế về tâm linh. Điều đó là bẽ
mặt. Tôi đã làm việc dưới bố ngài, và bố ngài thường đi đón Phật Gautam và chạm
chân ông ấy. Ngài chỉ là một nhà vua - ông ấy cũng là vua, nhưng ông ấy đã đi
ra ngoài điều đó. Ông ấy là kẻ ăn xin không phải bởi vì ông ấy không thể là
vua; ông ấy là kẻ ăn xin vì ông ấy từ bỏ vương quốc. Bình bát ăn xin của ông ấy
còn có giá trị hơn nhiều cả vương quốc của ngài. Hoặc ngài phải đi và đón ông ấy,
hoặc xin chấp nhận việc từ chức của tôi, vì tôi không thể làm việc dưới một người
không có trí huệ."
Anh thanh niên không thể để mất
ông già đó, vì ông ấy có kinh nghiệm; anh thanh niên mới trở thành vua, anh ta
không có tri thức về vận hành mọi thứ. Ông già cũng gần như bố anh ta, cho nên
anh ta nói, "Tôi sẽ đi."
Và câu chuyện rất hay... khi
nhà vua - anh thanh niên này - ra đón Phật Gautam cùng với ông thừa tướng già,
Phật Gautam nói, "Ông không cần phải tới. Ta chỉ là kẻ ăn xin, và ông là
vua lớn. Nếu ta muốn gặp ông, ta có thể tự mình tới."
Anh thanh niên không thể tin được
rằng Phật đã lặp lại đích xác lời mà anh ta đã nói, và ông thừa tướng già cũng
không thể hiểu nổi. Ông thừa tướng già thường tới Phật Gautam cùng vua già. Bây
giờ ông ấy nói với Phật Gautam, "Thầy đã tạo ra rối loạn lớn trong tâm trí
chúng tôi, vì đối thoại này đã xảy ra giữa tôi và vị vua trẻ. Anh ấy còn trẻ và
anh ấy không hiểu cách con người của trí huệ nên được đón tiếp thế nào.
"Tôi đã bảo anh ấy, 'Con
người của trí huệ có thể là kẻ ăn xin đối với những người không hiểu, với những
người không có con mắt bên trong để thấy. Nhưng những người có con mắt bên
trong để thấy... người đã nhận ra bản thân mình đã không chỉ chinh phục thế giới
này, mà đã chinh phục cả thế giới kia nữa - người đó đã chinh phục cái bên
ngoài và người đó đã chinh phục cái bên trong. Vương quốc của người đó là vĩnh
hằng. Vương quốc của ngài chỉ là mơ - cũng như bố ngài đã mất đi, ngài cũng sẽ
mất đi. Nhưng vương quốc của Phật Gautam sẽ còn lại, sẽ còn lại trong tính vĩnh
hằng của thời gian.' Đối thoại này đã xảy ra giữa chúng tôi, nhưng ông ấy không
sẵn lòng tới."
Và Phật Gautam nói, "Nhìn
mặt anh ta, ta có thể thấy sự ngần ngại của anh ta. Ta có thể thấy rằng ông đã mang
anh ta tới, anh ta không tới. Ta có thể thấy rằng mặc dầu anh ta đã tới để đón
ta, anh ta vẫn nhìn ta như kẻ ăn xin và bản thân anh ta là vua. Cho nên chỉ để
an ủi anh ta - dường như anh ta bị bắt buộc tới ta - ta phải nói những lời này,
'Ông là vua lớn; ông không cần phải đến để đón kẻ ăn xin.' Và thực ra, ta là kẻ
ăn xin: ta không có bất kì cái gì ngoại trừ bản thân ta. Ông có mọi thứ ngoại
trừ bản thân ông: tài sản của ông là nhiều, lãnh địa của ông là lớn, một cách tự
nhiên. Tài sản của ta là ít. Thực ra, ngoại trừ bản thân ta, ta không có bất kì
cái gì khác."
Nhưng điều này được gọi là trí
huệ. Và trí huệ này là phúc lạc và cực lạc lớn nhất trên thế giới. Nếu bạn thậm
chí có thể tìm ra vài phút để nhìn vào trong bản thân bạn.... Trong náo loạn của
thế giới, vẫn có những khoảnh khắc mà bạn có thể nhìn vào bên trong bản thân bạn,
dù bạn có thể bận rộn tới đâu. Không một người nào trên thế giới mà không thể
tìm ra một khoảnh thời gian nhỏ để nhìn vào bản thể riêng của mình. Và đến cuối
cùng bạn sẽ thấy chỉ những khoảnh khắc đó mới là thực mà bạn đã cống hiến cho
việc tìm bản thân bạn, còn mọi thứ khác là không thực.
Mọi thứ khác đã biến mất; chỉ
vài khoảnh khắc đó đã còn lại mà bạn đã dành cho bản thân bạn. Bạn bè mất đi,
người yêu mất đi, mọi thứ đều mất đi hay đang ra đi. Nhưng vài khoảnh khắc đó
mà bạn đã dành cho bản thân bạn trong sự một mình của bạn vẫn còn với bạn. Ngay
cả chết cũng không thể lấy được chúng đi khỏi bạn. Chúng là kho báu duy nhất của
bạn.
Những người đi theo tâm phân biệt
đang làm phí hoài cơ hội lớn để khám phá điều tối thượng và điều thân thiết -
điều không phải là những thứ khác nhau. Điều tối thượng là điều thân thiết. Và
những người quan tâm tới mọi thứ, dù giá trị thế nào, sớm hay muộn sẽ hối hận.
Jesus thường nói lặp đi lặp lại
cho đệ tử của ông ấy, "Sám hối!" - và tôi không nghĩ người Ki tô giáo
hiểu điều ông ấy ngụ ý. Đột nhiên ông ấy bắt đầu nói về sám hối.... Cái gì có
đó để sám hối? Mọi người nghĩ có lẽ ông ấy nói, "Sám hối vì tội của
ông!" - nhưng thực ra ông ấy nói, "Sám hối vì mọi lúc ông đã phí hoài
trong tích luỹ đồ đồng nát, trong tích luỹ thông tin." Sám hối cho tất cả
những cái đó - và cách duy nhất để sám hối đích thực là làm cái gì đó mà đem bạn
tới yếu tố không chết trong bạn, tới cội nguồn của chính cuộc sống của bạn.
Do đó chúng che khuất cảnh tượng
của nền tảng cơ bản, mặt nguyên thuỷ của họ.
Chúng ta không bao giờ bắt gặp
mặt nguyên thuỷ của chúng ta. Chúng ta dính líu, bận rộn với cả nghìn lẻ một thứ
tới mức không thời gian nào còn lại, không năng lượng nào còn lại, và không
thiên hướng nào. Trong hàng triệu người, có lẽ, chính niềm khao khát biết bản
thân mình đã không nảy sinh. Họ toàn là người bắt chước: vì người khác đang chạy
theo tiền, họ chạy theo tiền; vì người khác tham vọng, họ tham vọng; vì người
khác làm cái này, họ làm cái này.
Một người đàn bà đang nói với
chồng mình, "Anh có thấy rằng hàng xóm nhà mình có xe mới không?"
Anh ta nói, "Có, anh có thấy,
nó đang đứng ở vòm cửa nhà họ."
Người đàn bà nói, "Thế thì
anh phải quyết định đi: hoặc đem về nhà một chiếc xe mới hoặc chúng ta sẽ phải
đổi hàng xóm, bất kì cái nào anh nghĩ là rẻ hơn, nhưng điều này em không thể
dung thứ được. Cho nên em để điều đó tuỳ anh: hoặc tìm chỗ nào đó khác để sống
để cho em không phải thấy chiếc xe đó đứng đó liên tục, hay đem về chiếc xe tốt
hơn ở cổng nhà mình. Bận rộn lên đi."
Mọi người liên tục sống cuộc sống
của họ trong bắt chước, cạnh tranh, ghen tị... Ai bận tâm về mặt nguyên thuỷ của
mình - và người ta sẽ làm gì với mặt nguyên thuỷ? Nhưng chỉ những người đã biết
tới bất kì cái gì xứng đáng, người đã sống theo nghĩa đích thực của việc sống,
là những người đã tìm kiếm mặt nguyên thuỷ của họ.
Chắc chắn bạn phải thoát ra khỏi
con đường mòn này của ghen tị, cạnh tranh, bắt chước, bằng không chúng sẽ không
rời bỏ bạn bất kì lúc nào. Ai đó đang làm cái gì đó, ai đó khác đang làm cái gì
đó khác, và toàn thể công việc của bạn là để bắt chước mọi người - họ có quần
áo tốt hơn, ai đó có nhà đẹp hơn, ai đó có vườn đẹp hơn. Mọi người nói cỏ bao
giờ cũng xanh hơn ở phía bên kia hàng rào, và điều đó là đúng; nó có vẻ xanh
hơn.
Một người đang cố gắng vất vả để
bán nhà của mình, vì nhà đẹp hơn đã xuất hiện và anh ta muốn có cái gì đó tốt
hơn. Thế là anh ta gọi đại lí, và nhân viên đại lí nói, "Điều đó không
khó, đừng lo nghĩ."
Nhân viên đại lí đặt một quảng
cáo và mô tả nhà của người này bằng những lời hay thế: "Nếu bạn muốn có một
chỗ có cảnh vật... ngay đằng sau bạn là cái hồ," - nó không phải là hồ, nó
chỉ là vũng nước mưa đã đọng lại, với ít nhất năm triệu con muỗi - "và đằng
sau hồ là rặng núi đẹp. Mặt trời mọc đẹp tới mức bạn có thể tìm khắp thế giới
và có lẽ bạn không thể nào tìm ra mặt trời mọc đẹp thế. Và khu vườn đẹp...."
Người này đọc quảng cáo, và anh
ta nói, "Đây là loại nhà mình muốn" - vì không có địa chỉ nào được
cho dưới nó, chỉ có số điện thoại của nhân viên đại lí. Thế là anh ta gọi tới số
này ngay, "Tôi thực sự quan tâm, với bất kì giá nào. Giá không thành vấn đề:
tôi tới ngay lập tức và chúng ta sẽ giải quyết nó."
Nhưng nhân viên đại lí nói,
"Điều này thực lạ! Đây là chỗ ông sống, nhà riêng của ông."
Anh ta nói, "Trời đất! Anh
là nhà thơ! Anh đã mô tả nó hay thế, và tôi bị hành hạ bởi ngôi nhà này... và
muỗi... và anh gọi nó là cái hồ! Và anh gọi những núi đó cách xa cả nghìn dặm,
là 'đằng sau ngôi nhà'!"
Nhưng đây là cách mọi sự là vậy.
Bạn bị ấn tượng bởi nhà của ai đó khác và người đó bị ấn tượng bởi nhà của bạn;
bạn bị ấn tượng bởi vợ hay chồng của ai đó khác, và người đó chết mê chết mệt
vì vợ bạn, người đó sẵn sàng hi sinh mọi thứ. Người đó không biết bạn đang
trong rắc rối gì.
Nhưng tâm trí bắt chước này giữ
bạn bị dính líu. Và vấn đề duy nhất là ở chỗ nó xoay xở giữ bạn vô nhận biết về
bản thân bạn. Bằng không, không cái gì sai trên thế giới. Tôi không chống lại
thế giới, Đại Huệ cũng không chống lại thế giới. Ông ấy không muốn bạn từ bỏ
nó; ông ấy đơn giản muốn bạn hiểu rằng mọi thứ bên ngoài bạn là hiện tượng, nó
không có ý nghĩa tối thượng.
Nghĩ mà xem: hai mươi năm trước
bạn đã rơi vào yêu với ai đó. Vào lúc đó bạn đã sẵn sàng làm bất kì cái gì, và
bây giờ nó chẳng thành vấn đề chút nào.
Tôi có người bạn đang trong yêu
với một cô gái Bengali. Tôi đã thấy nhiều người yêu, nhưng anh ta là trên hết.
Anh ta trong yêu nhiều tới mức anh ta đi tới Bengal và sống ở Bengal hai năm để
học tiếng và giọng điệu Bengal thực tại. Anh ta thường ăn mặc như người
Bengalis, nói như người Bengalis... nhưng cô gái lại không quan tâm. Và sau nỗ
lực như vậy, khi anh ta cầu hôn với cô gái đó, cô ấy đơn giản từ chối, nói,
"Em cảm thấy phải từ chối anh." Một cách tự nhiên, điều đó là quá nhiều.
Anh ta là con trai của một bác
sĩ. Anh ta về nhà, đóng cửa phòng lại, và thông báo cho cả nhà, "Đừng mở cửa.
Con sẽ chết trong phòng con."
Anh ta là con trai duy nhất của
bố anh ta, và người bố hỏi, "Nhưng nói cho bố mẹ vấn đề là gì. Con đã muốn
đi Bengal trong hai năm, và chúng ta đã thu xếp điều đó. Bây giờ vấn đề là gì?
Con muốn đi đâu? Con có thể đi...."
Anh ta nói, "Con không muốn
đi bất kì đâu. Con muốn cưới cô gái, và vì cô gái đó con đã đi Bengal. Ngay cả
với giọng Bengali, và quần áo Bengali, cô ấy đã từ chối con."
Cô gái này thường sống gần nhà
tôi, và chỉ bởi vì cô ấy sống gần nhà tôi, anh ta đã trở thành thân thiện với
tôi! Đó là chỗ đúng cho anh ta, vì cô gái thường tới nhà tôi ngồi trong vườn, để
đọc hay mượn vài cuốn sách từ tôi. Đây là đúng chỗ cho anh ta, và đó là cách
tôi trở nên nhận biết về sự tồn tại của anh ta.
Mọi hàng xóm đều cố gắng vất vả
để thuyết phục con ông bác sĩ, "Chúng ta sẽ tìm ra cô gái tốt hơn. Bố cháu
giầu, cháu là con trai duy nhất, không có vấn đề gì. Chúng ta sẽ xoay xở mọi thứ,
bất kì cái gì.... Nếu cháu muốn có một cô gái Bengali, toàn thể Bengal có đó!
Chúng ta sẽ tìm ra một cô gái Bengali với bất kì giá nào - nhưng đừng làm bất
kì cái gì ngu xuẩn." Họ sợ anh ta có thể uống thuốc độc từ phòng khám bệnh
của người bố hay cái gì đó và anh ta có thể ăn nó hay làm cái gì đó ngu xuẩn.
Nhưng anh ta không nói, anh ta hoàn toàn im lặng. Thế rồi họ trở nên rất sợ, vì
họ sẽ gõ cửa và anh ta không trả lời.
Người bố chạy tới tôi và nói,
"Nó thường tới bác, và có lẽ bác có thể xoay xở để ít nhất nó sẽ nói.
Chúng tôi lo lắm: có lẽ nó vô ý thức hay đã rơi vào cơn mê hay uống thuốc độc,
và chúng tôi sợ vì nó đã cảnh báo cho chúng tôi, 'Đừng cố mở cửa, bằng không bố
mẹ sẽ thấy xác chết của con bên trong.' Cho nên chúng tôi không thể cưỡng bức mở
cửa, nó có thể làm cái gì đó... chúng tôi lúng túng."
Tôi đi tới đó và tôi nói,
"Không có vấn đề gì." Tôi gõ cửa và nói, "Arjun" - tên anh
ta là Arjun - "cháu có muốn tự tử không?"
Anh ta nói, "Có."
Tôi nói, "Thế thì đây
không phải là cách thức. Cháu đi cùng bác và bác sẽ xoay xở việc tự tử đẹp cho
cháu!"
Anh ta nói, "Cái gì?"
Tôi nói, "Mở cửa ra và tới
trong xe bác và bác sẽ thu xếp điều đó, vì bác biết đúng chỗ để tự tử."
Ở Jabalpur, chỉ cách nhà tôi mười
ba dặm, là một trong những chỗ đẹp nhất trên thế giới - các khối đá hoa cương.
Trong hai dặm liên tục một con sông đẹp, Narmada, chảy giữ hai núi hoàn toàn là
đá hoa cương. Vào đêm trăng tròn nó trở thành tuyệt đối như mơ - người ta không
thể nghĩ được rằng đây có thể là thực. Với trăng tròn, cao, đá hoa trắng ở hai
bên, phản xạ trong sông, tuyệt đối im lặng...
Điều đó không thể tin được tới
mức khi tôi đưa một trong các giáo sư tới đó... ông ấy là một ông già và ông ấy
đã ở khắp thế giới. Ông ấy đã là giáo sư ở Mĩ, ở Anh, ở Hawaii; cả đời mình ông
ấy đã từng giống như dân di cư với phẩm chất lớn cho nên ông ấy có khả năng vào
bất kì đại học nào ở bất kì đâu. Tôi nài nỉ rằng ông ấy phải tới và xem, và ông
ấy nói, "Tôi đã xem cả thế giới rồi, cái gì thêm nữa có thể có đó?"
Tôi nói, "Đừng nói điều đó
chừng nào thầy chưa thấy điều tôi định chỉ cho thầy."
Chung cuộc ông ấy đồng ý, một
cách ngần ngại. Tôi đưa ông ấy tới đó và khi ông ấy thấy cảnh tượng ông ấy
không thể tin được vào mắt ông ấy. Ông ấy nói, "Cho thuyền lại gần vách đá
đi. Tôi muốn chạm vào chúng vì tôi không thể tin được chúng là thực. Nó có vẻ gần
giống như xứ mơ." Và ông ấy chạm vào đá, và chỉ thế ông ấy mới có thể tin
được rằng chúng là thực, rằng tôi đã không thử bất kì ảo thuật nào lên ông ấy.
Cho nên tôi đã đưa Arjun về nhà
tôi, và tôi bảo anh ta, "Chỗ tốt nhất là các tảng đá hoa cương. Có thác nước
đẹp... cho nên chỉ nghỉ ngơi, và bất kì cái gì cháu thích ăn nhất - ăn bữa tối
cho ngon và chúng ta sẽ đi ngủ. Chúng ta sẽ để báo thức vào ba giờ, và lúc ba
giờ chúng ta sẽ rời đi. Bác phải đưa cháu tới đó, và khi cháu đã mất rồi bác vẫn
phải chăm nom các thứ khác."
Anh ta tiếp tục nhìn tôi với
con mắt rất ngạc nhiên. Chung cuộc anh ta nói, "Bác là loại bạn bè gì vậy?
Mọi người đã bảo cháu, 'Đừng tự tử. Những điều như thế xảy ra. Điều này là rất
thông thường: người ta rơi vào yêu... và nếu người kia không sẵn lòng, không có
nhu cầu lo nghĩ. Thế giới đầy những cô gái đẹp, và cô gái đó không phải là
Cleopatra. Không có gì phải lo nghĩ cả: chúng ta sẽ tìm ra cô gái tốt hơn.' Mọi
người đều cố gắng thuyết phục cháu không tự tử. Bác là người kì lạ: bác gợi ý kế
hoạch đích xác cho cháu!"
Tôi nói, "Bất kì khi nào
người ta phải làm cái gì đó, người ta phải làm nó với lập kế hoạch chính xác.
Phải mất một giờ để tới đó, thế rồi bác nói tạm biệt cháu, và cháu nhảy. Bác sẽ
đợi và xem rằng cháu đã nhảy, và thế rồi bác có công việc riêng của bác để làm.
Bác sẽ quay về."
Thế rồi tôi đặt bất kì thức ăn
gì anh ta thích - đồ ngọt Bengali, mọi thứ Bengali - nhưng ngay cả khi ăn anh
ta vẫn liên tục nhìn tôi.
Tôi nói, "Sao cháu liên tục
nhìn bác như thế?"
Anh ta nói, "Cháu chỉ tự hỏi
bác là loại bạn bè gì."
Tôi nói, "Bác đích xác là
điều người bạn phải vậy: người bạn khi cần là người bạn thực! Nếu cháu muốn tự
tử, bác sẵn sàng giúp; nếu cháu muốn sống, bác sẵn sàng giúp. Bác không can thiệp."
Và khi tới ba giờ chuông báo thức
tắt đi, anh ta lập tức để tay lên đồng hồ. Tôi nắm tay anh ta trên đồng hồ, và
tôi nói, "Điều này sẽ không có tác dụng đâu."
Anh ta nói, "Nhưng trời lạnh
quá."
Tôi nói, "Lạnh hay không -
với cháu nó chỉ là chuyện một chiều. Với bác, bác phải quay lại và bác phải sống.
Nghĩ về bác đi!"
Thế là anh ta đột nhiên bột
phát ra, "Cháu không muốn tự tử!"
Tôi nói, "Điều này thật lạ.
Chúng ta đã lập kế hoạch cho nó, và vào khoảnh khắc cuối cùng cháu quyết định
không làm nó? Không!"
Anh ta nói, "Nhưng cháu
không muốn tự tử."
Tôi nói, "Nghĩ về cô gái
đi."
Anh ta nói, "Cháu không
quan tâm về bất kì cô gái nào."
Tôi nói, "Nhưng cháu phải
bảo bác trước chứ. Bác phí tiền cho bữa tối."
Anh ta nói, "Cháu sẽ trả
cho nó."
Tôi nói, "Điều đó là được.
Vậy cháu đã thực sự quyết định không tự tử chứ? Đừng bao giờ nhắc tới nó lần nữa!
Sống sẽ là khó, cho nên đừng trách bác. Đừng nói cho bác, 'Tại sao bác không
kiên trì?' Bác đang kiên trì đây! Sống sẽ không là giường hoa đâu - quên mọi thứ
về điều đó đi. Nó sẽ là đủ mọi loại khổ sở và rắc rối và đau khổ. Cháu sẽ lấy vợ
và cháu sẽ có cả tá con - và thế thì, đừng trách bác! Vẫn còn thời gian: cháu cứ
tới. Bác giữ xe hơi sẵn sàng... và chỉ mất một khoảnh khắc để nhảy, và cháu được
tự do khỏi mọi khổ."
Anh ta nói, "Nhưng cháu
không muốn làm điều đó! Cháu muốn về nhà."
Tôi nói, "Nếu cháu muốn về
nhà, cháu có thể gọi xe xích lô và đi về, vì bác sẽ không đưa cháu đi vào đêm lạnh
này. Thế thì bác sẽ đi ngủ; cháu ra khỏi nhà và tìm đường lấy."
Anh ta gặp tôi hai mươi năm sau
khi tôi lại tới Jabalpur và anh ta nói, "Bác đúng: cháu đã lấy vợ và cho lâm
vào khổ sở. Bác là người kì lạ... cháu đã có bẩy đứa con, và cháu biết, vì bác
đã nói thế, rằng sẽ có mười hai đứa. Cháu đã lấy người đàn bà mà cháu cầu nguyện
Thượng đế thậm chí kẻ thù của cháu cũng không nên lấy. Cô ấy là mụ sói cái. Và
cháu bao giờ cũng nghĩ tới đêm đó - nó đã đẹp làm sao nếu cháu đã nghe lời
khuyên của bác."
Tôi nói, "Không cái gì bị
mất cả. Bác vẫn có thể thu xếp được điều đó."
Anh ta nói, "Bác ngụ ý
gì?"
Tôi nói, "Cùng điều đó: những
vách đá hoa đó vẫn có đây, thác nước đó vẫn ở đây, không cái gì đã thay đổi.
Bác sẽ thu xếp xe, và lúc ba giờ sáng...."
Anh ta lại nhìn tôi và anh ta
nói, "Thế vợ và con cháu thì sao?"
Tôi nói, "Điều đó không phải
là vấn đề của cháu chút nào. Một khi cháu đã nhảy... đó là vấn đề của họ. Tại
sao cháu phải lo nghĩ về điều đó? Họ đang hành hạ cháu mà."
Anh ta nói, "Cho dù sau
hai mươi năm bác dường như vẫn ám ảnh cháu bằng cách nào đó. Và bác vẫn có cùng
ý kiến đó sao?"
Tôi nói, "Bác sẽ có cùng ý
kiến cho tới tận chính hơi thở cuối cùng của cháu, vì cháu đơn giản sẽ khổ. Hai
mươi năm này cháu có thể đã tránh được."
Anh ta nói, "Điều đó đúng
- giá mà cháu đã nghe."
Nhưng tôi nói, "Dầu vậy
bác sẵn sàng, và cháu không nghe."
Anh ta nói, "Có vấn đề. Bố
cháu chết, mẹ cháu chết. Bây giờ toàn thể kinh doanh dồn lên đầu cháu."
Tôi nói, "Mọi thứ biến mất
trong khoảnh khắc cháu nhảy, và nếu cháu không thể nhảy được, bác có thể đẩy
cháu!"
Anh ta nói, "Tốt hơn cả là
không nói với bác chút nào."
Và từ đó tôi đã ở thành phố đó
vài lần khác nữa. Tôi đi tới nhà anh ta và anh ta đang ở nhà, nhưng ai đó bước
ra và nói anh ta không có nhà. Và tôi nói với bất kì ai bước ra, "Bảo anh ấy...
đi vào trong và bảo anh ấy rằng tôi vẫn sẵn sàng, bất kì khi nào anh ấy muốn được
tự do khỏi khổ của anh ấy." Đó là toàn thể công việc của tôi: giải phóng mọi
người khỏi khổ của họ, giải thoát mọi người.
Lần cuối cùng tôi đơn giản đẩy
cậu bé vừa nói cho tôi ra - con trai anh ta - và tôi đi vào bên trong. Anh ta
đang trốn bên trong, và tôi nói, "Ra đi! Cháu không phải lo nghĩ, bác
không tới để đem cháu đi."
Nhưng anh ta nói, "Cháu
không muốn nói cái gì thêm nữa, vì bác lại nêu ra cùng vấn đề, và ham muốn nảy
sinh... có lẽ đó là điều đúng để làm. Bây giờ cháu lo nghĩ vì cháu có nhiều con
thế; giờ từ bẩy chúng đã lên tới chín."
Tôi nói, "Cháu làm cho
chúng thành mười hai đi, thế rồi bác sẽ tới. Cháu kết thúc việc làm, và chịu khổ
nhiều như cháu muốn."
Anh ta nói, "Không có cách
nào khác hơn tự tử sao?"
Tôi nói, "Có chứ, nhưng
cháu không bao giờ lắng nghe. Bác đã ở thành phố này trong hai mươi năm liên tục
dạy mọi người thiền. Nhưng cháu đã dính líu vào các chuyện riêng của cháu -
cháu đã sẵn sàng chết. Cháu đã lấy một người đàn bà tốt hơn, đẹp hơn và có giáo
dục hơn, và cháu khổ với cô ấy. Đấy không phải là vấn đề về người đàn bà này
hay người đàn ông kia - cháu chắc đã khổ với bất kì người nào."
Tâm trí không có tính thiền nhất
định khổ trong mọi tình huống: giầu, nghèo, thất bại hay thành công, điều đó
không tạo ra khác biệt gì. Với tâm trí không thiền, khổ là định mệnh. Chỉ với
tâm trí thiền, người đi tới biết mặt nguyên thuỷ của minh, bản thể đích thực của
mình, khổ biến mất dường như nó không bao giờ tồn tại. Lần đầu tiên một thế giới
mới mở ra cánh cửa của nó: thế giới của phúc lạc, thế giới của cực lạc, thế giới
mà bạn được sinh ra để khám phá, đó là quyền tập ấm của bạn để tìm ra.
Nhưng bạn liên tục di chuyển mọi
nơi đi tìm niềm vui, hạnh phúc, phúc lạc, và bạn không bao giờ nhìn vào bên
trong bản thân bạn. Mọi điều bạn tìm ở bên ngoài đã có đó trong chính điện thờ
bên trong nhất của bản thể bạn.
Đây là chân lí duy nhất mà
không là ngoại lệ. Không người nào đã nhìn vào trong mà đã đi ra nói rằng mọi
điều các nhà huyền bí này, các hiền nhân, đang nói về cái gì đó mà không tồn tại.
Không ngoại lệ nào, bất kì ai đã đi vào trong, đều đi ra với khẳng định tuyệt đối.
Nhưng nếu ông có thể bỏ nó bất
thình lình, vậy ông không nghĩ không tính toán, thì chính những tình cảm này của
tâm phân biệt là trí huệ tinh tế của trống rỗng thực - không có trí huệ khác mà
có thể được đạt tới. Chính bản thể của bạn, một khi nó tự do với phân biệt, một
khi tự do với ý nghĩ, xúc động, một khi nó đã trở thành bầu trời trống rỗng, là
trí huệ duy nhất có đó.
Nếu như có cái gì đó được đạt tới
và cái gì đó được nhận ra bên cạnh, thì nó sẽ không đúng. Điều này có thể được
nói với chắc chắn tuyệt đối: trí huệ duy nhất là trí huệ của vô trí, của không
gian im lặng. So với điều đó không có gì khác để đạt tới. Nếu bất kì người nào
nói có, người đó không đúng; hoặc người đó bị lừa hoặc người đó đang cố lừa người
khác.
Đại Huệ là tuyệt đối đúng rằng
không có trí huệ khác, không có chứng ngộ khác, không việc thức tỉnh khác hơn
không gian im lặng đơn giản bên trong bạn... không có bất kì khuấy động nào, thậm
chí không có một gợn ý nghĩ nhỏ - hệt như chiếc hồ không có gợn sóng nào, bầu
trời không mây.
Thế thì bạn đã về nhà. Không có
cái gì khác để được đạt tới, không cái gì khác để thành đạt. Ngay cả ý tưởng về
đạt tới cái gì đó khác không bao giờ nảy sinh cho con người của trí huệ.
Điều đó giống như một người khi
người đó bị lừa gọi phía đông, phía tây, và khi người đó tới chứng ngộ, tây là
đông - không có đông khác. Ông ấy đang nói rằng điều đó gần giống như một người
nghĩ trong dốt nát của mình, một cách sai lầm, rằng hai cộng hai là năm. Khi
người đó trở nên tỉnh táo và nhận biết người đó đi tới biết rằng hai cộng với
hai là bốn. Người đó sẽ không hỏi bất kì người nào, "Điều gì đã xảy ra cho
năm?"
Một nhà phân tâm lớn được hỏi,
"Chúng tôi nghe nói nhiều thế về chứng rối loạn tâm thần và chứng loạn thần
kinh chức năng, nhưng chúng tôi không biết khác biệt giữa hai chứng này."
Người đã hỏi là một nhà báo, và đặc biệt là một chuyên gia trong vấn đề tâm lí.
Ông ấy nói, "Dường như rất khó hiểu rối loạn tâm thần là gì và loạn thần
kinh chức năng là gì. Khác biệt là gì?"
Nhà phân tâm nói, "Khác biệt
là rất nhỏ, rất vụn vặt, rất tinh tế. Nó là thế này: người rối loạn tâm thần
nghĩ hai cộng với hai là năm; người loạn thần kinh chức năng nghĩ hai cộng với
hai là bốn, nhưng người đó không thoải mái về tại sao nó là bốn."
Khác biệt là rất vụn vặt, chắc
chắn, rất vụn vặt. Một người tuyệt đối chắc chắn hai cộng hai là năm; một người
nhận biết rằng nó là bốn nhưng rất lo âu về tại sao nó là bốn - tại sao nó
không là năm? Có lẽ người thứ hai đang trên đường hướng tới người thứ nhất.
Khác biệt là không mấy - có lẽ thêm một bước nữa và người đó sẽ trở nên yên tâm
và sẽ tuyên bố rằng hai cộng với hai là năm. Thực ra, giai đoạn thứ hai là tốt
hơn: ít nhất người ta được thoải mái. Nhưng biết rằng hai cộng với hai là bốn,
và vẫn còn cảm giác không thoải mái rằng nó là vậy, thì thực sự phiền hà hơn.
Người chứng ngộ đơn giản biết
hai cộng hai là bốn - và không có bất ổn. Thực ra, có nghỉ ngơi và thảnh thơi
vô cùng với mọi thứ như chúng vậy. Không có mong đợi trong người chứng ngộ rằng
mọi thứ phải khác đi. Như chúng vậy, người đó tuyệt đối trong hài hoà với
chúng. Hài hoà này với sự tồn tại như nó vậy, là phúc lành lớn lao nhất có thể
có cho con người.
Trí huệ tinh tế này của trống rỗng
thực là cùng thời với trống rỗng lớn: trống rỗng không phải là chủ thể để bị cản
trở bởi vật, nó cũng không cản trở việc tới và đi của mọi thứ bên trong nó.
Phần cuối này là rất có ý nghĩa
để hiểu, vì nhiều người trở nên bị ám ảnh với ý tưởng rằng phải không có ý
nghĩ, không xúc động, không cảm động - rằng chỉ thế bạn mới là chứng ngộ. Đúng
là bạn phải đạt tới chứng ngộ bằng việc đi ra ngoài mọi ý nghĩ, cảm xúc, xúc động,
nhưng một khi bạn chứng ngộ, thế thì không có vấn đề gì.
Thế thì bạn là bầu trời bao la;
mọi thứ có thể đi qua và không gây ra bất kì vết xước nào lên nó. Thế thì mây
có thể bay qua và chúng sẽ không là bất kì vấn đề gì.
Người đã đạt tới chứng ngộ có
thể dùng ý nghĩ, có thể dùng lời, có thể truyền đạt qua ngôn ngữ điều người đó
đã đạt tới. Nó có thể không hoàn hảo - nó không thể hoàn hảo được - nhưng người
đó có thể dùng tâm trí mình rõ ràng nhất có thể được. Đi ra ngoài tâm trí không
có nghĩa là bạn không thể dùng tâm trí của bạn.
Thực ra, chỉ thế thì bạn mới có
thể dùng tâm trí bạn như người hầu, vì người chủ đã về tới nhà. Bây giờ tâm trí
là người hầu, tim là người hầu, thân thể là người hầu, và người chủ có thể dùng
mọi thứ theo cách người đó muốn. Người đó không còn bị người hầu dùng; người đó
không còn bị người hầu lôi đi theo hướng của họ. Người đó là tuyệt đối tự do.
Không tâm trí không thân thể không trái tim - không cái gì có thể chỉ đạo người
đó về phong cách sống của người đó. Người đó ở bên ngoài bất kì chỉ đạo từ bất
kì người nào. Người đó là người chủ của định mệnh riêng của người đó, và đây là
niềm vui lớn nhất trong sự tồn tại.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
0 Đánh giá